Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 



Noel 2011

Nunc Dimittis

*

Cây Noel Nhà


Thơ Mỗi Ngày

The Invisible 

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu...

2

Don't the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.

Just today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly. 

Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?

Charles Simic

Liệu những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta

Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu

BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?

W.G. Sebald's poems

Placing words

Ðặt chữ

Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ 1964-2001
Tác giả W.G. Sebald

Kể từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.


Như trong Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay quanh sự cố, ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn thứ nhất – Lò Thiêu. Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó, “Somewhere”, thí dụ, dòng thơ mở đầu "behind, đằng sau, Turkenfeld", trở thành, với sự giúp đỡ của Mr Galbraith,  trong lời giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng khiếp hơn rất nhiều, quá xa cái tít đơn giản mà nhà tgơ đề xuất, và, lẽ tất nhiên, vượt hẳn ra khỏi trí tưởng tượng của chúng ta: Ngoài cái việc nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé Sebald, 8 tuổi, trên đường đi tới Munich, vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94 tiểu Lò Thiêu, của Ðại Lò Thiêu, Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến đường nổi tiếng "Blutbahn" (Vệt Máu). Giản dị, với 6 dòng thơ, vậy mà cái sức nặng lịch sử đè lên nó mới khủng khiếp làm sao! [Mấy nhà thơ Mít, có ông đã từng đi tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh Tế, nhá!]

IN HERACLITUS'S RIVER

In Heraclitus's river
a fish is busy fishing,
a fish guts a fish with a sharp fish,
a fish builds a fish, a fish lives in a fish,
a fish escapes from a fish under siege.

In Heraclitus's river
a fish loves a fish,
your eyes, it says, glow like the fishes in the sky,
I would swim at your side to the sea we will share,
o fairest of the shoal.

In Heraclitus's river
a fish has imagined the fish of all fish,
a fish kneels to the fish, a fish sings to the fish,
a fish begs the fish to ease its fishy lot.

In Heraclitus's river
I, the solitary fish, a fish apart
(apart at least from the tree fish and the stone fish),
write, at isolated moments, a tiny fish or two
whose glittering scales, so fleeting,
may only be the dark's embarrassed wink.

Wistawa Szymborska

Trong dòng sông của Heraclitus

Trong dòng sông của Heraclitus
Szymborska

Trong dòng sông của Heraclitus
Con cá bắt cá
con cá phanh thây con cá bằng một con cá sắc
con cá xây con cá, con cá ở trong con cá
con cá bỏ trốn khỏi con cá bị bao vây.

Trong dòng sông của Heraclitus
con cá yêu con cá
Đôi mắt em - nó nói - sáng như cá trên trời
Cùng em đến vùng biển chung tôi muốn được bơi
ôi, em xinh đẹp nhất trong đàn cá.

Trong dòng sông của Heraclitus
con cá nghĩ ra một con cá siêu cá
con cá quỳ gối trước con cá, con cá hát cho con cá nghe
cầu xin con cá để được bơi thật nhẹ.

Trong dòng sông của Heraclitus
tôi con cá lẻ đơn, tôi con cá khác biệt
(dẫu chỉ khác với cá cây hay cá đá)
Đôi khi tôi viết về những con cá nhỏ
với lớp vẩy bạc ánh lên, nhanh đến nỗi người ta cứ ngỡ
đó chỉ là bóng đêm đang bối rối chớp mi.

(Thái Linh dịch)

Copy từ Facebook của dịch giả Thái Linh

[Blog GM] 

Trong dòng sông Heraclitus

Trong dòng sông Heraclitus
một con cá bận câu cá
một con cá moi ruột một con cá bằng một con cá sắc bén
một con cá trốn thoát một con cá bị vây hãm

Trong dòng sông Heraclitus
một con cá yêu một con cá
mắt em rực rỡ, như cả 1 bày cá trên trời
anh sẽ bơi kế bên em ra tới biển mà chúng ta sẽ cùng chia sẻ
ôi đẹp nhất trong bầy cá 

Trong dòng sông Heraclitus
một con cá tưởng tượng ra “cá của mọi cá”
một con cá quỳ trước “cá của mọi cá”, hát trước “cá của mọi cá”
một con cá năn nỉ “cá của mọi cá” hãy dễ dãi với số phần cá của nó.

Trong dòng sông Heraclitus
Tôi, một con cá cô đơn, một con cá riêng lẻ
(riêng lẻ, ít ra là, tách ra khỏi cá cây, và cá đá)
viết, ở những khoảnh khắc cách biệt, trơ trọi, về một con cá nhỏ nhoi, hay là hai con,
với những cái vảy của nó lấp lánh, nhoáng một cái,
có thể chỉ là cái nháy mắt bối rối của bóng đêm

The Double
Kẻ Kép

Ðược đề xuất, huých huých [stimulated] bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì phổ biến, thông thuộc ở nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là một GNV khác”, A friend is another self,  của Pythagore, và tư tưởng Hãy Biết Mình, Know Thyself của trường phái Platonic, được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland thì có từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” [ballad] bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], kể câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the ka, là phần chiếu tướng đích thị của một con người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...  đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong Talmud, kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC! [a man who, in search of God, met himself].
Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở thành.
Plutarch viết, người Hy Lạp gọi, cái ngã khác, other self, bằng cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.

