Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 






*

Saigon 1965: Hình này thật tuyệt, có đủ cả, nào taxi, mobylette, xích lô máy.
Gấu ăn mìn VC 1965

30.4.2011


 Thời Sự Hình


Jennider @ Paris 3.2011

Happy Birthday To U
Thủ Thiêm

Gấu có những kỷ niệm khủng khiếp về cái đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít. Có những kỷ niệm, là của ông bố của Gấu. Thí dụ cái chuyện bà nội của Gấu, chồng chết sớm, nuôi đàn con, có nồi thịt, bắt con ăn dè ăn xẻn thế nào không biết, nồi thịt biến thành nồi ròi.

Vô Nam, phải đến sau 30 Tháng Tư, Gấu mới được tái ngộ với cái đói, những ngày đi tù VC.
Thê lương nhất, và cũng tiếu lâm nhất, có lẽ là lần Gấu Cái đi thăm nuôi, lần đầu, sau mấy tháng mất tiêu mọi liên lạc với gia đình.
Cái tật viết tí tí, không bao giờ dám viết ra hết, kỷ niệm, hồi nhớ, tình cảm… nhất là thứ kỷ niệm tuyệt vời, nhức nhối.... là do cái đói gây nên!

Nhân Gió-O 10 năm

Ký, Mới

Con Bọ của Kafka và chiến tranh Việt Nam

Chúng ta đều biết hình dáng con bọ khủng khiếp, hoá thân của một ông VC thực tình tin vào Đảng, ngay sau ngày 30 Tháng Tư. Nhưng ngay cả Kafka cũng không thể nào tưởng tượng ra nổi con bọ của ông. Ông không bao giờ muốn hình dạng của nó được phô bầy ra trước độc giả.
Flaubert đã từng muốn văng tục, khi nhà xb muốn một cuốn sách của ông có hình minh họa. "Minh họa là phản văn chương". "Thà chết còn hơn là minh họa" [Vous voulez que le premier imbécile venu dessine ce que je me suis tué à ne pas montrer ? Marthe Robert: Livre de lectures]. Kafka đành phải chấp nhận bìa cuốn Hoá Thân có hình, nhưng năn nỉ [Marthe Robert dùng chữ supplier] nhà xb, bằng mọi cách, không được trương hình con bọ ở ngoài bìa. "Gì cũng được, nhưng chuyện này nhất định không" ["Surtout pas cela, surtout pas cela!"], ông khiếp hãi trước một chuyện thô bỉ như thế, trong thư gửi nhà xb. Cuối cùng, độc giả có một con bọ Gregor vẫn còn mang dạng người, đứng trơ cu lơ một mình, trong một căn phòng trần trụi, quay lưng về phiá một cái cửa hé mở, trên một cái nền đen, tay ôm đầu.
Gấu tui có đọc báo trong nước ở trên lưới [tờ Người Lao Động thì phải], câu chuyện một nữ cán bộ, trong lúc mệt nhọc vì công chuyện, bật cái máy TV nghỉ xả hơi, và một giọng nói vùng địa phương của bà khiến bà chăm chú theo dõi, câu chuyện một bà, suốt từ 30 Tháng Tư, đi khắp một nửa đất nước, tìm hài cốt chồng. Bà đau lòng nghĩ, mình may mắn hơn, mà sao thê lương quá. Bởi vì chồng bà có về, nhưng đã biến thành một... con bọ. Đúng lúc đó, con bọ bò về nhà, sặc sụa mùi rượu Tây, mùi nước hoa nữ loại thượng hảo hạng...


Bùi Chát


Roberto Bolano: Lèm bèm lần chót


Notes About Brodsky
Milosz

Trong To Begin Where I Am, Bắt đầu nơi tôi là, một tuyển tập tiểu luận của Czeslaw Milosz, hai bài viết, về Pasternak và về Brodsky, thật tuyệt. TV đã post bài viết về Brodsky, và thừa thắng xông lên, bữa nay đi luôn bài về Pasternak, cũng đã giới thiệu lai rai.

