Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

Nguyễn Quốc Trụ

Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]


Chân Dung Nga

Enrique Vila-Matas

Luận về tiểu thuyết

]
















 



Thơ Mỗi Ngày

Whatever Happened

Whatever happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish. 

But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.

Adam Zagajewski

Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra 

Bất cứ cái chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi. 

Nhưng chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu. 

Search

 

I returned to the town
where I was a child
and a teenager and an old man of thirty.
The town greeted me indifferently
but the streets' loudspeakers whispered:
don't you see the fire is still burning,
don't you hear the flame's roar?
Get out.
Find another place.
Search for it
Search for your true homeland. 

Adam Zagajewski 

Tìm 

Tôi trở về thành phố
Nơi tôi đã sống như một đứa bé
Và một thằng bé
Và một ông già 30 tuổi
Thành phố dửng dưng đón tôi
Nhưng cái loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy lửa vẫn cháy,
Mi không nghe ngọn lửa gào?
Cút cha mày đi!
Tìm một nơi chốn khác
Tìm nó.
Tìm quê hương thực sự của mi. (1)


Tôi nhìn bức hình

Tôi nhìn bức hình thành phố tôi ra đời
nhìn những khu vuờn xum xuê, những con phố soắn vòng, những ngọn đồi,
những mái nhà thờ Thiên Chúa, những vòm nhà thờ Chính Thống,
nơi Chúa Nhật, những giọng nam trầm cất lên mạnh mẽ
khiến hàng cây lối xóm run lên bần bật như trong cơn bão;
Tôi liếc nhìn và tôi không làm sao quay đi, nước mắt ràn rụa,
và bất thình lình, tôi ngộ ra rằng thì là họ vẫn còn sống.
như thế chẳng có gì xẩy ra, họ vội vã chạy tới những buổi diễn thuyết,
đợi xe lửa, lấy xe điện màu xanh da trời, kiểm tra lịch trình, nghe nhạc,
đọc báo hàng ngày, sống trong hối hả, trong sợ hãi, luôn luôn trễ,
có tí bất tử ở trong rất cả, nhưng họ đâu biết,
một tên trễ trả tiền mướn phòng, một tên khác sợ bị phổi,
tên thứ ba không thể hoàn tất luận án về Kant,
không hiểu sự vật là gì trong chính chúng
bà tôi vẫn tới Brzuchowice, mang một cái bánh
trên hai cánh tay duỗi dài, và chúng không rủ xuống,
trong một tiệm thuốc Tây, một đứa bé trai nhút nhát đòi thuốc chữa nhút nhát,
một cô gái ngắm nghía hai cái vú còn nhỏ của mình trong một tấm gương,
ông anh em bà con của tôi đi ra công viên liền tù tì sau khi ra khỏi bồn tắm,
và không hề biết rằng, liền tù tì sau đó anh ta bị cảm lạnh, sưng phổi,
nhiệt tình đôi khi bật ra vào mùa đông, những ngọn đèn vàng tạo những vùng sáng tròn ấm cúng;
vào Tháng Bẩy, lũ ruồi huyên náo ăn mừng ánh sáng lớn mùa hè,
và vo ve những điệu nhạc ca tụng hoàng hôn,
những cuộc tàn sát xẩy ra, những cuộc nổi dậy,
những cuộc tống xuất, lưu đầy,
chế độ Đệ Tam Reich độc ác nhập vào những bộ quân phục
mật vụ NKVD khùng xâm lăng, những ngôi sao đỏ hứa hẹn
tình bạn nhưng có nghĩa là bội phản,
nhưng họ không nhìn thấy điều này, họ hầu như không nhìn thấy
họ có quá nhiều điều để làm,
họ cần phơi khô than cho mùa đông, tìm một vị bác sĩ tốt,
đống thư không trả lời cao dần, màu mực vàng phai dần
cái đài chơi trong phòng, món đồ mua sau cùng của họ,
nhưng họ vẫn ưu tư về đời thường và cái chết
họ không có thì giờ,
họ xin lỗi,
họ viết những lá thư dài và những tấm bưu thiếp ngắn ngủn.
họ luôn luôn trễ, trễ đến tuyệt vọng,
như chúng ta, y chang chúng ta, y chang tớ.

Adam Zagajewski

THE LAST TOAST

I drink to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Anna Akhmatova

 

Bữa nhậu chót 

Ta uống mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt chúng ta
và cũng chẳng thèm thử .


30.4.2012

Warning: e-mail TV [yahoo.com] bị virus, [nhiều người bị], tự động gửi/nhận e-mail loạn cào cào. Bạn đọc/bạn bè xin lưu ý.

Thống Kê

25 Apr 2012 424
26 Apr 2012 540

Không biết có phải vì ngày 30 Tháng Tư sắp tới, số khách viếng TV, bữa nay, giờ này, 6:18 PM, local time, là 540 visitors.
Như thế, tới nửa đêm về sáng, hẳn là còn bảnh hơn nữa.
Một con số kỷ lục!
Tks.  TV/NQT

Tổng cộng: 627 visitors/26.4.2012.
Tks again. NQT


Đỉnh cao chói lọi
Sinh nhạt Bác
Viên gạch Bác


Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.

"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.

Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo.
Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."

Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:

"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape

30.4.2010
09

05

*

Loyauté

par DUONG THU HUONG

Trung

Trung là đức tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần tử, phải trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều này. [Khi nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và thốt lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ, với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ Vua qua Đảng là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống Mỹ. Thực tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi lại phải mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như những xác chết thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn. 

Năm 1991, tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám chống Đảng. "Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ lên một uỷ ban trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính trị gồm 13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu đần, bại hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu phải là ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải trung với chúng?". Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt nó, là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung chỉ có nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn lựa và đảm nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một thánh tượng tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường của tôi, cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi mới hiểu và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi nghĩ, là nhà văn là kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải chiến đấu với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng, những kẻ khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng.

