*





*

Saigon 1965: Hình này thật tuyệt, có đủ cả, nào taxi, mobylette, xích lô máy.
Gấu ăn mìn VC 1965

Con Bọ của Kafka và chiến tranh Việt Nam

Chúng ta đều biết hình dáng con bọ khủng khiếp, hoá thân của một ông VC thực tình tin vào Đảng, ngay sau ngày 30 Tháng Tư. Nhưng ngay cả Kafka cũng không thể nào tưởng tượng ra nổi con bọ của ông. Ông không bao giờ muốn hình dạng của nó được phô bầy ra trước độc giả.
Flaubert đã từng muốn văng tục, khi nhà xb muốn một cuốn sách của ông có hình minh họa. "Minh họa là phản văn chương". "Thà chết còn hơn là minh họa" [Vous voulez que le premier imbécile venu dessine ce que je me suis tué à ne pas montrer ? Marthe Robert: Livre de lectures]. Kafka đành phải chấp nhận bìa cuốn Hoá Thân có hình, nhưng năn nỉ [Marthe Robert dùng chữ supplier] nhà xb, bằng mọi cách, không được trương hình con bọ ở ngoài bìa. "Gì cũng được, nhưng chuyện này nhất định không" ["Surtout pas cela, surtout pas cela!"], ông khiếp hãi trước một chuyện thô bỉ như thế, trong thư gửi nhà xb. Cuối cùng, độc giả có một con bọ Gregor vẫn còn mang dạng người, đứng trơ cu lơ một mình, trong một căn phòng trần trụi, quay lưng về phiá một cái cửa hé mở, trên một cái nền đen, tay ôm đầu.
Gấu tui có đọc báo trong nước ở trên lưới [tờ Người Lao Động thì phải], câu chuyện một nữ cán bộ, trong lúc mệt nhọc vì công chuyện, bật cái máy TV nghỉ xả hơi, và một giọng nói vùng địa phương của bà khiến bà chăm chú theo dõi, câu chuyện một bà, suốt từ 30 Tháng Tư, đi khắp một nửa đất nước, tìm hài cốt chồng. Bà đau lòng nghĩ, mình may mắn hơn, mà sao thê lương quá. Bởi vì chồng bà có về, nhưng đã biến thành một... con bọ. Đúng lúc đó, con bọ bò về nhà, sặc sụa mùi rượu Tây, mùi nước hoa nữ loại thượng hảo hạng...

Ai điếu Samsa


Thành quả 30 Tháng Tư 1975-2011

danlambao -

Như đã đưa tin về trường hợp Blogger Thiên Sầu (Ngô Thanh Tú) nghi bị "mất tích" từ sáng ngày 25/04 đến nay. Theo tin tức mới nhất, blogger này hiện vẫn đang bị CA giam giữ một cách trái phép tại số 4, Phan Đăng Lưu (Bình Thạnh)

Một cuộc chiến kéo theo một cuộc bỏ chạy quê hương khủng khiếp đến như thế, cuối cùng cả một đất nước, cả một dân tộc vào tay một lũ vô lại, vô học, bất nhân…

**


Whoever wishes to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in forgetting absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice Blanchot

Người nào mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.

Người ta biết rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó mà .

K


I seek the crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre Malraux

Tôi tìm vùng chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ

Gấu mua cuốn trên lâu lắm rồi, từ cái hồi còn cái tiệm Britnell nổi tiếng nhất, lâu đời nhất, của Toronto, kế bên thư viện hách nhất thành phố, Toronto Reference Library, cũng là thư viện đầu tiên Gấu tới thăm, liền sau khi tái định cư một, hai bữa, khi còn ở trung tâm tiếp nhận người tị nạn, nơi gặp lại cô bạn lần đầu tiên, sau bao ngày xa cách, kể từ khi cô lấy chồng, thì cứ nói như thế cho tiện việc sổ sách.

Văn chương hay Cuộc đời. Bị cái tít, như “tường lửa ngăn chặn”, Gấu cứ nghĩ đây là 1 cuốn tiểu luận, cho đến bữa nay, tình cờ vớ được nó, trong đống sách ngổn ngang do dọn nhà, giở ra đọc, quá tuyệt, vì được viết theo cái kiểu hồi tưởng, giai thoại, về những ngày ở Lò Thiêu.

Chương 9, "Ô Saisons, Ô Châtaux.." viết về Milena, và Thư gửi Milena, của Kafka, đọc thật cảm động. Có thể nói, chương nào cũng như thế. Cứ như thể, đây là món quà của 30 Tháng Tư năm nay, của bao nhiêu người đã chết, gửi nhắn lại.

Sự run rủi tuyệt vời từ đó phát sinh kỷ niệm.

Tks. NQT

* *
Lần Cuối Sài Gòn

30.4.2010

09

05

thuyen_nhan

bateau

1979: Ba triết gia Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc họp báo "Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].
[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số đặc biệt 1966-1996: La passion des idées, đam mê tư tưởng.]

victim

Về phía những nạn nhân
Chiến dịch "Một con tầu cho Việt Nam" huy động một số những nhà trí thức, trong có Sartre, Aron và Glucksmann, vượt lên khỏi những ý thức hệ, và những bản kẽm cũ mèm về chính trị, một bài học tuyệt vời về đạo đức.
Bernard Kouchner [người thành lập hội Y Sĩ Không Biên Giới]

Câu chuyện thời sự, một người cán chết người, phải ở tù mỗi năm một ngày, đúng cái ngày cán chết người, làm Hai Luá nhớ tới một câu chuyện kinh dị đọc từ hồi còn nhỏ, của Hoffmann, và khủng khiếp hơn nữa, là cứ hơi bị liên tưởng đến ngày 30 Tháng Tư.
Câu chuyện của Hoffmann, như Hai Lúa còn nhớ được đại khái như sau.
Một anh chàng xa quê hương quá lâu, bèn về. Tới làng, thì đã đêm, bèn trọ lại ở quán nước đầu làng. Ở đây, anh ta chú ý tới một ông khách lạ dáng vẻ hết sức bồn chồn, tay đeo một chiếc nhẫn chạm nổi hình một chiếc xe ngựa, bốn con ngựa dáng thật hung hãn, đang phi nước đại.

