Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 


Thủ Thiêm



Pleiku - Chút Gì Để Nhớ

Tôi nhìn thấy Pleiku lần đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy nhà gỗ trải dài trên đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió lùa vì hai mặt trước sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba hay bốn dãy, lâu quá tôi không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng trước nhà tôi nhìn thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một chút, bên phải, tôi nhìn thấy biển mênh mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn thấy dãy nhà phía dưới. 

Phố núi cao phố núi mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . .  Tiếng nhạc vọng từ dãy nhà bên dưới, có một người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương. Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em ướt. Nên mắt em ướt. . . Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong bài thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc. Thật ra tôi nghe bài hát này đã nhiều lần nhưng không để ý đến Pleiku chỉ để ý đến một mối tình và hai câu thơ còn một chút gì, để nhớ để quên. Đầu óc thơ dại của tôi vào cái tuổi chỉ biết yêu thôi chả hiểu gì nghĩ thầm ông này nói gì kỳ quá, đáng lẽ đi đôi với để nhớ phải là để thương chứ sao lại để quên. Chỉ sau khi lớn lên thêm chút nữa, rời VN tôi mới nghiệm ra, Sài Gòn là nơi tôi có nhiều điều muốn quên. Buổi chiều hôm ấy ở trên đảo Bidong tôi lần đầu hình dung Pleiku, một vùng cao nguyên, núi non, có sương mù, có những cô gái má đỏ môi hồng, tiềng khèn Tây nguyên, đường phố lưa thưa vắng vẻ.

Tuyệt.

Làm Gấu nhớ tới bài viết của "em của Gấu", Đơn Dương ngây ngô quận.

Bài thơ của Vũ Hữu Định, cái hình ảnh “mai xa lắc”, từ “lắc”, khủng thật.

VHD nói tới “đồn biên giới”. Còn ở đây, xa lắc, là Bidong, là lưu vong, là, là… điều gì, kỷ niệm gì mà người viết muốn quên đi, nghĩa là muốn [phải] nhớ mãi!

Joseph Huỳnh Văn, bạn Gấu, thi sĩ, cũng rất mê thơ VHD, nhất là bài này.

Tks. NQT


Thơ mỗi ngày

Nguyễn Trọng Tấn:

Trong những thi sĩ trước bà, cùng thời với bà và sau này, có vị nào bà cảm thấy mến mộ thi tài của họ? Và thấy thơ của mình có chịu ảnh hưởng của họ?

Nhà thơ Trần Mộng Tú trả lời:

Thưa ông. Những thi sĩ thời tiền chiến và cả những thi sĩ sau này. Mỗi thi sĩ có một số bài tôi thích. Tôi thuộc rất nhiều thơ. Tôi có thể ảnh hưởng cách suy nghĩ của họ nhưng tôi không ảnh hưởng cách dùng chữ. Tôi yêu chữ nghĩa trang trọng của Vũ Hoàng Chương, mỹ miều đài các của Đinh Hùng, hồn nhiên nhưng rất thơ của Bùi Giáng, quê quê của Nguyễn Bính. Những thi sĩ như Du Tử Lê, Nguyên Sa, Đỗ Quý Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ v.v mỗi người tôi yêu thích một số bài (không phải tất cả) của họ. Những bài thơ tình của các tác giả trong nước, đôi khi tôi cũng may mắn gặp được một số bài hay rải rác trên những trang mạng. Tôi cũng là người ái mộ Pablo Neruda, Rumi, Khalil Gibran. Nhưng tôi nghĩ, thơ của tôi không bị ảnh hưởng thơ của ai, vì thơ tôi rất tmt.

Blog DTL

Lời bàn ngang như cua của GNV:

Thơ TMT thì rất TMT.

Nhưng rất TMT như thế nào, cái đó mới khổ cho người đọc!

Bữa nay, G thử cắt nghĩa “rất TMT”, là thế nào, coi có nghe lọt tai không.

