*

Tribute
1
2
3
4
5



























Nhân nói về độ lùi cần thiết để có cái nhìn toàn diện về một cuộc chiến, tôi lại nhớ tới câu chuyện nhà văn Bùi Bình Thi kể trên báo Văn nghệ: Lần ấy, Tổng Bí thư Lê Duẩn ghé thăm các nhà văn ở một trại sáng tác. Khi Tổng Bí thư hỏi một nhà văn quân đội đang viết gì, nhà văn quân đội trả lời rằng ông đang viết về Huế những ngày máu lửa Xuân Mậu Thân 1968. Trong câu chuyện, ông không quên buông câu cảm thán, đại ý, năm đó ta tổn thất nặng quá. Nghe nhà văn nói tới đó, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã hết sức ngạc nhiên. Tổng Bí thư nói: “Mỹ nó mạnh thế, nếu ta không chịu tổn thất làm sao đánh thắng được”.
Có thể nói, đây là một quan điểm rất biện chứng, đáng để các nhà văn trăn trở với đề tài này phải suy ngẫm.
Nguồn
Note: TBT Lê Duẩn máu chẳng thua gì Võ tướng quân!
[General Vo Nguyen Giap, told me in Hanoi in 1990, his principal concern had been victory. When I asked him how long he would have resisted the U.S. onslaught, he thundered, "Twenty years, maybe 100 years-as long as it took to win, regardless of cost." The human toll was horrendous. An estimated 3 million North and South Vietnamese soldiers and civilians died.]
Cuối thế kỷ, tờ Time ra số đặc biệt về những nhà lãnh đạo, cách mạng. Chọn người viết về những nhân vật như vậy, chắc cũng nhức đầu. Lênin 'về tay' David Remnick, ký giả Mỹ, tác giả Ngôi Mộ Lênin, (Pulitzer 1994). Remnick cho thấy, quan niệm về một Lênin-ông thiện, và Stalin-ông ác đã trở thành chuyện tiếu lâm: Gần như mọi chính sách của Stalin đều bắt rễ từ chủ nghĩa Lênin. Những trại tù đầu tiên, nguỵ tạo nạn đói, và dùng nó như là một vũ khí chính trị; phát động cuộc chiến chống lại tầng lớp trí thức, những tín đồ tôn giáo... là của ông. Trên tất cả, là sự độc ác, như trong một lá thư gửi cho lãnh đạo địa phương: Các đồng chí!  Phải treo cổ (không được để hụt một thằng nào, để cho tất cả mọi người thấy, run sợ), ít nhất là vài trăm mạng... Bertrand Russell, trong lần đầu gặp gỡ Lênin, May 19, 1920, đã ghi lại cảm tưởng: ông ta hay cười... nụ cười có vẻ thân thiện & vui nhộn, nhưng dần dần người ta nhận ra nét nghiêm khắc, vẻ tàn nhẫn.
Ông Hồ 'thuộc về' Stanley Karnow, Pulitzer 1990 với Hình ảnh của chúng ta: Đế quốc Mỹ ở Phi Luật Tân. Còn là tác giả Việt Nam: Một Lịch sử. Tác giả nhận định, ông Hồ, kẻ mơ mộng mắt sáng, (a cleared-eye dreamer), đã gả 'cô dâu-chủ nghĩa quốc gia' cho 'chú rể-chủ nghĩa CS'; và hoàn thiện tới mức tuyệt hảo, nghệ thuật giết người: chiến tranh du kích. Cả người Pháp, rồi sau đó, người Mỹ, đã coi thường lời cảnh cáo của ông, về những sinh mạng mà ông ta cần, để thực hiện giấc mộng thống nhất đất nước. Ngay năm 1946, ông 'hăm' người Pháp: Các ông có thể giết mười người của tôi, đổi lấy một người của ông. Cho dù chênh lệch như vậy, các ông sẽ thua, tôi sẽ thắng. Với người Mỹ, là qua lời Võ Nguyên Giáp, vào năm 1990. Khi được hỏi, bao lâu, ông Giáp trả lời: hai chục năm, có thể một trăm năm, khi nào thắng thì thôi, bất kể tổn thất. Con số tổn thất, như người ta được biết, là 3 triệu người Nam và Bắc, binh sĩ và thường dân.
Nguồn

*
*

BBC: Thưa ông, từ 'hèn' tới 'hết hèn' là cả một quãng đường dài. Lúc nào thì ông cảm thấy mình đã 'hết hèn'?
Nhạc sỹ Tô Hải: Ngay từ khi tôi mới vào Sài Gòn này, khi tôi thấy là cái gọi là chủ nghĩa cộng sản chẳng có thật ở Việt Nam bao giờ.
Khi tôi vào Đảng, tôi nghĩ là để làm theo đúng những gì ông Marx, ông Lenin nói. Té ra là không phải. Anh lên nắm chính quyền, từ chính quyền xã, thì đều là "Mỗi người làm việc bằng hai, để ông chủ tịch mua đài mua xe".
Trong hồi ký tôi có viết một câu: "Sau cải cách ruộng đất tôi bỗng tỉnh người ra, té ra là chưa
bao giờ có chủ nghĩa cộng sản thực sự".
Thế nhưng cuốn sách của tôi chủ yếu chỉ nói về các sai lầm, tội ác đối với văn nghệ thời xưa mà thôi. Như chúng tôi đã phải khổ, phải hèn như thế nào.
Ăn lương nhà nước mà không viết lách thì bị kiểm thảo, thậm chí viết những cái vô thưởng vô phạt mà người ta còn bắt bẻ.
Những cái đó bây giờ các ông lãnh đạo ngày hôm nay đã sửa rồi, đã cho phục hồi Tự lực Văn đoàn, tặng giải thưởng cho Nhân văn Giai phẩm, cho tái bản Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trần Dần, đã cho đặt Lê Đạt vào nhà tang lễ của nhà nước.
Các ông ấy đang sửa, chỉ có điều các ông ấy chưa công bố chính thức, chưa xin lỗi đồng bào.
Mà tôi nghĩ các ông ấy bây giờ cũng không phải cộng sản như kiểu Karl Marx, Lenin-Stalin nữa.
BBC
Nhạc sĩ Tô Hải là tác giả bài Nụ Cười Sơn Cước, Gấu cực mê, nhưng cứ lầm hoài với bản nhạc khốn nạn, "có anh du kích miệng cười khúc khích, biết đâu sơn nữ nhìn mình đăm đăm!" [Sơn nữ ca].

Tô Hải
Nụ Cười Sơn Cước
Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi,
mây mờ buông xuống núi đồi
và trong lòng mưa hơn cả ngoài trời.
Cỏ cây hoa lá, thương nhớ mãi người đi
và dâng sầu lên mi mắt người về.
Thơ thẩn đàn chim ngừng tiếng hót,
và mưa Xuân đang tưới luống u sầu,
buồn cho dòng nước mờ xóa bóng chim uyên
và gió chiều còn khóc thương mãi
mối tình còn vấn vương.