Sau hồi làm quen, ông khách cho biết, ông là chủ chiếc xe ngựa được khắc trên mặt chiếc nhẫn, và đây là một kiệt tác của một thợ nổi tiếng tại làng này, cách đây năm trăm năm. Ông khách lạ là vị lãnh chúa của vùng này. Mê xe ngựa, mê cho xe chạy như điên trên đường làng, và một lần, đã cán chết đứa con gái nhỏ của ông thợ.
Quá đau đớn, và cũng để trả thù cho đứa con, người thợ này cặm cụi khắc chiếc xe ngựa lên chiếc nhẫn, và nguyền: Mi mê phóng ngựa, thì ta cho phóng ngựa. Cứ mỗi năm, đúng vào ngày mi cán con ta, mi sẽ phải trở về đây, cưỡi chiếc xe này, phóng vòng đua này, rồi sau đó, đi lang lang như người Do Thái phạm tội giết Chúa, đến ngày đến tháng lại trở về.
Khi vòng đua cuối cùng của năm trăm năm được thực hiện, chiếc xe ngựa trên chiếc nhẫn mà ông khách trao tặng anh chàng kể chuyện này, cứ thế mờ dần, và biến mất.
Nhân câu chuyện thời sự, Hai Lúa bỗng nhớ lại câu chuyện ma quái trên, và cứ tưởng tượng một cách thật là ma quái rằng thì là có một dân tộc bị lời nguyền, cứ đến ngày 30 Tháng Tư, là lại diễn lại cái tuồng cuộc chiến 30 năm mới có ngày 30 Tháng Tư này, vui sao nước mắt lại trào?
*
Này coi chừng, bị tẩu hỏa nhập ma đấy, cha nội!
Hai Lúa lại bỗng nhớ đến một lời cảnh cáo của một độc giả Tin Văn.
*
Thư độc giả
Lần này thì không kêu lên “Coi chừng bị THNM”, mà gật gù đồng ý, rằng đúng như thế, dân tộc kia rõ ràng là bị một lời nguyền độc địa, khiến mỗi lần chỉ nghe nói đến 30 Tháng Tư là đã rợn cả người, không biết nên quên hay nên nhớ.
Chao ôi, chẳng lẽ chúng ta cũng bị một ông thợ rèn nào đó trù yểm, một ngàn năm nô lệ chú Chệt, một trăm năm nô lệ thằng Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày, và năm trăm năm sau vẫn còn lang thang chờ khóc một 30-4?
K.
Nguồn


Tin Văn tưởng niệm 30 Tháng Tư năm 2009 bằng cách đọc
Thượng Đế đã chết trong thành phố của Malaparte.
“La Peau”de Malaparte
**


Whoever wishes to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in forgetting absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice Blanchot

Người nào mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.

Người ta biết rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó mà .

K


I seek the crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre Malraux

Tôi tìm vùng chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ

Gấu mua cuốn trên lâu lắm rồi, từ cái hồi còn cái tiệm Britnell nổi tiếng nhất, lâu đời nhất, của Toronto, kế bên thư viện hách nhất thành phố, Toronto Reference Library, cũng là thư viện đầu tiên Gấu tới thăm, liền sau khi tái định cư một, hai bữa, khi còn ở trung tâm tiếp nhận người tị nạn, nơi gặp lại cô bạn lần đầu tiên, sau bao ngày xa cách, kể từ khi cô lấy chồng, thì cứ nói như thế cho tiện việc sổ sách.

Văn chương hay Cuộc đời. Bị cái tít, như “tường lửa ngăn chặn”, Gấu cứ nghĩ đây là 1 cuốn tiểu luận, cho đến bữa nay, tình cờ vớ được nó, trong đống sách ngổn ngang do dọn nhà, giở ra đọc, quá tuyệt, vì được viết theo cái kiểu hồi tưởng, giai thoại, về những ngày ở Lò Thiêu.

Chương 9, "Ô Saisons, Ô Châtaux.." viết về Milena, và Thư gửi Milena, của Kafka, đọc thật cảm động. Có thể nói, chương nào cũng như thế. Cứ như thể, đây là món quà của 30 Tháng Tư năm nay, của bao nhiêu người đã chết, gửi nhắn lại.

Sự run rủi tuyệt vời từ đó phát sinh kỷ niệm.

Tks. NQT

Cũng vớ được số Granta, Bad Company, Summer 2002, trong có bài của Kundera, Cuộc Trở Về Vĩ Ðại. Bài này mà có thì giờ dịch tặng nhà văn Mít lưu vong, “vĩ đại trở về”, khóc rưng rức khi nhìn hai lỗ đạn Tây mũi lõ để lại trên thân thể Hà Nội, thì thật tuyệt!

*

*

1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và Cao Bồi, PXA, bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng Givral, coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!

