*





Nén nhang muộn cho Nguyễn Khải

“Mọi phê bình phải được đi trước bằng một phê bình tôn giáo”, “Toute critique doit être précédée d’une critique de la religion”. Marx phán [trong Crit. de la Phil. Du Droit de Hegel, Henri Lefebvre trích dẫn trong Duy vật biện chứng. Le Matérialisme dialectique, tr. 53].

Câu trên có thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Khải.

Ðọc NK là phải đọc trong cái tinh thần đó, đúng như ý của ông, trong 1 bài viết có tính tự kiểm, (1) không có Ðảng là tôi đã trở thành 1 vị linh mục, khi ông nhớ lại một lần tà tà đi mua thuốc lá tại một cái quầy chắc là gần Nhà Chung Hà Nội, và vị chủ quán đã lầm ông với 1 vị linh mục.
Hai cú đánh khủng khiếp trong đời NK, là đánh vào mật khu Ky Tô ở đất Bắc là Phát Diệm, và những tác phẩm viết về nó, khi ông được Ðảng tin cậy vì đã chọn Ðảng, thay vì Nhà Thờ, những ngày sau 1954, sau khi một nửa đất nước thuộc VC.
Cú thứ nhì là sau 30 Tháng Tư, đánh vào mật khu Cao Ðài, Tây Ninh.

Nên nhớ, lại nên nhớ, gốc gác của NK, là con quan, thuộc dòng thứ, và suốt đời ông bị mặc cảm bị bố bỏ rơi, nên đành chọn Ðảng. Ðó là cái thế 3 ngôi trong đời ông: Bố Bắc Kít, Ðảng VC, và Chúa Ky Tô [theo trật tự đại khái!]

(1)

Tôi cô độc bẩm sinh. Nếu không có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ. Một lần tôi đến tìm ông cha tìm hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong lúc chờ, tôi ra mua thuốc lá. Người bán thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con biếu cha bao diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
[NK trả lời phỏng vấn, NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI thực hiện, Tuổi Trẻ online]

Bây giờ chúng ta có thể hình dung ra được, đi tìm cái tôi đã mất của NK, là đi tìm một "cái tôi thần học", qua hình dáng nhập thế của 1 vì linh mục. Hai cú đánh vô tôn giáo của NK, là hai cú thất bại, có thể cuối đời ông ngộ ra điều này. Ông bị ông Bố Bắc Kít bỏ vô Nam, Chúa bỏ vô Nam, và đành chọn Ðảng. Nhưng Ðảng cũng chỉ coi ông là 1 thứ con rơi, con hoang, không thuộc giai cấp bần cố nông [đọc những gì ông cà khịa với đám nhà văn được Ðảng tin cậy, thuộc loại nồng cốt, chúng viết như kít, có đứa nào bằng tôi đâu!]. Ðó là bi kịch của nhà văn NK.

Ông chưa từng viết về con người, mà là về “một thứ con người” nào đó, “một thứ nhân danh con người” nào đó.
NK làm Gấu nhớ tới Graham Greene, nhất là, câu phán nổi tiếng của ông, nhớ đại khái: Suốt đời tôi đi tìm một đấng Thượng Ðế để cho Con Quỉ ở trong tôi uýnh lộn với ông ta!
Ðây cũng là bi kịch của NK, nhưng ở tầm mức thấp hơn, một phần có thể là do mặc cảm bị bỏ rơi của NK mà ra. Greene thanh thản hơn, theo nghĩa, bi kịch của ông là của chung con người.

Văn của NK độc. Và rất giống văn VP. Ðiều này do NMG nhận ra, không phải Gấu. Ông còn cho biết, hai đấng rất quí tài, và độc, của nhau. Ðiều này thì NMG, trong 1 lần đi tour văn học ở trong nước, có tuyên bố.

Nhân vật của NK hình như không có 1 tay nào lâm vào đường tự tìm cái chết như của Greene.

Cũng không phải tự nhiên mà NK viết về PXA, qua nhân vật Quân, trong Thời gian của người.

Tuy nhiên cái chết ngắc ngoải, không làm sao đi được của PXA ở ngoài đời, NK không làm sao tiên tri ra được!

Gấu đã từng có vinh dự được “nhìn thấy” nhà văn Nguyễn Khải, thời gian lui tới nhà xb Văn Học, bộ phận phía Nam, khi nhà này tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc bản dịch của NQT trước 1975.

