Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

Nguyễn Quốc Trụ

Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]


Chân Dung Nga

Enrique Vila-Matas

Luận về tiểu thuyết

]
















 



CM @ London



Thơ Mỗi Ngày

WALL

IN MEMORIAM HENRYK BERESKA

He always seemed young,
caught up in new projects and proposals;
he worked nonstop.
He liked to talk about the window
in his last apartment,
the East Berlin window that looked out
all those years on the wall and the West,
that enigmatic land, forbidden.
The wall covered in snow, in frost,
slick and damp with rain in May,
darkening in autumn;
the wall-a thing unto itself,
the jewel of German idealist philosophy.
When die Wende arrived, the turning point,
Henryk got even younger-
and decided to start a new life,
the life of a free man,
citizen of a free country.
He couldn't understand those
who mourned the end of the dictatorship.
He was full of tempered ardor,
though his neighbor in the village
where he kept his summer house,
an ex-Stasi officer, failed to stir
his sympathies. Of course.
He traveled through Europe, in Poland
honors and awards awaited him.
It seemed he would live on,
that he'd be given extra years
to reward him for that East Berlin window.
But a different decision was made. A different verdict
Neither reward nor punishment,
just frost, snow, and mist.

Adam Zagajewski: Unseen Hand


 Tường

Tưởng niệm HENRYK BERESKA

Ông luôn có vẻ trẻ măng
giữa những chương trình, dự án mới mẻ;
ông làm việc không ngừng.
Ông hay nói về cái cửa sổ
ở căn phòng sau cùng của ông
Cửa Sổ Đông Bá Linh bao nhiêu năm tháng đó
nhìn ra bức tường và Tây Phương
Cái vùng đất bí ẩn, cấm đoán.
Bức tường phủ tuyết, sương,
Trơn và ướt cùng mưa Tháng Năm,
Tối sẫm đi vào Mùa Thu
Bức tường – nó của chính nó, cho chính nó,
Kim cương, ngọc quí của triết học lý tưởng Đức
Khi Đỉnh Cao Trí Tuệ, Bước Ngoặt Của Thế Kỷ tới
Henryk trẻ hẳn ra, trẻ như chưa từng bao giờ trẻ như thế -
Ông quyết định khởi đầu một cuộc đời mới,
Cuộc đời của một con người tự do,
Công dân của một xứ sở tự do.
Ông không thể hiểu những người khóc than sự chấm dứt của chế độ độc tài
Ông bừng bừng, hớn hở, như lên cơn sốt
Tuy nhiên ông hàng xóm trong làng
Nơi có căn nhà mùa hè của ông
Một cựu cớm Stassi, thì không hớn hở như vậy. Lẽ tất nhiên
Ông đi du lịch, Âu Châu, Ba Lan
Vinh quang, giải thưởng đợi chờ ông
Có vẻ như ông sẽ tiếp tục sống
Và được ban cho thêm những năm tháng
Để tưởng thưởng ông, về Cái Cửa Sổ Đông Bá Linh
Nhưng một quyết định khác đã ban ra.
Một bản án khác
Chẳng thưởng mà cũng đếch phạt,
Chỉ có mù sương, lạnh tuyết



Beckett: Storming for Beauty

John Banville


TTT 2012


Ghi chú về Hiroshima

Xử VC

Horst Faas, nhiếp ảnh viên, đã từng là trưởng phòng hình ảnh AP, Sài Gòn, nay đã về hưu, nhớ lại cái ngày mà ông nhìn thấy bức hình được giải thưởng Pulitzer của Eddie Adams, nhiếp ảnh viên AP, chụp cảnh hành quyết 1 tay VC vào năm 1968
TheDigitalJournalist

London, Sept. 19, 2004 –

Biên tập phim có thể là 1 công việc buồn nản, nhưng vào cái ngày cách đây 36 năm –ngày thứ nhì của những cuộc tấn công của VC vào những khu trung tâm đông đúc của những thành phố Miền Nam VN – tôi cảm thấy mình trúng lô độc đắc.
Theo dõi thật nhanh những thước phim của Eddie Adams trên cái máy Nikon của tôi, tôi thấy điều mà tôi chưa từng nhìn thấy, cái "giây phút đông lạnh" của 1 sự kiện mà tôi ngửi ra liền, đây rồi, cái giây phút trở thành “cái biểu tượng, cái đại diện, cái minh chứng, cái bằng chứng…” cho sự tàn bạo của cuộc chiến Việt Nam.
Cả 12, hoặc 14 tấm hình còn ở dạng âm bản, xoáy vào chỉ một tấm hình, chụp giây phút tới đỉnh của khoảnh khắc của cái chết của tên VC, đã đưa nhiếp ảnh gia, người chụp hình, người “ăn linh hồn” [chữ của Rushdie], Eddie Adams, vào vinh quang đời đời.
Bức hình chụp cuộc hành quyết 1 tên VC dưới đích tay Tướng Nguyễn Ngọc Loan, chỉ huy trưởng lực lượng Cảnh Sát Miền Nam, trưa ngày 1 Tháng Hai 1968, đã vượt quá lịch sử Cuộc Chiến Đông Dương – nó đứng riêng ra, vượt hẳn lên trên, vào những ngày này, như là đỉnh cao chói lọi của sự tàn bạo của thế kỷ vừa qua của chúng ta.