Bây giờ là đầu tháng Tư. Người Việt nào ở hải ngoại cũng như đang lên cơn sốt, một cơn sốt lây lan ra từ bang nọ đến bang kia, từ quốc gia này sang quốc gia khác, không có thuốc chủng nào ngăn được.
Những cánh rừng

Nhà văn lớn là người kết hôn với đất nước của họ.
Và câu này, cũng đã được tôi sử dụng, khi đọc Nhất Linh. Mối tình lớn của Nhất Linh với Miền Bắc, bật ra, khi ông, trong nhân vật thế thân của mình, là Dũng, buổi trưa hè "ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung" đó, đó, vô tình nhìn thấy cái áo cánh trắng bên vườn hàng xóm, tự hỏi, của ai đấy nhỉ, và chợt nhớ ra là nghỉ hè, và Loan đi học ở tỉnh trở về nhà.

Nhưng với TMT, còn hơn thế nữa. Bà chỉ có thể kết hôn với ngôn ngữ, bởi vì quê hương của bà không còn.

Đây cũng là điều Brodsky nói ra, khi được hỏi, và ông trả lời, tôi hết còn tin vào cái xứ sở đó.

Nhưng, khác Brodsky, những người như TMT, họ chứng kiến cái giây phút hấp hối của xứ sở, khi ngoái nhìn lại, những ngày 30 Tháng Tư 1975. Kinh nghiệm này, Kundera cũng đã từng sống vào năm 1968, khi Liên Xô xâm lăng xứ sở của ông, và ông bảo, nó đau như là một trận cháy nhà. [Trong Le Rideau, Bức Màn]

 
Nhà văn người Nhật Kawabata, Nobel văn chương 1968, trong bài mở đầu tập truyện "Những truyện ngắn ở trong lòng bàn tay", viết: Những người viết, khi trẻ thường làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ, viết những truyện trong lòng bàn tay.... Tinh thần thi ca những ngày trẻ thơ của tôi sống mãi ở trong chúng".

  Biển, của Miêng cũng thuộc loại truyện lòng tay. Đọc, tôi nghĩ, ngoài tinh thần thi ca ra, còn có những giọt nước cam lồ nhỏ xuống cho cả một thế hệ: một người đàn bà khóc thương một người đàn ông mất trí nằm trong bệnh viện và trong những giờ phút cuối cùng, người đàn ông lầm vị nữ bồ tát với người vợ đã chết, cùng với con cái, trong lần vượt biển.

 Lầm lẫn, có lẽ không phải như vậy. Hoặc đây là giá trị biểu kiến của truyện. Trong cuốn Chữ và Vật, Michel Foucault cho rằng người điên, hay Kẻ Khác (l'Autre), là một người nhìn tất cả sự vật đều giống nhau, khác với người bình thường, hay Kẻ Vẫn Thế (le Même). Cũng trong cuốn sách, ông cho rằng tự tử là phán đoán sáng suốt cuối cùng của một con người bình thường. 

  Nếu chúng ta chấp nhận hành động vượt biển như là phán đoán sáng suốt sau cùng, như vậy người đàn ông sống sót trong khi vợ con chết hết, đã thực sự tin rằng người đàn bà đang nhỏ lệ là vợ của ông. Cũng tương tự như vậy - và đây là ý nghĩa đích thực của truyện ngắn theo tôi - "sự thực" xuất hiện, khi người đàn bà gọi điện thoại cho chồng: "... Xong rồi anh ạ... trong tay em".

  Camus có truyện ngắn "Người đàn bà ngoại tình", câu chuyện về một người đàn bà, đêm đêm, sau khi làm xong hết bổn phận của người vợ, trong cuộc lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén thoát ra ngoài, để ngắm trời ngắm sao... Đây là một đề tài lớn của dòng văn chương hiện sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện ngắn "Before the Law", của Kafka.

  Đây là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.

  Trong truyện ngắn Evelyne của James Joyce, trong tập "Những người dân thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có đủ điều kiện để đưa cô gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng tới giờ phút chót, cô gái quyết định "ở lại".

  Truyện ngắn Biển, của Miêng, bằng những tình cảm độ lượng thoát thai từ tinh thần Phật giáo, theo tôi, đã đưa ra một đề nghị chót cho vấn nạn người đàn bà ngoại tình. Bằng hành động "trong tay em", người đàn bà đã vượt quá "Luật Pháp", ôm cả hai cuộc đời, bên trong và bên ngoài cánh cửa (lưu đầy và quê nhà?), nhập làm một.

Linh Hồn Của Biển

Bài đọc Biển của Miêng, Gấu đọc lại, và thấy khác hẳn, bản được in trong Lần Cuối Sài Gòn, và đoạn viết về TMT, mất tiêu luôn.
Scan lại ở đây, toàn bài viết, như được in trên giấy.

*

*

Bài đọc sách này, được đăng trên Văn Học của NMG, và ông chủ chi địa, chắc cũng ngại sau cái cú "cái tai người", bèn "hiệu đính" cụm từ “nữ bồ tát”, và thay bằng vị “nữ tu”!

Trong bài điểm có nhắc tới câu của Adorno, khiến VD, nhà văn hàng đầu hải ngoại bực, phán, tay này “vung tay quá trán”, chứng cớ sau Lò Thiêu vẫn có Ðêm Tận Thất Thanh, một đóa kỳ hoa dị thảo, của PNN! (1)

(1)

GNV là người đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn một" tác giả mũi lõ, đa số họ, GNV biết tới, là nhờ đọc tờ Partisan Review. [Kundera, Gấu cũng là thằng đầu tiên giới thiệu, khi giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].

Kỷ niệm thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số đó, là, lần giới thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau Auschzitz thì thật là dã man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán, thằng cha Adorno này là ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò Thiêu vẫn có thơ, và đó là thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất thanh! (2)

Tuy nhiên, không chỉ một Võ Đình bực vì câu nói của thằng cha Adorno. Czeslaw Milosz cũng nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn của thế giới’, ông cho biết, chính là vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba Lan, ông làm được thơ, và thơ cũng không tệ.
Cái tác phẩm của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra được, A lost master of the Holocaust, chính là tác phẩm được viết khi tác giả của nó ở… Lò Thiêu!