Tạ Duy Anh, người dám “bước qua lời nguyền” viết về Nguyễn Khải:

Nguyễn Khải, một người được theo nghiệp đèn sách từ bé, không thể không biết thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất, về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm… buộc ông phải nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông những người được coi là trí thức cùng thời ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền Bắc, vì trí thức miền Nam có một số phận riêng), ông đã tìm thấy lý do vô cùng chính đáng để vờ quên bản thân mình, đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đó không hề xấu và không hề ít tính chất thiêng liêng, nếu người tin theo nó thật lòng. Nó chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những kẻ đó phần lớn lại rơi vào thành phần trí thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của trí thức Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí thức), từ cổ chí kim, chính là luôn phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ phải làm ra rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung tận tụy, vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ thán phục, vờ yêu… và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ không hề vờ, ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ biết là tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay trong giới trí thức); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên đi được thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu còn lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối.
TDA

Ðọc như thế là chưa nhìn ra thế 3 ngôi [Bố Bắc Kít, Ðảng VC, Chúa Ky Tô], ở Nguyễn Khải, và, “có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định”, như Steiner viết, trong UNDER EASTERN EYES:

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.
Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.

Với đám cầm bút Bắc Kít, vấn nạn nghiêm trọng hơn nhiều.
Hơn cả “Dưới cái nhìn Ðông Phương” của Steiner!
Ðằng sau tất cả những cay đắng nhục nhã như thế, là giấc mộng thống nhất đất nước.
Giấc mơ đẹp nhất của giống Mít.

Nén nhang muộn cho Nguyễn Khải

Sunday, July 17, 2011

 

Tạ Duy Anh

 

Cho đến khi Nguyễn Khải từ giã cõi đời, tôi chỉ nhìn thấy ông một lần và gặp ông một lần nhưng chưa bao giờ quen ông. Lần nhìn thấy ông là khi tôi còn ở Trường Viết văn Nguyễn Du. Tôi nhớ trong đám quan khách đến dự cuộc hội thảo gì đó do nhà trường tổ chức, có một người từ đầu đến cuối hầu như không muốn nói, đến dự vì nể nang, bất đắc dĩ, không tiện từ chối. Ở chỗ nào ông cũng như muốn lẩn mình vào trong đám đông nhưng thỉnh thoảng cứ phải gượng gạo cười, gật đầu đáp lại lời chào, gượng gạo chìa tay với ai đó. Đến bữa trưa, mọi người tự phục vụ. Nhà văn Nguyễn Trí Huân bất ngờ vỗ vào vai tôi và chỉ về phía người mà tôi vừa kể, đang kẹp chiếc cặp trên nách nên phải nghiêng người xuống hứng cốc bia hơi cũng do ông tự vặn vòi, bảo: “Chú nên ra chào bác Nguyễn Khải một câu và lấy cho bác ấy cốc bia”. Đáp lại Nguyễn Trí Huân, tôi chỉ đứng im nhìn để tự nhủ lòng mình rằng, vậy ra đó chính là Nguyễn Khải. Tôi bỗng muốn bật cười, mặc dù nếu làm thế thì là bất nhã. Nhưng đúng là tôi không kìm được và không sao hiểu nổi phản ứng đó của mình. Tại sao tôi lại buồn cười khi nhìn thấy ông nhà văn nổi tiếng suốt mấy chục năm – từ khi tôi chưa đẻ, mà không lon ton chạy ra đỡ cốc xin được lấy bia rồi bưng cho ông ta bằng vẻ xuýt xoa cầu thân, bằng bộ mặt rạng rỡ hạnh phúc vì được làm quen với bậc trưởng lão trong làng văn, như đa số người cầm bút thế hệ tôi lúc bấy giờ sẽ làm thế? Đó chả là một vinh hạnh lớn lắm ư?
 