Jorge Luis Borges: The Book of Imaginary Beings Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng.

*

Chán như con gián!

Quái , khi đọc, và nhìn  hình, GCC nghĩ ngay đến con bọ của Kafka!
Trong cuốn trên, cũng có 1 con vật lạ của Kafka, A Crossbreed,  trích từ Description of a struggle.
Có tới hai, xin lỗi.

An Animal Imagined by Kafka

It is the animal with the big tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like to get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal is constantly moving about, the tail is constantly being flung this way and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which is flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have any power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I have the feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could it have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?

FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)

Một con vật Kafka tưởng tượng ra

Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại nguẩy 1 phát, đau  nhói tim?


Szymborska có hai bài thơ, cực ngắn, thần sầu. Một Gấu đọc ngay trên báo, khi vừa xuất hiện. Cùng lúc với tay Prospero. Ðọc 1 phát, là sững sờ, 1 bài thơ chống lại cả một nhân loại tha hóa, lừng lững đi vào huỷ diệt, vậy mà vẫn tràn trề hy vọng về con người.

Bài kia, thì nhiều người biết, và hình như được mấy anh VC dịch nữa, dù chửi bố chúng, nhưng, bài thơ là đề chửi bà mẹ Gio Linh của PD, đẻ ra đứa con nào là đem nướng cho chiến tranh hết đứa đó.

VERMEER 

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn't earned
the world's end.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the Polish
by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

Source

*

Wislawa Szymborska's "Vermeer"

A poem against the apocalypse

Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK

I HAPPENED upon this poem on the New York Review of Books's website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.

"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak

VIETNAM

 "Woman, what's your name?" "I don't know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."

Wistawa Szymborska

Việt Nam

Bà kia ơi, tên bà là gì vậy? Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó? Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi không biết
Bà không biết là tôi không làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.

Note: Bài thơ “Bà Mẹ Gio Linh” này, của nhà thơ Nobel người Ba Lan, Wistawa Szymborska, giá mà được PD phổ nhạc nữa, nhỉ?
Bài thơ hình như đã được vài người dịch rồi. GCC dịch thêm 1 lần nữa, để mừng sinh nhật người nhạc sĩ vĩ đại, đời đời đau “vết thương di tản”!

Hai bài thơ, cực ngắn, 1, chống lại Apocalyse, 1, chửi bố Cái Ác Bắc Kít.
Thơ như thế, đâu phải thứ thơ tản mạn bên tách cà phê sau khi du ngoạn Ðáy Ðịa Ngục, về!

Làm thơ như chẳng có gì xẩy ra?

TTT chẳng đã mơ thứ thơ này, nhưng chịu thua:

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Lại viết?

TTT trả lời LHK, trong Mảng Lưu Vong

Nguồn

Có vẻ như sau sự xuất hiện của "Ðồng Nai Tam Kiệt" [Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền], Miền Nam tuyệt giống, “cái gọi là” thi sĩ?

Brodsky khi chưa tới 24 tuổi đầu, bị lịch sử lọc ra [chữ của David Remnick], dù rất tởm đóng vai nhà văn nhà thơ, nhưng không có cách nào khác để mà trốn, đành đóng trọn vai của mình, thật bảnh, đỉnh cao tuyệt hảo, the perfect pitch, cũng vẫn chữ của Remnick.
Còn ông thi sĩ Mít, VC, HC, khi được lịch sử gọi ra, bèn nắn nót viết tự kiểm, để Đảng cho về làm thơ tán gái tiếp. Vậy mà có đấng, không, hai đấng thi sĩ, từ hải ngoại về, để châm đóm cho ông HC hút thuốc lào.
Một trong hai ông này từng đóng vai thi sĩ, sĩ quan VNCH.
Và là bạn thân của GCC.
Thơ tán gái bảnh hơn HC. HC không có thơ phổ nhạc, HC không có những câu thần sầu, thí dụ, “nhớ ai buồn ngất trên vai áo/mưa ở đâu về ? - như vết thương.
Tuyệt giống thi sĩ, là vậy



A Thank-You Note 

I owe a lot
to those I do not love. 

Relief in accepting
others care for them more. 

Joy that I am not
wolf to their sheep. 

Peace be with them
for with them I am free –
love neither gives
nor knows how to take these things. 

I don't wait for them
from window to door.
Almost as patient
as a sun dial,
I understand
what love never could.
I forgive
what love never would. 

Between rendezvous and letter
no eternity passes,
only a few days or weeks. 

Our trips always turn out well:
concerts are enjoyed,
cathedrals toured,
landscapes in focus. 

And when seven rivers and mountains
come between us,
they are the rivers and mountains
found on any map.

The credit's theirs
if I live in three dimensions,
in a non-lyrical and non-rhetorical space,
with a real, ever-shifting horizon. 