(2)
Đêm Tận Thất Thanh.

Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết: "... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì thật là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.

Tôi chưa từng được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm bàn rông rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?  Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc, thối um"?
Đêm Tận Thất Thanh  là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình

Trên đây trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà Nguyễn Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA Oct/28/2003.
PNN ký tên.


LEAVES

khô vì đợi chờ,
Cũng như hồn mình quá âm u

Nhại lời nhạc TCS

Lovers who take pleasure
In the company of trees,
Who seek diversion after many kisses
In each other's arms,
Watching the leaves,

The way they quiver
At the slightest breath of wind,
The way they thrill,
And shudder almost individually;
One of them beginning to shake
While the others are still quiet,
Unaccountably; unreasonably-

What am I saying?
One leaf in a million more fearful,
More happy;
Than all the others?

On this oak tree casting
Such deep shade,
And my lids closing sleepily
With that one leaf twittering
Now darkly; now luminously.


Những cặp tình nhân
Thích có cây cối cùng với họ
Tìm sự giải trí sau nhiều cái hôn
Tay trong tay,
Họ ngắm lá.

Cái cách lá run lên
Trước một tí gió
Cách lá rên lên
Rất ư là mình ên;
Một cánh lá bắt đầu lay động
Trong khi những lá khác vẫn im lặng,
Không tính đếm, không tra hỏi -

Tôi đang tính nói gì nhỉ?
Một cánh lá, thì hàng triệu lần
sợ hãi,
hạnh phúc
hơn những lá khác?

Trong khi cây sồi này
Tỏa bóng dầy đến như thế đấy
Thì đôi mi tôi bắt đầu khép lại
Trong giấc mơ đầy
Với một cánh lá
B
ồn chồn
Lúc thì âm u
Lúc thì tỏa sáng

 

HOTEL INSOMNIA

I liked my little hole,
Its window facing a brick wall.
Next door there was a piano.
A few evenings a month
A crippled old man came to play
"My Blue Heaven."

Mostly, though, it was quiet.
Each room with its spider in heavy overcoat
Catching his fly with a web
Of cigarette smoke and revery.
So dark,
I could not see my face in the shaving mirror.

At 5 A.M. the sound of bare feet upstairs.
The "Gypsy" fortune-teller,
Whose storefront is on the corner,
Going to pee after a night of love.
Once, too, the sound of a child sobbing.
So near it was, I thought
For a moment, I was sobbing myself.

Charles Simic

Khách sạn “Mat Ngu” (1)

Tôi thích cái lỗ nhỏ của mình
Cửa sổ của nó nhìn ra một bức tường gạch
Cửa kế bên có cái đàn dương cầm
Vài buổi chiều mỗi tháng
Có ông già què tới chơi bản
“Thiên Đàng Xanh của tôi”

Ngoài ra, hoàn toàn im ắng
Phòng nào có nhện của phòng đó
Trong chiếc áo choàng nặng nề
Bắt ruồi bằng một tấm lưới
Dệt bằng khói thuốc và cơn mộng
Tối thui,
Tôi không thể nhìn thấy mặt mình trong chiếc gương cạo râu

5 giờ sáng, có tiếng chân trần lên cầu thang
Cô gái xem bói người “bô hê miêng”
Có tiệm ở góc khách sạn
Đi đái, sau một đêm làm tình.
Một lần, có tiếng nức nở của một đứa bé.
Quá gần
Trong 1 thoáng
Tôi nghĩ
Hay là chính mình đang khóc?

(1)

Một lần khi còn viết cho Chợ Cá, Gấu mail, hỏi tên 1 bài viết của HPNT về TD.
SCN trả lời, Doi Thoai Mat Ngu

Gấu mail hỏi lại:

Đối thoại,
Mặt Ngu?
Mật Ngữ?
Mất Ngủ?


*

**

Nai cao gót lẫn trong mù

Note: Theo bạn 'lẫn' hay 'lẩn'?
Từ nào hay hơn?


Gấu cũng gặp đúng vấn nạn này, trong Biển:

Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...

Simic: Selected Poems

THE DEVILS

You were a 'victim of semiromantic anarchism
In its most irrational form.'
I was 'ill at ease in an ambiguous world 

Deserted by Providence.' We drank wine
And made love in the afternoon.
The neighbors' TVS were tuned to soap operas.

The unhappy couples spoke little.
There were interminable pauses.
Soft organ music. Someone coughing. 

'It's like Strindberg's Dream Play,' you said.
'What is?' I asked and got no reply.
I was watching a spider on the ceiling.

It was the kind St Veronica ate in her martyrdom.
'That woman subsisted on spiders only,'
I told the janitor when he came to fix the faucet.

He wore dirty overalls and a derby hat.
Once he had been an inmate of a notorious state institution.
'I'm no longer Jesus,' he informed us happily. 

He believed only in devils now.
'This building is full of them,' he confided.
One could see their horns and tails 

If one caught them in their baths.
'He's got Dark Ages on his brain,' you said.
'Who does?' I asked and got no reply.

The spider had the beginnings of a web
Over our heads. The world was quiet
Except when one of us took a sip of wine

Những Con Quỉ

Em là ‘nạn nhân của chủ nghĩa vô chính phủ nửa lãng mạn,
Trong cái hình thức phi lý nhất của nó.’
Còn anh thì ‘chẳng thích thú gì ở trong một thế giới hàm hồ

Bị Chúa bỏ rơi.’ Chúng tôi uống rượu vang
Và làm tình vào buổi chiều
TV hàng xóm thì đang chiếu chương trình soap operas.