The Saigon Execution

*

To War with Eddie Adams
October 2004
by Peter Arnett

Outside the AP and NBC offices near Lam Son Square, Vo Huynh and Ron Nessen of NBC, Eddie Adams, Peter Arnett and two Vietnamese soldiers that NBC was using to guide them around the city. Taken early in the Tet offensive a day or so before Eddie took the execution shot.
Công trường Lam Sơn. Hình chụp 1 ngày, c
ỡ đó, trước khi xy ra cú Xử VC

Có thể nói, một trong những bức hình Polaroid đầu tiên ở Sài Gòn, là bức Forst Faas chụp thằng cu Tuấn, con trai đầu của GCC, khi ông từ trên văn phòng AP, ở phía bên trên Passage Eden đi xuống, tới vườn hoa trước Tòa Đô Chính, trước Rạp Rex, thấy bố con Gấu đứng trên bãi cỏ, như thử máy, ông bèn giơ nó về thằng phía thằng bé, bấm 1 phát, chỉ chừng  một, hai phút sau, ông đưa tấm hình. Cu Tuấn cũng là 1 trong những con nít đầu tiên được chơi đồ chơi chạy bằng pin, do đám phóng viên đi chơi Hồng Kông mua về.

Sau Gấu lộn tấm hình này với tấm  - khi Gấu ở Trung Tâm Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình Triệu, sắp sửa đi nông trường Đỗ Hòa, bà cụ vô thăm, đưa - chụp thằng con trai đứng trước Nhà Thờ Đức Bà, trước khi vượt biên - và ghé tai nói nhỏ, nó đi thế chỗ của mày, thoát rồi!

Bà cụ Gấu, mặt lúc đó rất là mừng, nhưng mà là mừng hụt. Chỉ ít lâu sau thì được tin Anh Cu Tuấn được đưa vô Chí Hoà. Gấu Cái lo thăm nuôi con, quên béng Gấu Đực.

Vả chăng, cũng chẳng biết VC tống đi cải tạo ở đâu, cho đến khi 1 thằng nhóc ở trong Trại trốn thoát, ghé nhà cho biết tin. Gấu Cái đi thăm, trong số đồ thăm nuôi, có cái bị cói đựng gạo, trong giấu mấy trăm bạc.
Nhờ mấy trăm bạc, Gấu mua chức Y Tế Đội, thoát kiếp ngày ngày đổ mồ hôi, biến sỏi đá thành cơm.
Nhờ cái bị gạo, bằng cói, dùng làm bẫy, bắt chuột, lần đầu tiên Gấu được thưởng thức món ăn đặc sản số 1 của đồng bằng sông Cửu Long.
Trong bữa đại tiệc thịt chuột, bữa sáng chủ nhật đó, lần đầu tiên GCC được nghe bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.

Những biến động liên tiếp như trên, chỉ về già, thì GCC mới nhận ra, chúng có tính "nhân quả", chứ không phải liên tưởng, hay ẩn dụ.
Để cho GCC được thưởng thức món thịt chuột, thì phải chờ cái bị đựng gạo, chờ mấy trăm bạc giấu trong đó. Nhưng nếu không gặp cái tay TNXP đã từng đọc Gấu Dịch Giả, dịch Cronin, thì chắc chắn mất mẹ mấy trăm bạc.
Nhưng để có Gấu Dịch Giả, thì là nhờ Nguyễn Mai, giới thiệu Gấu với ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son.
Để được NM giới thiệu, thì là nhờ cái ơn đăng bài viết của anh, trên trang VHNT nhật báo Tiền Tuyến.
Không chỉ đăng, mà hầu như viết lại toàn thể bài viết, như 1 tên thư ký tòa soạn, và đây là công việc của người đó, điều mà đám Bắc Kít, như Sến Cô Nương, gọi là “hiệu đính”, và tên thằng/con hiệu đính thì để đè lên trên tên người dịch!
Khốn kiếp thật!

Trong giới giang hồ Nam Kít, cũng có lưu truyền từ "hiệu đính", nhưng hách hơn nhiều, lịch sự hơn nhiều. Thí dụ, một thằng đàn em mến phục thằng đàn anh, về tài, về khả năng, về ngoại ngữ, về tính tình, về tư cách, nhân cách… bèn kính cẩn đưa bản thảo cho đàn anh, và xin phép, thưa anh, anh hiệu đính giùm em.
Và chỉ khi đó, thằng đàn anh mới được phép để tên mình vô bài viết!