"Nous ne lui demandons pas de devenir un traître. Nous lui proposons une nouvelle définition du mot loyauté."

Le Carré: Un homme très recherché (1)

[Chúng tôi đâu có đòi bà trở thành một kẻ phản bội. Chúng tôi đề nghị bà một định nghĩa mới về lòng trung thành với Đảng VC]

Lần thứ hai tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam khác đến đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được. Vì khi ở trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là một dân tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong một phái đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị khinh bỉ. Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà già Nga bụng to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán hàng họ mắng cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống nồi, hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn Peking nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ quần áo complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn toàn vỡ mộng và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi Nga người ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại vớ vẩn thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của người Việt Nam.
DTH 

Đây là nỗi nhục mà dân tộc Mít phải chịu sau 30 Tháng Tư 1975, trên toàn thế giới. Nỗi nhục “anus mundi”, [là cái hậu môn của thế giới], như cái tên của nó, nhờ Milosz, mà có được.
Ở Canada, GCC rất nhiều lần vô tiệm của tụi mũi lõ, bị hỏi, và khi trả lời, bị bồi thêm 1 câu, mày là Mít, OK, nhưng Bắc Kít, hay Nam Kít. Khi trả lời Nam Kít, thằng chủ quán gật đầu, và Nam Kít thường rất tự hào về điều này. GCC chẳng thấy tự hào tí nào, tất nhiên, vì cũng…  Bắc Kít.
Và dù không phải Bắc Kít, Nam Kít thứ thiệt, thì cũng đếch tự hào nổi.
Sợ còn đau gấp đôi, gấp ba lũ Bắc Kít.

Chúng đâu thấy đau? 

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?


Hổ Khủng Khiếp VC

“Chúng tôi không có được những người lãnh đạo được Nobel Hòa Bình như Đức Phật Sống, hay Phu Nhân Aung San Suu Kyi. Đây là những tiếng nói có ảnh hưởng quốc tế”, Nguyễn Quân phán. [Giá như ông Nobel Toán của chúng tôi cầm cái bửu bối Nobel mà dí vào lăng Bác H, thì có thể…, hà hà!]. Ông là một vị bác sĩ Mẽo gốc Mít. Ông anh của ông, Nguyễn Đan Quế, là một nhà hoạt động nổi tiếng đã trải qua hơn 30 năm trong nhà tù VC, và bây giờ, tù tại gia. Nguyễn Quân đại diện lực lượng ở hải ngoại, trong những cuộc gặp gỡ với những nhà nước quốc tế, và đây là 1 mục tiêu khó bằng trời, chẳng khác gì Sisyphus vác đá. “Chúng tôi làm việc cật lực để mong được dân chúng quan tâm. Dân chúng đếch muốn nghe nói tới xứ Mít, bởi cuộc chiến trước đây. Và chúng tôi càng nói nhiều thì chúng tôi càng trình ra thêm nhiều vi phạm nhân quyền của VC”. Ông nói. Có hai Thượng Nghị Sĩ Mẽo, trong năm nay, đề cử Nguyễn Đan Quế vào giải Nobel Hòa Bình.
Miến cũng cho thấy, tiên đoán khi nào những chế độ như Mít VC, như quân phiệt Miến… sụp đổ, là trò chơi của những tên khùng. Nhưng nếu lịch sử hiện đại có 1 tên…  “giao liên” [guide; người dẫn đường, đưa đường], thì dân Mít quả đã từng chứng tỏ họ đủ sức đứng lên chống lại đàn áp, thống trị. Cái nhà nước VC vừa mới được nhắc nhở điều này, và vừa nếm mùi đứng dậy của một người dân Mít, tromg 1 biến cố chưa từng có vào Tháng Giêng. Ở bên ngoài thành phố Cảng Hải Phòng, một tay chủ trại chuyên nghề đánh cá đã mở ra 1 cuộc nổi dậy có võ khí chống lại nhà cầm quyền VC địa phương, khi tụi khốn kiếp toan tính tịch thu đất của ông, sau khi hợp đồng thuê của ông hết hạn (quyền tư hữu tài sản chưa được phép tại Việt Nam). Anh trở thành anh hùng quốc gia, và trong một bước ngoặt quái đản của sự kiện, chính quyền trung ương, và báo chí do nhà nước kiểm soát, lúc đầu chỉ trích anh chủ trại đánh cá, sau quay 180 độ, phò anh ta, hà hà!
Trong năm tới, những hợp đồng thuê như thế sẽ hết hạn trên toàn quốc, và sẽ ảnh hưởng khốc liệt đến số phận hàng ngàn người dân làng nghèo khổ. “Đó là những bom hẹn giờ, kêu tích tích suốt xứ Mít”, Thayer phán.
Cho tới nay, Đảng VC vẫn lèo lái, tránh né bãi bom hẹn giờ, và vẽ ra [cái mà Thầy Cuốc gọi là] “tự sự chính trị”, của xứ Mít VC hiện thời, như là một trong những thành công về kinh tế, và ổn định về chính trị. Nhưng với những đổi thay, như là một phép lạ, xẩy ra ở Miến, song song với nó, là đàn áp người dân phê bình nhà nước, đòi hỏi dân chủ của Đảng VC, đã đến lúc vấn đề nhân quyền phải được coi là trọng tâm trên sàn diễn chính trị trong những cuộc bàn bạc, thảo luận, làm ăn…  giữa Tây Phương với xứ Mít VC. Lực lượng đòi hỏi dân chủ cho xứ sở - bị đánh phá tơi bời, bị bách hại dòng dã bao năm trời, nhưng chẳng hề bao giờ bị dập tắt, dẹp tan, làm câm tiếng – phán, họ đã sẵn sàng nói với thế giới câu chuyện của họ. Nguyễn Quân, thường xuyên liên lạc với ông anh ly khai Nguyễn Đan Quế, nhớ lại cuộc nói chuyện giữa hai anh em mới đây: “Ông nói với tôi, bây giờ khác rồi. Dân chúng không còn sợ như 10 năm trước. Nhiều, rất nhiều người trẻ nhập cuộc, chúng càng bắt thì lực lượng càng mạnh thêm, lớn thêm”.  +

Đoạn trên Bi Bì Xèo vờ, đếch dám dịch, hà, hà!
Chúng làm như đếch có ai dịch nổi, hoặc đếch có ai dám mó dế VC, chắc thế!