Ai về sau dãy núi Kim - Bôi,
nhắn giùm tim tôi chưa phai mờ,
hình dung một chiếc thắt lưng xanh,
một chiếc khăn màu trắng trăng,
một chiếc vòng sáng lóng lánh,
với nụ cười nàng quá xinh.
Nàng ơi, tôi đã rút tơ lòng,
dệt mấy cung yêu thương
gởi lòng trong trắng,
của mấy bông hoa rừng
đời đời không tàn với khúc nhạc lòng tôi.
Nguồn Đặc Trưng
“Và trong lòng mưa hơn cả ngoài trời”!
Bảnh thật!
Làm nhớ bài hát của Tây mũi lõ, cái gì gì, mưa rơi trên đường chưa ghê gớm bằng mưa trong tim tôi!
Làm nhớ Mưa, Miêu, CM!


Nghe bài hát đầu “Xuân”
Bài này, nếu lời chỉ giản dị như vậy, làm sao bị cấm hát, và Mùa Xuân đầu tiên chỉ tìm ra được tiếng hát của nó, lần đầu tiên trên đài Mút Cu Va?
Qua một ông bạn, cũng quen biết Lý Đợi, bài ca chết, vì tiên tri cái chết của Đỉnh Cao Chói Lọi, qua câu hát:
Từ đây người biết quên Người.
Như tinh thần bài viết cho thấy, quả có một thời kỳ huy hoàng thật ngắn ngủi, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trước khi đất nước bước vào cơn Đại Suy Thoái, Cơn Băng Hoại, Trận Đại Hồng Thuỷ, Cả Nước Đua Nhau Chạy Ra Biển, Trận Đại Dịch biến đổi gien, khiến VC biến thành ruồi, thành bọ.
Koestler đã từng gọi thời kỳ này, The Heroic Age, của lịch sử nhân loại, trước khi bước vào Dark Interlude, tức thời kỳ hơi bị được chúc dữ bởi cái vòng tròn, (1) y hệt sau này, nhân loại lại đắm chìm vào chủ nghĩa CS không tưởng.

(1) Huyền thoại về cái vòng tròn tuyệt hảo có cội nguồn thật xa xưa, và có quyền năng phù thuỷ. Vả chăng, nói cho cùng, vòng tròn là một trong những ký hiệu cổ xưa nhất. Cái nghi lễ vẽ một cái vòng tròn chung quanh một con người, là để ngăn chặn mọi quỷ ma muốn ám hại anh ta, và đánh dấu một thánh địa, mà con người là trung tâm của nó.
Người đầu tiên phát triển một vũ trụ hình e líp, là Apollonius of Perga. Hai ngàn năm sau, Johannes Kepler, vẫn bị ám ảnh bởi vòng tròn tuyệt hảo, đã ngần ngại chấp nhận quỹ đạo bầu dục của của các hành tình, như ông viết, "bởi vì nếu mọi chuyện giản dị như thế, thì vấn đề này đã được Archimedes và Apollinus giải quyết từ khuya rồi."
Arthur Koestler. The Sleepwalkers: A History of Man’s Changing Vision of the Universe. Những kẻ mộng du
*
Gấu đi tù sau 1975 cũng khá sớm, đúng vào lúc có chính sách Kinh Tế Mới, và lần đầu tiên nghe bản nhạc Con Kinh Ta Đào, như một tên tù, trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và sững sờ đến nghẹt thở, sao nó đẹp như thế, đúng với tình trạng của Gấu như thế, và đúng với cả Miền Nam như thế, trong khí thế bừng bừng Thanh Niên Xung Phong như thế, thế, thế, thế!
Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng…
Ui chao cái lũ Yankee mũi tẹt đã lấy đi của dân Mít chúng ta giấc mơ đẹp nhất, kể từ khi có giống dân Mít, khi đầu hàng Cái Ác Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn (1), khi gục ngã trước Phồn Vinh Giả Tạo, tức cứt của Mẽo, khi lũ Yankee mũi lõ phải bỏ của chạy lấy người, và bây giờ tiếp tục ăn cứt của Mẽo, và của Tẫu, khi nhường biển, nhường núi cho chúng.
(1) Xin xem Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Ai điếu Gregor Samsa
Frank Humes
Đây là câu chuyện một người con trai, cũng là người lo cơm áo cho cả gia đình, một buổi sáng ngủ dậy, thấy biến thành con bọ...
Gregor Samsa vừa mới qua đời do một hiện tượng không thể giải thích nổi. Samsa, một người bán hàng vải luôn phải nay đây mai đó, rất chịu thương chịu khó, công việc làm ăn đang trên đà thuận lợi, thế mà tự dưng lăn ra chết.
Dư luận xì xào, Samsa là nạn nhân của một chứng bịnh lạ, chỉ  trong một đêm, nó biến đổi hẳn hình dạng người bệnh. Người ta tin rằng chỉ trong một đêm, Samsa biến thành một con bọ ghê tởm (a "monstrous vermin"); nhưng hỡi ơi, những chi tiết về chuyện này chưa được xác nhận. Sau sự "hoá thân" này, Samsa được gia đình săn sóc, trong bộ dạng mới của anh, với hy vọng anh hồi phục, (nghĩa là) thoát ra khỏi tình trạng đó. Vào lúc này, nhà chức trách đang xem xét thi thể mong tìm ra nguyên nhân đích thực của cái chết.
Gregor Samsa để lại sau anh một gia đình thân thương mà anh hết lòng lo lắng. Tai ương làm bà mẹ Samsa bối rối nhưng có vẻ như bà cam chịu, bằng lòng với cuộc đời còn lại của bà. Bà thừa nhận, Gregor đã làm việc cực nhọc, chẳng bao giờ được ở nhà, có thể vì vậy mà tai ương đã giáng xuống mái đầu xanh. Bà cũng ghi nhận một điều, đây là bổn phận của anh, phải kiếm tiền bạc lo cho những người còn lại trong gia đình, bởi vì người cha vừa mới về hưu. Bà nhấn mạnh vào điều này, bởi vì bà tin tưởng nếu con bà cần một dịp nghỉ ngơi, chắc chắn là nó đã làm việc đó rồi, khi có dịp thuận lợi.
Người cha tỏ ra cứng cỏi suốt thời gian xẩy ra câu chuyện. Mất đứa con thực là bi thảm, nhưng ông cũng coi đây là cơ hội cho gia đình xúm nhau lại cùng vượt qua cơn khủng hoảng. Người anh Samsa thôi nghỉ hưu và có ngay một việc làm tại một ngân hàng để bù lại số thu nhập đã mất.
Người cha của Samsa đã coi biến cố như là một cơ hội để bắt đầu một giai đoạn mới trong gia đình. Ông giải thích Gregor đã ngã xuống vì bịnh hoạn, làm cả nhà đau đớn khá lâu, và bây giờ như vậy kể như mọi chuyện đã ngã ngũ, và đây là một tia sáng mới cho gia đình.
Em gái Samsa, Greta, (1) tỏ ra đau đớn nhất vì hậu quả của tai ương, bởi vì hai anh em thật thân cận; tuy nhiên, có vẻ như cô cũng muốn bỏ hết mọi chuyện ở phía sau. Cha của cô đồng ý một điều, cuối cùng cô là người được hưởng lợi. Lý do là mọi chuyện hầu hạ con bệnh là ở cô; từ những kinh nghiệm này, chuyện tình cảm, chuyện tinh thần, ngay cả chuyện thể xác, cô đã lớn lên nhiều, có lẽ vậy. Cha cô chỉ ra rằng thời kỳ vừa qua là một tai họa cho cô nhưng bây giờ, khi nó chấm dứt, cô như một bông hoa mới nở.
Những phản ứng của những người trong gia đình cho thấy, cái chết của Gregor Samsa có lẽ không bi đát như vậy đâu. Anh hết còn phải nay đây mai đó mời chào năn nỉ người ta mua hàng, và đã hất đi được gánh nặng phải lo lắng cho gia đình. Có thể suy ra một điều là, ngay chính Gregor, do ý thức tới chuyện cơm áo của gia đình, đã muốn thà chết đi còn hơn là một tội nợ cho cuộc sống của họ. Điều thực sự bi đát ở đây là, sau những diễn biến như trên, cái chết của Gregor Samsa sẽ không được nhắc nhở gì tới nữa.
Note: bài ai điếu này, có thể được đọc, bằng viễn ảnh một giải Nobel cho Mít. Samsa của Kafka, anh bộ đội của Cụ Hồ, xả thân vì nghiệp lớn, một buổi sáng 30 Tháng Tư, ngủ dậy, thấy biến thành bọ…
(1) Gấu bỗng liên tưởng tới em Vàng Anh, HTL!
*
Bài Mùa Xuân Đầu Tiên, do những câu như: "Từ đây người biết quên Người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu Đời...",  ngay sau khi sáng tác xong, đã bị cấm. Nơi trình diễn đầu tiên, mùa xuân đầu tiên của bài hát, là đài phát thanh Moscow, nơi cất lên những âm thanh, và những lời ca đầu tiên của nó.
Câu hỏi của người con Văn Cao, "Vậy là bố lại sáng tác ca khúc?", là muốn nhắc tới lời của ông bố, trong cuộc nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sau đăng trên Hợp Lưu, trích đoạn:
Hồi nhận viết Tiến Quân Ca tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy. Thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng và chỉ viết nhạc không lời.
Tên Văn Thao, liệu là từ Sông Thao mà ra?
*
Entry for October 07, 2008
Writing without frontiers ... Mario Vargas Lllosa