They don't even know
how much they carry in their empty hands.

"I owe them nothing,"
love would have said on
 this open topic. 

Wislawa Szymborka 

Một cái note “Cám ơn bạn” 

Tôi nợ nhiều
ở những người tôi không yêu 

Thở phào khi nghĩ
Nhờ mình không yêu họ
Cho nên những người khác lại lo nhiều cho họ hơn! 

Vui, vì mình đâu có phải là
sói đối với đàn cừu của họ 

Bình an cho họ
Bởi vì đối với họ thì tôi hoàn toàn vô tư, tự do, tự tại
-tình yêu chẳng cho,
mà cũng chẳng biết làm sao mà nhận những chuyện đó 

Tôi không đợi chờ họ
từ cửa sổ cho tới cửa lớn
thật kiên nhẫn
như mặt trời từ từ, chậm chạp nhích nhích
tôi ngộ ra, tình yêu
chẳng bao giờ có thể.
Tôi tha thứ cho tình yêu
chẳng bao giờ sẽ. 

Giữa cuộc hẹn và tờ thư
chẳng vĩnh cửu nào đi qua
chỉ vài ngày, hay tuần lễ.
Chuyến đi của chúng ta hóa ra là thật là tuyệt hảo
Hoà nhạc thưởng thức
Nhà thờ tham quan
Phong cảnh chú mục

Và khi 7 con sông lớn và núi bự
trờ tới, giữa chúng ta,
chúng thì cũng là sông là núi,
có ghê gớm chi đâu
thứ núi thứ sông mà chúng ta thấy đến nhàm cả mắt
ở trên bản đồ. 

Chúng thế nào thì chúng thế
một khi mà chúng ta sống trong thế giới ba chiều
trong không gian không-vãi linh hồn, không thùng rỗng kêu to
với một chân trời thiên niên vũ như cẩn

Chúng làm sao hiểu được
Chúng ôm trong những bàn tay trống trơn của chúng,
là bao nhiêu? 

Tôi chẳng nợ gì chúng
Tình yêu chắc là sẽ nói như thế
Trong đề tài mở này.


Hát Sau Lò Cải Tạo

Miền Nam mất vì chúng ta vưỡn nghĩ, VC Bắc Kít cũng 1 thứ Mít, như chúng ta. Chúng ta vẫn hy vọng, chiến tranh chấm dứt, và nước Mít độc lập thống nhất, không còn chiến tranh chắc chắn phải hơn hai nước Mít thù nghịch nhau. Làm sao Miền Nam "tiên đoán" ra được Lò Cải Tạo, khi chắc mẩm, 10 ngày cơm nắm mang theo, ăn hết thì lại về nhà hú hí với vợ con? Nếu không có vụ anh Tẫu đánh Miền Bắc Bắc Việt, và Bắc Bộ Phủ tống hết cả Miền Nam lên đó, làm thịt sạch, thì hoặc để họ tự tiêu diệt lẫn nhau... Bạn có thể tưởng tượng ra một... “sự thực” như thế? Miền Nam mất vì chúng ta thiếu sự tưởng tượng, hoặc không thể nào tưởng tượng ra được những “chân lý” như trên.

Czeslaw Milosz cũng đã từng phán như vậy về Tây Phương, khi họ nghĩ rằng, ông phịa ra những tội ác của CS.
Brodsky đã từng sửa lưng em Susan Sontag, khi em chê Solz chẳng biết 1 tí chó gì về Tây Phương. Ông biểu em, đúng như thế, nhưng những gì Solz phán về Liên Xô, thì đều đúng, và không có gì ngây thơ cả, thí dụ, con số người bị Stalin giết.

Câu chuyện Chế Linh dường như còn ẩn chứa những vấn đề “ khó nói” trên văn bản. Khó nói đến nỗi văn bản chính thức của Sở văn hóa – thông tin Thành phố chỉ ghi: “Chưa phù hợp với điều kiện của thành phố”.
Ðỗ thi sĩ

Ẩn tàng, khó nói…  cái con khỉ.

Liệu chúng ta có thể tưởng tượng ra, 1 anh Linh Chê, về, để hát, và để chết trên Đất Mẹ, bị từ chối, vì tình hình chưa phù hợp? 

Ở cái tuổi 70, cổ lai hy, Bác H viết di chúc, vậy mà bác Lính Chê, về nước, sau khi phủ phục trước Bắc Bộ Phủ, sau khi ra Lăng Bác khấn bái xin phù hộ, và xin phép "hát cho đồng bào tôi" nghe, vậy mà "Lô nà Lô", [Nô, nói ngọng, bởi vì lệnh này, chắc là từ Bắc Bộ Phủ, tao cho, nhưng mày không cho, chẳng có chuyện trống đánh xuôi ở đây], 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt?


La Peau [Làn Da]: Một cuốn tiểu thuyết-Trùm: Un Archi-Roman


LA MORT DE L'AUTEUR

Cái chết của Tác giả (1)

TV sẽ có bản tiếng Việt, dịch theo nguyên tác tiếng Tẩy, dành cho độc giả TV, và riêng cho Thầy Cuốc, để Thầy tham khảo!