Biết đâu ông ấy hạ cố ban cho lời khen rơi khen vãi, bằng độ bao diêm thôi trên báo Văn nghệ, là có thể thành danh như khối trường hợp đã xảy ra? Chính mắt tôi từng chứng kiến một ông nhà thơ, bất chấp mưa bão khiến toàn thân ướt như chuột lột, khom người móc từ trong bụng ra tập thơ bọc mấy lần ni lông run run dâng lên một nhà phê bình ngồi như con Linh Miêu trong bức tranh “Đám cưới chuột”, giọng nịnh bợ thảm hại: “Biếu anh và xin anh cho vài nhời”. Nhà phê bình kia so với Nguyễn Khải, chỉ là gã tiểu tốt vô danh, mà còn được trọng vọng đến vậy huống hồ Nguyễn Khải? Vài nhời của bậc “trưởng lão” đôi khi đủ là vốn liếng bằng vàng với người mới vào nghề để anh ta có cơ hội được ai đó nhắc tới ngay cả khi sau đó anh ta chết ngóm. Trong nghề viết lách, chưa có tí danh, dù là danh bèo danh bọt thì còn hận lắm. Lại có ông nhà thơ khác bỏ ra cả chục triệu đồng, móc của vợ, của bạn bè và của Nhà nước để thuê người mông má, quyết “hữu danh” bằng được. Đằng này chả mất gì cả, nếu có khom người tí chút, thì chỉ riêng chênh lệch về tuổi tác cũng không sợ bị ai đó xét nét. Mà cơ hội để được tiếp cận với các “đại bút” đâu phải lúc nào cũng sẵn! Vậy mà tôi nhớ lại lúc đó, sau khi nghe nhà văn Nguyễn Trí Huân nói vậy và sau khi biết đó là Nguyễn Khải, tôi đã nghĩ như thế này: “Việc quái gì mình phải làm quen với một kẻ cả đời xu nịnh, cả đời uốn lưng, uốn ngòi bút để đổi lấy chút danh vọng hão huyền và sự yên thân trong khi ông ta biết thừa điều đó là hèn mạt”. Tôi đã nghĩ như vậy, mọi người có thể cho tôi là ngạo mạn, thậm chí xấc láo nữa. Tôi không chối cãi. Nhưng thái độ đó của tôi là phản ứng giận dữ đối với một người tôi phải học ra rả suốt cả thời trẻ những điều ông ta viết, đã làm tổn thương niềm tin của tôi. Tôi càng không chấp nhận một người như ông mà luôn đem cái nhát, cái sợ của mình ra thanh minh cho việc phải viết những trang văn tô hồng hiện thực, minh họa chính sách một cách sống sượng. Khi ông tin vào điều mình viết thì thôi có thể bỏ qua. Nhưng khi ông cặm cụi nặn ra những lời ca ngợi cái thứ chính ông cũng ớn đến mang tai, thì không thể chấp nhận được. Rất nhiều lần ông nói xa xôi là ông phải viết vì sinh nhai, có ý thanh minh cho mình như vậy. Ai có thể tin và thông cảm, riêng tôi thì không tin lý do đó và cũng không chấp nhận lời thanh minh. Nếu không thích thì có ai bắt ông phải viết đâu. Không in được tác phẩm thì với lương bổng của ông đâu đã đến mức chết đói như nhiều nhà văn không may khác. Đã thế, bằng việc làm, ông lại chứng tỏ ngược lại, tức là ông cho mọi người thấy ông viết như chắt ra từ tim óc.
 

Đó là khi tôi đọc được ở đâu đó bài bút ký ông kể rằng, chuyến đi Hưng Yên lần ấy, thắng lợi lớn nhất là ông tìm lại được cuốn truyện vừa có tên là Chủ tịch huyện trong một thư viện xã, cuốn truyện in cách nay đã mấy chục năm. Giá kể tôi chưa phải đọc cuốn truyện đó. Giá mà suốt thời học sinh tôi không phải ra rả học Hãy đi xa hơn nữa (ngay từ cái tên đã đầy tính xu thời chính trị) thì tôi quá lắm là thở dài theo nỗi buồn của người viết về thời thế. Nhưng