*

He's following in the footsteps of Roger Casement, a British consul turned Irish nationalist who was hanged for treason in 1916 and painted as a paedophile by the British government for what he is said to have written in the so-called Black Diaries. Casement is to be the protagonist of "a novel that will take place in Ireland, Congo, in Berlin and the Amazon, including places I have never been to, such as Ulster," he says, with genuine excitement at the prospect of the journey that awaits.
"There are many things that haven't changed in Congo. It is one of the most tragic countries in the world, which endured a terrible colonial experience [at the hands of brutal Belgian king Leopold II]. And it has only got worse since," he says.
"It is calculated that in the last 10 years four to five million people have been killed in Congo, yet it barely gets reported in the newspapers. In many ways the Congolese are still living with the same problems they faced in the era of Conrad and Casement."
Ông ta [Llosa] đi theo những vết chân của Roger Casement một nhân viên Hồng Mao trở thành một nhà ái quốc Ái nhĩ lan và bị treo cổ vì tội phản quốc vào năm 1916… Casement sẽ là một nhân vật trong một cuốn "tiểu thuyết đặt để tại Ái nhĩ lan, Congo, Berlin, và Amazon, bao gồm cả những nơi chốn mà tôi chưa tới như Ulster”, ông nói, thực tình hào hứng về viễn tượng một chuyến đi đang chờ đợi.
“Có rất nhiều điều chẳng thay đổi ở Congo. Đó là một trong những xứ sở thê thảm nhất trên thế giới, nơi đã trải qua kinh nghiệm thực dân thuộc địa khủng khiếp, và cứ tệ mãi đi kể từ đó". "Theo như tính toán thì trong 10 năm vừa qua, từ bốn đến năm triệu người đã bị giết ở Congo, nhưng báo chí gần như vờ luôn. Trong rất nhiều đường hướng, người dân Congo vẫn sống với cùng những vấn đề mà họ đã đối diện thời kỳ có Conrad và Casement."
Không hiểu cái tên ngu đần chê bai, dè bỉu phim Tận Thế Là Đây của Coppola, và còn viết ra điều đó bằng tiếng Anh tiếng U, đăng trên Guardian, đã vỡ cái ngu ra chưa, khi gọi đó là Khải Huyền Dối Trá?
Coppola, khi làm phim trên, đã mường tượng ra được, có một cái gì đó nối kết một xứ sở Mít, thời nội chiến lần thứ hai, với một Congo thời Conrad.
Tận Thế Là Đây là Việt Nam! Khủng khiếp thật!

Roger Casement vs The British Empire
Entry for June 17, 2008
**
Quảng cáo không công cho MT!
*

The intense fight at Binh Ba [June 6, 1969] left 91 regulars of the NVA's 1st Battalion, 33rd Regiment dead. Only one member of the Australian Task Force, Private Wayne Teeling, was killed in the action.


Ác mộng "lắc"là một bài viết ở trong nuớc, trên tờ An Ninh thế giới cuối tháng, số 70, Tháng Năm, 2007.
Một ghi chép, nhân một lần xâm nhập một ổ lắc, tại Hà Thành. ["Ông em, mở cửa cho anh lên chỗ 'cái' Hoa"].
"Tôi chợt nhớ một đoạn viết của nhà văn nữ mà tôi kính trọng, thay cho lời kết, dẫu con nhà giầu hay nghèo, thì cũng có nhu cầu được hưởng thụ những giấc mộng lành... Thực sự con người, khác với muôn loài, không thể sống thiếu những giấc mộng. Ảo giác là phóng đại khát vọng làm một cái gì đó khác thường... Đương nhiên con người cần những giấc mộng lành hiền, cần những giấc mơ bay chứ không phải ác mộng."
*
Martin Amis, trong Koba, the Dread, trích dẫn một triết gia Nga, hai 'thuốc lắc' làm bệ phóng ác mộng Bolshevik, two ingredients of Bolshevik elan: chê cái tầm thường, muốn cái khác thường, muốn làm kinh ngạc toàn thế giới, [disdain for the trivial and the desire to astonish the world].
Theo nghĩa đó, ác mộng lắc, và "giấc mộng lành, hiền", giải phóng Miền Nam, là cùng nguồn hứng khởi.
Giấc mộng lành hiền biến thành ác mộng, từ đó đẻ ra mọi ác mộng, mọi sa đọa ở trong nước.
Đây vẫn là hiện tượng Chúa Sẩy Thai.