Theo GNV, thơ TMT có nét thơ Bà Huyện Thanh Quan, ở giọng hoài cổ của nó, thí dụ giọt mưa trời khóc ngàn năm trước.
Đó là nét giống BHTQ.
Cái không giống, là ở dáng vẻ đài các.
Bà Huyện Thanh Quan không có tính đời thường, nét đời thường, không có sự tục lụy, hệ lụy của đời thường. Thơ TMT có.

GNV thường gọi cái nét này, là hồn nhân hậu của văn chương. Bạn đọc thơ TMT, là thấy ngay, nhà thơ có để tâm đến bạn, khi làm thơ. 
Trong thơ TMT có cái gọi là sương mù, bụi bặm của hiện tại, của đời thường.
Ý này G thuổng, trong 1 bài [đang đọc] song song với bài phỏng vấn TMT (1)

GNV có thói quen, đọc, hay viết, nhiều bài, cùng 1 lúc!

(1)

Le brouillard du présent

Mais voyons la face oubliée de cette conception de l'Europe. Dans Les Testaments trahis, Kundera nous reproche d'accuser Maïakovski, Heidegger et Céline d'avoir collaboré avec le communisme ou le nazisme: selon lui, nous ne nous rendons pas compte qu'ils vivaient et agissaient dans le brouillard, sans compter qu'il est facile de les juger aujourd'hui, une fois le brouillard disssipé. De façon surprenante, Kundera reprend ici les illusions de la conception avant-gardiste de la modernité selon laquelle le passage entre passé et présent est perçu comme une libération des ténèbres, du brouillard du passé. Or le brouillard fait tout autant partie du présent et chacun peut contempler, derrière le brouillard de son présent, le brouillard du présent passé, au sens où l'entend saint Augustin: « C'est improprement que l'on dit: il y a trois temps, le passé, le présent, le futur; mais sans doute dirait-on correctement : il y a trois temps, le présent des choses passées, le présent des choses présentes, le présent des choses futures. » Le brouillard est le propre de chaque présent, aucun jugement ne peut être proféré à un moment sans brouillard. Dans le brouillard de notre présent, nous jugeons ceux qui ont agi dans le brouillard du présent passé, et, souvent, nous redoutons les angoisses de « ceux qui agirent jadis ». Le dilemme tragique du président tchécoslovaque Edvard Benes (3) en 1938 est tout aussi voilé par le brouillard aujourd'hui qu'il l'était au moment du traité de Munich. Il est étrange que Kundera ait pu croire à la venue d'un tel « présent sans brouillard ». Quelle naïveté bien peu kunderienne!

Thơ Bà Huyện Thanh Quan không còn chút bụi trần, khác thơ TMT.
Nhưng cả hai có chung niềm hoài cổ.

Có 1 khoảng cách giữa thơ TMT với thơ tiền chiến, với thơ của những thi sĩ cùng thời với bà, nhưng lại có 1 mối nối giữa thơ của TMT với thơ của Bà Huyện Thanh Quan.
Mối nối này khiến G liên tưởng tới đoạn tiếng Tây ở trên, nhất là đoạn nói về ý niệm thời gian, được gạch dưới:

Thật không đúng, khi cho rằng có 3 thời, quá khứ, hiện tại, tương lai. Đúng ra phải nói: có 3 thời, hiện tại của những điều quá khứ, hiện tại của những điều hiện tại, và hiện tại của những điều tương lai.
Giọt mưa [giọt lệ trời] ngàn năm trước mà ướt đẫm bàn tay người bây giờ, là vậy.