Hà, hà
Dzui thôi mà!

Thôi nhá, xin chào  (1)

(1)  Của nhà thơ QT, trong 1 cái còm ông xài xể 1 độc giả khác, trên DM.
Ông nhà thơ này binh em ăn phải kít WJC, “chuyên gia” dịch văn thơ VC, bị 1 độc giả chê, dịch như kít, ông QT này bèn sủa 1 hồi, xong, “thôi nhá, chào”, mai sủa tiếp!
Tại sao thi sĩ, thứ không thể làm thơ, thì đã đành, nhưng viết 1 cái còm cũng không nên thân, cũng làm như bố chó xồm?
Thôi nhá, mấy lời, xin vui lòng liên lạc với tôi!

Thôi nhá thì thôi, đi chỗ khác chơi, nhá!

(1) Của 1 độc giả gửi TV, pdf. TV chuyển qua word.
Tks. NQT

Conjugué à la conférence de Foucault intitulée « Qu’est-ce qu’un auteur ? », l’article de Barthes fait l’effet d’une bombe. Jusqu’à leur parution, bien plus tard et dans des recueils posthumes, ces deux textes furent longtemps très photocopiés par les étudiants et utilisés par les enseignants, devenant en quelque sorte le credo du post-structuralisme français.
Wiki 

Song kiếm hợp bích: Cùng với “Tác giả là gì”? của Michel Foucault, “Cái chết của tác giả” nổ ra như 1 trái bom trên trường văn Paris. Không chỉ thế mà mãi mãi về sau, chúng được “cực” sao chép bởi sinh viên, những nhà nghiên cứu và trở thành một thứ “cương lĩnh” của chủ nghĩa hậu cấu trúc của Tây.

TV sẽ post cả hai bài viết, cả nguyên tác tiếng Tây lẫn bản dịch tiếng Anh, và sẽ dịch cả hai, sau đó, để độc giả tham khảo. GCC có chôm 1 ý của F. trong bài viết về truyện ngắn NHT:

Hình như có một tác giả ngoại quốc đã để những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kế bên một số truyện của Borges. Trong bài viết "Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết: Nghề văn, nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình yêu, anh ta được chia, và luôn cả, tình yêu không được chia. Theo một nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ". Trường hợp Nguyễn Huy Thiệp, tôi nghĩ, thực tại "thực" của ông, một "nhân sĩ Bắc Hà", và một trong những thực tại "mộng", của ông: Nguyễn Huệ. Có thể, theo ông Thiệp, cái cảnh Nguyễn Huệ "nhét" gì gì đó, rất cần cho sự sống lại của "tinh thần Bắc Hà", không phải theo kiểu, "chỉ còn có tôi" của Nguyễn Hữu Chỉnh, hoặc "tôi nhét điếu thuốc vào mồm tên giặc lái", của Nguyễn Tuân. Tại sao lại là Nguyễn Huệ?

Bởi vì còn bao nhiêu kẻ muốn bắt chước ông, "chỉ có một nửa": tới Thăng Long rồi ở lì lại. Phải chăng, chính vì vậy mà đã xẩy ra cơn xuất huyết não, hiện tượng chất xám thiên di vào Nam, hoặc ra hải ngoại, theo kiểu "cái cột đèn đi được nó cũng đi", hoặc, "Tôi ở đâu, văn chương Đức ở đó", của Thomas Mann, khi bỏ nước Đức qua Hoa Kỳ, hoặc "Nước Nga bây giờ ở ngoài nước Nga", của Solzhenitsyn, khi bị bắt bí, "Đi thì đi luôn, đừng trở về", mà nhà nước Xô viết đã từng "hù dọa", và đã thành công, với Pasternak. 

Câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ chỉ có thể giải đáp, cùng một lúc, với câu hỏi, tại sao lại là Nguyễn Huy Thiệp? Trong bài viết, "Tác giả là cái gì?" (bản dịch tiếng Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho thấy, ý niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm đặc biệt của quá trình "cá nhân hóa" (individualization), trong lịch sử tư tưởng, tri thức, văn chương, triết học, và khoa học. Những bản văn, những cuốn sách, những bài viết/nói bắt đầu có tác giả... khi họ trở thành những mục tiêu để trừng phạt. Tác giả được nêu tên, khi cần một ai đó, để buộc tội! Ông viết thêm, trong văn hóa của chúng ta, (và chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ thủy, bài viết/nói (le discours), không phải là một sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là một hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar field), một đầu là sự thiêng liêng, đầu kia là sự báng bổ. Theo tính cách lịch sử, đây là một động tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan điểm đó, chúng ta mới thực sự thông cảm, hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế giới toàn trị, văn chương bắt đầu, khi có kẻ dám nói "tôi", thay vì "chúng ta", khi có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng chưa chắc đã thiêng liêng, và tin rằng, điều báng bổ có khi thật cần thiết...
Nguồn


*


The Master Returns-or Does He

Michael Scammell
Apricot Jam and Other Stories
by Aleksandr Solzhenitsyn,
translated from the Russian
by Kenneth Lantz and
Stephan Solzhenitsyn.
Counterpoint, 375 pp., $28.00

NYRB Dec 8, 2011

Sư Phụ trở lại, mà có chắc không đấy?