Baal 

Vào mùa hè năm 1862, Dostoevsky làm một chuyến ngao du Pháp và Anh, và sau đó đẻ ra bài viết, Ghi chú Mùa Đông Ấn tượng Mùa Hè, Winter Notes on Summer Impressions.
Chương 5, viết về London, có tên là Baal, bởi vì có vẻ như con người ở đây chỉ là mồi ngon cho vị thần của Syria và Canaan, mà tên tiếng Anh, có nghĩa là "Lord".
Không ai, kể cả Dickens, trong những trang đen tối nhất của ông, viết ra những điều thê thảm, dữ dằn đến như thế - như là Dos. viết - về thủ đô của chủ nghĩa tư bản, vào thời kỳ đó.
Chắc chắn rồi, là người Nga, ông không ưa Tây Phương, nhưng sự căm phẫn về mặt đạo đức của Dos. thì thật là khủng khiếp, và những miêu tả của ông, thì hiện thực đến nỗi, thật khó mà không tin ông. Nghèo đói khủng khiếp, lao động nặng nhọc, tệ nạn say sưa, đĩ điếm, rất nhiều người dưới tuổi vị thành niên, chứng tỏ một điều, giai cấp ngồi trên đầu nhân dân, đã hy sinh nhân dân của họ, cho ông Thần Tiền, the Baal of money.
Thành thử chẳng có gì là ngạc nhiên, khi, cũng chính từ thành phố đó, Marx đưa ra những lời tiên tri của ông, và những lời tiên tri đó, tức chủ nghĩa Cộng Sản, máu đến như thế, hận thù đằng đằng đến như thế!
Milosz's ABC's
Đọc những gì Dos phán về London, cứ nghĩ, ông phán về... Hà Nội, về Đất Bắc.
Không tin? Đọc Ác Mộng lắc, Gạ Tình Lấy Điểm, Quỉ Râu Xanh LQD, Ba Người Khác

Tags: | Edit Tags



Solz vs Karadric

So sánh Radovan Karadzic với Alexander Solzhenitsyn là việc vô nghĩa lý nhưng suy nghĩ về hai nhân vật trí thức của thế giới cộng sản châu Âu là việc cần thiết.
BBC
Chúng ta tự hỏi, liệu có thể so sánh hai tay này? Quả là vô nghĩa lý.
Cần thiết? Cũng không, theo Gấu.
Bởi vì mỗi trường hợp một khác.
Có vẻ như, mấy tay Yankee mũi tẹt này chẳng rành gì về thế giới, sau khi ra khỏi cái hang Plato, là Miền Bắc CS!
Cũng cố cập nhập, nhưng thiếu cái quá khứ nhân bản, nhân văn của cái phần của nhân loại không CS, lại chỉ đọc vội ba thứ thời sự nóng bỏng, cái chết của Solz, cái vụ trùm Karadzic bị bắt, rồi quàng vào nhau, viết bậy viết bạ, cho ra vẻ cũng "đau đáu"....!


Tại sao chúng ta nên hủy bỏ giải Nobel Văn học?

Thông thường, Viện Hàn lâm đề cao những nhà văn cánh tả như Sinclair Lewis, Gunter Grass, Jose Saramago, Pablo Neruda hoặc Jean-Paul Sartre. Những nhà văn Mỹ từng giành giật được giải thưởng này là một nhóm khá pha tạp như: tác giả chống tư bản John Steinbeck, nhà văn hạng xoàng Pearl S. Buck.

Đề cao những nhà văn cánh tả, vậy mà đề nghị nên huỷ bỏ ư?
*
Việc trao giải Nobel cho một nhà văn chẳng mấy ai biết, thí dụ như năm nay, và luôn cả mấy năm trước, theo thiển ý, là một trong những chuyển hướng lớn lao nhất của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, và - vẫn theo thiển ý – nó xoay quanh trục Lò Thiêu, và câu nói nổi tiếng của nhà văn, nhà học giả Đức gốc Do Thái, Walter Benjamin, một nạn nhân của Nazi: Mọi tài liệu về văn minh là một tài liệu về dã man.
*
Loyauté

par DUONG THU HUONG
Trung

Trung là đức tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần tử, phải trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều này. [Khi nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và thốt lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ, với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ Vua qua Đảng là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống Mỹ. Thực tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi lại phải mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như những xác chết thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn.
Năm 1991, tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám chống Đảng. "Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ lên một uỷ ban trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính trị gồm 13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu đần, bại hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu phải là ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải trung với chúng?".
Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt nó, là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung chỉ có nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn lựa và đảm nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một thánh tượng tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường của tôi, cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi mới hiểu và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi nghĩ, là nhà văn là kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải chiến đấu với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng, những kẻ khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng. DTH

Tags: | Edit Tags

Saturday August 2, 2008 - 05:55am (PDT) Edit | Delete

Comments

(1 total) Post a Comment

bài này hay quá, cám ơn bác đã post.

Saturday August 2, 2008 - 09:40pm (ICT) Remove Comment


Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu. Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
Mưa Trịnh buồn. Gió Trịnh buồn. Tình Trịnh buồn (”một người về đỉnh cao, một người về vực sâu, để cuộc tình chìm mau…” - “Tình nhớ”). Đời Trịnh càng buồn hơn. Cát bụi mệt nhoài (”Cát bụi”). Cánh chim bỏ rừng,… trái tim bỏ tình. (”Cho một người nằm xuống”). Nhưng với tôi, nhạc Trịnh là liều thuốc giải.

*
Tác giả viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, rồi thừa cơ, gài vô đoạn trên đây, có những câu:
Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu
Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
Hoài Phi [talawas]
Đây có lẽ là bài ai điếu đầu tiên dành cho Miền Nam của một người Miền Bắc.
Mà sao ai cũng chết?
Tưởng là viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, nhưng chính nó là đích danh thủ phạm.
*

Bài này, nếu lời chỉ giản dị như vậy, làm sao bị cấm hát, và Mùa Xuân đầu tiên chỉ tìm ra được tiếng hát của nó, lần đầu tiên trên đài Mút Cu Va?
Qua một ông bạn, cũng quen biết Lý Đợi, bài ca chết, vì tiên tri cái chết của Đỉnh Cao Chói Lọi, qua câu hát:
Từ đây người biết quên Người.
Như tinh thần bài viết cho thấy, quả có một thời kỳ huy hoàng thật ngắn ngủi, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trước khi đất nước bước vào cơn Đại Suy Thoái, Cơn Băng Hoại, Trận Đại Hồng Thuỷ, Cả Nước Đua Nhau Chạy Ra Biển, Trận Đại Dịch biến đổi gien, khiến VC biến thành ruồi, thành bọ.
Koestler đã từng gọi thời kỳ này, The Heroic Age, của lịch sử nhân loại, trước khi bước vào Dark Interlude, tức thời kỳ hơi bị được chúc dữ bởi cái vòng tròn, (1) y hệt sau này, nhân loại lại đắm chìm vào chủ nghĩa CS không tưởng.

(1) Huyền thoại về cái vòng tròn tuyệt hảo có cội nguồn thật xa xưa, và có quyền năng phù thuỷ. Vả chăng, nói cho cùng, vòng tròn là một trong những ký hiệu cổ xưa nhất. Cái nghi lễ vẽ một cái vòng tròn chung quanh một con người, là để ngăn chặn mọi quỷ ma muốn ám hại anh ta, và đánh dấu một thánh địa, mà con người là trung tâm của nó.
Người đầu tiên phát triển một vũ trụ hình e líp, là Apollonius of Perga. Hai ngàn năm sau, Johannes Kepler, vẫn bị ám ảnh bởi vòng tròn tuyệt hảo, đã ngần ngại chấp nhận quỹ đạo bầu dục của của các hành tình, như ông viết, "bởi vì nếu mọi chuyện giản dị như thế, thì vấn đề này đã được Archimedes và Apollinus giải quyết từ khuya rồi."
Arthur Koestler. The Sleepwalkers: A History of Man’s Changing Vision of the Universe. Những kẻ mộng du
*
Gấu đi tù sau 1975 cũng khá sớm, đúng vào lúc có chính sách Kinh Tế Mới, và lần đầu tiên nghe bản nhạc Con Kinh Ta Đào, như một tên tù, trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và sững sờ đến nghẹt thở, sao nó đẹp như thế, đúng với tình trạng của Gấu như thế, và đúng với cả Miền Nam như thế, trong khí thế bừng bừng Thanh Niên Xung Phong như thế, thế, thế, thế!
Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng…
Ui chao cái lũ Yankee mũi tẹt đã lấy đi của dân Mít chúng ta giấc mơ đẹp nhất, kể từ khi có giống dân Mít, khi đầu hàng Cái Ác Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn (1), khi gục ngã trước Phồn Vinh Giả Tạo, tức cứt của Mẽo, khi lũ Yankee mũi lõ phải bỏ của chạy lấy người, và bây giờ tiếp tục ăn cứt của Mẽo, và của Tẫu, khi nhường biển, nhường núi cho chúng.