Hiểu chưa?

Đâu có phải sửa một, hai chỗ dịch sai, nhờ rành ngoại ngữ, rồi đề tên vô, thêm chữ “hiệu đính”!

Chuyện hiển nhiên đang xẩy ra, cái tay Hà Súc Sinh chắc chắn không thể nào dịch hay hơn Nhị Linh, vì muốn dịch hay hơn, là phải dịch chuyên, phải tạo cho mình một văn phong, độc giả đọc 1 phát là biết ngay tên người dịch. Đâu có phải mang kính hiển vi ra, rồi soi, rồi chỉ ra những chỗ dịch sai, rồi la làng, làm công việc nhục nhã của 1 tên cớm. Làm như thế, là lộ ra tâm địa đốn mạt, bởi vì chẳng có ai mất công như vậy, điều này cho thấy, đấng này chắc là thù NL hơn cả bạn quí của Gấu thù Gấu!
Cả một lũ bây giờ chắc là đang hả hê vì đập bể nồi cơm nhà NL.

Chán thật.
Lại phò tên nhóc VC rồi!

Hà, hà!

Trong đời GCC, dịch dọt cũng nhiều, nhưng nếu biểu giữ lại cuốn gì, nếu phải thẩy hết vô lửa thì chỉ có cuốn Istanbul. Một vị độc giả đọc nó, gửi mail khen, đọc thấy nhớ Sài Gòn và những ngày xưa kinh khủng. Một vị khác, dịch mướt lắm, và than, bao giờ thì Việt Nam có 1 tác phẩm như vầy… Những nhận xét tựu chung là muốn nói cùng 1 điều, bản dịch của GCC được quá, đạt được cái điều, giả như 1 độc giả Thổ Nhĩ Kỳ đọc Istanbul bằng tiếng của họ, thì "cẩm", comme, như 1 độc giả Việt đọc Istanbul, bản tiếng Mít, do GCC dịch!

Khi dịch, Gấu nhớ Sài Gòn, nhớ BHD, nhớ những ngày có em, chưa bị em đá, có Sài Gòn...  đến muốn… khóc, và có thể nhờ vậy mà bản dịch tới.... chỉ?

Thành thử bạn có giỏi ngoại ngữ cách mấy, mà không phải là dịch giả, không mê văn chương, thì chưa chắc dịch hay.
Cái tay HTL này quả đúng như thế, ông ta làm nghề thầy cò, làm nghề cớm, thì được.

Khác CVD. Anh có thể dịch sai, nhưng bắt buộc thôi.
Bản thân GCC, mỗi lần tính dịch cuốn nào, là phải cố tậu cho được cả hai, bản chính, và bản dịch, qua tiếng Anh, hay ngược lại.
Những tác phẩm của bậc thầy, sở dĩ những dịch giả không dám bập vô ngay, là cũng chờ cho nó chín nẫu, toả mùi rộng ra, rồi mới dám đụng vô.
Tây mũi lõ, đến bây giờ mới có bản dịch Inner Workings, của Coetzee, thí dụ.
Bạn CVD này, giá mà chờ thêm ít lâu, có thêm bản tiếng Anh, của Bản Đồ, rồi hãy dịch, hãy vẽ, [Không biết bạn có hiểu “vẽ bản đồ” nghĩa là gì không], thì khoẻ hơn nhiều.

Mà thôi, để ý làm đéo gì, nghỉ ngơi ít lâu, đọc tiếp, viết tiếp, dịch tiếp. Nó không nhã thì mình… bất nhã [nam] vậy: Kiếm 1 nhà xb khác.
Dễ ợt!

Hà, hà!


Ghi chú trong ngày

Maggie Fergusson
Six Good Books
NOVELLA
The Buddha in the Attic
by Julie Otsuka (Fig Tree, hardback, out now). In a prequel to her acclaimed debut, which told the story of a Japanese-American family sent to an internment camp in 1942, Julie Otsuka explores the deracination of a shipment of Japanese "picture brides" who sailed into San Francisco in 1919. Escaping the drudgery of the paddy fields, and a culture of entrenched chauvinism, most find they have exchanged one bell for another. Their husbands submit them to sexual degradation and back-breaking toil; their children feel they belong nowhere; after Pearl Harbour, most are transported to camps in Utah. In eight linked narratives, Otsuka writes chiefly in the first person plural- "On the boat we were mostly virgins" - laying experiences one on another until they form an incantation: a restrained but vivid memorial to lives that left little trace.
SHORT STORIES