Cặp tình nhân bất hạnh coi bộ ít nói
Có những khúc nghỉ kéo dài.
Nhạc organ nhẹ. Một người nào đó ho.

‘Thật giống như trong Kịch Mơ của Strindberg,’ em nói.
‘Cái gì?’ tôi hỏi, nhưng không nghe trả lời.
Tôi ngắm một con nhện ở trên trần nhà.

Giống St Veronica ăn, trong cái xen tuẫn nạn của bà.
‘Người đàn bà đó chỉ tồn tại nhờ mấy con nhện,’
Tôi nói với người coi nhà, khi ông ta tới để sửa cái vòi nước.

Ông ta mặc cái áo ngoài dơ dáy và đội một cái nón quả dưa.
Ông đã có thời ở trong nhà thương điên Biên Hòa nổi tiếng.
‘Tớ hết còn là Ðấng Cứu Thế,’ ông hoan hỉ thông báo hai đứa chúng tôi.

Ông bây giờ chỉ tin vào Quỉ Ðỏ.
‘Tòa biu đinh này thì đầy Quỉ Ðỏ,’ ông tâm sự.
Người ta có thể nhìn thấy sừng và đuôi của chúng

Nếu bắt gặp chúng trong nhà tắm.
‘Cái đầu ông ta thì chìm vào Thời Ðen Tối rồi,' em nói.
‘Ai chứ?’, tôi hỏi nhưng không nghe trả lời

Con nhện đang giăng tơ, khởi sự làm cái lưới
Ở trên đầu chúng tôi. Thế giới thì yên tĩnh
Ngoại trừ khi một trong hai đứa chơi 1 ngụm vang.



NBC [Toán] vs Thơ

NBC Nobel Toán

“Nhiều người nói rằng, phiên tòa tuyên bố “xử công khai” thực ra là một cái bẫy dụ người ta đến để rồi bắt giam.”
Võ Thị Hảo

Ðúng như thế. Cũng như thế, là đòn 10 ngày cải tạo, đánh lừa tất cả lũ sĩ quan Ngụy. Mười ngày phù du, xong, về, là xúm nhau xây dựng cái nhà Mít bằng trăm bằng ngàn trước đó.

“ Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này. ..Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ”!
NBC

Thể diện quốc gia đâu bằng lý do hiện hữu, không phải của quốc gia, không phải của chế độ, mà của cái giống người có tên là Mít.
Khi ăn cướp Miền Nam, lấy đi cái “giấc mộng thực” về 1 vòng tay lớn, là VC đã lấy đi cái lý do hiện hữu của người Việt.
Một Cù Huy Hà Vũ, làm sao so với cả 1 miền đất nước?
Ông NBC, bà VTH này, khi suy nghĩ, và viết ra, những gì liên quan đến đất nước, thì đều suy nghĩ, viết ra, bằng 1 nửa bộ óc. NQT

“Cái tay” Nobel Toán người Mít làm Gấu nhớ đến Shakarov, mà TV đã từng giới thiệu nhân đọc 1 bài viết về ông trong Quê Hương Tưởng Tượng của Rushdie. Ông Nga này rất yếu ớt, hơi tí là nhè, như Gấu còn nhớ được, nhưng khi đụng trận [bị lôi ra để đóng vai ngôn sứ, thiên sứ, thiên chức…], thì lại thật là dũng cảm. Ðể Gấu gõ Google, coi bài đó còn không, và tiện thể giới thiệu bài viết mới về ông mà TV hăm he dịch, nhưng vờ hoài.

Cái tít bài viết của NBC là cũng đầy ngụ ý. Ông tính chơi chữ. Thường thì đám ly khai sợ hãi bị vấp ngã, thí dụ như NBC, sợ, nên không dám đứng giữa Ba Ðình, nhìn về phía Xác Bác Hồ, Lăng Liên Xô, mà phán, dẹp chế độ, dẹp Cờ, dẹp Lăng, dẹp Bộ Lạc [cờ lăng, clan] Mít Ðỏ, Bắc Kít độc ác như rắn như rết, làm lại từ đầu, từ... cái khúc cuối Trăm Năm Cô Ðơn, cố kiếm ra 1 thằng bé Mít không đuôi.
Nhưng, ở đây, là đám VC sợ hãi cố bảo vệ chế độ, chứ không phải đám ‘rân chủ’ [chữ của đám VC trên net] sợ vấp ngã.

Nói về đám ly khai sợ "vấp ngã" [chữ của thi sĩ kiêm nghề cớm NTH], tờ Người Kinh Tế, khi tưởng niệm Solz, đi 1 đường thật là tuyệt.
Chép ra đây, để tặng đám suy tư bằng 1 nửa bộ óc.

“Vào thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu quả đáng sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí thức hạng nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử cho Liên Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự thực tuy vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải là sự sợ hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc, và địa vị mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là tà lọt trung thành của hệ thống Xô Viết.”
Nguồn

Câu trên, Hoàng Nguyễn, trên talawas, dịch chính xác hơn:
Dưới thời Xô-viết, để nói sự thật cần có lá gan lớn và chấp nhận những hậu quả đáng sợ. Đó là lý do tại sao những người đối kháng chỉ chiếm một thiểu số ít ỏi trong giới trí thức chính thức mà Liên bang Xô-viết tạo ra chủ yếu để xây dựng nền công nghệ nguyên tử. Ngày nay, nỗi sợ hãi không phải là yếu tố lớn nhất bịt miệng các trí thức tuy nói ra vẫn có thể bị nguy hiểm, chẳng hạn như vụ ám sát bà Anna Politkovskaya, một phóng viên điều tra, năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn đằng sau sự im lặng của nhiều người không phải là nỗi sợ mà là sự thèm muốn: thèm muốn tìm lại niềm hãnh diện và vị trí mà đa số trí thức Nga được hưởng với tư cách những nô bộc trung thành của hệ thống Xô-viết.
Tks. NQT

Về Sakharov

I conclude with some words of Leszek Kolakowski that, I am convinced, reflect Andrei Sakharov's view: "No victory is irreversible, no defeat is definitive. That is what makes life worth living."