Lẽ tất nhiên, còn nhiều bài thật thú, thí dụ, Chống lại thơ không hiểu được, Against incomprehensible poetry. Hay “Thôi thế thì thôi, đành thối thê”, [‘tạm’ dịch cái tít “If only this could be said”, viết về tâm tư một tín hữu, và nhà thơ Ky Tô, là ông, với câu của Pascal là đề từ:

Chối từ, tin tưởng, nghi ngờ tuyệt đối – đó là điều đối với con người y chang “phi” đối với con ngựa.
[To deny, to believe, to doubt absolutely – this is for man what running is for a horse].

Phải mất 36 năm, đám thi sỡi nhà văn Bắc Kít một lòng một dạ viết dưới ánh sáng của Đảng, mới "mơ hồ" hiểu ra được "phản biện", [không có nghĩa là "deny" đâu nhé], nghĩa là gì!

Phản biện nghĩa là cãi tí ti với Đảng, và sau đó, gật đầu OK, khi lãnh lương Hội Nhà Văn, thí dụ!

In one of his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was himself a poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with the deepest current of his century, in which man, threatened with extinction, discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the bowels of the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is the result of the principle of differentiation based on hierarchy. Mandelstam in the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the reality of tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting his poetry to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures.

Milosz

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài

Bài viết Sự quan trọng của Simone Weil cũng quá tuyệt.
Bài nào đọc cũng tuyệt, khiến Gấu tự hỏi, tại làm sao cũng CS, mà ở đó lại có những bậc như Brodsky, như Milosz, thí dụ.

Bắc Kít, chỉ có thứ nhà văn nhà thơ viết dưới ánh sáng của Đảng!

Cái vụ Tố Hữu khóc Stalin, phải mãi gần đây Gấu mới giải ra được, sau khi đọc một số bài viết của những Hoàng Cầm, Trần Dần, những tự thú, tự kiểm, sổ ghi sổ ghiếc…

“Xì” suốt đời mê văn chương, nhưng không có tài, nên đành đóng vai ngự sử văn đàn, ban phán giải thưởng, ra ơn mưa móc đối với đám nhà văn. Ngay cả cái sự thù ghét của ông, đối với những thiên tài văn học Nga như Osip Mandelstam, Anna Akhmatova… bây giờ Gấu cũng giải ra được, chỉ là vì những người này dám đối đầu với Stalin, không hề bị khuất phục.
Gấu tin là, Tố Hữu tự coi ông như là Xì của xứ Bắc Kít. Ông còn bảnh hơn cả Xì, vì là một thi sĩ thứ thực, nếu chúng ta đọc dòng thơ cách mạng hồi ông còn trẻ. Tất cả các văn nghệ sĩ Bắc Kít sở dĩ sợ Tố Hữu đến như thế, chính là vì với họ, Tố Hữu là…. Xì Ta Lin mũi tẹt, Bắc Kít!


Thơ mỗi ngày

NMG có cái hình ảnh thú vị lắm: Mọi đồng hồ Mít ngưng chạy đúng vào ngày 30 Tháng Tư 1975.

 
THE CLOCKS OF THE DEAD

One night I went to keep the clock company.
It had a loud tick after midnight
As if it were uncommonly afraid.
It's like whistling past a graveyard,
I explained
In any case, I told him I understood

Once there were clocks like that
In every kitchen in America.
Now the factory's windows are all broken.
The old men on night shift are in Charon's boat.
The day you stop, I said to the clock,
The little wheels they keep in reserve
Will have rolled away
Into many hard-to-find places.

Just thinking about it, I forgot to wind the clock.
We woke up in the dark.
How quiet the city is, I said.
Like the clocks of the dead, my wife replied.
Grandmother on the wall,
I heard the snows of your childhood
Begin to fall.

Charles Simic
 

Những chiếc đồng hồ của những người đã chết

Một đêm Gấu đi ra đường kiếm bạn đồng hành là chiếc đồng hồ
Nó kêu một tiếng “tích” thật bự sau nửa đêm
Như thể nó sợ, một cái sợ không giống ai
Như tiếng huýt sáo khi đi qua nghĩa địa
Tôi giải thích
Trong bất cứ trường hợp, tôi bảo nó, tôi hiểu 

Đã có 1 lần, có nhiều đồng hồ như thế
Ở mọi nhà bếp của lũ Ngụy
Bây giờ mọi cửa sổ nhà máy sản xuất đồng hồ Chợ Lớn,
Đồng hồ một cửa sổ, hai cửa sổ, không người lái...
thì đều tan hoang, đổ vỡ.
Những người già của những ca trực đêm thì đều lên con thuyền của Charon
Ngày mi ngưng, tôi biểu cái đồng hồ,
Những bánh xe dự trữ thì đều bỏ đi
Tới rất nhiều nơi thật khó mà tìm được