trời ạ, đáng lẽ ông phải xé tan cái cuốn sách ấy đi mới phải chứ, coi nó như đứa con bị cưỡng hiếp mà có nên dị dạng cả về thân xác lần tinh thần, ông phải cảm thấy xấu hổ vì mình đã từng viết như vậy chứ. Ừ thì thời thế đôi khi cũng khó cưỡng. Nhưng ông thừa biết cuốn sách đó vô giá trị toàn diện, nói dối toàn diện chỉ để kiếm cơm và chứng tỏ lập trường thôi. Nó là bản minh họa khá thô thiển một chính sách hoang tưởng và bất nhân làm nông thôn bị bần cùng hóa. Nó tô son trát phấn cho những bộ mặt lem luốc, những nhân cách lem luốc, những cuộc đời lem luốc. Nó biến đen thành trắng, đánh lộn sòng giữa cái muôn đời và cái chốc lát… Ông thừa biết rằng, chỉ có thể chiêu tuyết những oan ức của người nông dân bằng cách treo cổ những điều sằng bậy do mình viết, những điều mà vì thế họ không ngóc đầu dậy được. Vậy mà ông lại vẫn lấy làm sung sướng, hãnh diện khi tìm lại được nó, cái thứ của tội nợ đó. Phản ứng thái quá của tôi còn do cả việc ông thay đổi quan điểm – một điều không thể hiểu nổi đối với một nhà văn như ông – trong một số sự kiện liên quan đến văn học, mà lý do chỉ vì ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn. Không biết với một người như ông thì cái chức Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn quan trọng ở chỗ nào. Có thể với ai đó, thậm chí là đa số trường hợp, cần cái chức vụ bèo bọt đó để tiến thân và hữu danh, kiếm bổng lộc, chứ ông đâu có cần. Ông không cần phải là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn mới được biết đến. Tạng như ông cũng chả kiếm chác được gì ở cái chức đó. Đành rằng tôi từng thấy cái chức đó ghê gớm với ngay cả một nhà văn đinh ninh rằng mình là cây đa, cây đề. Trước đại hội lần thứ V Hội Nhà văn Việt Nam, ông ta muốn được tiếp tục làm Ủy viên Ban chấp hành Hội thêm khóa nữa và vì thế ông viết một bài thống thiết kêu gọi Đảng ở đâu hãy nắm ngay lấy chúng tôi, đừng để các thế lực khác họ nhanh tay hơn. Ông muốn chứng tỏ, nếu có ông trong Ban chấp hành Hội Nhà văn thì Đảng cứ việc kê cao đầu mà ngủ kỹ, không phải bận tâm đến cái lũ văn nghệ sỹ nữa. Hạ mình đến thế cơ mà. Tự biến mình thành một thứ công cụ rẻ mạt, một kẻ gác cổng, hẳn cái mà ông ta muốn được bù trì phải hấp dẫn lắm. Sự thật thì khối kẻ, từ một hòn đất, chỉ cần là Ủy viên Ban chấp hành, lập tức thành bức tượng, có thể lăng xăng đi lại ở những hội nghị lớn, về các địa phương với tư cách người của Trung ương, lên tiếng dạy bảo người này người khác, là nơi cầu cạnh, xin xỏ của biết bao người thập thò muốn vào Hội, muốn được giải này giải nọ để làm vốn kiếm ăn với địa phương, tức là có thể ban cho người này người kia những thứ làm đổi đời họ... và dù thế nào, dù có là cục đất, thì Ủy viên Ban chấp hành cũng mặc nhiên thành người nổi tiếng trong giới, ít nhất cũng vài ba năm. Tôi cam đoan Nguyễn Khải biết điều đó, nhưng tuyệt không phải vì những thứ đó mà ông cứ phải là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn. Vậy thì ông hành động không như ông nghĩ vì cái gì? Tôi thật sự không thể hiểu nổi và không chấp nhận.