Một bài viết trên báo Mẽo, dịch, mà còn tự ý kiểm duyệt, sợ VC đến như thế, thì còn mong gì ở đám này.
Có khi cũng 1 thứ Cớm Văn Hóa của Đảng Ta!

Đâu phải 1, mà rất nhiều lần.

Một trong những mặc cảm tội lỗi của lũ mũi lõ Tây Phương, mà tác giả bài báo trên FP nhắc tới trong bài viết nêu trên, chính là cái sự kiện, thí dụ, Bi Bì Xèo thay thế toàn bộ đám bồi xưa cũ của VNCH, bằng đám bồi viết mới, ra đi [qua Tây Phương] từ Miền Bắc. Và, tạo cú “đứt đoạn tri thức luận”, về đủ thứ hiểu biết, tri thức, giữa cũ và mới.
Hiển nhiên nhất là cái cú, đám bồi mới dịch Quần Đảo Ngục Tù là Bán Đảo Ngục Tù.

Đây không phải là chuyện “dịch loạn”, mà là mù tịt về văn hóa, về kinh nghiệm sống, về đọc, về viết, về đủ thứ hầm bà làng: Chúng không hề biết 1 tí gì về tù đầy Cộng Sản, về Toàn Trị, về Lò Thiêu, về con số người chết trong Lò Thiêu, và Lò Cải tạo, về sự khác biệt giữa hai chế độ, giữa Hitler và Stalin. Ông Nobel Toán, cũng 1 thí dụ khác nữa, về “vô tri”: Người “khăng khăng” tin rằng, cuộc chiến Mít là giữa dân Mít và thằng Mẽo xâm lược, “Người” không hề biết đến lũ Ngụy, trong khi bà DTH, thì phải đợi đến năm “1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh người miền Nam ở Quảng Bình”…
Đây là cái điều mà bà DHT gọi là man rợ thắng văn minh, trong cuộc chiến Mít

Ngoài cái cú “đứt đoạn tri thức luận”, chúng còn mang theo cái đuôi, suốt đời, “tự động kiểm duyệt”.


Tribute to Khoa Hữu

My hero: Walter Benjamin

by Elif Shafak

'One doesn't read him to feel better – one reads him to feel'

Tuyệt!


The life of Lillian Hellman

Profile in courage

Lillian Hellman, a popular playwright and bestselling author, was a minor player in American intellectual circles. So why is she still such a divisive figure?


Tribute to Fang Lizhi


Facing History

Thời Không Mặt

The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]

Chí Phèo vs Julien Sorel
[Đỏ và Đen] vs Tâm [Bếp Lửa]

Trong số báo văn học Pháp, Le Magazine Littéraire, Avril 2005, dành cho Stendhal, Yves Ansel, trong bài Người ‘đẻ ra’ tiểu thuyết hiện thực [Le fondateur du roman réaliste] viết: Với Đỏ và Đen, Stendhal thực sự phát minh ra tiểu thuyết hiện thực: một câu chuyện mà không một  hành động, không một tư tưởng nào mà không bị quyết định bởi trò chơi xã hội: Julien Sorel phải, bằng mọi cách, kiếm được miếng ăn, ‘gagner son pain’.

Nhìn như thế, thì Nam Cao, với Chí Phèo quả là người thực sự phát minh ra tiểu thuyết hiện thực của Mít chúng ta.

Đọc Đỏ và Đen, đọc song song với nghiên cứu Mác xít về ‘fétichisme de la marchandise’, về "vật hóa", la réification, rồi đọc Lukacs, Lý thuyết tiểu thuyết, thì chúng ta mới nhận ra vị trí của Chí Phèo của Nam Cao. 

Những dòng sau đây, về Sorel, mà chẳng đúng với Chí Phèo sao:
... nhân vật đầu tiên ' nghiêm túc', được trả luơng, nhân vật thứ nhất nhìn ra, giá trị của mình tùy thuộc 'rất căng', vào giá cả trên thị trường; không một tư tưởng, không một chiến thuật, không một hành động nào mà thoát ra khỏi nhu cần tối cần thiết, là kiếm được miếng ăn [với Chí Phèo, bắt buộc phải có cút rượu kèm theo!]
… le premier héros « sérieux» salarié, le premier héros qui voit sa valeur dépendre étroitement de son prix sur le marché du travail est Julien Sorel, dont pas une des pensées, pas une des stratégies, pas une des actions n'est totalement étrangère à la nécessité de « gagner son pain ». Tels sont quelques-uns des « petits faits vrais» qui ont fait du Rouge une « chronique» qui a sa place dans l'histoire du roman réaliste européen.
Cái từ ‘chronique’, trên, làm nhớ tới định nghĩa của Lukacs, về tiểu thuyết, áp dụng thật đúng y chang vào Chí Phèo, và sau này, vào nhân vật chính trong Bếp Lửa:
Để có tiểu thuyết, là phải có sự đối nghịch căn bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội.
Il faut, pour qu’il y ait roman, une opposition radicale entre l’homme et le monde, entre l’individu et la société.
Tiểu thuyết là một hình thức tiểu sử tối hảo, une forme biographique par excellence,  và cùng lúc, một ký sự xã hội, trong chiều hướng mà cuộc tìm kiếm xẩy ra ở trong lòng xã hội đó [une chronique sociale dans la mesure où cette recherche se déroule à l’intérieur d’une société donnée]
Cái xã hội Miền Bắc của Chí Phèo, mà anh ta, khi muốn tìm lại mình, thì đành chết, và của nhân vật, Tâm, trong Bếp Lửa, đành bỏ đi, là y chang!