What We Talk About When We Talk About Anne Frank by Nathan Englander (Weidenfeld & Nicolson, hardback, out now). Reading this deeply felt and unsettling collection reminded me of walking into the forest of concrete slabs that form the Holocaust Memorial in Berlin. To begin with, all seems simple; soon you are in deeper, and darker, than you expected. The linking theme is Jewishness, and the Jews in Nathan Englander's stories, whether orthodox or secular, are preoccupied by fine distinctions - between neurosis and humour, piety and superstition, legal contract and human trust. The first and last stories deal with the effects of the Holocaust as it casts its long shadow down the generations; in each, Englander's spare, unshowy prose enhances a sense of devastation. The book comes so larded with compliments - from Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers, among others - that you set out feeling certain it will disappoint. It doesn't.
Intel Life

Chúng ta nói gì khi chúng ta nói về… Anne Frank.
GCC hỏi BHD.

Đọc tập truyện thấm thật sâu, gây nỗi quan hoài, lo lắng này, như thấy mình đang đi vô 1 khu rừng làm bằng những phiến đá mỏng tạo thành Đài Tưởng Niệm Lò Thiêu ở Berlin. Để bắt đầu, thì lại có vẻ như rất ư là đơn giản; chẳng mấy chốc, bạn cảm thấy sâu quá, tối quá, sâu tối hơn rất nhiều so với bạn dự đoán. Đề tài nối kết là Do Thái Tính, và những người Do Thái trong tập truyện, Chính Thống Giáo hay là Thế Tục, thì đều quan tâm đến những sự phân biệt tinh, mịn, nguyên – giữa loạn thần kinh, hay tiếu lâm, giữa mộ đạo và mê tín, giữa hợp đồng hợp pháp hay là lòng tin cậy giữa con người. Truyện đầu và cuối đụng tới hậu quả của Lò Thiêu, như nó đổ cái bóng của nó xuống hàng hàng thế hệ; trong mỗi truyện ngắn, văn của tác giả, thanh đạm, kiềm chế, tạo sự tan hoang, rã rời ở nơi người đọc.
Nhiều người thổi nó quá, toàn những bậc thầy, như
Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers … có thể làm bạn ngại, và có thể còn làm bạn bất bình, thất vọng, nhưng không phải như vậy.
Đọc thì biết, BHD biểu GCC.


*

Một sự tình cờ thú vị. Số báo Lire, Đọc, trên, có bài nói chuyện, entretien, với Patrick Chamoiseau, tác giả cuốn “Dấu vết Lỗ Bình Sơn”, “L’Empreinte à Crusoé”, 258 p, Gallimard, 18,50 Euros.
LBS là ai, thì các bạn biết rồi!
Tay này phán cũng hách lắm,  chẳng thua gì… LBS: "Một tác phẩm phải bắt đầu từ bất khả, nếu không, mất thì giờ". [Une oeuvre doit partir de l'impossible, sinon, c'est une perte de temps"]

Ui chao lại nhớ… BHD.
Em phán, bằng tiếng Tây, ta thương mi, vì mi muốn điều bất khả. [Je t’aime parce tu veux l’impossible]

Hà, hà!

Tình yêu, tình yêu, anh mơ tưởng hạnh phúc còn em nghĩ hạnh phúc không có, "Je t’aime parce que tu veux l’impossible", và chàng trả lời….,

Lan Hương


Hồi Ký Viết Dưới Hầm

Cái “ý thức sáng suốt là một bệnh hoạn”, cái “ý thức khốn khổ” của tác giả Hồi Ký, của Dos sau này đã đè nặng lên toàn thể khí hậu văn chương, triết học Âu châu, nhất là ở những tác giả thuộc chu kỳ hiện sinh như Sartre, Camus. Chúng ta có thể thấy rõ ràng, cuốn tiểu thuyết La Chute, Sa đọa, đang được dịch trên Văn, của Camus, như một cuốn Hồi Ký được viết lại bằng giọng văn của thế kỷ hai mươi, và gã Clémence, nhân vật chính trong La Chute, trốn chui trốn nhũi đến một góc tận cùng trái đất, rồi cứ thế mà tự sỉ vả mình, sỉ vả thế giới, chỉ là hậu thân của tác giả thiên Hồi Ký viết dưới hầm. Hơn nữa, cái tâm trạng tôi là một người riêng biệt, còn họ là “tất cả mọi người”, của gã đã trở nên một cas chung, một phénomène cho tất cả những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết thuộc loại lớn, những tác phẩm đặt nặng vấn đề ý thức hệ, thời đại tính, ý thức, thời đại, lịch sử…. G. Lukacs gọi đó là những “héros poblématiques”, theo nghĩa, những nhân vật này bị đẩy đến những cảnh ngộ khốn khổ, bị du vào cái thế “trên đe dưới búa” (chữ của ông Vũ Khắc Khoan trong “Thần Tháp Rùa”]…

GCC đọc Hồi Ký Viết Dưới Hầm của Dos, bản dịch tiếng Việt của Thạch Chương.