Mải nghĩ về những chuyện đó, tôi quên mẹ lên giây cót đồng hồ
Chúng tôi thức dậy trong bóng tối
Sao thành phố im ắng như thế này, tôi nói.
Như những đồng hồ của người chết, Gấu Cái trả lời
Bà cụ ở trên tường,
Con nghe tiếng tuyết của thời thơ ấu của bà
Bắt đầu rơi 

EMPIRES

My grandmother prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet. 

One of your heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.

There was no need to. They were all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.

Charles Simic

 

Đế Quốc [Đỏ]

Bà tôi tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.

Một trong những anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà. 

Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.

The Invisible

Những kẻ vô hình

1

It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden. 

Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible, 

Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone. 

1

Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám 

Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:

Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!

4 

The moment you shut off the lamp,
Here they are again,
The two dead people
You called your parents. 

You'd hoped you'd see tonight
The girl you loved once,
And that other one who let you
Slip a hand under her skirt. 

Instead, here's that key in a saucer of small change
That wouldn't open any lock,
The used condom you found in church,
The lame crow your neighbor kept. 

Here's the fly you once tortured,
A rock you threw at your best friend,
The pig that let out a scream
As the knife touched its throat.

Đúng vào lúc bạn tắt đèn
Họ trở lại
Hai người đã mất
Bạn gọi họ là hai đấng sinh thành.

Bạn sẽ mơ đêm nay
Bạn gặp lại cô bạn gái ngày nào
Cô gái đã từng yêu bạn
Và một cô khác nữa
Đã từng cho phép
Bàn tay của bạn lùa bên dưới
Chiếc áo bà ba của cô.

Thay vì vậy, thì đây là chiếc chìa khóa,
trên cái dĩa đựng ba thứ lặt vặt,
chẳng thể mở bất cứ 1 cái cửa
Cái áo mưa đã xài rồi bạn kiếm thấy ở nhà thờ
[và ở blog của hòa thượng THT],
Con quạ què mà người hàng xóm của bạn giữ

Đây là con ruồi mà bạn đã tra tấn
Cục đá bạn ném vào người bạn tốt nhất của bạn
Con heo ré lên một tiếng rùng rợn
Khi mũi dao thọc vô cổ của nó

Sự thực câu của NMG ám chỉ đám “Chống Cộng Điên Cuồng”, không thể nào vờ đi được ngày 30 Tháng Tư. Có 1 thời gian đồng hồ của NMG cũng ngưng, nhưng chạy lại rồi! Người về, đi tour văn nghệ, ra Bắc gặp Tố Hữu, và ra lệnh cho ông, biểu đám kiểm duyệt không được bỏ 1 chữ nào tác phẩm Sông Côn Mùa Lũ, và phán, nhà văn nào mà viết về chính trị, thì tác phẩm không đi được xa! Viết dưới ánh sáng của Đảng thì được, chắc thế.


Carlos Fuentes: Women
on
Sister Benedicta & Anna Akhmatova & Simone Weil

Triết gia Đức gốc Do Thái Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời phán của ông thầy xuống đệ tử, là suy đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc, mỗi năm, một triết gia hay một nhà thơ, như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã hội. “Tôi thuộc phe Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như bản chất của nó, thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định biến tư tưởng của bà thành hành động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường phố, ở xưởng thợ, ở mặt trận. Khi còn là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh Nữ Đỏ”, và bà biểu lộ khuynh hướng tả phái của bà bằng cách đi tới nhà máy, xưởng thợ cùng làm việc với công nhân, chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha, và sau đó, dục bỏ “chủ nghĩa ái quốc của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói của Ky Tô Giáo Pháp, hô hào: “Thà Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng Simone Weil cũng dục bỏ Liên Xô Cộng Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng của Stalin.


RUSSIA: THE WILD EAST

*

No worthy successor, yet, to Solzhenitsyn
Chưa có đệ tử xứng đáng để truyền y bát!