*
Amos Oz

Gấu đọc Oz lần đầu tiên, trên tờ The Partisan Review, đúng bài viết về Y sĩ đồng quê của Kafka, nhờ vậy ngộ ra liền, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, Cái Ác Bắc Kít, con quỉ nơi chuồng heo hoang vắng trong căn nhà của ông y sĩ đồng quê, tiếng gọi cấp cứu của con bệnh Miền Nam, và ông y sĩ vội vã lên đường, xẻ dọc Trường Sơn, và để đền ơn con quỉ ban cho cặp ngựa, đã hy sinh một cô Phương, cho đám bộ đội Cụ Hồ, trong một trận dội bom ga Thanh Hoá, và sau này nhà văn Bảo Ninh đã kể lại trong Nỗi Buồn Chiến Tranh....
Đọc bài của Oz, Gấu ngộ ra được nọc độc Kafka. Ngộ ra điều: Kafka viết dưới bóng tối Lò Thiêu, [khi đó chưa xẩy ra], Gấu đọc ông, dưới bóng tối Lò Cải Tạo.
Đừng nghĩ là Gấu này 'cường điệu'. Bạn thử đọc truyện Y Sĩ Đồng Quê, rồi tưởng tượng ra, anh nông dân Bắc Kít khù khờ của nhà văn Lê Lựu, anh cu Sài, thí dụ, trong ba lô có cái bát quí dành cho Miền Nam, hay nữ văn công kiêm nhà văn DTH, mà chẳng thấy y chang ông y sĩ đồng quê của Kafka, nghe báo động hoảng, có bệnh nhân thập tử nhất sinh, vượt mưa gió, đêm đen, bão tuyết, tới bên giường bệnh, thì mới biết là mình bị bịp.
Đâu có khác gì DTH ngồi bên vệ đường than khóc, mình bị Đảng lừa?
Anh Sài của Lê Lựu làm gì có cái bát dành cho Miền Nam!
Chỉ có vài cái ba lô mang sẵn từ Miền Bắc, để nhét chiến lợi phẩm!
*
Nhưng đọc Brodsky, nhất là thời thơ ấu, mới lớn của ông, ở trong thành phố St. Petersburg, thì Gấu mới thấy thấm thía những năm tháng Bắc Kỳ của thằng Mõ Phố mắt lác, là Gấu ngày nào!
Gấu nhà văn 
Cái sự hăm hở viết cho diễn đàn tà ma của Gấu, khi nó vừa xuất hiện, có thể do nhớ đến The Partisan Review, nơi tụ tập những cây viết bỏ chạy quê hương CS của họ, như Milosz, Manea, hay những nhà văn như Oz, ăn ngủ với kẻ thù, sống giữa hai lằn đạn...
Có vẻ như đám Yankee mũi tẹt ở hải ngoại chưa từng đọc, bất cứ một nhà văn, trong số họ.
*

Octavio Paz, trong Hành Trình, kể, Victor Serge khuyên ông nên đọc tờ Partisan Review.
Gấu cũng nghe theo lời khuyên này, đọc, và khám phá ra cả một lô những tác giả cần đọc, toàn những ông bỏ chạy "VC quốc tế" cả, thí dụ, Manea, Milosz.
Thêm ông Amos Oz, nhà văn Do Thái.
Gặp Oz, đọc ra Kafka.
Đọc những ông bỏ chạy "VC quốc tế", ngộ ra thân phận Gấu, hiểu ra, một phần nào, tại sao Gấu không bắt chước những ông như Lữ Phương, Đào Hiếu, chọn Bác Hồ làm minh chủ, chọn Mặt Trận làm nơi nướng bầu nhiệt huyết, đại khái vậy.
Nhưng đọc Trường hợp đồng chí Tulayev, mới vỡ ra, đây là đứa anh, hoặc em, song sinh của Đêm giữa ban ngày của Koestler.
Lạc Đường
*
Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, muốn hiểu con người sống như thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh. Còn nếu giờ đây có ai muốn đi tìm những trang sách diễn tả tình cảnh con người trong chiến tranh thì tôi khuyên họ hãy tìm đến phần văn học miền Nam. Đọc từ Võ Phiến, Mai Thảo, Y Uyên, Nhật Tiến, Thế Uyên… qua những tác phẩm của Nhã Ca, của Phan Nhật Nam, hay những bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn, chỗ nào tôi cũng thấy chiến tranh, xa gần đều có dây dưa tới chiến tranh.
VTN