Tôi làm báo


Witness

Khi “Shoah” ra lò vào năm 1958, nó lập tức biến thành lịch sử. Tông tông Pháp lúc đó, Francois Mitterrand đi coi ngày đầu chiếu. Nhà cầm quyền Ba Lan đề nghị cấm. Gorbachev ra lệnh, chỉ một vài lần chiếu cho công chúng coi, ở Liên Xô, vào năm 1989. Vaclav Havel coi ở trong nhà tù Czechoslovak.
Lần thứ nhất được chiếu trên màn hình TV, là ở Thổ Nhĩ Kỳ.
“Shoah”, tiếng Hebrew có nghĩa là "tai ương, thảm họa", và, kể từ khi có nó, thì nó “vượt” cái từ “Lò Thiêu”.
Lanzmann gọi "Shoah", một “giả tưởng về sự thực” và nói, ông tưởng tượng ra mình, như là cái đầu và như là linh hồn, của cả hai đấng, kẻ giết người và nạn nhân.
Ông cũng ơn ớn những rủi ro về mặt đạo đức, nhưng tin rằng, ông tuân theo cả hai: một, “ta ra lệnh cho mi tìm cho được cái gọi là sự thực”, và một, “làm ra một tác phẩm của ‘cái đẹp’”. Vào lúc trình làng cuốn phim, ông phán, “Tôi cực kỳ tin nghệ thuật và đạo đức đồng nhất, là một. Tôi không làm phim tài liệu mà là một phim thực, và tôi muốn phim thực này thì tuyệt là đẹp”, và làm bật ra cái gọi là “cái đếch chịu được thì chịu được”: "make the unbearable bearable."
Cuốn phim như là 1 đáp ứng, phản pháo, đúng hơn, cho câu phán khủng khiếp của Adorno: "Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man".

*

LOOK AGAIN

"Shoah" and a new view of history.

What he doesn't emphasize (he says it in passing) is that Hitler's war against the Jews was an attempt to eliminate an entire people-to efface their identity altogether-whereas Stalin's campaign against, say, Ukraine was an attempt to eliminate not all Ukrainians but those who conceivably might resist collectivization and the triumph of Communism.

Điều ông không nhấn mạnh là cuộc chiến của Hitler chống lại Do Thái, là toan tính làm cỏ cả một dân tộc – xóa sạch căn cước của 1 giống dân – trong khi cuộc chiến dịch của Stalin chống lại Ukraine là toan tính làm cỏ không phải toàn thể dân Ukraine mà là những người chống lại tập thể hóa, và chiến thắng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Nhìn Lại

*

Tiếng kêu cứu giữa đêm của phụ nữ, trẻ em và cướp giật khủng bố giữa ban ngày (1)

Khi đám VC Bắc Kít thắng cuộc chiến, và đẩy đám sĩ quan Ngụy lên miền rừng thiêng nước độc Bắc Bắc Việt, và chiến dịch tiếp theo, sẽ đưa hết đám vợ con Ngụy lên đó, chẳng phải là để xóa sạch tất cả đám Ngụy, "một nửa" giống dân Mít?
Giả như không có tụi Tẫu dậy cho VC 1 bài học, liệu có còn, chỉ 1 tên Ngụy, sống sót?

Cái điều mà VC Bắc Kít tính làm với Ngụy, thì bây giờ chúng làm với tất cả nước Mít, người Mít 


WATCHING SHOAH IN A
HOTEL ROOM IN AMERICA

 There are nights as soft as fur on a foal
but we prefer chess or card playing. Here,
some hotel guests sing "Happy Birthday"
as the one-eyed TV nonchalantly shuffles its images.
The trees of my childhood have crossed an ocean
to greet me coolly from the screen.
Polish peasants engage with a Jesuitical zest
in theological disputes: only the Jews are silent,
exhausted by their long dying.
The rivers of the voyages of my youth flow
cautiously over the distant, unfamiliar continent.
Hay wagons haul not hay, but hair,
their axles squeaking under the feathery weight.
We are innocent, the pines claim.
The SS officers are haggard and old,
doctors struggle to save them their hearts, lives, consciences.
It's late, the insinuations of drowsiness have me.
I'd sleep but my neighbors
choir "Happy Birthday" still louder:
louder than the dying Jews.
Huge trucks transport stars from the firmament,
gloomy trains go by in the rain.
I am innocent, Mozart repents;
only the aspen, as usual, trembles,
prepared to confess all its crimes.
The Czech Jews sing the national anthem: "Where is my home ... "
There is no home, houses burn, the cold gas whistles within.
I grow more and more innocent, sleepy.
The TV reassures me: both of us
are beyond suspicion.
The birthday is noisier.
The shoes of Auschwitz, in pyramids
high as the sky, groan faintly:
Alas, we outlived mankind, now
let us sleep, sleep:
we have nowhere to go.
 