Ngoài thơ ra, tôi trải qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa vô thường và chút hơi ấm của nỗi chết  Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra.
TTT

Tiểu thuyết, một thế giới về chiều [le monde dégradé], nhân vật chính mang trong người căn bệnh siêu hình [ le mal ontologique] - nhân vật chính trong Bếp Lửa cũng mang một con sâu ở giữa tim, giữa hồn, giữa não - một căn bệnh vô phương cứu chữa: và chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Thất bại ở đây có nghĩa, như là sự chia lìa không sao hàn gắn, giữa nhân vật chính và thế giới bên ngoài, sự thụ động ù lì của gã, chỉ vì ý thức của gã quá rộng, trong khi thế giới quá bảo thủ, uớc lệ, không sao thỏa mãn nổi. Đấy là nội dung của tiểu thuyết. Về hình thức: Tiểu thuyết bắt buộc vừa là một truyện ký [biographie] - tiểu sử, cuộc sống của anh chàng tên là Tâm ở trong Bếp Lửa, vừa là một ký sự xã hội [chronique sociale] - xã hội Miền Bắc, thành phố Hà Nội đúng hơn, trong cơn xao động của lịch sử.

Và sau cùng, biểu lộ tình cảm, "Anh yêu quê hương vô cùng, yêu em vô cùng", kết thúc Bếp Lửa, là một điểm vượt [le dépassement], khi đó, tác giả  - tiểu thuyết gia - rời khỏi thế giới về chiều, thế giới mộng ảo của tiểu thuyết, và trở lại đời sống thực [Lưu Nguyễn về trần]. Đó là lúc ý thức tiểu thuyết gia, vượt ý thức nhân vật, để tìm lại cái chính, cái thực [l'authenticité], Lucien Goldmann, diễn ý Lukacs, gọi đó là sự chuyển hoá [la conversion], từ thế giới tiểu thuyết qua thế giới thực, là đời sống mất đi tìm thấy lại.

Bếp Lửa trong văn chương
Bếp Lửa trong văn chương
[Bản scan bài viết 1973]
Bếp lửa trong VC

[Ui choa, khi viết bài này, mới huyễn hoặc làm sao!
Y chang cả Miền Nam, những ngày 30 Tháng Tư 1975: Vui sao nước mắt lại trào!]

Sự thực của nhà văn không phải sự thực của nhà phê bình. Sự thực đời sống [sự thực của những người đã chết truyền lưu cho kẻ sống sót. Bếp Lửa, Tựa, lần xuất bản thứ hai, 1965] lại càng không phải sự thực văn chương. Valéry gọi, đây là ảo tưởng hiện thực, lòng tin ngây thơ, văn chương có thể ghi lại thực tại. Nhà văn là một kẻ "sống sót", thời gian dùng vào việc viết là một thời gian xác định, nhưng tác phẩm chỉ sống sót khi vẫn còn là một tác phẩm văn chương - vẫn còn tham dự vào dòng thời gian vô định của trí nhớ, của hồi tưởng và của sự đọc.
Bếp Lửa trong văn chương. Văn, số đặc biệt về TTT [1973].

Những dòng trên, bây giờ nhìn lại, nhận ra, chúng được viết dưới ánh sáng của tiểu thuyết mới, của Barthes, chứng tỏ Gấu hoàn toàn hồi phục, sau cú đánh của Lukacs, của dòng văn chương dấn thân, của dòng văn chương ý thức hệ. 
Bây giờ thì tha hồ mà viết, chẳng cần tại sao viết, viết cho ai, viết để làm gì.
Chỉ là, viết thế nào?

Cái sự gen đột biến, biến thành ruồi, tay tổ sư Mác Xít Lukasc đã tiên đoán ra được, và gọi là "vật hóa", la réification, nhưng ông đổ tội cho tư bản chủ nghĩa, có khuynh hướng biến con người thành đồ vật, và chỉ có ý thức giai cấp vô sản mới đảm bảo cho con người thoát khỏi sự trù ẻo này.
Bài giới thiệu Lukacs, cũng thường thôi, phần lớn đều là những chuyện được nhiều người biết, tuy nhiên, sự kiện, nhà xã hội học Joseph Gabel, trong tác phẩm Ngụy Ý Thức, tìm ra mắc mớ giữa lý thuyết “ruồi hóa” của Lukacs, và chứng bịnh thần kinh phân liệt, thì quả là quá thú vị!

TTT 2012

21. Sinh nhật húy nhật 

Les morts de Lofoten sont moins morts que moi (a)
Oswald L. de Milosz

Giữa trưa mệt té xỉu trên đồi
Quanh mình vẳng tiếng cuốc liên hồi
Đào huyệt chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên xác tù nằm phơi 

Nhìn xem gương mặt hắn thanh thản
Lộng nắng bừng say chợp ngủ vùi
Người mang cầm hãm đặng bêu riếu
Hắn “cũng đành xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc ham mê rồ dại” [1]
Hắn tự chôn huyệt gió đáy trời.

(a)

Tous les morts sont ivres de pluie vieille et froide
Au cimetière étrange de Lofoten
L'horloge du dégel tictaque lointaine
Au coeur des cercueils pauvres de Lofoten

Et grâce aux trous creusés par le noir printemps
Les corbeaux sont gras de froide chair humaine
Et grâce au maigre vent à la voix d'enfant
Le sommeil est doux au morts de Lofoten

Je ne verrai très probablement jamais
Ni la mer ni les tombes de Lofoten
Et pourtant c'est en moi comme si j'aimais
Ce lointain coin de terre et toute sa peine

Vous disparus, vous suicidés, vous lointaines
Au cimetière étranger de Lofotene
- Le nom sonne à mon oreille étrange et doux.
Vraiment, dites-moi, dormez vous, dormez-vous ?