The New York Review 13 Jan 2011

Note: Khi NBC được Nobel Toán, GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:

"Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".

Ui chao, mừng hụt! NQT

Sakharov by Rushdie

Tàn Dư của chủ nghĩa toàn trị
*

Người Việt Nam đã từng có thời kỳ cư xử trong sống – chết chả kém gì người Nhật hôm nay, đã từng được thế giới kính trọng. Đó là những năm tháng sống dưới bom đạn Mỹ “cho miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”. Báo chí nước ngoài đưa các phóng sự người Việt ung dung đàng hoàng, sáng tập thể dục, anh bộ đội trực chiến qua đêm đang đánh răng ở nhà máy nước vỉa hè gần nhà máy. Mọi người xếp hàng vào ăn phở “không người lái” (không có thịt). Không có trộm cắp, đi đêm tha hồ. Cửa nhà bỏ đấy đi sơ tán chẳng ai đụng vào. 

Vậy mà bây giờ có bao tính xấu, ông Vương Trí Nhàn nghiên cứu tính xấu đó thì bị “tấn công” đến bỏ dở cuộc phỏng vấn, và câu của ông được treo trên mạng “thói xấu nhất của người Việt là sợ nói về thói xấu của mình”…

Người viết bài này chắc chắn hiểu rõ lý do tại làm sao vẫn Bắc Kít , trước thì như... Trời, cả thế giới mong nằm mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành... Bắc Kít, thế mà sau... 30 Tháng Tư, quá Quỉ, cả thế giới gớm sợ.

Trước 30 Tháng Tư, Bắc Kít là Savior, Thiên Sứ, sau 30 Tháng Tư, Quỉ Sứ, Demon.

Liên Xô cũng bị cái họa này, theo D.M. Thomas, người viết cuốn tiểu sử của Solz.

*

Charles Simic

Selected Poems 1963-2003

Charles Simic is something of a magician, a conjuror. Out of nothing it seems, out of thin air, the poems appear before our eyes. One apparently casual observation leads to another, and suddenly, exponentially, we are spellbound. It is a trick many have tried to imitate but few have achieved. At the centre of Simic's art is a disarming, deadpan precision, which should never be mistaken for simplicity. Everything appears pared back to the solid and the essential, and it is this economy of vocabulary and clarity of diction which have made his poetry so portable and so influential wherever it is published. Simic is one of the few poets of our time to achieve both critical and popular acclaim; he is genuinely quotable, and it is entirely possible that some of his phrases and lines will lodge in the common memory. Without any hint of loftiness, then, and from a position which is entirely his own, Simic manages to speak to the many and not just the few.

Charles Simic có cái gì đó của một nhà ảo thuật. Dưng không, hay, từ lớp khí trời mỏng dính, những bài thơ của ông xuất hiện trước chúng ta. Một cú nhận xét bâng quơ dẫn tới một cú khác, và bất thình lình, như ngồi trong hỏa tiễn, chúng ta nghẹt thở vì thất thần, ngạc nhiên, sững sờ. Ðây là 1 tuyệt chiêu nhiều người bắt chước, nhưng ít người làm được. Ở trung tâm nghệ thuật của Simic, là sự chính xác khiến chúng ta đờ đẫn, bái phục, cởi giáp qui hàng. Và đừng bao giờ lầm lẫn nó với sự giản dị. Mọi điều xuất hiện là để tỉa gọt đưa về cái vững chãi, cái cơ bản, cái yếu tính, và cái sự kiệm từ, kiệm chữ, cái sự sáng sủa của câu phán, nó làm cho thơ của ông dễ dàng mang theo cùng với chúng ta và ảnh hưởng nhiều đến người đọc cho dù in ấn ở đâu. Simic là 1 trong số ít những nhà thơ của thời chúng ta được ca ngợi ở cả hai giới phê bình và bình dân; ông được trích dẫn một cách thật là nguyên thuỷ [không phải theo cái kiểu tam sao thất bản], và chuyện, một vài dòng thơ của ông dính chặt vào trí nhớ của chúng ta, những con người bình thường, là chuyện hoàn toàn có thể.
Chẳng 1 tí bầy đặt, không phách lối, kênh kiệu, và rồi thì, từ 1 vị trí hoàn toàn của riêng mình, thi sĩ lèm bèm với tất cả chúng ta, chứ không phải chỉ với một dúm người.


MY SHOES

Shoes, secret face of my inner life:
Two gaping toothless mouths,
Two partly decomposed animal skins
Smelling of mice nests.

My brother and sister who died at birth
Continuing their existence in you,
Guiding my life
Toward their incomprehensible innocence.

What use are books to me
When in you it is possible to read
The Gospel of my life on earth
And still beyond, of things to come?

I want to proclaim the religion
I have devised for your perfect humility
And the strange church I am building
With you as the altar.

Ascetic and maternal, you endure:

Kin to oxen, to Saints, to condemned men,
With your mute patience, forming
The only true likeness of myself.

Ðôi giầy của tôi  

Giầy, bộ mặt bí mật của cuộc đời bên trong của tôi :
Hai cái miệng không có răng, cách nhau một khoảng
Hai miếng da loài vật đã bị phân huỷ từng phần
Có mùi ổ chuột

Ông anh bà chị của tôi đã chết ngay khi ra đời
Vẫn tiếp tục sự hiện hữu ở trong bạn
Hướng dẫn cuộc đời của tôi
Về một sự ngây thơ trong sạch không làm sao hiểu được của họ

Sách thì dùng làm gì đối với tôi?
Một khi mà, ở nơi bạn, có thể đọc
Thánh Kinh của đời tôi ở trên mặt đất
Và, quá thế nữa, những điều chưa tới, chưa xẩy ra? 