 

Bây giờ tôi xin kể về lần thứ hai gặp ông. Đó là vào khoảng năm 2003, ông ra Hà Nội và ghé vào nhà xuất bản chơi với Nguyễn Khắc Trường. Khi đó cả ông và tôi đều đang là nạn nhân của một vụ cấm đoán miệng, khiến Thượng đế thì cười đắp chăn gần một năm và chỉ được phát hành sau khi nhà xuất bản xé đi đoạn ông kể về quá trình ông làm “nghị gật”, còn Đi tìm nhân vật trót phát hành rồi thì không được tái bản, không được bất cứ báo nào có lời giới thiệu, bất kể là khen hay chê… và tất cả đều do truyền đạt miệng, không chính thức! Chính nhờ đọc Thượng đế thì cười mà tôi đã bớt cay nghiệt hơn khi nghĩ về ông. Nói thật ra, nếu cuốn sách không bị cấm thì nó cũng sẽ bị quên lãng ngay. Bởi người đọc nó là những người hiếu kỳ, muốn thoả mãn nỗi ấm ức bị bưng bít thông tin hơn là nhu cầu thưởng thức nghệ thuật. Nhưng cái được lớn nhất là lần đầu tiên ông dám sòng phẳng với chính mình. Ông đã dám nói ra một số sự thật liên quan đến việc viết lách, đến những trang văn nhem nhuốc viết theo đơn đặt hàng, đến cái danh hão mình đang mang. Phải ở một tầm nào đó mới có đủ khả năng tự giễu cợt mình, giễu luôn cả cái thứ gọi là văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa chết đồng loạt trên toàn hệ thống; ông đã dám công khai xin lỗi nhà văn Vũ Bão - một việc tưởng đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được như ông đã làm. Tuy vậy cái không được là ông vẫn ra sức thanh minh cho mình. Vì ông có tài nên cái sự thanh minh nhiều khi cũng rất tinh vi. Một cuốn hồi ký, tự truyện mà nhân vật xưng tôi chỉ tìm cách thanh minh thì chứng tỏ tầm cỡ của người viết chưa thật lớn, chưa thật sự bị thúc bách bởi lương tri mà ngồi xuống bàn viết, chẳng qua sám hối chỉ là miễn cưỡng hoặc làm phép. Mà điều đó thì tôi cũng không chấp nhận. Vì thế, khi ông sang phòng văn học trong nước, tôi vẫn cắm cúi làm việc mà không ngẩng lên. Không biết vô tình hay cố ý, ông ngồi đúng vào chiếc ghế đối diện với bàn làm việc của tôi. Trước đó tôi biết ông khen tôi trên tờ báo nào đó. Nhưng điều đó không thể khiến tôi động lòng. Vì thế tôi chỉ miễn cưỡng gật đầu chào ông như chào bất cứ ai bước vào phòng. Tuy vậy trong câu chuyện với một chị bạn đồng nghiệp, nhân chuyện gì đó, ông lại nhắc đến tên tôi. Tôi còn ghi dấu nụ cười của ông cùng với cái nhìn nhanh về phía tôi. Đó là một nụ cười đầy thiện tâm, nụ cười của người đã ngộ ra nhiều thứ, muốn dàn hoà với cả thế giới, nụ cười cầu mong sự tha thứ của người đời và mình cũng muốn tha thứ hết cho những gì người đời gây đau khổ cho mình. Tôi còn kịp quan sát đến thế đủ hiểu tôi đã đối diện với ông không chỉ trong chốc lát. Tôi biết rằng, chỉ cần tôi cất lời: “Cháu chào chú Nguyễn Khải” là ông sẽ quay hẳn sang nói chuyện với tôi. Nhưng vì tôi đã cố chấp, vì tôi còn thiếu từng trải, thiếu tài năng, tức là còn nhỏ bé… nên đáng lẽ làm vậy thì tôi lại lấy cớ có việc gì đó để đi ra ngoài. Ông là người nhạy cảm nên hiểu rõ hành động ấy của tôi là gì. Nhưng ông vẫn thản nhiên ngồi lại, như một người già không chấp thằng trẻ ranh trái tính thành ra hỗn. Tôi chả có việc gì cả nên đứng đọc báo ở bàn tiếp khách ngoài hành lang cho đến khi biết Nguyễn Khải đã ra khỏi phòng mới trở vào. Khi nghe Nguyễn Khải qua đời, quả thật có lúc tôi tự lấy làm tiếc cho mình đã thực sự bỏ lỡ một dịp quan trọng. Có thể không quan trọng với tôi nhưng quan trọng cho đời văn của tôi. Nhưng ý nghĩ đó cùng với sự hối tiếc chỉ thực sự khiến tôi day dứt khi đọc những dòng ông viết vào giây phút cuối đời. Mặc dù không định thanh minh cho Nguyễn Khải – vì tôi không có tư cách gì để làm điều đó và ông cũng không khiến – nhưng đã có ít nhất một đêm tôi mất ngủ, lòng tự trách mình cay nghiệt và để thương tiếc ông, cũng là thương cho kiếp trí thức ở cái đất nước này. Với đám trí thức nói chung thì vừa thương, vừa giận, vừa khinh. Thương vì suốt cả một lịch sử thăm thẳm kẻ sỹ luôn lép vế, khiêm nhường đứng ở một góc khuất, chờ được đem tâm và tài ra thi thố, nhưng đa số muốn mở mặt mở mày đều phải cúi rạp xuống đến mức thành kẻ vô lại. Có công thì bị kẻ kém cỏi hơn mình tranh mất, nhưng sự không thành thì tội giáng lên đầu mình đầu tiên. Ở một đất nước mà lũ chân yếu tay