- Tu pourrais me conter des choses plus drôles
Beau claret dont ma coupe d'argent est pleine.
Des histoires plus charmantes et moins folles ;
Laisse-moi tranquille avec ton Lofoten.

Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.

Oscar Vladislas de Lubicz Milosz
Éditions André Silvaire
 

Có thể, TTT đọc bài thơ này, cùng lúc với thơ Nguyễn Bắc Sơn, cùng lúc, viết thư cho đảo xa & về lại Sài Gòn từ Đà Lạt…. và, nhận ra cái ý tưởng bàng bạc giữa thơ của Oscar Milosz, và của NBS:

Tous les morts sont ivres
&

Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến thành mây bay.

Đúng ý Alain, như Steiner trích dẫn làm đề tử trong cuốn mới ra lò của ông, Thơ của Tư tưởng:

Toute pensée commence par un poème.
(Every thought begins with a poem.)
Mọi tư tưởng bắt đầu bằng 1 bài thơ
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953

Tất cả những người chết thì đều say

Tất cả những người đã chết thì đều say mưa,
[một thứ mưa] xưa, và lạnh
Ở nghĩa trang là lạ là Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn
Đồng hồ băng tan tích tắc ở xa xa
Ở trái tim của những chiếc hòm nghèo nàn của Sài Gòn

Và nhờ những lỗ thủng được khoét bởi mùa xuân đen
[VC gọi là Đại Thắng Mùa Xuân, Đỉnh Cáo -
hay Cao thì cũng được - Chói Lọi]
Những con quạ mập phì vì thịt người lạnh
Và nhờ ngọn gió gầy có tiếng nói của con nít
Giấc ngủ mới mềm dịu biết bao với những người chết ở Sài Gòn

[Cái gì gì giống như “Ngã ở trên núi khi vác củi”:
Hồn dưng dưng chẳng chút oán sầu?]

Có lẽ Gấu sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy [lại]
Biển Vũng Tầu,
Không,
Những nấm mồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng không.
Nhưng, rõ ràng là, ở trong thằng cu Gấu
[Thằng cu Nghệ, TTT, đúng hơn],
Mới yêu thương làm sao,
Cái nơi chốn xa xăm và tất cả nỗi khổ đau của nó.

Lũ Chúng Ta [chữ của VHC]
Mất tích, tự tử, lạc loài
Ở nơi nghĩa địa là lạ là Mạc Đĩnh Chi
-Ui chao, chỉ nội cái tên thôi mà đã dội ở nơi tai Gấu
Một cái gì là lạ và dịu dàng.
Thực sao, hãy nói cho Gấu biết, bạn ngủ ư, bạn ngủ ư?

Toa có thể kể cho moa nghe những chuyện tức cười hơn
Rượu vang thì đẹp và cái ly sành của moa thì đầy
Những chuyện thú vị, và ít khùng điên ba trợn
Hãy mặc moa với Sài Gòn của toa

[Toa ở đây là ông bạn miệt vườn, bạn quí của thằng Bắc Kít di cư là GCC] 

Trời thì đẹp. Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Của những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết bằng Gấu chết.


13.7.2010

Dear GNV,
Tôi phải đặt từ "blackguard" vào ngoặc kép, dùng lại, trích dẫn nó. It's not my word.
HÂ.

K. mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là Xịa. ST có là nhờ nó. ??? (1)

Trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê, Mai Thảo đã cho biết khi báo của ông nổi lên rồi thì người của quân đội đến đặt báo một số lượng lớn, đâu có nói họ đưa cho ông một số tiền để lập nên tờ báo?
Hay GNV có một tin bật mí nào khác?
Khi nghe đồn là Sáng Tạo làm việc cho Xịa ông không viết chống Cộng nữa, thà làm người hùng của phòng trà. Và "Thi sĩ của chúng ta" thì không giống K., loay hoay mãi để làm sao "viết mà như không có gì xảy ra".
Vậy, khi nói "ST có là nhờ nó" , tức Xịa, trên TV đang được rất nhiều người đọc, Gấu "giết" hai người ấy thêm một lần nữa rồi.

Xịa cũng đã không tạo ra cái công thức K [Koestler]
K= 1/3 genius + 1/3 “blackguard” + 1/3 lunatic

Càng chẳng thể dựng nên được G:
G= 1/3 "confiance” + 1/3 "respect” + 1/3 "je ne sais quoi" (2)

H.A

Phúc đáp:

Như trong bài phỏng vấn cho biết, thì đúng là MT lấy tiền của Mẽo, dù chỉ là 1 hợp đồng bán báo.
Tờ HL lấy tiền của VC, cũng theo kiểu này, qua 1 danh sách độc giả dài hạn, của đám Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC.
Lấy tiền cả của Mẽo nữa. GCC biết qua 1 bạn văn, nhưng mới đây, (8.2011), gặp 1 tay trong ban chủ trương HL [LB], cho biết, không có chuyện đó.
TTT đâu có biết là MT lấy tiền của Mẽo. Khi biết, ông rãn ra, thành thử báo chết cũng do đó 1 phần.
TTT muốn thật sạch.
Khác hẳn Milosz.
Ông Nobel này chủ trương phải có tí bẩn mới được! (3)

TK: Sáng Tạo thành lập bằng tiền của ai?
MT: Bằng cái hợp đồng tôi ký với một thằng Mỹ ở Virginia, không biết bây giờ sống chết thế nào. Đó là cái hợp đồng bán báo, không có điều gì cần giấu diếm hết, đại khái nếu mình in 5000 tờ, thì nó mua đứt cho mình 2000, vừa đủ tiền in, tiền giấy, không có cái nghiã gì khác hết, và cũng không có điều kiện gì khác hết.