[Steiner cũng có ý đó, khi viết "vết gỉ của giọt sương trên lưỡi dao sáng ngời", nhưng ông nói về kịch Shakespeare, Macbeth, thí dụ, tức là nói về “người làm thịt người”. Hình ảnh này, nói lên sự vô thường của cõi người, đúng hơn. NQT]

Trong những câu hỏi của độc giả trang DTL, có 1 câu, giả như không có biến cố 30 Tháng Tư, liệu bà có làm thơ, viết văn; TMT trả lời, tất nhiên, ‘nòi tình’ mà, [ông bà mình thường nói…], nhưng nội dung chắc là khác đi.
Có thể như thế, nhưng đẩy câu hỏi/câu trả lời đến tận cùng, có thể nói, bụi thời gian trong thơ của TMT, là từ tro than của cuộc chiến. Chính cái “being versed" in war things [mượn hình ảnh của Brodsky viết về thơ Robert Frost: "being versed" in country things] làm nên nội dung thơ của TMT.

Thật là buồn khi phải phán rằng, nếu có cái gì tốt về lưu vong, thì đó là, nó dậy chúng ta bài học về khiêm nhường. Brodsky viết, trong bài nói chuyện Phận Lưu Vong, The Condition We Call Exile. Ông viết tiếp, đẩy thêm một bước nữa, có thể nói, cái bài học tối hậu lưu vong dậy một nhà văn nhà thơ, là bài học về đạo hạnh.
Và nó là vô giá, priceless, bởi vì nó đem đến cho anh ta/chị ta, một viễn tượng lâu dài nhất có thể khả hữu. Như Keats nói, “And thou art far in humanity”
Bị thất lạc, "bỏ đi" (viết như vào hư vô) giữa nhân loại, giữa đám đông, (đám đông: người Việt ở hải ngoại?), giữa cả tỉ người (thế giới tự do?); trở thành cái kim đáy bể, nhưng lại là cái kim mà một người nào đó đang tìm kiếm: đó là tất cả cái gì được gọi tên là lưu vong. Vô thường thôi, bạn là gì, may ra chỉ là hạt cát trong sa mạc. Vinh quang và cũng là bất hạnh: Hãy đo lường chính bạn, không phải đối với những bạn văn, nhưng với cái vô cùng của trời đất con người.
Source

Vẫn Brodsky, vẫn bài viết, “Có lẽ một ẩn dụ sẽ giúp đỡ chúng ta ở đây: Là 1 nhà văn lưu vong thì như là bị ném vào không gian trong cái phi thuyền, mà phi thuyền ở đây, là ngôn ngữ của anh ta. Thật lâu ơi là lâu, thì anh ta mới khám phá ra rằng, phi thuyền không hướng về trái đất, mà cứ thế đi mãi vào hư vô [it graviates not earthward but outward].
Cũng ý đó, GNV, ngay những ngày mới ra hải ngoại, phán, người tình của TMT là tiếng Việt.

Đêm Từng Miếng

Saturday, May 21, 2011 

trần mộng tú 

Đêm như miếng thạch đen
cắt ra từng miếng nhỏ
mở cả hai bàn tay
miếng đêm soi không tỏ 

đêm như một dòng tóc
sổ tung xuống cuộc tình
một giải tình đen mướt
len vào giữa giấc mơ 

đêm như một lọ mực
đổ nghiêng xuống bài thơ
tình như trang giấy thấm
xoá đi rất tình cờ 

em một mình trong đêm
đi quanh nghe đêm thở
dưới hai gót chân em
đêm thắp hồng ngọn lửa 

 em đi và thơ đi
đêm tan từng miếng nhỏ
suốt hành lang cuộc đời
đêm đốt thơ cháy đỏ

tmt

5/2011 

Note:

1.

"Xổ tung". Không phải "sổ tung". “Cái này” tay biên tập Diễn Đàn Thế Kỷ đúng ra phải sửa!

2.

đêm như một lọ mực
đổ xuống thành bài thơ

How?

Sửa đi như vậy, thì lại thấy câu thơ của Ngân Giang vọng về:

Đêm khuya lệ nến rơi thành chữ.

3.

Cả bài thơ, có thể đọc, như 1 ứng tác, une improvisation, 1 giai điệu lên xuống, gia giảm, une variation… [của] 1 lời nhạc của TCS, 1 lời thơ của Byron, và của Baudelaire (1)

NQT

(1)

She walks in beauty, like the night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm 

Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối, tall, dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối, và cứ thế, cứ thế. 