Michael Scammell đọc tập truyện ngắn mới ra lò của Solz, và, đi tìm người hùng của Solz, "an excellent man with ideal convictions [who] needs no practical criteria of good and evil, since he is sufficiently guided by his convictions.": một người tuyệt vời với những niềm tin lý tưởng, không cần thực tập thực tiễn cái con mẹ gì về thiện và ác, kể từ khi anh ta được dẫn dắt bằng những niềm tin tưởng của chính mình, là đủ rồi.



Ghi chú trong ngày
New fiction from Japan

Hey babe, take a walk on the wild side

A black cat, two moons and a host of nocturnal little people populate Haruki Murakami’s new novel.
But has he become more conventional?

Người Kinh Tế đọc tác phẩm mới nhất của Haruki Murakimi
Liệu ông ta trở thành quá qui ước?

Tuyệt.
Chỉ cần 1 cú đánh thôi.
Phê bình là như thế đấy!

GCC “lâu lâu” được bạn văn khen, rất kiệm lời!
Ðánh cú nào ra cú đó.
Với nhà thơ NS, chỉ cần hai từ "dễ dãi và sung sướng".
Với bạn quí, thì “đi tìm 1 cái mũ đã mất”
Hoặc “Thật Lạt”, thay vì “Thất Lạc”!
...
Hà, hà!
Thảo nào NS gọi là tên sa đích văn nghệ!

[Lại tự thổi!
Why not?]

HARUKI MURAKAMI filches from George Orwell’s “Nineteen Eighty-Four” for the title of his new novel, “1Q84”, making a play on kyu, the Japanese word for nine, by transposing the letter “Q” for the number “9”. Significantly, the action also takes place over the last nine months of 1984. But it would be a mistake to conclude from this that Japan’s magical postmodernist has spent nearly 1,000 pages writing about a dystopian world where couples make love in an ash glade, hardly daring to speak because of the all-listening microphones in the trees. Mr Murakami’s main influence here is not so much Orwell as Philip Pullman; his “1Q84” less a stairway to another world than a heave-ho into a whole new universe.

Chàng tưởng chàng thuổng Orwell, nhưng thực ra, Philip Pullman; cuốn sách của chàng không hẳn là 1 cái thang đưa tới 1 thế giới khác [thế giới toàn trị mà Orwell tiên đoán, và sau trở thành hiện thực], nhưng một “heave-ho” [dimissal: từ chối] vào trọn 1 vũ trụ mới

Tuyệt! Quá tuyệt!

Tờ TLS Nov 18, 2011, đọc tác phẩm mới ra lò của Murakami, cũng chê quá sá quà sa, thứ rẻ tiền, hàng dởm [cheap]. Tờ báo nhắc lại lời Oe, khi đọc Murakami: chỉ là những lèm bèm về văn hóa ăn nhậu đớp hít của Tokyo [mere reflections of the vast consumer culture of Tokyo], và những thứ văn hóa chìm của thế giới [subcultures of the world at large]


*

À mots ouverts

Que reste-t il de Malraux?
Malraux, còn lại gì?

L'auteur de L'Espoir s'est éteint le 23 novembre 1976. Trente-cinq après, si son personnage fascine toujours, son œuvre suscite la polémique. Face-à-face entre Robert Poujade, inconditionnel de l'écrivain, et Thomas Clerc, nettement plus nuancé.