Tks & Regards,
NQT

(2)

(Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm một phần ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy... Không, trăm lần không, ngàn lần không, đừng bao giờ nói như vậy, đừng bao giờ nói anh không xứng đáng, cũng đừng bao giờ nói anh làm cho tuổi thơ của Hương bị xáo trộn, những ngày đầu tiên quen anh là những ngày sung sướng đối với Hương, anh là người đầu tiên đã trò chuyện với Hương, đã làm cho Hương nghĩ tới một điều gì từa tựa như là tương lai, hạnh phúc, một điều gì từa tựa như tình yêu...)

Ui chao, làm sao mà cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài VTD thoại/Quốc Tế, đọc đoạn trên - trong lá thư, độc nhất, của BHD, đi bộ từ Ngã Sáu Gia Long & Võ Tánh, tới Đài VTD, số 11 Phan Đình Phùng, gần Đài Phát Thanh Sài Gòn, tới, bấm thang, tính lên lầu, đưa tận tay cho GCC, thì gặp ông cảnh sách về hưu, chìm, canh gác cho Đài, và đưa cho ông, và nói, đưa giùm, và trở ra, đi về, hay đi học… - và có thể phán, "cái cô gái này không thương cậu đâu"?

The wiles of art

Mưu ma chước quỉ của nghệ thuật

Guilt and greatness in the life of Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz

Tôi là kẻ may mắn sống sót, nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?

Đây là vấn nạn của “Shoah”, một phim của Lanzmann, theo David Denby, trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước, Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù VC kể như không có!
Đâu có phải tự nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả VC cũng quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa.
[But the notion that the Holocaust might happen again is exactly what "Shoah" is not about.]

Hà, hà!

(1)

K. mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là Xịa. ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!]

Bộ sách vĩ đại Văn Học Miền Nam của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa khác! Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third blackguard, and one third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3 khủng, mát] tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù Pentonville, báo cáo với sếp.

Cái lũ cà chớn Hậu Vệ và đệ tử của Thầy Cuốc chửi Gấu là mạ lỵ ông tiên chỉ. Làm gì có chuyện đó: ông tiên chỉ mạ lỵ ông tiên chỉ là đủ rồi. Thử hỏi, một khi ông VP lấy tiền của Mẽo để viết về văn học Miền Nam, liệu ông có dám chửi thằng chủ chi địa không?
Trong VHTQ có dòng nào nói xấu anh Mẽo, người bạn quí của dân Mít?
Đồng ý là Mẽo thực sự không hề có ý ăn cướp, dầy xéo nước Mít, nhưng chúng đến chẳng có ý tốt, mà bỏ chạy lại càng không có ý tốt!
[Gặp đã khó, xa lại càng khó, cái này để gửi đảo xa, hà hà].

Nhưng khốn nạn nhất là những dòng VP viết về đám Sáng Tạo, y chang những dòng MT nhớ về người bạn quí, mà ông đã từng lầm với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn dám ngửa tay xin ông 1 điếu thuốc lá!

Cũng vẫn chất Bắc Kít khốn kiếp mà ra!
Đọc những dòng MT viết về Trung Kít, trong phỏng vấn do TK thực hiện, rồi đọc TQVH của VP là nhìn ra ngay lòng hận thù giữa Kít với Kít.
Cái khốn nạn của dân Mít là còn do chữ S mà ra.

Nếu có 1 chữ “K” cảm tính của Kafka, (1) thì cũng có 1 chữ S hận thù của giống Mít.


Viết kể với em, lúc này anh nhớ đến một câu thơ của Milozs : Je suis plus mort que les morts de Lofoten. Nhảm. Mai Thảo nó bảo: ca, c'est de la littérature, sống không như vậy. Điều đó chính anh vẫn nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt để nói hình như anh cũng đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào một kẻ chết đuối. Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết cho em - có thể sau thư này - anh bất định quá.

Thư gửi Đảo Xa

Note:

Milosz, không phải Milozs. Và cũng không phải Czeslaw mà là Oscar Milosz, cũng họ hàng với nhau. Czeslaw Milosz tin rằng, phải có tí bẩn mới là thi sĩ của thế kỷ 20 được, nhưng ông lại thèm được như Brodsky, như ông viết trong entry “hatred”, trong Milosz’s ABC’s: Đời tôi thì là một trong trong những cuộc đời kinh ngạc nhất mà tôi đã trải qua, one of the most astonishing I have ever across. Đúng là nó thiếu sự trong sáng của một câu chuyện đạo hạnh như là của Brodsky. Ông ta đang đào “kít” [“như toàn thể dân Nga”, chữ của Brodsky] ở một nông trường cải tạo, và vài năm sau “đợp” [collect] mọi vinh quang, kể cả Nobel văn chương.

TTT, một cách nào đó, thì cũng giống Brodsky, ông bị lịch sử lọc ra, và đành đóng vai ‘kẻ sĩ Ngụy’, dù chẳng muốn, như trong thư gửi đảo xa cho thấy:

Thường anh chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì về mình, bởi mỗi lần ngó thấy anh đều thấy như mình bị đóng đinh. Anh đã là như thế nhưng anh còn có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao giờ xúc động lâu về những điều đàm tiếu, thị phi hết.