Coi phim Shoah
tại một phòng khách sạn ở Mẽo

 
Ðêm mượt như lông ngựa non
Nhưng chúng ta thích chơi cờ, chơi bài. Ở đây,
một vài vị khách hát “Chúc Mừng Sinh Nhật”
trong khi chiếc TV một mắt chán chường xào đi xào lại mớ hình ảnh của nó.
Những cây cối từ thuở còn con nít của tôi vượt qua một đại dương để chào đón tôi từ màn hình.
Mấy người nhà quê Ba Lan hăm hở bàn về
có Ông Giời hay không có Ông Giời,
trong khi đám Do Thái thì lại câm lặng, mệt nhoài, hết hơi, do cái chết dài của họ.
Những con sông của những chuyến du ngoạn của thời trẻ của tôi chảy
một cách thận trọng qua đại lục xa vời, không thân quen.
Những toa tầu chở cỏ khô, không, không phải cỏ khô mà là tóc,
Những cái trục của nó thì kêu ken két do chở nặng quá.
Chúng tôi thì vô tội, những cây thông kèo nài.
Những tên SS thì hốc hác, và già,
Những vị y sĩ chiến đấu cố cứu tim, gan, và luơng tâm cho họ.
Khuya rồi, cơn buồn ngủ thấm vào tôi
Tôi tính chơi một giấc nhưng mấy ông hàng xóm
vẫn ong ỏng, “Chúc Mừng Sinh Nhật”:
Họ la lớn còn hơn cả mấy người Do Thái đang chết.
Những xe tải thật bự chuyên chở những ngôi sao, từ bầu trời
Những chuyến xe lửa ảm đạm đi trong mưa
Tôi thì vô tội, Mozart ăn năn;
Chỉ cây dương, như thường lệ, run rẩy,
sửa soạn thú mọi tội lỗi của nó.
Ðám Do Thái Czech hát quốc ca: “Nhà tôi đâu…”
Làm gì có nhà; nhà cháy rồi, quyện trong lửa có tiếng huýt của hơi ga lạnh
Tôi mỗi lúc một thêm vô tội, và buồn ngủ.
Cái TV trấn an tôi: Ta và mi thì đều quá cả sự nghi ngờ.
Sinh nhật ồn, ồn quá.
Những chiếc giầy của Lò Thiêu, chất thành kim tự tháp, cao như bầu trời, rên rỉ nhè nhẹ:
Than ôi, chúng ta thì sống dai hơn cả nhân loại, bây giờ, hãy để cho chúng ta ngủ, ngủ;
Chúng ta chẳng có nơi nào để mà đi 

Adam Zagajewski: Without End


Lolita vs BHD

Nhưng chỉ đến sau 1958, khi ấn bản ỡ Mẽo ra lò, cùng với cỡ trên chục ấn bản khác, trên toàn thế giới, thì cánh bướm của em nhí Lô mới tỏa rộng ôm choàng lên quá cả con số những độc giả của cuốn sách. Trong khoảng một thời gian ngắn, cái từ mới “Lolita”, vẫn như 1 cánh bướm [hai mới đúng chứ nhỉ], mở ra một khái niệm mới: người đàn bà-con nít, được giải phóng mà không cần nhận ra, một biểu tượng vô thức của cuộc cách mạng đã xẩy ra trong xã hội đương thời. Tới một chừng mực nào đó, thì Lolita chính là cái mốc lịch sử đó, cái cột cây số đó, milestone, và là một trong những nguyên nhân của một thời đại dễ dãi, khoan dung cho cái bướm, thằng cu, con hĩm, sexual tolerance, thách đố, coi như pha, những cấm kỵ, của tầng lớp thanh thiếu niên tại Mẽo, và Tây Âu, và trào lưu này lên đến đỉnh cao vào thập niên 1960.
Nàng “nymphet” không ra đời với nhân vật của Nabokov. Nàng có, hẳn nhiên, chẳng chút nghi ngờ, ở trong những giấc mơ của những tên “dâm loàn, đồi bại” [chữ của TTT, trong Một Chủ Nhật Khác, đúng ra, chữ của bà vợ Trung Uý Kiệt, chửi...  Cô Hiền, người đàn bà chỉ có thể làm tình nhân, không thể làm vợ], và ở trong sự mù lòa và những xao xuyến run rẩy của những cô gái ngây thơ, và sự thay đổi khí hậu đang bắt đầu đem đến cho nó sự tin cậy. Nhưng, nhờ cuốn tiểu thuyết, nó mang một cái dáng riêng, rũ khỏi sự hiện hữu giấu diếm nóng nẩy, bồn chồn của nó, và thâu đoạt chùm chìa khoá của thành phố. Điều lạ thường, là, cuốn tiểu thuyết của Nabokov đã gây ra cơn cuồng phong, địa chấn, ồn ào, náo nhiệt đó, thấm vào, ảnh hưởng tới, cách cư xử, thái độ, sự nhạy cảm của hàng triệu triệu con người, và trở thành một phần của huyền thoại học hiện đại.
Bởi vì thật khó mà tưởng tượng, một ông nhà văn Nga, lưu vong, chuyên mê bướm [bướm thiệt nhe], như là Nabokov, một nhà văn trong số những nhà văn của thế kỷ, chẳng bao giờ thèm để ý đến những vấn nạn, những giải pháp phổ thông, đương thời, lại tạo ra cơn địa chấn đó, một nhà văn đếch thèm để ý đến, ngay cả cái gọi là thực tại: thực tại là cái chó gì, như ông ta viết, nếu nó không được đặt ở trong mấy cái ngoặc kép.