Gấu thực sự tin tưởng, chỉ cần VC sụp, là chẳng ai thèm đọc văn học chiến công của Miền Bắc nữa. Thứ văn học có độc nhất một ông Tổng Biên Tập, như Đào Hiếu phán.
Bây giờ cũng đã chẳng ai thèm đọc! Nguyễn Khải chẳng đã than, than ôi thời lẫm liệt nay còn đâu?
V/v văn học Miền Nam. Coetzee, trong bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là đã "đặt một cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho văn học Nga cái chất quí hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng rác: Thân phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic perception of life.
Văn học Miền Nam, như thế, sẽ  vẫn được đọc, nghĩa là được lọc thải qua thời gian, và theo tài năng của từng tác giả. Một trăm năm sợ rụng dần, và còn lại chẳng là bao! Vả chăng, chỉ dây dưa tới chiến tranh không thôi, thì càng khó bền. Gấu đã cảm nhận ra điều này, khi viết về DNM:
Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến coi Dương Nghiễm Mậu có lẽ là người thành công nhất và sớm sủa nhất, sử dụng các kỹ thuật mới vào văn chương Việt Nam. "Trong cuốn truyện dài Con Sâu chẳng hạn, 'tôí không phải là một nhân vật nào, khi là nhân vật này, khi lại là nhân vật nọ; sự chuyển vị xẩy ra thoăn thoắt làm nổi bật sự thay đổi đột ngột những quan điểm nhìn sự vật khác nhau". Trong một bài viết của Mai Thảo, trong "Chân dung nhà văn", ông lại coi người tài hoa nhất của nhóm tiểu thuyết mới tại Việt Nam là Nguyễn Đình Toàn. Cả hai nhận định trên đều đúng, nếu chỉ nói về khía cạnh tài năng, nỗ lực cá nhân khi cố gắng làm mới văn chương Việt Nam. Nhưng bảo hai nhà văn nổi tiếng nói trên là thuộc nhóm tiểu thuyết mới, tôi muốn nói, như những người sáng tác theo quan điểm tiểu thuyết mới tại Pháp, điều này sợ chưa đủ sức thuyết phục.
Lucien Goldmann, trong bài viết "Tiểu thuyết mới và Thực tại", in trong cuốn "Xã hội học về tiểu thuyết", cho thấy, trong khi nhiều nhà phê bình, và đa số công chúng thưởng ngoạn, nhìn tiểu thuyết mới, như là những kinh nghiệm hoàn toàn có tính hình thức, hay một toan tính chạy trốn thực tại xã hội, hai tác giả đại diện chính của trào lưu này là Nathalie Sarraute và Alain Robbe- Grillet, ngược lại, đã muốn nói với chúng ta rằng, tác phẩm của họ được sản sinh từ một cố gắng - càng chân xác, càng cơ bản chừng nào hay chừng đó - nắm bắt thực tại thời đại của chúng ta. Họ là mhững tác giả hiện thực cơ bản nhất, triệt để nhất trong số những nhà văn hiện thực Pháp, nếu chúng ta quan niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn chương là sáng tạo bằng tưởng tượng ra một thế giới mà cơ cấu của nó tương ứng với cơ cấu thiết yếu của thực tại xã hội - một xã hội mà tiểu thuyết đã được viết ra từ trong lòng của nó. Một xã hội đã cưu mang, thai nghén ra tiểu thuyết. Và đây là giả thuyết của Goldmann: Trong các dạng văn học, tiểu thuyết là dạng liên can, tức thời nhất, và trực tiếp nhất, tới cơ cấu kinh tế, theo một nghĩa hẹp nhất của từ này. Tới những cơ cấu trao đổi và sản phẩm thị trường. Thực tại thời đại chúng ta cho thấy, nếu trước đây, con người là trung tâm vũ trụ, bây giờ đồ vật trở thành "thần vật". Liên hệ người-vật ngày càng nghiêng về phía đồ vật. Thế nhất quán mang tính cơ cấu "nhân vật-đồ vật" ngày càng biến đổi cùng với sự biến mất của nhân vật nhường chỗ cho đồ vật làm chủ. Từ đó, tiểu thuyết mới mang đủ thứ tên, phản-tiểu thuyết, phản-con người, phản-văn chương...
Nhìn từ quan điểm đó, chúng ta không thể nào coi Nguyễn Đình Toàn và Dương Nghiễm Mậu là những nhà văn tiểu thuyết mới. Nhân vật của Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến chua xót về sự cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan rã, cuối cùng lao vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ đạo đức bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông thường. Thế giới, khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối", trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân vật hầu hết là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam, trong khi chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả.
Tiểu thuyết mới ở Việt Nam
Đặng Tiến khi viết về TTT, đã cho rằng ông không có truyền nhân. Đúng, nếu nói về thơ, và lý do tại sao, Gấu đã nhận ra, khi so sánh thơ của TTT với của Milosz. Đó là thứ thơ trí tuệ.  Nhưng TTT có một ảnh hưởng rất lớn, ở những nhà văn cùng thời, với ông, như DNM, NDT, và sau này, sau 1975, phải kể cả Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp. Theo nghĩa, họ bắt đầu viết, khi TTT đã ngưng viết, hoặc ở những vùng đất, mà TTT không có tham dự, như chính ông tự nhận về mình, chưa từng bắn một phát súng, nếu phải so với Bảo Ninh, hoặc không có một quãng cách với nó, như NHT, thời gian ông này dậy học tại những bản làng miền núi phía Bắc, như NHT từng nhận định về ông, suốt ngày "úp mặt và núi", để đọc sách.


Gấu này cứ trở đi trở lại với kỷ niệm, cái lần vô một thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner lên, và nhìn ra cái trang Tin Văn sau này.
Nhân ngày 30 Tháng Tư năm nay, 2008, Gấu tự hỏi chính mình, "huyễn hoặc nào đưa đến huyền thoại Tin Văn", mô phỏng bạn hiền DT.
Và, làm sao "giải hoặc"?
Chỉ đến những ngày cuối đời, như ngày này, Gấu mới hiểu ra ngọn ngành.
Huyễn hoặc khủng khiếp mà cuốn sách gây ra ở nơi Gấu, chính là hình ảnh nhà văn Tam Ích, tà tà xếp những cuốn sách của ông thành một chồng, rồi tà tà leo lên, tròng cái thòng lọng vô cổ, rồi bye bye cuộc đời, sau khi đưa chân đá đổ chồng sách.
Trong cái chấn động mà những trang sách, những dòng chữ của Steiner gây nên ở nơi Gấu, có  hình ảnh của Tam Ích, như trên!
Cùng với hình ảnh đó, là lời than của ông: Tuổi trẻ của tôi đúng là thật tuyệt vời, nếu tôi không vớ phải những cuốn sách viết về Lò Thiêu.
Nếu như thế, Tam Ích đi theo Cộng Sản, là cũng giống như Koestler, khi gia nhập Đảng Cộng Sản Đức: Hitler ante portas? (1)
(1) Mấy chục binh đoàn VC đang chờ ở cửa ngõ Sài Gòn!
*
Marx lật ngược triết học Hegel, ra chủ nghĩa Marx.
Nếu như thế, Gấu lật ngược kinh nghiệm Tam Ích, ra trang Tin Văn, mà ở dưới nền của nó, là 'huyễn hoặc': Giả như dân Mít chúng ta, nhất là đám Yankee mũi tẹt biết đến Lò Thiêu, liệu có để xẩy ra Lò Cải Tạo?
*
Note: Một độc giả Tin Văn, mail, đưa ra một 'huyễn hoặc' thật là hắc ám:
Giả như dân Mít biết đến Lò Thiêu, và bèn hành xử y chang ông "Ba X" [Tam Ích] nào đó, thì mất mẹ giống Mít ư?

Ui choa thế thì khủng khiếp quá! NQT
Một độc giả trả lời liền, trấn an Gấu, chuyện khủng khiếp đó không thể xẩy ra. Chứng cớ:

From:
To:
Subject: Các anh vĩ đại quá! Chiến tranh độc ác quá!
Date: Thu, 01 May 2008 16:25:27 -0400

Anh phải biết vì sao “hai thằng” đánh nhau? Bảo Ninh nhìn thấy “thằng” nào cũng chết và chẳng thằng nào được cái quái gì? Cũng như lính Ngụy thấy quần áo lót của phụ nữ cũng bỏ đi xem, cái đó rất thật. Nhưng anh phải nhìn thấy khi anh ngồi trong nhà anh, có “thằng” vào giết vợ anh, giết con anh, đốt con anh thì phải đánh lại chứ? Bảo Ninh chỉ nhìn lúc đang đánh nhau, chứ không nhìn ra nguyên nhân đánh nhau. Đã là “trọng tài bóng chuyền” thì phải công bằng.
Nói thật, mình rất quý Bảo Ninh nhưng mình khác Bảo Ninh ở chỗ này, mình rõ ràng và khoa học hơn. Có thể do mình ở lính lâu quá.
Rất nhiều sinh viên ở Mỹ hỏi tôi: Vì sao Việt Nam phải đánh nhau?
Tôi nói: Các cháu, các em không biết rằng, nếu không đánh nhau, không có sự hy sinh của hàng triệu người, ai biết tới Việt Nam ở xó nào? Ai biết Việt Nam là cái gì?
*
Cũng cùng lý luận như vậy, một ông quan VC nổ với vua Thái Lan, dân Mít chúng tôi anh hùng, đã từng đánh thắng hai tên giặc ghê gớm nhất, sừng sỏ nhất, đã từng được nhân loại mơ ngủ dậy biến thành VC... và ông vua này nói, may quá, nước chúng tôi không đánh thắng ai hết, và cũng chẳng mong có ai biết đến nước chúng tôi!
*
Cái chuyện mấy anh VC tự hào về cuộc chiến, thì cũng được đi. Nhưng nếu là một người còn chút luơng tri, thì phải tự hỏi, tại sao sau chiến tranh, dân chúng hai miền ùn ùn bỏ chạy ra biển, tại sao bây giờ đất nước lại thê thảm đến mức như thế.
Nhưng Gấu sợ rằng, mấy ông này lại gân cổ lên: Thê thảm ở chỗ nào đâu?