mềm, đầu chỉ có chữ từng là đối tượng đầu tiên phải tiêu diệt, thì biết nhiều đồng nghĩa với tai họa nhiều. Vì thế cứ mũ ni che tai, tự nhận mình dốt là cách an thân tốt nhất. Bởi vì có mấy người, mấy thời gặp được minh quân để dốc lòng phụng sự quốc gia đâu? Phần lớn là u vương, tự đồng nhất mình với đất nước, coi thiên hạ là giường chiếu để mình hành lạc. Gặp phải kẻ như vậy thì thay vì nói thật, phải uốn lưỡi nói những điều dối trá để giữ mạng sống và vinh thân phì gia. Thương vì nhiều tai họa giáng xuống đầu họ đôi khi chỉ vì họ hiểu biết hơn người, cả nghĩ hơn người, thương nòi giống và yêu tổ quốc hơn người. Họ luôn là đối tượng của nghi kỵ, đố kỵ, gièm pha. Kinh sợ nhất là bọn đố kỵ. Bất cứ ai có chút ít kiến thức về lịch sử cũng dễ dàng nhận ra bi kịch truyền kiếp của thân phận trí thức Việt luôn gắn với đám xu phụ quyền lực, bọn thầy dùi chính trị mà phần lớn số đó đều bất tài, vô hạnh, đểu cáng không có giới hạn. Không có gì đáng sợ hơn bọn này. Đáng sợ vì họ lại được (và thường được) giới cầm quyền trọng dụng. Nó, một mặt phải tìm cách tiêu diệt kẻ có tài do bản năng tồn tại, do đố kỵ, mặt khác, nó thèm khát được chứng tỏ mình, thèm khát được thấy một sự khiếp sợ nào đó từ người khác. Nhưng tự bản thân nó thì không thể làm những việc đó được. Vì vậy nó buộc phải dựa vào quyền lực. Muốn thế nó phải muối mặt nói những lời nịnh hót thường rất vừa tai kẻ cầm quyền. Một điều lạ là không phải kẻ có quyền lực nào cũng dốt đến mức không biết kẻ khác đang tâng bốc mình. Nhưng đáng lẽ phải cảm thấy xấu hổ - như bất cứ người có văn hóa nào - thì đa số họ, những kẻ sở hữu quyền lực, lại luôn vừa lòng về điều đó. Những kẻ xu thời dù chắc chắn là bất tài, thì họ cũng còn một sự tinh tường ấy là nhận ra rằng, loại người mà đám quyền lực tăm tối ghét nhất là bọn trí thức có chính kiến riêng. Xét đến cùng thì chỉ một người có học vấn, có chính kiến riêng, mới được coi là trí thức. Một dân tộc mà thiếu vắng những nhà phản biện, là một dân tộc vô phúc. Một chính thể luôn tuyệt đối hóa mình, đồng nghĩa mình với lẽ phải để từ đó coi mọi ý kiến không giống mình là sai trái, là một chính thể không có tương lai. (Chính thể Xô-viết và các chính thể Đông Âu trước năm 1990 là ví dụ hiển nhiên. Thực ra ở những chính thể ấy không thiếu những nhà phản biện lớn, như trường hợp nước Nga. Nhưng năm 1922 Lenin đã ký lệnh trục xuất hơn 200 trí thức hàng đầu của nước Nga (chứ không giết). Những trí thức này nói như Doxtoiepxki là hàng ngàn năm nước Nga tồn tại chỉ để có nhiệm vụ sinh ra họ. Lệnh trục xuất này thực chất là lệnh khai tử nhà nước Liên Bang gần 70 năm sau). Nó chỉ quan tâm đến cái trước mắt, tức là rất vô trách nhiệm với dân tộc. Và thế là, thay vì cần trí thức, cần những nhà phản biện với vai trò làm thức tỉnh chính nó, nó chỉ cần những kẻ học thuộc lòng. Mà chỉ học thuộc lòng, cho dù là thuộc những điều cao xa nhất, được coi là kinh điển và không phải ai cũng làm được, thì cũng vẫn chả hơn gì là một thứ nô bộc. Bởi vì kẻ học thuộc lòng, răm rắp làm theo, dù nhân danh bất cứ điều gì, kể cả tình yêu tổ quốc, cũng là kẻ trục lợi vì bản thân trước hết. Nó giống hệt với kẻ ngậm miệng ăn tiền về bản chất. Nhưng bất hạnh hay là nực cười thay, những kẻ như vậy, những kẻ học thuộc ăn tiền, nói theo ăn tiền… lại luôn là những kẻ có quyền định đoạt số phận không chỉ cho giới trí thức, mà đôi khi là số phận của cả một dân tộc. Bằng chứng cho điều này là thứ dễ tìm nhất, cả trong lịch sử nước nhà lẫn lịch sử thế giới. Còn nếu cần đơn cử một vài nạn nhân của cái thủ đoạn quen thuộc từ ngàn năm nay mà những kẻ xu thời áp dụng để hãm hại những trí thức hàng đầu là vu cáo chính trị, thì cũng không mất quá một phút để liệt kê ra, nào là Lê Văn Thịnh, Trần Trung Tá, Chu Văn An, rồi Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi… cho đến sau này là Cao Bá Quát và gần đây hơn chính là nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy chỉ cần chưa đầy một phút để nhắc đến ngần ấy cái tên, nhưng điều đáng buồn lại cũng ở đó. Cái bảng danh sách những kẻ sỹ dám từ bỏ lợi lộc, dám nói thật, dám bất chấp nguy hiểm để được sống như một kẻ sỹ hóa ra cũng vô cùng ngắn ngủi.
 