Vargas Llosa

Kỷ niệm, kỷ niệm

Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy 

Câu văn mở ra, [khởi đầu là lời], mới lộng lẫy làm sao!

Bất giác nhớ đến câu văn mở ra đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển

Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.

*

Gấu viết “Những con dã tràng”, khi còn thằng em, tại căn nhà ở trong một con hẻm, đường Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận.
Lấy một tờ giấy trắng, viết, “Villa trông ra biển”, tắc tị, vò ném xuống gầm giường, lấy tờ khác, viết tiếp, tắc tị vò, viết, vò viết… chừng ngàn lần, có thể nói như vậy!
Thế rồi, một bữa, nó bật ra, tiếp:

Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp. Gió từ biển tới, vượt khoảng vườn nhỏ, mang những chiếc lá vàng trải lên thềm nhà. Con đường nhựa đen đúi, lầm lì chạy mải tới cuối thành phố. Bên kia con đường, là bãi biển, cát trắng và nóng. Xa hơn, về phía trái, nơi bắt đầu con đường, con sông nhỏ đổ nước ra biển làm đỏ lờ đờ một vùng. Xa hơn nữa, cuối tầm nhìn, một ngọn núi nằm trơ trọi, hình dáng nặng nề, thô kệch. Buổi tối, những người dân thường đốt rừng làm rẫy, xa trông, như một con rắn đỏ lập lòe.
Một chiếc xe ngựa đậu dưới bóng cây lớn ở trước cổng ra vào.
Hai dẫy nhà nhỏ chạy dài ra vườn sau. Phòng H. ở cuối một dẫy.
Những cây phi lao đứng im ở ngoài vườn.

Những con dã tràng

Tất nhiên, cũng trần ai khoai củ, mới rặn ra được mẩu trên. Gấu nhớ là, khi viết đến những hàng phi lao đứng im ở ngoài vườn, là, kể như xong!
Một bữa, thằng em bò xuống gầm giường, lôi ra cả một núi, những tờ giấy vò lại, biểu ông anh, tại sao anh không lấy bất cứ một tờ nào, trong số này, viết tiếp, mà cứ phải lập đi lập lại câu “Villa trông ra biển”, đến cả ngàn lần như vậy?

Bây giờ Gấu hiểu được.
Mỗi lần viết, là mỗi lần mò mẫm cái mối nối tiếp theo, mỗi lần viết là tưởng tượng ra trước mắt cái bãi biển Nha Trang, và sau cùng, bức tường thấp hiện ra, nối kết cái villa với bãi biển phía trước.



Cali Tháng Tám 2011

*

NQT & Ngọc Hoài Phương, chủ báo Hồn Việt

Ông anh nhà thơ ngồi Quán Chùa, đọc, bật cười, phán, mày viết về bạn mày thì như thế này, mà mày viết về NS thì như thế kia, làm sao chúng không chửi. Mày viết về bạn mày đúng như mày viết về NS, thì thành nhà phê bình được đấy.
Ui chao thổi bạn quí đến như thế, nhờ thế mà vừa mới tới trại tị nạn, bạn từ Mẽo, nghe tin bèn bỏ hết công ăn việc làm qua thăm, nhét túi GCC 10 đô, mày đi làm tô phở, nhớ những ngày chúng mình ngồi Quán Chùa ở Sài Gòn!

Già rồi mà còn nói dóc quá xá!

Quả là nói dóc, thật.