Tưởng tượng đẩy tưởng tượng, câu "hót" BHD, thần sầu, "không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu của TCS, trong Phôi Pha:

Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.

BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập vào với đêm, y chang lời nhạc của TCS mô tả, những lần "bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
*
Ui chao, GNV bữa nay, lôi bài viết của Borges đọc lại, mới khám phá ra 1 cái lỗi trầm trọng, là bỏ qua cái ‘tiểu chú’ của ông:

Baudelaire writes, in "Recueillement":
"Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Soure


*

The Gift

"Thiên tài" Brodsky: Những hạnh của bất hạnh
Joseph Brodsky and the fortunes of misfortune.


Kundera en Pléiade

*

Milan Kundera, à Prague, dans les années 1970. L'écrivain a su rappeler que l'Europe centrale était cet espace où une « autre modernité» avait eu lieu. ©AFP

*

L'EUROPE RÊVÉE DE KUNDERA

Âu Châu trong mơ của Kundera

L'écrivain tchèque entre ce mois-ci dans la Pléiade. Installé en France depuis 1975, Milan Kundera est partout célébré pour avoir ressuscité une Europe centrale dont l'identité avait été annihilée par la logique bipolaire. Mais sa vision de l'histoire est idéalisée. 

VACLAV BELOHRADSKY. Literarni Noviny.

L’idée d'Europe centrale aura été le premier grand thème lancé par Milan Kunndera, avec un succès surprenant. Avant que l'écrivain tchèque ne s'en mêle, les éditeurs de l'Ouest traitaient les œuvres issues de la région comme de simples témoignages sur le communisme, pas nécessairement d'une grande importance littéraire, mais que le « monde libre » se faisait un devoir moral de publier.

Note: Đây là 1 bài viết lạ, và hay, về Kundera, từ 1 tác giả ở quê hương của ông.


Hoàng Đế Cởi Truồng thắng Man Booker 2011

Philip Roth more than deserves his Booker

Carmen Callil's dissent from her fellow judges' decision says more about her than this master writer


VN War & AP & UPI


Chứng Từ TTT 

Bài viết này, TV đã nhắc tới, và hình như có post lại, nhưng chưa kiếm ra.
Tuy nhiên, ngay khi bài viết xuất hiện trên net, của 1 tác giả [1 tay sưu tầm ở trong nước, hình như đăng trên phongdiep website, GNV này đã đặt câu hỏi, tại sao không cho biết nguồn].
Lý do là, có rất nhiều câu chắc là không phải do TTT viết.

Thí dụ:

54.  Văn chương cũng chỉ là cuộc trò chuyện, mỗi ngày mỗi hư hỏng vì sự nảy nở của cá nhân (Mỗi ý thức đều muốn sát hại ý thức khác – Hegel).

Câu của Hegel: Ý thức đuổi theo cái chết của ý thức.
Chaque conscience poursuit la mort de l'autre.
Simone de Beauvoir trích dẫn, làm đề từ cho cuốn Nữ Khách, (L'invitée), của bà.

Ý nghĩa của từ "salaud" của Sartre, như trong bài viết diễn tả, không đúng ý của Sartre.
Đây là do tam sao thất bản.
Có thể. NQT

**

Vào lúc mà tôi nói, hữu phái, thì với tôi, có nghĩa là, đám xà lù.


Hanoi Saigon 2002

*

Cái hình chửi bố bài viết sau đây. Bởi vì cái thằng sĩ quan VNCH/DTL chính là thằng Ngụy mà anh hùng Chu Cẩm Phong giết hụt!

Sao chỉ có một Nhà văn Anh hùng Chu Cẩm Phong?