Nguyễn Khải, một người được theo nghiệp đèn sách từ bé, không thể không biết thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất, về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm… buộc ông phải nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông những người được coi là trí thức cùng thời ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền Bắc, vì trí thức miền Nam có một số phận riêng), ông đã tìm thấy lý do vô cùng chính đáng để vờ quên bản thân mình, đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đó không hề xấu và không hề ít tính chất thiêng liêng, nếu người tin theo nó thật lòng. Nó chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những kẻ đó phần lớn lại rơi vào thành phần trí thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của trí thức Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí thức), từ cổ chí kim, chính là luôn phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ phải làm ra rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung tận tụy, vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ thán phục, vờ yêu… và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ không hề vờ, ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ biết là tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay trong giới trí thức); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên đi được thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu còn lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối. Như những câu thơ sau đây của Chế Lan Viên, tất nhiên là chưa có trong tuyển tập chính thức nào:

Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – người có lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.

Rồi như trường hợp Nguyễn Khải.

Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – người có lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.

Chế Lan Viên

Bài thơ trên, nếu biểu là thơ, thì không hẳn đúng, vì nó là 1 thứ sám hối, mà cũng nhảm. Nó làm Gấu nhớ đến Milosz, và bài thơ ông trích dẫn Szymborska, chửi bố cái thứ thơ “sám hối 1 nửa” này:

The chasm doesn’t split us.
A chasm surrounds us
Lỗ nẻ không phân đôi chúng ta
Một cái lỗ nẻ bao quanh chúng ta.

Nhà thơ TDT khi trả lời độc giả trên DTL.com [đọc mục “thơ mỗi ngày”], đã vinh danh "thơ muộn" của Chế Lan Viên, hẳn là ông nghĩ tới những bài thơ như trên.
Milosz, trong cuốn Chứng từ Thơ, khi viện tới bài thơ của Szymborska, là cũng nhắm tới những cas như thế này.

Chỉ là trò giả đò mà thôi.

Nên nhớ, những nhà thơ như Szymborska, Milosz có chung những kinh nghiệm như Chế, như Khải.

Autonomy

In danger the holothurian splits itself in two:
it offers one self to be devoured by the world
and in its second self escapes. 

Violently it divides itself into a doom and a salvation,
into a penalty and a recompense, into what was and what will be. 

In the middle of the holothurian’s body a chasm opens
and its edges immediately become alien to each other. 

On the one edge, death, on the other, life.
Here despair, there, hope.

If there is a balance, the scales do not move.
If there is justice, here it is.

To die as much as necessary, without overstepping the bounds.
To grow again from a salvaged remnant.

We, too, know how to split ourselves
but only into the flesh and a broken whisper.
Into the flesh and poetry. 

On one side the throat, on the other, laughter,
slight, quickly calming down. 

Here a heavy heart, there non omnis moriar,
three little words only, like three little plumes ascending. 

The chasm doesn’t split us.
A chasm surrounds us.

       To the memory of Halina Poswiatowska

Tự Trị

Gặp nguy hiểm dưa biển tự phân đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi nó ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa là ngày mai
Ở giữa dưa biển, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành xa lạ với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì OK.
Nếu có công lý, thì là như vậy đó.
Chết như là có thể, trong hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên là thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ gãy.
Một bên là thịt, và một bên là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên là tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề, kia, non omnis moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông chim bay lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.

Auden phán, thật hách, Thơ làm cho chẳng cái gì xẩy ra, “Poetry makes nothing happen”.  

Với Kundera, qua bài viết của Alain Schaffer, khi đọc cuốn “Ðời ở đâu đó” của K, thì thơ là 1 trò đại ma đầu, siêu lừa, siêu gian trá, « La poésie, toute poésie, toute pensée poétique est supercherie. Ou plutôt: un piège, et l'un des plus redoutables qui soit", [thơ, mọi thơ, mọi tư duy về thơ là 1 siêu lừa, siêu gian trá. Hay 1 cái bẫy, 1 trong những bẫy đáng sợ nhất], và đây đúng là cái thứ thơ Bắc Kít nhờ nó mà ăn cướp được Miền Nam, « ce n'était pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau" [đâu phải chỉ là thời của ghê rợn, mà còn là thời của trữ tình, nhà thơ trị vì cùng với đao phủ”], « La révolution et la jeunesse forment un couple”, [cách mạng và tuổi trẻ tạo thành một cặp].

Công thức của cái tít, la formule du titre, "Ðời ở đâu đó", theo Alain Schaffner, tác giả bài viết đã dẫn, thì ‘mượn’ của Rimbaud - Ðời thực thì vắng mặt. Chúng ta không có trên đời, Một mùa địa ngục – và của André Breton: Sự hiện hữu thì ở đâu đó, Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực. Tuy nhiên, cũng trong viết, tác giả đi một cái note, theo Bernard Pingaud, hiểu như thế là hiểu ngược nghĩa. Ðúng ra phải hiểu là: “Ðời thực” vắng mặt không phải là đời khác, một cuộc đời mà chúng ta hoài mong, nhưng chính là cuộc đời vừa lỡ. [La ‘vraie vie’ absente n’est pas une autre vie, à laquelle nous aspirerions, c’est cette même vie qui vient à manquer [ui chao, lại nhớ thơ của… Gấu: Không phải tiếc cuộc đời đã sống/Mà một đời bỏ lỡ/Nhớ hoài]!