Thực sự bạn quí đi làm phóng sự cho 1 tờ báo nào đó, và không phải đi một mình, mà là với 1 em ký giả, hình như cũng non nước nước non lắm, [nước nôi nôi nước mới đúng], ấy là trong trí nhớ của GCC muờng tượng ra như vậy.
Cô ký giả cũng lịch sự, lảng ra 1 chỗ khác cho hai đấng bạn quí trùng trùng [không phải trùng phùng] tâm sự. Bạn quí lấy ở trong túi ra 1 cái máy thu âm, nhỏ xíu, bằng bao thuốc lá, phán:
-Mày nói đí, nói với chúng bạn của chúng ta ở bên Mẽo đi, tao về sẽ cho tụi nó nghe.
GCC, sao lạ quá, biết ngay là bạn quí của mình bịp mình.
Và quả đúng như thế. Sau này, GCC gặp lại bạn bè ở Mẽo, chẳng thằng nào được nghe giọng của người từ cõi chết trở về cả!
Bạn quí cũng chẳng thèm viết một dòng.

Mấy trăm “bạt”, ba trăm, tiền Thái,"bath", GCC nhớ rõ, thì bạn đợi hết cuộc thăm hỏi & uý lạo, nhét vô túi Gấu, tao kẹt quá, mày cầm đỡ!

GCC đọc cái tin GCC đến Trại Tị Nạn, và yêu cầu đồng hương hỗ trợ, gửi thẳng về lều trại, số mấy, số mấy, trên tờ Hồn Việt, và vài tờ nữa, và cắt hết, lưu vô hồ sơ thanh lọc.
[Cái vụ này là nhờ mấy đấng bạn "không" quí, Nguyễn Đông Ngạc, Viên Linh.... sốt sắng lo cho vợ chồng GCC. Nếu không là bỏ mẹ rồi, bị trả về cho VC rồi!]

Nhân đây, cám ơn ông bạn Ngọc Hoài Phương một phát thật là sâu, dù quá muộn, nhưng muộn còn hơn không.

Note: Tối qua, [26.3.2012], quá nửa đêm, [giờ Canada] bạn quí phôn. Sau khi hỏi mấy giờ rồi, thấy khuya quá, bạn quí nói, sorry, ngủ tiếp đi, và cúp máy.

Hà, hà!

*

Mé sau Chùa Long Vân, Parksé.
Gấu nằm ngủ trưa dưới tượng Quan Công.
Dậy, xuống mé sông Mekong tắm.

Loạt bài này, GCC viết, theo tinh thần, nếu bạn ngồi quá lâu bên bờ sông, thì thể nào cũng sẽ nhìn thấy xác kẻ thù lềnh bềnh trôi qua. Nhưng trong một lần, tắm sông Mekong, trong khi chờ dịp qua Thái Lan, vô Trại Tị Nạn, Gấu nhìn thấy, không phải xác của kẻ thù, hay của bạn quí, nhưng mà là của… GCC!

Borges viết, đây là 1 đề tài xưa như trái đất: Kẻ Khác. Một đề tài mà Stevenson rất mê, vẫn theo ông. Lê Kim hay Hà Ích, thì cũng vẫn chỉ là một. Trong tiếng Anh, Kẻ Khác có tên là fetch, hay dịch 1 cách văn vẻ, thì là wraith of the living. Và tôi [Borges] nghi ngờ, một trong những tên gọi, désignation, của Kẻ Khác, là “alter ego”. Cái bóng ma là kẻ khác đó, là hình ảnh của chính bạn, phản chiếu từ lưỡi dao [đâm sau lưng chiến sĩ], hay từ cái mặt ao, lưu cữu từ bao thế kỷ, ở 1 cái làng Bắc Kít, có một thằng cu Gấu Bắc Kít, đầy Cái Ác Bắc Kít….

*

Nhân đang nói chuyện tình oan nghiệt, nửa kia, nửa khác, tình cờ đọc bài sau đây, của Borges, thật tuyệt: The Double, trong "Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng", The Book of Imaginary Beings.

The Double

Suggested or stimulated by reflections in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is common to many countries. It is likely that sentences such as A friend is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means "double walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for an apparition thought to be seen by a person in his exact image just before death. To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad "Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this theme. There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met Themselves") in which two lovers come upon themselves in the dusky gloom of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).

The ancient Egyptians believed that the Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his same walk and his same dress. Not only men, but gods and beasts, stones and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible except to certain priests who could see the Doubles of the gods and were granted by them a knowledge of things past and things to come.

To the Jews the appearance of one's Double was not an omen of imminent death. On the contrary, it was proof of having attained prophetic powers. This is how it is explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the story of a man who, in search of God, met himself.

 In the story "William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience. He kills it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait and meets his death. In Yeats’s poems the Double is our other side, our opposite, the one who complements us, the one we are not nor will ever become.

 Plutarch writes that the Greeks gave the name other self to a king's ambassador.
 

Kẻ Kép

Ðược đề xuất, dẫn dụ, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”. Trong tiếng Scotland thì là từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!

Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua, quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).

Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích thị của 1 con người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.

Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...  đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.

Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!

Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở thành.

Plutarch viết, người Hy Lạp gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên “đại sứ của hoàng đế”.

J.L. Borges

Source