Được đăng bởi nguyentrongtao vào lúc: 5:05 sáng ngày 16/05/2011

Một khi còn khoe khoang chiến công, là làm nhục cả nước Mít, vì chính những chiến công đó đã đẻ ra cái nước Mít VC băng hoại như hiện nay, được cầm quyền bởi một bọn mafia.

Ở mọi nước CS như Liên Xô, như TQ, như VN, đều có cùng 1 hậu quả như vậy.

Thật tội nghiệp cho ông bạn thi sĩ, cựu sĩ quan Tâm Lý Chiến VNCH của Gấu.

Một mặt, tên thi sĩ VC ôm hôn thắm thiết DTL, thì thầm vô tai, cầu cho đừng có 1 ngày 30 Tháng Tư nào nữa, một mặt hắn la làng:
Tại làm sao chỉ có 1 thi sĩ, nhà văn anh hùng, dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, là Chu Cẩm Phong?

TTT có hai cú tiên tri thần sầu về cuộc chiến.

Một, khi nó sắp sửa chấm dứt, và, tưởng tượng ra cái tay bạn của ông, ở trong Bếp Lửa, bỏ đất Bắc ra đi,

“Tâm ơi, Thế là tao đi rồi. Không hiểu sao tao cứ đinh ninh mày sẽ xuống gặp tao. Nghĩ rằng mặt mày sẽ ngơ ngác như chú chim chích trong rừng sao tao khoái làm vậy.
Còi tầu đã rúc, khói tầu đã nhả, sóng biển đã vỗ và hồn đây căng buồm.
Còn bao giờ tao trở lại mảnh đất này không?
Không biết, mặc.

và khi nghe tin cuộc chiến sắp sửa "đi vào lịch sử, trở thành đỉnh cao thời đại", "không có tớ ở trong đó", bèn vội vã trở về, để chết lãng nhách, như Trung Uý Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác:

Ông đã nhủ lòng thương hại lũ khốn kiếp là đám tinh anh Miền Nam, cho 1 tên đại diện, kịp trở về, để hưởng 1 cái chết đẹp đẽ đến như thế đấy:

Một Trung Uý VNCH, đang nằm trong nhà thương, nửa đêm bò dậy, đi lang thang ra rừng thông Đà Lạt, và bị đơn vị tuần tiễu bắn chết, vì lầm là VC.

Và một, là câu nhắn gửi lại thằng em, trước khi trở về quê hương của ông, và của thằng em, như 1 tên tù cải tạo:

Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!

Ông không nghĩ xa hơn [không dám nghĩ xa hơn, đúng hơn]:
Cả nước bị nhận chìm vào Cái Ác Bắc Kít.

Tên thi sĩ VC, nếu hắn còn 1 chút lương tri, thì làm sao mà có thể la làng, sao chỉ có 1 nhà văn anh hùng được dân Mít đời đời nhớ ơn.

Đến ngay ông Trùm văn học của hắn, là NN, người đẻ ra anh hùng Núp, mà còn phải bỏ chạy đứa con thân yêu của ông, [“tớ” quá sợ anh hùng rồi!], nữa là thứ anh “nhô nhi nhô” này.

Nhìn hình, sao thấy “thươn” bạn Gấu quá!
*

Sự việc Giáo sư Ngô Bảo Châu đóng blog của ông có lẽ cũng nằm trong sự đe doạ của Hà Nội liên quan đến những phát biểu chính trị của ông về Luật sư Cù Huy Hà Vũ. Vì uy tín quốc tế của giáo sư mà Hà Nội không thể sách nhiễu hay bắt giam ông.

Hy vọng Giáo sư Ngô Bảo Châu chỉ tạm dừng để suy nghĩ một thời gian ngắn rồi sẽ mở lại cổng thông tin và tiếp tục giao tiếp, chia sẻ những kiến thức chuyên môn và suy tư về đất nước với những người đã trân quí ông qua phát biểu đầy dũng khí của một trí thức: ''Bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do.''