PROPOS RECUEILLIS PAR JÉRÔME DUPUIS

”Plus admiré que Sartre aujourd'hui”
Ðược ái mộ hơn Sartre

«UN SOIR DE L'HIVER 1948, Je collais des affiches à la sortie d'un meeting gaulliste, au Quartier latin, avec quelques camarades. Soudain, Malraux, vêtu d'un très élégant manteau, a surgi, s'est emparé d'un pinceau et nous a enseigné la technique du "collage en croix". "Il faut du professionnalisme, même dans l'affichage", nous at-il déclaré. Et il est remonté dans sa voiture, enveloppé de son beau manteau et de notre admiration.
Etudiant rue d'Ulm, j'avais commencé un travail sur son œuvre. Puis, devenu militant du RPF, député et ministre, j'ai souvent eu l'occasion de croiser André Malraux dans les trente années qui ont suivi. J'avais pour lui beaucoup d'affection. Pour les gens de ma génération, c'était un perrsonnage de légende, qui avait été mitrailleur dans l'escadrille Espafia, qu'il a organisée et commandée, durant la guerre d'Espagne - même s'il parait qu'il tirait très mal... -, et avait fait montre de courage dans la Résistance et à la tête de la brigade Alsace- Lorraine, dans la Première Armée française. Il avait cette capacité à saisir les circonstances de son temps et à s'y engager. Bien sûr, il avait une certaine tendance à créer son propre mythe, que j'appelle le "mensonge héroïque". Mais, attention, s'il pouvait dire n'importe quoi, il ne le disait pas à n'importe qui. Il ne m'a jamais affirmé avoir rencontré Lawrence d'Arabie, par exemple, alors qu'il l'a dit à d'autres ... Je crois qu'il restera dans les mémoires autant par sa vie que par son œuvre.
On a reproché à Malraux de metttre un peu trop de quincaillerie - chars, fusils ... - dans ses romans. Il n'en reste pas moins que L'Espoir demeure un grand livre, que Monntherlant plaçait d'ailleurs très haut. Etait-il un romancier qui n'aimait pas les romans, comme on a pu le dire? Après Les Noyers de l'Altenburg, en 1943, il a cessé d'en écrire pendant trente ans. Il m'a même confié, un jour de 1968, à ma grande stupéfaction: "L'Espoir m'est tombé des mains." Il ne faut pas y voir une quelconque coquetterie. Malraux était toujours tourné vers son prochain livre.
Son bilan au ministère de la Culture comporte de belles avancées : les Maisons de la culture, les grandes expositions de prestige, les "voyages" de la Joconde, les passerelles établies avec les cultures de l'Ancien Monde ... Contrairement à son image de personne un peu agitée, il était un ministre - et un homme - très organisé, ce qu'a toujours beaucoup apprécié chez lui un Gaston Gallimard. Il a toujours refusé d'instrumentaliser la culture au profit de la politique. On pourrait même plutôt lui reprocher de n'avoir pas pesé auprès du Général pour augmenter le budget de son ministère. Tout à sa fascination pour l'homme du 18 Juin, il s'est comporté le plus souvent comme le fils respectueux qui n'osait pas réclamer son argent de poche.
Je crois que nous allons assister à un retour en grâce d'André Malraux. On le voit bien dans la fascination qu'il exerce, par exemple, sur Bemard-Henri Lévy, lequel a emprunté aux Noyers de l'Altenburg le titre de son récent ouvrage sur la Libye. Il me semble même qu'il est déjà plus admiré que Sartre, aujourd'hui. Qui aurait pu imaginer cela, il y a seulement un quart de siècle ? » •

ROBERT POUJADE

 "Một tiểu thuyết hơi bụi"

« MALRAUX EST MORT EN 1976: chronologiquement, ce n'est pas si loin de nous et, pourtant, littéraireement, il me paraît très éloigné de notre époque. Comme Sartre et Camus, il constitue l'une de ces figures scolaires incontournables du Lagarde & Michard. Mais, aujourd'hui, j'observe que mes étudiants ne sont guère enthousiasmés par La Condition humaine.
A vrai dire, sans vouloir être trop polémique, je trouve sa littérature un peu poussiéreuse. Il y a chez Malraux une obsession de la grandeur et un culte du grand homme qui me gênent. Ses romans brasssent toujours des messages universels. En ce sens, il était très en phase avec son temps, ces années 1930 où les grandes idéologies fédéraient les masses. Mais, précisément, c'est cette adéquation avec son temps, ce bavardage idéologique qui renndent ses romans à thèse un peu démodés pour nous. Ils obéissent tous à une composition binaire (scènes d'action, scènes de débat) qui ne fait du roman que le véhicule d'idées métaphysiques - le Bien, le Mal, le Destin ... Il y a là un vieil humanisme un peu dépassé. Du coup, ses personnages sont bien souvent des fantoches au service d'un message. Or écrire, ce n'est pas seulement communiquer. Les longs tunnels sur les dissensions internes du Parti communiste chinois, dans La Condition humaine, sont très ennuyeux. Je le trouve meilleur lorsqu'il se rapproche du journalisme. Je pense par exemple à de belles descriptions de batailles dans L'Espoir.
Par ailleurs, Malraux propose un univers désespérément masculin - soldats, révolutionnaires, intelllectuels ... On pourrait dire qu'il est misogyne par omission. La femme est absente de ses romans. Jamais d'érotisme chez lui non plus. Tout cela exhale un certain puritanisme qui, lui aussi, a mal vieilli. Néanmoins, il y a certains aspects de son oeuvre ou de son personnage qui me séduisent: j'aime l'orateur - je me souviens notamment d'un discours très amusant, en 1965, où il défend de Gaulle et brocarde Mitterrand; j'apprécie le cinéaste d'Espoir. Sierra de Teruel, un film assez pur et, paradoxalement, peu bavard; enfin, ses écrits sur l'art, en particulier ses réflexions sur la reproduction des oeuvres, dans Le Musée imaginaire, sont parfois fulgurants.
Plus généralement, ce que je lui reproche, c'est d'avoir subordonné son écriture à son mythe. Je ne conteste pas que la mise en scène de soi-même peut aider à rehausser une oeuvre. Malraux s'est d'ailleurs attelé à la constitution de son propre rôle avec beaucoup de brio. Mais, là encore, il me semble que ce personnage d’”écrivainturier-ministre" est daté. Cela sonne même presque comme une parodie, aujourd'hui. On pourrait tout à fait imaginer une "contre-histoire" de la littérature où ces grandes figures un peu sacrées - Aragon, Sartre, Camus, Malraux ... - tiendraient moins de place. » •