Yevgeny Kupchenko

Cư dân lâu đời nhất của Trại Tù Norilsk, Yevgeny Kupchenko bị bắt năm 1936 và bị buộc tội làm do thám cho Nhật. Vào lúc đó, ông là một nông dân mù chữ. Ông là 1 trong những nhóm đầu tiên ngược dòng Yenisei River tới Norilsk. Vào giữa thập niên 1930, Liên Xô vẫn còn huênh hoang bá láp về triết lý cách mạng cải tạo, phục hồi nhân phẩm, thông qua lao động và niềm vui được là những“công nhân” thực thụ.

Học Tập Cải tạo? Ai? Tù nhân. Học bằng dùi cui, không phải bằng chữ. Tại sao nói với tù nhân, nói để làm gì cơ chứ, và nói cái gì? Bạn nghĩ chúng sẽ nói: “Chúng ông sẽ dạy cho chúng mày trở thành những người CS tốt?” Chẳng bao giờ chúng, những tên quản giáo nói với chúng tôi. Chẳng có ma nào nói với chúng tôi. Có một ban “giáo dục văn hóa” ở trại tù, ở đó, họ trao cho chúng tôi những lá thư của chúng tôi. Tôi phải đưa tất cả thư từ cho “ban” này để chúng đọc, và nếu chúng thích, thì chúng sẽ cho phép gửi đi….



*

GRANTA
THE RIVER POTUDAN
Andrei Platonov
TRANSLATION BY ROBERT AND ELIZABETH CHANDLER AND ANGELA LIVINGSTONE

The River Potudan

Grass had grown back on the trodden-down dirt tracks of the civil war, because the war had stopped. With peace the provinces had grown quiet again and there were fewer people: some had died in the fighting, many were being treated for their wounds and were resting with their families, forgetting the heavy work of the war in long sleep. Demobilized men in old greatcoats were still making their way home, carrying kitbags and wearing helmets or sheepskin caps-walking over the thick unfamiliar grass which there had not been time to see before, or maybe it had just been trampled down by the campaigns and had not been growing then. They walked with faint, astonished hearts, recognizing afresh the fields and villages that lay along their path. Their souls had been changed by the torment of war, by illness and the happiness of victory, and it was as if they were approaching life for the first time, dimly remembering themselves as they had been three or four years ago. They were older and had grown up, they had become wiser and more patient and had started to feel inside themselves the great universal hope which had become the idea of their lives-lives that were still young and which, before the civil war, had had no clear aim or purpose.

In the late summer of 1921 the last demobilized Red Army soldiers were dispersing. They had been kept back on the labor teams, working at unfamiliar trades, feeling homesick; only now had they been told to go home to their own lives and to life in general.

A former Red Army soldier, Nikita Firsov, on his way home to an obscure provincial town, had been walking for more than a day now along a ridge that stretched beside the River Potudan. Nearly twenty-five years had passed since this man's birth, and he had a modest face that seemed permanently sorrowful-though this expression may have been caused not by sadness but by some restrained goodness of character or, perhaps, simply the intensity of youth. From under his cap his fair hair, which had not been cut for a long time, hung down to his ears, and his large grey eyes gazed anxiously at the monotonous landscape, as if the man on foot were not from these parts.

At noon Nikita Firsov lay down beside a small stream that flowed along the bottom of a gully and down into the Potudan. He dozed off on the earth, under the sun, in September grass that had....

Đọc truyện này, Gấu cũng nhớ tới mấy truyện ngắn của “bạn của Gấu”, là TTH, và truyện, ký, đúng hơn, "Nổi chìm một thị xã" của Nguyễn Quang Lập, viết về Quảng Trị....

Truyện dưới đây, Gấu thấy ở Diễn Đàn Forum, lâu rồi, nay post lại, tính đi một đường lèm bèm, nhưng sợ hư mất truyện, chỉ lọc ra vài câu, tuyệt bút, với riêng Gấu.

Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một màn sương mờ dày đặc....
Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám giữa lồng lộng gió. Trên muôn triệu lá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nổi (1) niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa tỏa vào trong chiều muộn.

(1) Nguyên là "nỗi", Gấu sửa lại là "nổi", sử dụng như một động từ, giống như "trổi", không biết có đúng ý của người xưa hay không?
NQT

Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc làm Gấu nhớ đến câu thơ của Gấu, làm khi vừa đến đất lạnh ải Bắc, đầu địa cầu:

Đi trong gió,
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay