Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 




Thăm Cha Brisson 10.8.2010

*

Tuần tới, G đi giang hồ vặt, hai tuần, và nếu có thể, thì sẽ vừa đi đường vừa kể chuyện, noi gương Bác H.
NQT


WIND AT NIGHT

The wind rose at night,
the young, short-tempered wind,
a bubbling wine, Eastern prince.
It spoke indistinctly, in the accents
of languages living and dead.
Babylon's curses whirled within it,
the bells of Byzantium pealed.
Beneath its imperious blow, trees
obediently bent,
the shutters shook on our flimsy cottage.
We heard those voices with half
our attention, and, understanding little,
turned again to sleep, and to love.

Adam Zagajewski

Gió đêm

Cơn gió nổi vào đêm
Thứ gió trẻ, dễ cáu giận,
rượu vang nổi bọt, hoàng tử Ðông Phương.
Nó nói lù mù, lu xa bu, bằng âm sắc
của những ngôn ngữ sống và chết.
Những lời trù yếm Babylon quay mòng mòng ở trong đó
Những tiếng chuông Byzantium rung lên.
Ở bên dưới cú thổi quyền uy, hách xì xằng này
Cây cối răm rắp rạp xuống
Những cánh cửa rung lên bần bật
ở trong túp lều nhỏ mọn, bèo bọt của chúng ta.
Chúng ta nghe những giọng đó với một nửa cái tai
Hiểu tí tí
Và quay vô ngủ tiếp, yêu tiếp. 

A HISTORY OF SOLITUDE

 Birdsong diminishes.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.

Adam Zagajewski

Chuyện Tình Buồn

Tiếng chim loãng dần.
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo.

Cái tít Chuyện Tình Buồn này, thay vì Một chuyện về nỗi cô đơn, là do Gấu nhớ đến cô bạn, và những ngày Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình Buồn, là ở Ðỗ Hòa, 1 buổi tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội, và khi 1 anh tù hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái muỗng đánh nhịp, Gấu bèn nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên ngoài, trong bóng tối nhìn vô căn nhà cũ, em thì đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:

Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng

Bèn lủi thủi ra về. Trưa hôm sau, bị tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô trường Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình Triệu, vừa hết cữ vã, là xin đi lao động Ðỗ Hòa liền, hy vọng trốn Trại, kịp chuyến vượt biên đường Kampuchia.



*

5.8.2011

*


DES AMÉRICAINS À PARIS

Je me rappelle maintenant comment le chauffeur se pencha au-dehors pour regarder vers le fleuve, du côté de Passy. Un regard si sain, si simple, un regard approbateur, comme s'il se disait à lui-même: «Ah! le printemps arrive! » Et Dieu sait, quand le printemps arrive à Paris, le plus humble mortel a vraiment l'impression qu'il habite au paradis !
MILLER
Tôi bây giờ nhớ lại cái cảnh anh tài xế taxi nghiêng người ra ngoài xe, nhìn về hướng sông, từ phía Passy. Một cái nhìn thánh thiện, đơn giản, và mới “xoa đầu hài lòng làm sao”!
Như thể anh ta đang nói với chính mình: “Ui chao Mùa Xuân về rồi.”
Và Thượng Ðế thì cũng chẳng thể nào hiểu ra được, khi Mùa Xuân trở về lại với Paris, thì một đấng con người nhún nhường, bình thường, tầm thường, đôn hậu, nhân hậu và cảm động, cái thứ sinh vật phải đi đến cái chết đó, vào lúc đó, nó cảm thấy thực sự đang ở Thiên Ðàng!

 Jennifer @ Paris 2011

GERTRUDE STEIN

On cite souvent  cette phrase minimaliste et poétique: «Une rose est une rose est une rose est une rose» (“ A Rose is a rose is a rose is a rose”)... C'est sa manière à elle d'exprimer que l'imaginaire est sans limites, que tout est possible avec les mots. (On peut retrouver, évidemment, son influence dans le style d'Hemingway et, d'une certaine manière, beaucoup plus tard, chez Marguerite Duras.)

BHD la BHD la BHD la Rose Sans Pourquoi


Thơ Mỗi Ngày

Ngoài hai cái nhớ, một, nhớ câu thơ thần sầu, “đứng trước gió/lúc lắc cho thằng nhỏ thức giấc”, và, nhớ bản nhạc thần sầu, “người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao người”, Gấu còn tới hai kỷ niệm cũng thần sầu với nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT.

Kỷ niệm thứ nhất, là vào cái lần thứ nhất ông bạn quí HPA từ Ðà Lạt về Sài Gòn sau những ngày học sư phạm, và có bài đầu tiên đăng trên Văn.
Như còn nhớ thì chưa 1 lần Gấu được nhìn thấy Ông Số 2 ghé Quán Chùa. Nhưng bạn ông, là nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT, thì có đôi lần, vào những ngày Diệm mới ngỏm ít lâu, tờ Nghệ Thuật thì cũng mới ngỏm, cả đám quay qua viết cho tờ Văn, và tờ này bèn ra 1 ấn bản mới đặc biệt về phê bình văn học, và Gấu là người giới thiệu ông bạn quí với NDT, và qua NDT, ông viết cho Văn, một bài biên khảo, hay tiểu luận.
Và cái lần ở Quán Chùa đó, có NDT & HPA & GNV, và sau, TDT xà vô bàn.
Câu đầu tiên, ông phán, là, cái thằng chó chết nào viết cái bài…., tao đếch hiểu nó viết cái gì cả!
[Ðây là ngôn ngữ của Gấu. Ông nói lịch sự hơn, tất nhiên, nhưng thực chất thì cũng rứa, thì vẫn cái giọng “lúc lắc” trên!]

Khỏi cần nói thì bạn đọc cũng biết, cả ba đứa, ông bạn quí HPA, NDT người giới thiệu con gà nòi mới xuất hiện, và Gấu Cà Chớn, mặt mày sượng trân:
Biết nói gì đây!
Có thể, nhìn ba bộ mặt ngẩn tò te, ông nhà thơ lúc lắc chắc hiểu, và sau vài câu xã giao, chuồn qua bàn khác.
Kỷ niệm thứ nhì, có nhà văn nhớn Mai Thảo ngồi cùng bàn, và cùng chia sẻ.
Tham dự, đúng hơn.
*

Mỹ Dung:

Thưa ông tôi chỉ một câu hỏi trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi thấy hình như các nhà văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì không còn làm thơ được nữa? Hoặc giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không ưng ý nên không cho phổ biến? Nếu đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó nằm ở đâu? Trong khi tôi thấy các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn sáng tác được mà có khi còn hay hơn cả thời gian còn trẻ nữa.

Nhà thơ Trần Dạ Từ trả lời:

Nhiều người khi lớn tuổi không làm thơ nữa... Đây là điều thường thấy ở bất cứ đâu. Ví dụ, thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước tuổi 20 rồi ngưng. Riêng tại Việt Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ dù lớn tuổi, làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường là những bài thơ bậc nhất, đặc biệt nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ thấy yên tâm:
- Ca trù/ hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời quân thượng thiếu” và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài thơ có chữ nghĩa xúc tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông bị cộng sản bắt đi tù và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước khi từ trần đã làm thơ để lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế độ chuyên chế của cộng sản. Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của họ.
- Tại hải ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi sáu bó, bẩy bó: Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn... Đặc biệt trong phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm thơ đông hơn là lớp người trẻ tuổi.

DTL.com

GNV để ý, TDT vờ TTT, Tô Thùy Yên, Nguyễn Xuân Thiệp… đi tù, ra tù, về già, vưỡn tiếp tục làm thơ.

Về câu hỏi của vị độc giả, Gấu mới kiếm ra 1 câu trả lời thật bảnh, của Aleksander Wat:

"Già quá rồi, làm thơ, sao không hổ thẹn?"
“He’s so old, isn’t he ashamed to write poems?”

Bài viết của ông, là để trả lời cho câu hỏi:
Tại sao tôi làm thơ?
Why do I write poems?

Trong số Brick, Summer, 2011. TV đã giới thiệu, trong có bài phỏng vấn Brodsky, lần ông tới Toronto, Oct 1995. 

 "He's so old, isn't he ashamed to write poems?"

Alexsander Wat, Thi sĩ và Nghi lễ trừ tà của thế kỷ

Milosz, trong cuốn sách ABC  của ông, dưới "đầu vào" [entry] Koestler, đã nhắc tới nhà thơ Aleksander Wat, và cuộc trò chuyện của Wat với một tay cựu Bôn-sê-vích, the old Bolshevik, Steklov, liền trước khi xẩy ra cái chết của tay cựu đảng viên đáng kính này, trong nhà tù Satarov.
Theo Steklov, những tay như Rubashov thú tội, ngay cả những tội mà họ không hề phạm, không phải do tra tấn, mà là do quá tởm quá khứ đầy ứ những tội ác của họ. Và cái chuyện tự làm nhục chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và tra tấn là không cần thiết.
[According to Steklov, they confessed out of disgust at their own past: they each had so many crimes on their account, that it cost them nothing to demean themselves once more and torture was not necessary].
NKTV

V/v kỷ niệm với TDT, ở Quán Chùa, có ông Trùm Sáng Tạo, Mai Thảo tham dự.
Gấu gặp MT ở Quán Chùa, mỗi tháng ít nhất 1 lần, thường là vào lúc quán vừa mở cửa. Ông ghé lấy bài, trước khi chợ họp. Lâu lâu, cũng gặp, khi đông đủ bạn bè, và thường có TTT, có khi có cả PLP.

Kỷ niệm thú nhất là lần ngồi với  TTT, MT, và 1 anh chàng cà chớn nào đó, đến bàn, tự động kéo ghế ngồi, Mai Thảo bèn hỏi, xin lỗi, anh có quen thằng nào trong ba thằng này không, và khi anh ta lắc đầu, MT bèn xua tay, đi chỗ khác chơi.

Cái lần với TDT, thì cũng thế, nhưng có thể, còn dã man hơn nhiều!


TV Rendez-Vous

Chính trị và Văn chương

"Văn chương cần cho chính trị, trên tất cả, ấy là khi nó đem tiếng nói đến cho bất cứ cái chi chi chưa có tiếng nói; đem cái tên đến cho bất cứ cái gì chưa có tên, đặc biệt là cho những gì mà ngôn ngữ chính trị khu trục, hoặc toan tính khu trục."
"Văn chương thì cũng giống như cái tai nghe được những thứ quá sự hiểu biết của ngôn từ chính trị; như con mắt nhìn quá cái quang phổ được cảm nhận bởi chính trị."
Italo Calvino: Right and Wrong Political Uses of Literature.

Chưa có tên, theo tôi, chính là cái xã hội Việt Nam hiện tại. Nó "không còn là" xã hội chủ nghĩa, "chưa là" tư bản chủ nghĩa, không còn gì hết và cũng chưa là gì hết.
Bênh nó, hoặc chống nó, bằng những giọng điệu đao to búa lớn, đều không phải là giọng điệu của văn học, vì, cũng trong cùng bài, Calvino viết:
"Nobel văn chương năm này được trao cho Eugenio Montale, [Nobel 1975], (1) nhưng ít người bây giờ còn nhớ, sức mạnh thơ của ông, là nó luôn luôn nằm thật thấp, không nhấn mạnh bất cứ kiểu gì, sử dụng một giọng điệu thực là khiêm tốn, và hồ nghi. Chính vì thế có nhiều người nghe, kéo dài ba thế hệ."
Tôi tin rằng, giọng điệu đó, mới đích thị là thứ mà nhà văn trong nước cần, để gọi tên cái vô danh là xã hội Việt Nam hiện đại, để đem tiếng nói đến cho những người chưa có tiếng nói.
Trường hợp Nguyễn Ngọc Tư, có lẽ là do vậy?


Đó là lần thứ hai tôi gặp Phùng Nguyễn. Lần nào cũng chỉ thoáng qua. Nhưng tôi biết anh từ lâu. Biết anh không phải với tư cách một nhà văn, tác giả của hai tập truyện ngắn Tháp ký ức (1998) và Đêm Oakland và những truyện khác (2001). Mà còn với tư cách một chuyên viên về computer.
NHQ

Câu văn trên, trật. Ðúng ra phải viết:

Biết anh không chỉ vớimà còn....

E book, thì cũng OK thôi, nhưng sợ nó biết thành Ế book, thì chán lắm.

Bởi vì mấy đấng này, chỉ giới thiệu cái ao nhà mà thôi.
Khi diễn đàn talawas làm công việc này, Gấu đã mừng, là vậy.
Phải 1 người ở ngoài ao nhà cơ.
Nhờ talawas mà 1 số tác giả ở ngoài… Tháp Ký Ức, mới có mặt trên net!

Tks SCN một phát. NQT


Vợ Cọp


Charles Simic, The Art of Poetry No. 90
Charles Simic, Nghệ thuật Thơ

Simic Interview 2

Theo quan điểm của ông, điều gì thật quan trọng cho xứ sở Serbia ngày hôm nay?

Người dân Serbs không thể đi bầu, và bỏ phiếu cho cũng mấy tên CS cũ, và nếu họ bỏ phiếu cho chúng, thì họ khó mà có cảm tình trước thế giới…. Điều mà Serbia cần, lẽ dĩ nhiên, là một nền dân chủ, và đặc biệt là, điều được gọi là “những tự do trong khuôn khổ, theo nghĩa, tối thiểu, hình thức”: tự do tư tưởng, diễn đạt, hội họp, etc… và điều này, thật cần, là tự do nói KHÔNG với những tên đang cầm quyền và không chịu đau khổ, vì hậu quả của câu nói.


Biệt Kích Văn Hóa


*

Thủ bút TTT. Thấy cái này trong archives, chẳng biết nguồn từ đâu.
Bỗng nhớ cô Hiền, trong Một Chủ Nhật Khác.

*

Một Chủ Nhật Khác
Tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền
Tranh bìa Thái Tuấn
Khai Hóa in lần thứ nhất

Nhà Xuất Bản Khai Hóa
26 Trần Quang Khải Saigon
Chủ trương: Lê Thị Ngọc Sương.
Giấy phép 5356/74/BDVCH/PHBCNT/ALP/TP ngày 09.10.74
In tại 150 Phan Thanh Giản Saigon. Số lượng 3.000 cuốn.
Phát hành: 3.1975

Phát hành tại 26 Trần Quang Khải Saigon 1

Mẩu thư đề ngày 23/4/1987, nghĩa là sắp tới ngày 30 Tháng Tư.

Khi viết TTT có nghĩ tới?
Chắc không: Sài Gòn nửa tháng nay nóng chảy mỡ, đang chờ mưa (1)

Cuốn sách của ông, phát hành Tháng Ba, 1975.

Cái cảnh mang tính biểu tượng, chấm dứt Ðệ Nhị Chiến, đúng hơn, chấm dứt Một Thời Ðể Yêu và Một Thời Ðể Chết, cuốn phim phỏng theo tiểu thuyết của “Bà” Maria Remarque, là một anh lính, sau khi tha tù, bèn lấy tay xua xua, đi chỗ khác chơi, còn anh ta thì bèn lôi thư nhà ra đọc, và tên tù, thay vì chạy, thì bèn lấy khẩu đúng đòm cho thằng tha mình 1 phát.

Ðâu có khủng bằng cái cảnh chấm dứt cuộc chiến Mít: Kiệt, đã chạy thoát cuộc chiến, lại mò về để chết.

Và liệu, cái cảnh Kiệt, đang ở trong nhà thương, nửa đêm bò ra rừng thông, bị tên đại uý khùng bắn chết, vì tưởng là Cộng Quân, được lập lại, theo nghĩa, thực tại bắt chước giả tưởng, qua cảnh tên cớm VC đạp vào mặt người biểu tình, cũng VC, bạn hắn, cũng đảng viên, như hắn?

(1)

Chiều nay Saigon đổ trận mưa đầu mùa. Trên ấy mưa chưa? Anh vẫn ngồi quán cà phê buổi chiều? Anh có lên uống rượu ở P.? Anh có trở lại quán S., với ai lần nào không? Sắp đến kỳ thi. Năm nay em không có mặt để nhìn trộm anh đi đi lại lại trong phòng, mặc quân phục đeo súng một cách kỳ cục. Anh có đội thêm nón sắt không? Năm đầu tiên em gọi anh là con Gấu. Hỗn như Gấu, đối với nữ sinh viên. Em có ngờ đâu anh là Yêu Râu Xanh..

Một Chủ Nhật Khác

*

Thơ Ở Đâu Xa

Note: Gấu đọc, lần đầu bài thơ trên, của Beckett, là qua Thơ Ở Đâu Xa của TTT.

Điều làm Gấu ngạc nhiên, là khúc trên được viết ở trong tù, mà lại viết cho cô con gái nhà thơ đọc, mà để nói về 'tôi muốn tình tôi chết'.

Chỉ đến khi BHD mất đi, thì Gấu mới ngộ ra, đây là nói về Hà Nội.
Gấu dùng lại 'điển tích' trên, để viết về BHD, và về Hà Nội của Gấu.
BHD gốc Hà Nội.

Tôi muốn tình tôi....

Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle qui crut m'aimer
Samuel Beckett

Bản tiếng Anh của chính tác giả:

I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me

Bản của Gấu:

Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu

Note: Bài thơ của Beckett, mới đây, Gấu được biết, nguồn của nó, là từ một câu thơ của bạn của ông, một thi sĩ, họa sĩ, Và đây là để nói về tình bạn giữa hai người. Không phải tình 'gay'.
Trên Tin Văn có nói đến vụ này, để Gấu check lại. NQT
NKTV

Note 2: Sau đây là ghi chú về bài thơ trên, trong Samuel Beckett, Collected Poems in English & French:

je voudrais que mon amour meure :
Date of writing and publication as above [1947, Cahiers des Saisons]. Variation in the French version in line 3 from et dans les rues and in line 4 from pleurant la seule qui m'ait aimé. In the English section the last line originally read mourning the first and last to love me (Poems in English, John Calder, London 1961), but was varied in later editions with an alternative last line mourning her who sought to love me. The last line has now been finally changed to mourning her who thought she loved me.
*

Tue, June 29, 2010 4:57:00 AM

Kính Tiên sinh

From:

To:

Tôi cung xưng anh là tiên sinh không phải vì anh lớn tuổi hơn tôi nhưng vì anh "vào nghề" lâu năm hơn tôi rất nhiều. Tất nhiên là mỗi người ngay từ hồi nhỏ đã lờ mờ ý thức rằng mình sẽ cầm bút một ngày nào đó; tôi cũng vậy. Nhưng phải chờ tới khi hoàn cảnh thúc đẩy tôi mới chịu viết; trước đó, chỉ chuẩn bị và ...đe rằng có ngày ta sẽ!

Vài lời gọi là ra mắt tiên sinh, thế thôi. Hy vọng có thể làm quen.

Kính,

Đặng đình-Túy (tức Ông già hưu trí)

*

Phúc đáp:

Đa tạ.

Tôi biết tới Blog của bạn, là qua Blog của Hải Hà. Nhờ vậy, được đọc mấy bài viết của bạn về TTT, và về những bài thơ viết cho cô con gái của ông.

TTT chỉ có hai anh em trai. Tôi quen với ông em, từ hồi còn đi học. Lần ông anh mất, tôi có tới San Jose tái ngộ ông em. Qua ông em cho biết, thì ông anh có lần than, giá mà hai anh em mình có một bà chị, hay một cô em gái, thì chắc thật là đầy đủ hơn nhiều.

Phu nhân TTT là người Miền Nam, như bà xã của tôi, cũng người Miền Nam.

Tôi suy ra là những bài thơ viết cho cô con gái, như được bạn trích dẫn, là viết cho Miền Bắc, Hà Nội.

Kính

NQT

Source

je suis ce cours de sable qui glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement

cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme

my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end

my peace is there in the receding mist
when I may cease from treading these long shifting
                                                                  thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts (1)
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.

Note: To K & O:
Dịch giùm.

Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:

la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi

Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!

(1) Ðọc thêm bài này nữa thì mới tuyệt!

How easily our only smile smiles.
We will never agree or disagree.
The pretty girl is perfected in her passing.
Our love lives within the space of a quietly closing door  .

Beckett một thoáng nhớ



Bolano

Nén nhang muộn cho Nguyễn Khải


UNDER EASTERN EYES

*

Cuộc gặp gỡ giữa Parvus và Lenin là cái nơ, cú khủng nhất trong cuốn sách của Solz. Có những nét cọ thật tuyệt ở đó, khi hai mảng băng hoại, hư ruỗng cuốn quít với nhau, vờn lẫn nhau: một là âm mưu toàn thế giới, và một là ước muốn bất khả tri về quyền lực. Còn có những giọng ngầm chói tai. Parvus là 1 tên Do Thái lang thang nhập thân, một kẻ “chuyên sửa chữa” thuộc bậc đại sư. Ông đầu tư vào hỗn mang, chao đảo, hoảng loạn, như đầu tư vào chứng khoán. Không có Parvus, Solz nhủ thầm, là Lenin hỏng cẳng, đếch làm sao thành công. Lenin với sức mạnh, sự dẻo dai Tartar, trở thành kẻ mang con “vai rớt” ngoại [chủ nghĩa CS quỉ ma]. Trong bản gốc, những ám dụ mang tính biểu tượng sắc tộc này, có người cho rằng, thuổng Dos: cuộc đối đáp giữa Lenin-Parvus là từ những cuộc đối đáp lớn về siêu hình học về cái ác trong Anh em nhà Karamazov của Dos. Sự thực, nếu coi Tháng Tám 1914 nằm  trong mạch Tolstoy, diễn tả cái hoành tráng, sử thi của Solz, thì Lenin ở Zurich là 1 tác phẩm thuộc dòng Dos, vẽ ra cả hai, chính trị học Slavophile, và văn phong bi tráng, “pamphleteering” [sách mỏng để trình bầy quan điểm, tư tưởng của 1 tác giả], của Dos. Thật hấp dẫn, táo tợn, và riêng tư.

Tính riêng tư ở trong  A Voice from the Chorus (Farrar, Straus & Giroux), Một tiếng nói từ bản đồng ca, của Abram Tertz thì lại thuộc một trật tự khác hẳn.
Tertz là bút hiệu của Andrei Sinyavsky, nổi tiếng khi cho xb tại Tây Phương, từ 1959 tới 1966, một loạt bài tiểu luận phê bình và những truyện ngắn thần kỳ, huyền hoặc, trộn lẫn chủ nghĩa hiện thực với chính trị a xít [làm cháy da cháy thịt đám tổ s
ư VC], và biếm văn xã hội. Ðây là do tác phẩm và sự mẫu mực của Pasternak mà cái sự chôn cất ông vào Tháng Năm 1960, mà Andrei Sinyavsky có dự phần, đã khiến ông chọn chống đối, và con đường nguy hiểm là cho in tác phẩm ở nước ngoài.