Cái đoạn Gấu gạch đít ở trên, chắc là ngài Lê Lựu nói lộn. Lính Ngụy chưa từng biết "hàng có gân" là cái gì, nhưng quần áo lót phụ nữ thì rất rành, và có thể đó là một trong những lý do họ thua cuộc chiến!


Đã 34 năm trôi qua.hòa bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội.thay đổi số phận con người.Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hòa bình(1982). Nay nhìn lại, tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã” yên vị “ khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn Giải Phóng ”sen hay bùn” về danh xưng, khi nào thì gọi là thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi tp HCM, cái tệ nạn, cái xấu, cái "tồn đọng" thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo SGGP như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn, tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố”, tờ Sài Gòn Giải Phóng (nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)…Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN
(1982)
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
ngòi bút các anh thay súng
bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương,thi ca, sách báo
những vị giáo sư trên bục giảng đường
ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi-của chúng ta.
có tiếng cười
và tiếng khóc
3-
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
4-
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời.
Chửi hả hê.
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc,cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi,casette, radio…
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5-
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6-
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
để yên cho xương rồng ,gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào ”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân (1982)
(*) Năm 1995 nhà xuất bản Trình Bày có ý định in bài thơ này với cái tên tác giả "Chung Do Kwan" trong phần" thơ dịch". Bài thơ vẫn còn là "ý định" bởi sự cân nhắc cũng là nhã ý của nhà Trình Bày khi biết tác giả thật sự vẫn còn đang sống ở VN.
*
Về bài viết của tác giả Đỗ Trung Quân
Kính gửi: Ban Biên tập Diễn Đàn
Tôi thường vào Diễn Đàn để tìm đọc các bài viết về các vấn đề mình quan tâm. Sáng nay tôi thấy Diễn Đàn giới thiệu bài Về một bài thơ chưa từng được công bố của ông Đỗ Trung Quân. Tôi theo địa chỉ liên kết và đọc bài này. Cảm giác của tôi là hoàn toàn thất vọng về thái độ của tác giả bài thơ. Tôi cũng là một người lính Việt cộng có mặt ở Sài Gòn tháng 4.1975 và cũng là một nhà thơ. Tôi không bao giờ thích tranh luận ầm ĩ hoặc quy chụp bất cứ ai, dù ở phiá nào. Tôi chỉ muốn nói một điều với ông Đỗ Trung Quân: Ở đâu trên thế giới này cũng có kẻ tốt, người xấu. Trước một vấn đề, nhất là khi liên quan đến nhân cách, lòng tự trọng con người, chúng ta phải thận trọng khi phát ngôn. Đọc bài cuả ông Đỗ Trung Quân, tôi thấy mình bị xúc phạm. Tôi xin khép lại vấn đề này ở đây.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi tới Diễn đàn một bài viết của tôi.
Trân trọng kính chào.
Vũ Duy Chu
VIỆT CỘNG
Tôi là Việt cộng bằng thịt bằng xương, cao một mét sáu mươi tư, nặng bốn mươi kilogram
Ai bảo chúng tôi có đuôi và sáu thằng đu không gẫy một cọng lá đu đủ?
Sài Gòn tháng 4 -1975
Mỗi đêm tôi tự véo tai để biết rằng mình không mơ ngủ
Im tiếng súng rồi ư?
Hoà bình rồi ư?
Đứng trên ban công nhìn xuống phố lô xô
Đồng đội tôi không lẫn vào đâu được
Những bước chân nhấc cao
Quen rừng sâu rễ cây mấp mô, tuột quai dép lốp
Dạo phố chiều mộng du sải bước
Như thể đang hành quân
Quen gối đầu lên ba lô, quen nằm võng lưng tôm
Nằm giường không sao ngủ được
Công tắc đèn ai bật nghe cái tạch
Thoáng giật mình
Việt cộng từ rừng về phố văn minh
Những ánh mắt hoài nghi
Bao xã giao dò xét
Vẫy xe lam, bác tài phanh kít
Xuống xe bác tài nhìn… rồi không nhận tiền
Không cần nhớ những lời dặn dò của Chính trị viên
Về tới Sài Gòn
Đâu phải để kiếm bạc tiền
Ta mới gần bảy năm xa nhà
Bạn ta đứa mười năm
Và những người lính tóc hoa râm
Tôi là Việt cộng có khác chi không em?
Ôi hương tóc em
Thức trong tôi một chàng trai hai mươi sáu tuổi
Lần đầu tiên biết mình yếu đuối
Biết thương cô gái quê xa không đợi được người về
30.4
Thành phố màu cờ
Buổi sáng này ba mươi tư năm trước
Triệu người lính Việt cộng đã trở về
Triệu người lính nằm lại những cánh rừng xa lắc
Ba mươi tư năm
Rưng rưng dọc miền ký ức.
Sài Gòn, 4 .2009
V.D.C
Đôi lời nói thêm
Khi giới thiệu “một bài thơ chưa từng công bố” của Đỗ Trung Quân (trong mục Thấy trên mạng ngày hôm qua), chúng tôi không giới thiệu nó như một “bài thơ hay”, hoặc một tuyên ngôn có tính chất “chân lý” gì về toàn bộ phía những người “Việt Cộng”. Đơn giản, nó là một tâm cảm, được “dẫn dắt” bởi những trải nghiệm của tác giả trong môi trường sống của anh, trong khoảng thời gian ấy. Và chúng tôi cũng đọc bài thơ trong thư độc giả VDC trong ý đó. Theo chúng tôi, cả hai tâm tư đều được diễn tả một cách chân thật, và đều phản ảnh khách quan một góc nhìn thời sự, nếu chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn, cũng không có gì lạ. Chúng cần được biết đến, tôn trọng, cũng như vượt qua. Tóm lại, khi giới thiệu bài thơ của Đỗ Trung Quân cũng như khi đăng nguyên văn thư của độc giả VDC và bài thơ của ông, chúng tôi chỉ có ý giới thiệu hai chứng từ, hoàn toàn không muốn gây ra một cuộc tranh luận nào về lý lẽ hay về nghệ thuật.
(H.V.)
*
Note:
V/v
-“Chúng tôi có đuôi”: Thế Giang bảo vậy. Ông còn viết cả một cuốn sách về nó.
-“sáu thằng đu không gẫy một cọng lá đu đủ”. Đây là một hình ảnh có thực, về những VC nằm vùng, trong những năm còn Diệm. Do tình báo của Diệm bảnh quá, mấy anh VC phải nằm dưới hang dưới hố, sống nhờ các bà mẹ huyền thoại TCS, chỉ đêm mới dám chui lên. Do ăn uống không đầy đủ, thiếu ánh sáng mặt trời, anh nào anh nấy xanh như tầu lá, nhẹ tênh, thành thử "sáu anh đu cọng đu đủ không gẫy" là chuyện có thực, không phải để chế riễu, có thể, nhưng đúng ra, là để khiếp sợ sự hy sinh, chịu đựng gian khổ của họ.
Gấu này đã từng nghe, một vị tỉnh trưởng kể về vụ này. Ông cho biết, khi nhìn thấy một anh VC chui ra khỏi hầm là ông ngộ ngay ra là VNCH thua rồi!
Ký giả Phan Nghị, trong một loạt bài viết về đường Trường Sơn, cũng đã mô tả gót chân của dũng sĩ VC: Do đi chân trần, nên da lòng bàn chân của họ dầy đến nỗi không cần giầy dép... Nike!