THOMAS CLERC

L'EXPRESS 23 NOVEMBRE 2011

Note: Khi ông anh nhà thơ của Gấu chưa đi xa, nhân vớ được 1 bài tên NYRB, phạng Malraux tơi bời, của tay Simon Leys, Gấu bèn chơi luôn, đíiđường trên tờ Văn Học của NMG. Ông chủ báo thú quá, người đã từng kệ nệ mang bộ DCML đến tặng TTT, nhân lần ông ghé thăm 1 ông bạn của ông, tại Tiểu Sài Gòn, nhưng TTT khi ra về, vờ luôn bộ sách, chắc là nặng quá, ông ngại cầm về!], bèn cho đăng liền. Người thú, vì chưa có ai dám dùng từ nặng nề như thế để chỉ ông anh của Gấu, “trí thức làm dáng” mà lại là chính thằng em! Một mũi tên bắn tới hai con chim: “Trí thức làm dáng” là từ TTT dùng để phạng Mặc Ðỗ, khi đọc Siu Cô Nương.
Sau Mặc Ðỗ lại dùng đúng những từ này, để đập TTT, qua hình ảnh 1 số nhân vật trong Ung Thư.
Gấu nhớ ông chủ chi địa nhận xét, trong cả hai trường hợp [TTT & MD] thì đều đúng cả.
Ðúng!
Thành thử nếu thằng em có tội, thì là do nó đập sư phụ của ông anh, là Malraux, qua bài viết của Leys

Nghệ Thuật Làm Dáng

Malraux propose un univers désespérément masculin
La femme est absente de ses romans.
M đề nghị 1 vũ trụ toàn đực, một cách thê thảm
Gide đã từng chê: Tiểu thuyết của Malraux thiếu đàn bà, con nít, và nụ cười  


Trang Thơ VHC

*


Sebald

Ðặt chữ

Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ 1964-2001
Tác giả W.G. Sebald

Kể từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.

Qua đất qua nước, một tuyển tập những bài thơ chưa từng in trước đó, nếu có thể nói như vậy. Ðược dịch bởi Iain Galbraith,  Qua đất qua nước, như cái tên cho thấy, phác ra một cuộc đời di động. Trải dài 37 năm, tuyển tập bao gồm những bài thơ mà Mr Galbraith kiếm thấy tác giả của nó viết vội, ở trong những hồ sơ, trên những mẩu giấy, trên tờ thực đơn nhà hàng, chương trình của một buổi ca nhạc, kịch nghệ, hay những tờ giấy có những tiêu đề của 1 nhà hàng, khách sạn. Chúng bật ra khi trên xe lửa, hay ở một “ga không tên/ ở Wolfennbuttel”, Sebald kín đáo quan sát những bạn đồng hành đi xe lửa bằng vé tháng, vé năm khi ông gợi ra những quang cảnh lùi về phía sau ngược với con tàu.
Khác văn xuôi của ông, có tính sử thi, gây chóng mặt, những bài thơ này thì cô đọng, lơ thơ. Tuy nhiên chúng chứa đựng rất nhiều đề tài thường ám ảnh Sebald suốt cuộc viết của ông. Nhà thơ trải qua những năm cuối đời ở Anh, làm việc tại Ðại học Manchester và Ðông Anglia. Bận bịu với hồi nhớ, ao ước, và tính ma quái của những sự vật, Sebald có thể gợi ra trong 1 bài thơ vẻ đẹp huyền bí nhạt nhòa, 1 thứ Diễm Xưa, [thì cứ phán đại như vậy] của “thời quên lãng/của núi non và đèn treo”, hay bước ngoặt của thế kỷ/ áo-thày tu và cây cung-vải mỏng, trong khi ở 1 bài thơ khác, ông nói tới một “khu tháp/xấu xí”, hay những “siêu thị hấp hối”. Sự chuyển đổi những thời khác nhau thì có vẻ ép buộc, hay giả tạo, nhưng Sebald kiềm chế một chuyển động như thế bằng 1 cú lướt nhẹ, bằng chờn vờn va chạm. Sự thực, cái sức mạnh dẫn dắt ở đằng sau tác phẩm của ông, là 1 sự tìm kiếm, xục xạo quá khứ, tìm cái bị bỏ quên, hay vờ đi, hoặc coi nhẹ: “Tôi muốn tìm hiểu/ những người đã chết thì ở đâu đó, hay ở đó đâu”.