Bùi Văn Phú

Theo GNV, cơ may của thiên tài Toán NBC, qua rồi.
Trường hợp NBC làm Gấu nhớ đến thiên tài Sakharov, cha đẻ bom nguyên tử của Nga.

TV tính dịch bài viết ngắn về Sakharov, mà cứ lu bu đủ thứ chuyện làm xàm hoài.

Nhân đây, dịch, và lèm bèm tiếp, về NBC và những đấng tinh anh Bắc Kít, những con người suy nghĩ, chỉ với 1 nửa bộ óc:

Chúng không hề biết đến số phận lũ Ngụy và Miền Nam trước 1975. 

Nhân Gió-O 10 năm

Trong tự vựng của những nhà phê bình, từ "tiền thân" (precursor) không thể thiếu được, nhưng nên tháo gỡ mọi trò luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó.

Borges: Những tiền thân của Kafka.

Câu văn trên đúng là cái chìa khóa mở ra cõi văn của bất cứ 1 ai, mơ đến chết đi được, viết 1 cái văn, 1 cái thơ.
Và trở thành nhà văn

 “Không thể thiếu cái chữ Thầy trong ngữ vựng của phê bình gia”.
“Mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó”.

Hai câu của Borges, chẳng đúng là hai búa TGK, mà TTT biểu thằng em:

Viết văn là phải có Thầy. Hãy đọc, đọc, đọc, và đọc… cho tới khi nào mày kiếm ra Thầy của mày. 

Sở dĩ cõi văn Mít ngắn cũn, cụt thun lủn, về già Gấu nhận ra, là:

Viết hết thời thanh xuân là hết. TTT

Sở dĩ như thế, vì:
Không chịu đọc, đủ, để kiếm ra Thầy của mình.
Nhưng, Thầy là ai?
Thầy của bạn, chính là bạn đấy.

Khi Faulkner ngưng viết, một phần là vì ông tin rằng, đã có người tiếp tục viết, như ông, và sẽ còn đi xa hơn ông.  

Trong đời viết và đọc, và chửi thiên hạ, Gấu gặp 1 số nhà văn Mít, rất bảnh, ở những tác phẩm đầu tay, và cứ thế tàn lụi dần, vì nhiều nguyên do, nhưng nguyên do tởm nhất, là bận đóng vai nhà văn. Hay, đóng vai nhà phê bình, xoa đầu thiên hạ, nâng bi đàn anh theo cái kiểu "anh anh tui tui", và, ban phát thiên tài cho nhân loại.

Ngay cả ở 1 dấng thật bảnh như PCT, cũng bị tẩu hỏa nhập ma, bị mù mắt, vì hào quang này. Nhưng ở PCT, lý do sâu thẳm hơn, là, ông không có lấy 1 ngày lính. Trong 1 bài phỏng vấn ông, đăng lại trên Hậu Vệ, ông cho biết rất tởm xứ Mít, bỏ đi Tây, nhưng ở Tây, ông nhớ xứ Mít, lại bò về.
Theo GNV, ông bò về [đọc Gió O, bài viết của Thi Vũ] danh vọng đầy mình, và chết vì thế.
Và sở dĩ, ông mò về, là vì Phật Giáo bảo lãnh cho ông. Nguyễn Văn Trung nói đúng, PCT cũng là 1 thứ trốn lính.

Như Nguyễn Văn Trung!

Cuộc chiến VN khủng khiếp đến cỡ, ai dám đương đầu với nó, là bị nó làm thịt. Với ý này, GNV đã từng viết về Nguyễn Thi, nhà văn VC, tác giả Người Mẹ Cầm Súng, thí dụ. Sở dĩ đám VC nhà văn, sau cuộc chiến, chẳng có ai viết ra hồn, cũng là vì lý do đó. Nguyễn Khải, tưởng đây là dịp đổi đời, sau 30 Tháng Tư, viết ào ào, Thời Gian Của Người, Vòng Sóng Đến Vô Cùng, Gặp Gỡ Cuối Năm…  nhưng ông cuối cùng nhận ra, nhảm cả, “thời lẫm liệt” của ông qua rồi, thế là hu hu đi tìm cái tôi đã mất!