Những hy sinh như thế, chỉ để có được một đất nước điêu tàn như ngày hôm nay. Đó là lý do DTQ cho post lại bài thơ của ông, theo Gấu.
-V/v Những câu Tin Văn gạch đít, trong bài thơ: Gấu này cũng có cảm giác như nhà thơ DTQ khi đọc mấy anh Yankee mũi tẹt ở hải ngoại, khi họ viết về Đất Bắc của họ, trên diễn đàn tà ma ác quỉ của họ.
Đúng là trí lớn gặp nhau, chí bé cũng gặp nhau.
Take care. NQT


Phát ngôn viên và Bộ lạc
The Spokesman and the Tribe
"We know the force of gravity, but not its origins; and to explain why we become attached to our birthplaces we pretend that we are trees and speak of roots. Look under your feet. You will not find gnarled growths sprouting through the soles. Roots, I sometimes think, are a conservative myth, designed to keep us in places."
Salman Rushdie: Shame
"either I'm nobody, or I'm a nation."
Derek Walcott: The Schooner Flight
*
Chúng ta biết trọng lực là cái gì, nhưng cội nguồn nó, thì không; và để giải thích tại sao khúc ruột ngàn dặm khốn khổ khốn nạn vì nơi chốn ra đời, chúng ta bèn giả đò coi mình là cây, và nói về rễ. Nhìn xuống chân xem có thấy hoa lá cành chui ra từ đế giầy? Gốc, rễ, đôi khi tôi nghĩ, là một huyền thoại có tính bảo thủ, được phịa ra để níu kéo chúng ta về một nơi chốn nào đó.
Hoặc tớ chẳng là ai, hoặc tớ là cả một quốc gia.
Isaac Singer có nói, mọi nhà văn đều phải có cội nguồn, phải viết từ một niềm cảm thông sâu xa về nơi chốn mà họ từ đó tới...
Naipaul: Hai điều bạn vừa nói đó, rất khác biệt. Tất cả những nhà văn phải viết từ niềm cảm thông sâu xa về nơi chốn mà họ từ đó tới, nhưng điều này đâu có nghĩa, họ phải có cội nguồn. Sự kiện cội nguồn, như thế đó, chỉ đẻ ra một nhà văn địa phương... Tàn nhẫn đấy, nhưng sự thực là như vầy: người ta biết rất rõ, từ đâu tới, và tại sao mà tới, từ đó, [on sait exactement d'où l'on vient, on sait pourquoi on est venu].
[Trả lời Cathleen Medwick, báo Vogue, London, tháng Tám, 1981]

Quê hương của một con người, thì cũng chỉ là một mảnh không gian - có thể một căn phòng khách sạn, hay băng ghế nơi công viên gần nhất - nơi con mắt của nhân dân hay sự phiền hà của một chế độ thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn cho phép một con người, và tác phẩm của người đó. Cây có rễ, người có chân để mà bỏ đi, sau khi lương tâm của nó nói: Không! Không có gì tởm hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt kẻ khác, nhân danh quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng. Chủ nghĩa quốc gia là nọc độc của lịch sử hiện đại.
[George Steiner: The Cleric of Treason].
Nếu chính trị là quyền lực, và nghệ thuật là tự do, nếu vậy thì, trong một nhà nước toàn trị, nghệ thuật không chỉ ở vào vị thế  thách đố, đối đầu - như nó thường làm như vậy, với mọi thứ quyền thế - mà nó đích thị là kẻ thù, của chế độ.
Norman Manea: Romania

*
Koestler, enfin, retrouvé, cuốn "Le Zéro et l'Infini", tôi lục lọi cách chuyến đi không xa, trong mớ sách "ký gởi" - một hình thức mới của sách vỉa hè- tại một tiệm phía bên kia cầu Thị Nghè. Cái thiểu số hỗn độn may mắn sống sót sau những ngày tháng Tư, trở thành những nạn nhân đầu tiên thay con người Sài-gòn dãi dầu mưa nắng Trong số những người đang lục lọi quanh tôi, có kẻ chỉ tò mò lật vài trang đầu, tìm tên chủ nhân, có thể kèm theo đó là một lời đề tặng của chính tác giả cuốn sách. Cả hai đều đã đi xa, vợ con ở nhà mang mớ sách kỷ niệm đổi lấy một vài mớ rau, một hai lon gạo.

Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lolita, của một người bạn thân.
Tôi gặp K. khi anh từ một trại cải tạo ở miền Bắc về, tại chợ sách phía sau rạp Đại Nam, điểm không hẹn mà gặp của những kẻ chỉ cần nhìn lại một cuốn sách cũ là cảm thấy bạn bè vẫn còn đủ, Sài-gòn vẫn là Sài-gòn. Bẵng thật lâu, trước chuyến đi xa chừng nửa năm, tôi gặp lại anh, lúc này làm nghề bán sách dạo. Anh thận trọng ghé chiếc xe đạp với chồng sách cao ngất ngưởng, vào lề đường, rồi đến bên tôi, thường là buổi chiều, tại cà phê "Bà Lê Chân", cũng một quán đặc biệt vỉa hè Sài-gòn, của một anh bạn xưa thi sĩ. Chủ quán cười cười như để bào chữa cho vai trò mới mẻ của mình: Quán là khởi đầu của mọi khởi đầu. Và khởi đầu, cho dù buồn, vẫn còn hơn kết cục vui. (Le début même triste, c'est mieux que la fin heureuse. Cantique des cantiques). Câu nói của anh còn là lời trách móc nhẹ nhàng cái tật của tôi, khi viết, thường hay lấy một câu của một nhà văn nước ngoài làm khởi đầu. Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang đàng, dù có đi xa chân trời góc bể nào cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt. Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Lần Cuối Sài Gòn
*
Mail, 30 Tháng Tư, 2009
Long time, no mail
Hope everything OK
NQT
Cám ơn anh . Vẫn bình thường . Chỉ chán chán . Vẫn đọc anh đấy chứ . Mừng anh vẫn nhiều energy , và vẫn chứa chan tình cảm . K
Tks