Như trong Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay quanh sự cố, ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn thứ nhất – Lò Thiêu. Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó, “Somewhere”, thí dụ, dòng thơ mở đầu "behind, đằng sau, Turkenfeld", trở thành, với sự giúp đỡ của Mr Galbraith, trong lời giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng khiếp hơn rất nhiều, quá xa cái tít đơn giản mà nhà thơ đề nghị, và, lẽ tất nhiên, vượt hẳn ra khỏi trí tưởng tượng của chúng ta:
Ngoài cái việc nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé Sebald, 8 tuổi, trên đường đi tới Munich, vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94 tiểu Lò Thiêu, của Ðại Lò Thiêu, Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến đường nổi tiếng "Blutbahn" (Vệt Máu).
Giản dị, với 6 dòng thơ, vậy mà cái sức nặng lịch sử đè lên nó mới ghê rợn làm sao!
[Mấy nhà thơ Mít, có ông đã từng đi tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh Tế, nhá!]


Thơ JHV


TTT 2011


Six Years Later
Autumn in Norenskaya


Cali 8, 2011


Hãy Ðói. Hãy Ðiên

Là cái gì, chuyện 1 bản văn (hay bất cứ cái chi chi) cưỡng lại cố gắng của chúng ta khi làm cho nó có nghĩa?
Về câu hỏi này, những bản viết của George Steiner có vẻ như chỉ đúng hướng cho chúng ta. Câu hỏi phơi bày cho chúng ta, tới cái kinh nghiệm cơ bản của người dịch thuật, mà người ta có thể tóm gọn, và nói, đây là thứ kinh nghiệm có trước tất cả mọi kinh nghiệm, kinh nghiệm về không-căn cước, hay về cái cá thể tối giản, hết còn đơn giản được nữa, của mọi hiện hữu, đặc biệt là về con người và ngôn ngữ của nó. Kinh nghiệm này thì vừa đạo hạnh, vừa mở, nghĩa là không bao giờ chấm dứt.
Một bên thì cố gắng làm cho bên kia trở thành thông suốt, ở bên trong ngôn ngữ, khung văn hóa của riêng nó, nhưng bên kia không thể nào bị khách hoá, đối tượng hóa, theo cái kiểu này, bởi vì nó thuộc về thế giới của riêng nó, và không thể nào bị đánh gốc, bật rễ ra khỏi nếu không dùng bạo lực. Cổ đại La-tinh hiểu rõ điều này, khi gắn kết dịch thuật với những chiến thắng thành phố, bắt nô lệ, và khuân của cải về nhà – nói ngắn gọn, sự hình thành đế quốc.
Nhưng, cái sự kiện dịch này có những hậu quả khôn luờng, không làm sao kiểm soát được. Nó phơi trần người ta ra, trước điều không thể khoanh vùng, ở bên trong cái gọi là căn cước của nam/nữ dịch giả.
Và cái sự phơi bày ra này, thì phải được hiểu theo 1 cái nghĩa mạnh nhất: trong lộn thành ngoài, "cái gì gì", tim gan, phèo phổi phơi ra hết.

Hàng nội thành hàng ngoại!

Tại sao mà ghê gớm như thế?

Ấy là bởi vì, trong dịch thuật, một con người mời một con người khác nhập vô phòng the của mình, chốn riêng thật riêng của mình, cái căn cước chỉ mình mình biết, và khi người đó bỏ đi, thì cái phòng riêng của mình lộn tùng phèo hết trơn, chẳng còn như trước nữa: một cái gì rất ư là trinh nguyên, trong trắng, đã đi theo "kẻ lạ" mất rồi!

[TMT có bài thơ tả đúng cái tâm trạng này] (1).

Steiner bèn phán, một cái rất ư là hùng dũng, trong một nội dung [bài viết] khác: Cái thằng khác đó, cái con khác đó, the “otherness”, nó đi vô chúng ta làm chúng ta khác đi.
Người ta có thể nói, chẳng thể có dịch thuật ngoại trừ dưới điều kiện của khủng hoảng tri thức luận…

(1)

Ðuốc Tình

Có một người con gái rất trẻ
hỏi một người phụ nữ lớn tuổi
Đàn ông yêu như thế nào
họ yêu có khác mình không?

Người phụ nữ ngẫm nghĩ
Tình yêu của đàn ông à?
Lạ lắm
nói thế nào cho đúng nhỉ

Thế này nhé
Đó là một ngày
bỗng dưng
có một người đàn ông ở đâu đến
một tay cầm bó đuốc
tay kia gõ gõ lên cánh cửa hồn mình
ngọn đuốc
cháy phừng phừng
tưởng như không có cách nào dập tắt được

Anh ta quơ quơ ngọn đuốc
linh hồn mình bắt cháy
thành than
Anh ta ghé xuống
sưởi cả thân thể ấm áp của riêng anh
xong
bỏ đi
quên ngay ngọn lửa

Và đàn bà
thì muôn thủa
tiếc ngọn lửa đã đốt cháy hồn mình
thu những tàn tro
phủ lên những mảnh than còn sót lại
cố che chắn giữ cho đốm lửa âm ỉ
tự sưởi một phần đời

Cho dù có một ngọn lửa khác đốt lên
hong ấm lại nàng
những mảnh than đầu tiên
vẫn không bao giờ tắt

Đó là sự khác biệt về tình yêu
giữa đàn ông và đàn bà.

TMT