Nhưng, ai bỏ chạy nó, là suốt đời bị nội thương trầm trọng, và đều trở thành 1 thứ cô hồn, như đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC: Có đứa nào làm được cái gì ra hồn đâu?
Đâu phải chỉ VC cấm chúng về, như “người của chúng ta ở Paris", nhưng chính chúng cấm chúng về.

Về để nhìn một đất nước tan hoang, trong có phần đóng góp lớn lao của tụi chúng ư?

Đám nhà văn Trung Kít thời kỳ chiến tranh Việt Nam, đa số lâm vào tình trạng, vừa mới lóe lên, vừa được ông TPG báo Văn đăng, chỉ 1 cái truyện ngắn, 1 bài thơ, thế là cả đám kéo nhau ra quán cà phê xưng tụng lẫn nhau, tao là nhà văn, nhà thơ rồi!

Bậc Thầy vĩ đại nhất của cả đám, là Võ Phiến, nhưng có đấng nào nhìn ra đâu, và nhìn ra rồi, cũng chưa yên thân, phải vượt Thầy, làm thịt Thầy, mới có cơ may thành nhà văn!
*

Thiên tài Mít NTHL, hơn thiên tài cũng Mít, Nguyễn Du, theo bà Huệ, là do, NTHL cứa vào đời bằng con dao Mít, còn Nguyễn Du, "mượn" con dao của Tầu Lạ.

Tưởng chuyện đùa, nhưng đây chính là đề tài của một bài viết, một cái còm, commentary, "Tính cá nhân của giải thưởng Nobel; những nghịch lý về “văn chương thế giới’", của Tim Parks. TLS April 22, 2011.

The Nobel individual

Paradoxes of 'international literature' 

A novelist is not famous today unless internationally famous, not recognized unless recognized everywhere. Even the recognition extended to him in his home country is significantly increased if he is recognized abroad. The smaller the country he lives in, the less important his language on the international scene, the more this is the case. So if for the moment the phenomenon is only vaguely felt Anglophile cultures, it is a formidable reality in countries like Holland or Italy. The inevitable result is that many writers, consciously or otherwise, have begun to think of their audience as international rather than national.

Một tiểu thuyết gia, vào những ngày này, thì không nổi tiếng nếu không nổi tiếng thế giới, thì không được nhìn nhận nếu không được nhìn nhận ở mọi nơi.
Mít VC, một khi được hải ngoại, quốc tế nhìn nhận, thì thế giá ở quê hương càng thêm thơm mùi mắm tôm!
NHT hả?  Có tên trong danh sách chót của Man Booker đấy nhe!



Russia: Miền Đông Hoang Dã

Raymond Carver

Enright on Carver

I often ask students to read "Fat" because it also seems to talk about what a story is. A story is something told – as the waitress tells her friend Rita about the fat man – it is something that really needs to be said. But though we feel its force and resonance, it is often hard to say what a story means. The most we can say, perhaps, is that a short story is about a moment in life; and that, after this moment, we realize something has changed.

Tôi [Enright], thường biểu sinh viên của tôi đọc “Fat” [Phì Lũ], vì có gì đó ở trong đó, về, một câu chuyện là gì. Một câu chuyện là một điều gì đó được kể ra – như cô bồi bàn kể cho cô bạn Rita, về ông khách mập – đó là một điều thực sự cần nói ra, kể ra. Nhưng, mặc dù chúng ta cảm thấy, sức mạnh của nó, sự rộn ràng, âm hưởng tràn trề của nó, nhưng thường ra, thật khó mà nói, một câu chuyện nghĩa là gì. Bảnh nhất mà chúng ta có thể nói, một truyện ngắn là về một khoảnh khắc trong cuộc sống; và, sau khoảnh khắc đó, chúng ta nhận ra, một điều gì đã thay đổi.