Tôi muốn tuyên bố một tôn giáo
do tôi làm ra vì sự khiêm tốn tuyệt hảo của bạn,
Và một ngôi nhà thờ lạ kỳ tôi đang xây cất
Với bạn, là bàn thờ

Khổ hạnh, và mẫu tử, bạn như thế, đời đời
Bà con với dưỡng khi, với Thánh Thần, để kết án con người
với sự kiên nhẫn câm nín của bạn, tạo thành
cái thực giống độc nhất với cái tôi của tôi
 

 

PRODIGY

I grew up bent over
a chessboard.

I loved the word endgame.

All my cousins looked worried. 

It was a small house
near a Roman graveyard.
Planes and tanks
shook its windowpanes.

A retired professor of astronomy
taught me how to play. 

That must have been in 1944. 

In the set we were using,
the paint had almost chipped off
the black pieces. 

The white King was missing
and had to be substituted for. 

I'm told but do not believe
that that summer I witnessed men
hung from telephone poles. 

I remember my mother
blindfolding me a lot.
She had a way of tucking my head
suddenly under her overcoat. 

In chess, too, the professor told me,
the masters play blindfolded,
the great ones on several boards
at the same time.

Người Không Tầm Thường  (1)

Tôi lớn lên, trên
một cái bàn cờ

Tôi mê cái từ tàn cuộc

Tất cả bà con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng.

Ðó là 1 căn nhà nhỏ
ở gần một nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và xe tăng
lắc lắc mấy khung cửa sổ của nó

Một vị giáo sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi cờ

Hẳn là năm 1944

Bộ cờ của chúng tôi
Quân đen tróc sơn gần hết

Tướng trắng, mất
Phải thay bằng một mẩu gỗ

Tôi nghe kể nhưng không tin
rằng mùa hè năm đó, tôi chứng kiến những người đàn ông
treo trên những cột điện thoại

Tôi nhớ mẹ tôi đã bịt mắt tôi khá nhiều lần
Bà luôn luôn có cái cách của bà
bất thình lình cuốn đầu tôi
trong chiếc áo khoác của bà

Trong cờ tướng, thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những bậc thầy chơi cờ mắt bịt kín,
những bậc đại sư phụ thường chơi,
cùng một lúc vài cuộc cờ.

(1)

Tôi vốn không đặc biệt hâm mộ ông Cù Huy Hà Vũ. Những lý lẽ ông đưa ra tôi cũng không thấy có tính thuyết phục đặc biệt. Nhưng với những gì xảy ra gần đây, ông thể hiện mình như một con người không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như Turnus người Rutuli hay như Kinh Kha người nước Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số phận của mình. Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để được đối mặt với số phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này.

*

Mặc Lâm: Tại sao chị thích lập những hình ảnh ẩn dụ từ bài thơ này sang bài thơ khác trong khoảng thời gian rất xa. Chẳng hạn như: (2002) “Chân của anh em giấu vào giầy nhỏ / anh sẽ theo em đi thật là xa / khi trở về dẫu tuổi gầy sương tuyết / bốn bàn chân sẽ làm ấm thềm nhà” và mới đây, năm 2006 ”Anh đang ở trong đôi giầy / em bỏ giầy ra / tôi quăng giầy thật xa / còn hai bàn chân nhỏ / hai bàn chân trần / đặt trên mặt đất / mỗi ngón chân như một câu thơ / làm sao vứt / Giầy có phải là hình ảnh quen thuộc trong trí nhớ hay chỉ đơn thuần vì cái “form” của chúng đã thuyết phục chị?

Trần Mộng Tú: Anh đọc kỹ thật. Tôi không có ý dùng ẩn dụ này nọ đâu. Những hình ảnh mà anh nêu ra đó là những hình ảnh rất thân mật, rất gần gũi của đời sống hàng ngày. Tôi nhìn ngắm chúng hàng ngày. Tôi yêu mến chúng. Tôi thích dùng những hình ảnh rất thân mật của đời thường trong thơ.
Sẵn trước mắt tại sao mình không dùng lại đi tìm đâu xa, phải không anh? Chân tay, giầy dép, khăn áo, thân thể là những thứ mình chạm vào thường ngày, mình cho nó là thơ thì nó thành thơ. Năm 2002 hay 2006 hay năm 2050 chăng nữa thì giầy hay áo vẫn thơ như thường.

TMT trả lời RFA

Chỉ là 1 tình cờ, hết sức tình cờ, bài thơ Người Phi Thường, hình như được viết ra, để nhắm vào trường hợp ông con trai Huy Cận!
Tuyệt cú mèo!

Nhất là câu: Tôi mê cái từ “tàn cuộc”.

1944: Học chơi cờ với Cú Cách Mạng Mùa Thu?
2011: Bịt mắt, chơi một lúc, mấy cuộc cờ?

Gấu cứ thử tưởng tượng ra cái cảnh bà mẹ ông Cù Huy Hà Vũ, vào cái năm xẩy ra trận đói khủng khiếp đó, lấy vạt áo che cho con mình khỏi nhìn thấy cảnh người chết như rạ, nằm la liệt trên đường phố Hà Nội…

“Nhiều người nói rằng, phiên tòa tuyên bố “xử công khai” thực ra là một cái bẫy dụ người ta đến để rồi bắt giam.”
Võ Thị Hảo

Ðúng như thế. Cũng như thế, là đòn 10 ngày cải tạo, đánh lừa tất cả lũ sĩ quan Ngụy. Mười ngày phù du, xong, về, là xúm nhau xây dựng cái nhà Mít bằng trăm bằng ngàn trước đó.

“ Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này. ..Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ”!
NBC

Thể diện quốc gia đâu bằng lý do hiện hữu, không phải của quốc gia, không phải của chế độ, mà của cái giống người có tên là Mít.
Khi ăn cướp Miền Nam, lấy đi cái “giấc mộng thực” về 1 vòng tay lớn, là VC đã lấy đi cái lý do hiện hữu của người Việt.
Một Lê Huy Hà Vũ, làm sao so với cả 1 miền đất nước?
Ông NBC, bà VTH này, khi suy nghĩ, và viết ra, những gì liên quan đến đất nước, thì đều suy nghĩ, viết ra, bằng 1 nửa bộ óc. NQT

“Cái tay” Nobel Toán người Mít làm Gấu nhớ đến Shakarov, mà TV đã từng giới thiệu nhân đọc 1 bài viết về ông trong Quê Hương Tưởng Tượng của Rushdie. Ông Nga này rất yếu ớt, hơi tí là nhè, như Gấu còn nhớ được, nhưng khi đụng trận [bị lôi ra để đóng vai ngôn sứ, thiên sứ, thiên chức…], thì lại thật là dũng cảm. Ðể Gấu gõ Google, coi bài đó còn không, và cũng lúc, giới thiệu bài viết mới về ông, mà TV đã hăm he dịch hoài, nhưng vờ hoài.

Cái tít bài viết của NBC là cũng đầy ngụ ý. Ông tính chơi chữ. Thường thì đám ly khai sợ hãi bị vấp ngã, thí dụ như NBC, sợ, nên không dám đứng giữa Ba Ðình, nhìn về phía Xác Bác Hồ, Lăng Liên Xô, mà phán, dẹp chế độ, dẹp Cờ, dẹp Lăng, dẹp Bộ Lạc [cờ lăng, clan] Mít Ðỏ, Bắc Kít độc ác như rắn như rết, làm lại từ đầu, từ... cái khúc cuối Trăm Năm Cô Ðơn, cố kiếm ra 1 thằng bé Mít không đuôi.
Nhưng, ở đây, là đám VC sợ hãi cố bảo vệ chế độ, chứ không phải đám ‘rân chủ’ [chữ của đám VC trên net] sợ vấp ngã.

Nói về đám ly khai sợ "vấp ngã" [chữ của thi sĩ kiêm nghề cớm NTH], tờ Người Kinh Tế, khi tưởng niệm Solz, đi 1 đường thật là tuyệt.
Chép ra đây, để tặng đám suy tư bằng 1 nửa bộ óc.

“Vào thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu quả đáng sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí thức hạng nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử cho Liên Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự thực tuy vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải là sự sợ hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc, và địa vị mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là tà lọt trung thành của hệ thống Xô Viết.”
Nguồn

Về Sakharov

I conclude with some words of Leszek Kolakowski that, I am convinced, reflect Andrei Sakharov's view: "No victory is irreversible, no defeat is definitive. That is what makes life worth living."

The New York Review 13 Jan 2011

Note: Khi NBC được Nobel Toán, GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:

"Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".

Ui chao, mừng hụt! NQT

Sakharov by Rushdie

Tàn Dư của chủ nghĩa toàn trị



*

Foreword by Nadezhda Mandelstam

I think that the most difficult task in the world is the translation of verses, particularly of a true poet, in whose verses there is no discrepancy between the form and the content (or meaning) - both of them always new and but a bit different (with no great disparity between them) - and where the ego of the poet is always strikingly felt. Marina Tsvetayeva said she could write as Mandelstam did but that she didn't want to. She was a great poet but she was greatly mistaken. She could be influenced by Mayakovsky and Pasternak and remain Tsvetayeva because they were innovators and therefore easily aped. But Mandelstam composed verses in tradition, which is far more difficult to imitate.
Mr Robert Lowell's translations are very free; Mr Paul Celan's into German also free. But both are a very far cry from the original text. As far as I know the translations of Mr Greene are the best I ever saw. I can't give my opinion about the Italian translations, as I don't know Italian as well as English, French and German. As for Elsa Triolet's, they are as naive and vulgar as she was.
Mandelstam said that the contents are squeezed from the form as water from a sponge. If the sponge is dry, there would be no moisture at all. So, to render the content - which Mr Greene has succeeded in doing - is to give, in a way, the form or harmony, the harmony which can't be rendered in translation, the harmony which is quite simple and at the same time mysteriously complicated. Poetry is a mystery.

Nadezhda Mandelshtam, 1976

You took away my seas and running jumps and sky
And propped my foot against the violent earth.
Where could this brilliant calculation get you?
You couldn't take away my muttering lips.

(307) May 1935

Bản tiếng Pháp:

En me privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!

My country conversed with me,
Spoiled me, scolded, didn't listen.
She only noticed me when,
Grown-up, I became an eye-witness.
Then suddenly, like a lens, she set me on fire
With a beam from the Admiralty spire.

(part 6 of 312) May-June 1935

Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã  tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....

[Note: Gửi Cù Hậu Duệ. NQT]

Mấy dòng thơ sau đây, của Mandelstam, để tặng con phố mang tên ông.

Như Phố TCS!

What street's this one?
- 'This is Mandelstam Street.
His disposition wasn't "party-line"
Or "sweet-as-a-flower".
That's why this street -
Or, rather, sewer
Or possibly slum -
Has been named after Osip Mandelstam.'

After Stalin's death Mandelstam was 'rehabilitated', but there is still no street anywhere in the Soviet Union named after him.