*

Bức ảnh này cũng sẽ đi vào lịch sử … chống ngoại xâm của Nhân dân Việt Nam 

Tôi đang ở xa, rất tiếc không thể có mặt hôm nay ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh để tham gia biểu tình chống Trung Quốc cùng các bạn tôi và đồng bào. Nhưng tôi vẫn theo rõi sát tình hình và biết cuộc biểu tình sáng nay ở cả hai nơi đều bị đàn áp nặng nề. Tôi xin đặt câu hỏi: Giữa việc Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đi gặp phía Trung Quốc, thỏa thuận bí mật những gì để đi đến chỗ phía Trung Quốc đưa ra bản “Thông tin báo chí chung” rất xấu và Bộ Ngoại giao Việt Nam sau đó hoàn toàn im hơi lặng tiếng cho đến nay; việc Bộ Ngoại giao tìm mọi các tránh gặp và trả lời 18 nhân sĩ, trí thức kiến nghị yêu cầu Bộ cung cấp thông tin minh bạch về cuộc gặp Việt Nam-Trung Quốc và Thông tin báo chí chung nói trên; với hành động đàn áp, bắt bớ, giải tán những người biểu tình yêu nước chống Trung Quốc hôm nay có phải là một chuỗi tất yếu không? Có phải thỏa thuận bí mật của ông Hồ Xuân Sơn trong chuyến đi Trung Quốc vừa rồi (bí mật vì đến nay vẫn không hề được công khai giải thích mặc dầu được ráo riết yêu cầu) là nguyên nhân trực tiếp đưa đến đàn áp biểu tình yêu nước của nhân dân hôm nay không? Có sự ám muội được che dấu nào ở đây?

Tôi nghĩ mọi người dân Việt Nam đều có quyền nghi ngờ chính đáng và đặt những câu hỏi đó, vì đây là chuyện liên quan đến vận mệnh đất nước.

Nguyên Ngọc

Mẽo, phải đợi mấy chục năm sau, mới khui hồ sơ mật, cho biết cú Maddox là ngụy tạo.
Nhưng dân Mít chẳng bao giờ biết được bí mật cái cú đầu độc tù Phú Lợi, từ đó đưa đến việc thành lập MTGP, ra ý đây là vấn đề nội bộ Miền Nam, không có Miền Bắc.
Liệu có bao giờ người dân Việt Nam “có quyền nghi ngờ” chuyện Diễm Xưa đó không?
Giả như NN có đi biểu tình, thì [nếu bị cảnh sát Ngụy tó], có rút điện thoại gọi HU như DMT không? 

Dưới chế độ toàn trị, làm sao có chuyện minh bạch? Ðến thằng Mẽo mà nó cũng không minh bạch liền tức thì nữa là.
Toàn trò hề! NQT

Tôi nghĩ mọi người dân Việt Nam đều có quyền nghi ngờ chính đáng và đặt những câu hỏi đó, vì đây là chuyện liên quan đến vận mệnh đất nước.
NN

Như vậy, Bắc Kít có “nghi ngờ chính đáng” gì không, khi anh Tẫu trang bị cho anh “bộ đọi” cụ Hồ, đến cái lông chim cũng “made in China”?
Rồi trước đó, khi Bác H. nương náu ở Tầu, Bác Mao cung cấp cả gái cho Bác H, để đỡ nhớ nhà?
Nếu không có bác Mao làm sao thắng Ðiện Biên, làm sao Võ tướng quân trở thành vị anh hùng dân tộc?
Khi PVD ký "sơ ước" "bán" đảo, có xin ý kiến của… NN không?

"J'ai perdu mes certitudes, j'ai gardé mes illusions." (1)
Entretien avec Jorge Semprun

Tôi mất những xác tín, tôi giữ lại những ảo tưởng.
Ông cựu CS, cựu tù Nazi phán.

Quá tuyệt!

Những ông như NN, có lẽ chẳng bao giờ hiểu được chính cái chủ nghĩa mà suốt đời họ cúc cung phục vụ nó.
Ðể hiểu nó, thì cũng dễ thôi, vì có câu của Arendt, để hiểu chủ nghĩa toàn trị, bạn chỉ cần nhớ có 1 câu này, nó không thí cho bạn bất cứ 1 cái gì.

Vậy mà còn đòi hỏi minh bạch lịch sử.

GNV này thực sự quá chán đám VC rồi. Chẳng bao giờ chúng dám nhận cái lỗi tày trời của chúng, như đám tinh anh thế giới đã từng vướng vào. Thí dụ như tay J.S. trên. Ðấy là chưa kể cái phần tạo ác của họ, với những anh hùng diệt Mỹ Ngụy như anh hùng Núp chẳng hạn. Truyện ngắn Tướng Về Hưu của NHT, nghe nói, là do NN khui ra.
NN cũng là 1 thứ tướng về hưu, vậy mà đọc không ra.

(1)

Câu này, Gấu đã từng nghe 1 tay cầu thủ bóng đá, Brazil thì phải, than, khi thua trận chung kết: Ôi giấc mộng đã tan, sao ảo tưởng vẫn còn!
GNV đã chôm để viết về BHD. Ôi em đã đi ra khỏi đời Gấu từ đời nảo đời nào, và bây giờ, em có lẽ cũng đã đầu thai kiếp khác, vậy mà cả giấc mộng lẫn ảo tưởng vẫn còn nguyên!