Nhân nhắc tới Oscar Milosz, "đi" lại một bài viết về ông, của Kundera, trong Gặp Gỡ

L'INTOUCHABLE SOLITUDE D'UN ÉTRANGER (Oscar Milosz)

1

La première fois que j'ai vu le nom d'Oscar Milosz, c'est au-dessus du titre de sa Symphonie de Novembre traduite en tchèque et publiée quelques mois après la guerre dans une revue d'avant-garde dont j'ai été, à dix-sept ans, un lecteur assidu. À quel point cette poésie m'avait envoûté, je l'ai constaté quelque trente ans plus tard, en France, où pour la première fois j'ai pu ouvrir le livre de poésie de Milosz dans l'original français. J'ai vite trouvé la Symphonie de Novembre, et en la lisant j'ai entendu dans ma mémoire toute la traduction tchèque (superbe) de ce poème dont je n'ai pas perdu un seul mot. Dans cette version tchèque, le poème de Milosz avait laissé en moi une trace plus profonde, peut-être, que la poésie que j'avais dévorée à la même époque, celle d'Apollinaire ou de Rimbaud ou de Nezval ou de Desnos. Indubitablement, ces poètes m'avaient émerveillé non seulement par la beauté de leurs vers mais aussi par le mythe entourant leurs noms sacrés, qui me servaient de mots de passe pour me faire reconnaître par les miens, les modernes, les initiés. Mais il n'y avait aucun mythe autour de Milosz: son nom totalement inconnu ne me disait rien et ne disait rien à personne autour de moi. Dans son cas, j'ai été envoûté non pas par un mythe, mais par une beauté agissant d'elle-même, seule, nue, sans aucun soutien extérieur. Soyons sinncères : cela arrive rarement.

2

Mais pourquoi justement ce poème? L'essentiel, je pense, résidait dans la découverte de quelque chose que jamais nulle part ailleurs je n'ai rencontré: la découverte de l'archétype d'une forme de la nostalgie qui s'exprime, grammaticalement, non pas par le passé mais par le futur. Le futur grammatical de la nostalgie. La forme grammaticale qui projette un passé éploré dans un loinntain avenir; qui transforme l'évocation mélancolique de ce qui n'est plus en la tristesse déchirante d'une promesse irréalisable.

Tu seras vêtu de violet pâle, beau chagrin!
Et les fleurs de ton chapeau seront tristes et petites

3

Je me rappelle une représentation de Racine à la Comédie-Française. Pour rendre les répliques naturelles, les acteurs les prononçaient comme si c'était de la prose; ils effaçaient systématiquement la pause à la fin des vers; impossible de reconnaître le rythme de l'alexandrin ni d'entendre les rimes. Peut-être pensaient-ils agir en harmonie avec l'esprit de la poésie moderne qui a abandonné depuis longtemps et le mètre et la rime. Mais le vers libre, au moment de sa naissance, ne voulait pas prosaiser la poésie! Il voulait la débarrasser des cuirasses métriques pour découvrir une autre musicalité, plus naturelle, plus riche. Je garderai à jamais dans mes oreilles la voix chantante des grands poètes surréalistes (tchèques aussi bien que français) récitant leurs vers! De même qu'un alexandrin, un vers libre était lui aussi une unité musicale ininterrompue, terminée par une pause. Cette pause, il faut la faire entendre, dans un alexandrin aussi bien que dans un vers libre, même si cela peut contredire la logique grammaticale de la phrase. C'est précisément dans cette pause cassant la syntaxe que consiste le raffinement mélodique (la provocation mélodique) de l'enjambement. La douloureuse mélodie des Symphonies de Milosz est fondée sur l'enchaînement des enjambements. Un enjambement chez Milosz, c'est un bref silence étonné devant le mot qui arrivera au début de la ligne suivante:

Et le sentier obscur sera là, tout humide
D'un écho de cascades. Et je te parlerai
De la cité sur l'eau et du Rabbi de Bacharach
Et des Nuits de Florence. Il y aura aussi

4

En 1949, André Gide a établi pour les éditions Gallimard une anthologie de la poésie française. Il écrit dans la préface: «X. me reproche de n'avoir rien donné de Milosz. [ ... ] Est-ce un oubli? Non pas. C'est que je n'ai trouvé rien qui me parût particulièrement valoir d'être cité. Je le répète: mon choix n'a rien d'historique et seule la qualité me détermine. » Il y avait, dans l'arrogance de Gide, une part de bon sens: Oscar Milosz n'avait rien à faire dans cette anthologie; sa poésie n'est pas française; gardant toutes ses racines polono-lituaniennes, il s'était réfugié dans la langue des Français comme dans une chartreuse. Considérons donc le refus de Gide comme une noble façon de protéger l'intouchable solitude d'un étranger; d'un Étranger.

Không chạm tới được nỗi cô đơn của người lạ

1

Lần đầu tiên tôi thấy tên Oscar Milosz là trên cái tựa Bản Giao Hưởng tháng Mười Một, được dịch ra tiếng Tiệp, được xuất bản vài tháng sau chiến tranh trong một tạp chí thời thượng mà ở tuổi mười bảy, tôi là một độc giả chuyên cần. Bài thơ này đưa tôi lên tận mây xanh, ba mươi năm sau ở Pháp, tôi đã ghi nhận điều này khi lần đầu tiên tôi mở quyển thơ của Milosz trong ấn bản nguyên thủy tiếng pháp. Tôi nhanh chóng tìm thấy bài thờ Bản Giao Hưởng tháng Mười Một, khi đọc lại tôi còn nhớ như in không sót một chữ bài dịch tiếng Tiệp tuyệt vời ngày xưa. Trong bản tiếng Tiệp, bài thơ này đã để dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi, có thể, còn hơn cả các bài thơ tôi đọc hồi đó của Apollinaire, Rimbaud, Nezval hay Desnos. Rõ ràng không chối cãi, các bài thơ này huyễn hoặc tôi không những vì nó hay mà còn do huyền thoại tạo ra chung quanh tên tuổi thiêng liêng của họ, làm từ khóa để qua các văn sĩ của tôi, tôi biết ai là người hiện đại, ai là người tiên phong. Nhưng chẳng có huyền thoại nào chung quanh cái tên Milosz, một cái tên lạ hoắc, không làm cho tôi liên tưởng đến ai, và cũng không nhắc tôi nhớ đến ai chung quanh tôi. Trong trường hợp của ông, tôi ngẩn ngơ không phải vì một huyền thoại mà vì chính cái đẹp của nó, một mình, trần trụi, không trụ chống bên ngoài. Chúng ta hãy trung thực với mình chuyện này : chuyện này rất hiếm khi xảy ra.

2

Nhưng tại sao lại chỉ chính bài thơ này ? Tôi nghĩ, chính yếu, là nó nằm trong cái mà tôi chưa bao giờ thấy ở đâu hết : sự khám phá mẫu lý tưởng của một hình thức nhớ nhung mà nó diễn tả, theo ngữ pháp, một loại nhớ nhung không phải qua quá khứ mà qua vị lai. Thời vị lai ngữ pháp của nhớ nhung. Hình thức ngữ pháp phóng chiếu một quá khứ đau buồn lên một tương lai xa xăm ; chuyển tải cái gợi nhớ buồn bã không còn nữa lên nỗi buồn tan nát của một lời hứa không thể nào thực hiện được.

Nỗi buồn xinh xắn ơi, em sẽ khoác chiếc áo màu tìm nhạt,
Và các nụ hoa trên mũ của em sẽ nho nhỏ và buồn buồn.

3

Tôi còn nhớ buổi trình diễn kịch của Racine ở nhà Kịch Comédie-Française. Để làm cho lời đối đáp được tự nhiên, các diễn viên đọc thơ như đọc văn vần; họ xóa một cách có hệ thống phần nghĩ đàng sau mỗi câu thơ; không thể nào nhận ra nhịp điệu alexandrin, cũng không nghe lối họa vần. Có thể họ nghĩ làm như vậy sẽ hài hòa với tinh thần thơ văn hiện đại, loại bỏ từ lâu vừa vần vừa âm luật. Nhưng vần thơ tự do, từ khi sinh ra đã không muốn làm thơ văn tầm thường ! nó muốn loại cái vỏ ngoài kích thước để thấy tính âm nhạc, tự nhiên hơn, phong phú hơn. Tôi lúc nào cũng giữ trong tai tôi giọng nói như hát của các thi sĩ lớn siêu hiện thực đọc thơ (tiệp cũng như pháp) !

4

Năm 1949, André Gide làm một quyển hợp tuyển thơ Pháp cho nhà xuất bản Gallimard. Ông viết trong lời mở đầu: «X. trách tôi đã không dành một chỗ nào cho Milosz. [ ... ] Quên sao? Không. Là vì tôi không thấy một cái gì đặc biệt để đáng đưa ra. Tôi lặp lại: lựa chọn của tôi không có tính cách lịch sử gì hết, chỉ có phẩm chất mới làm tôi quyết định.» Câu nói phách lối của Gide có lý một phần: Oscar Milosz chẳng dính gì trong hợp tuyển này ; thơ của ông không phải là thơ tiếng Pháp; vì ông giữ tất cả nguồn cội gốc rễ Ba Lan-Li-tu-a-ni, ông núp trong ngôn ngữ Pháp như trốn trong tu viện. Chúng ta hãy xem lời từ chối của Gide như một cách quý phái để gìn giữ cái cô đơn không chạm tới được của một người lạ ; một Người Xa Lạ.

[LN dịch]


Ghi chú trong ngày


Lolita vs BHD


Cali Tháng Tám 2011

Toi dang viet ve bai tho Bien
H.A cho phep dung may cai mail dau
Hw?
Gui kem,
Tks

Wed, 10 Feb 2010 13:05:28 -0800

"Biển" cuả ông đang quạnh quẽ, buồn thăm thẳm và lạnh băng...
Đẹp như vậy mà sao không để cho nó được yên hở Gấu Nhà Văn?
H.A

Cái tít làm Gấu nhớ bài viết về 1 bạn quí, những ngày mới vô làng.
“Khí hậu ẩm ướt trong thế giới tiểu thuyết NDT.”
Bài đăng trên Nghệ Thuật. VL đọc bản thảo, nghiêm giọng phán, mày viết sao là nó mang cái tên của mày, ký ở dưới bài viết đấy. 

Ý anh muốn nói, mày thổi bạn quí vừa thôi.
TTT cũng đi 1 đường, tương tự, khi GCC viết về 1 đấng bạn quí khác. 

Cái khí hậu của TV, thì cũng là cái khí hậu tâm thần của Sebald, theo GCC
Sau cuộc chiến [Mít], nếu bạn vẫn là con người, thì không thể lành lặn được.
Phải có 1 cái gì ở trong bạn bị hư, hỏng, hoặc trục trặc, lâu lâu dở chứng. 

NQT


HTL vs CVD 

Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật Bản thành công với cuộc Duy tân 1867–1895, vì đã gửi sinh viên đi khắp thế giới với chủ đích là để học hỏi và dịch thuật tầm tri thức mũi nhọn của châu Âu. Và trong hai thập niên 1960–1980 Hàn Quốc đã động viên toàn bộ sinh viên du học và trí thức để dịch thuật hàng ngàn tác phẩm kinh điển cho học sinh và nhân dân trong nước có thể theo kịp với thế giới. Đã đến lúc chúng ta phải biết hổ thẹn. (1)

Chúng ta nên biết hổ thẹn, không làm như Nhật Bản, hay Hàn Quốc, hay nên tự hào, vì có Cớm Văn Hóa, có kiểm duyệt?
Một thằng chăn trâu học lớp 1, hay 1 tên y tá dạo lên làm Thủ Tướng, thì cần gì đến phiên dịch?
Trên thế giới có trường hợp nào như trên?

Tệ như Râu Kẽm, bé không học, lớn làm Phó Tông Tông Ngụy mà cũng còn có Thầy là Vũ Khắc Khoan, Thầy của GCC, nữa là!

Mưa rơi đâu cần phiên dịch?
Bom hẹn giờ cũng không.