Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 




Jennider @ Paris 3.2011
Happy Birthday To U

Thủ Thiêm

*

*

Có Gấu nhà văn, trong số nạn nhân!

[Coi Blog TV]

*

Gấu đó ư?
Không phải, vì còn ba người nữa, trong có hai chuyên viên Phi Luật Tân

Hà Nội & Sài Gòn lần về 2002
Liz
Liz Nue


Thời Sự Hình


*

Khi Xứ Mít được Nobel Toán, Gấu đã tưởng tượng ra cái cảnh trên: NBC, đứng giữa Ba Ðình, một tay giơ quả đấm chỉ chỉ về Lăng Bác [cái này thuổng Kỵ Sĩ Ðồng của Pushkin] (1), một tay cầm cái bửu bối Nobel, phán: DM, cái chế độ khốn kiếp này đi chỗ khác chơi!

Hóa ra, cảnh xẩy ra ở Buenos Aires, dưới sự chứng kiến và ban phước lành của Borges.
Và Bùi Chát, chuyên chửi tục, thì lại ăn mặc rất chỉnh tề, và phán rất là thật nhã nhặn, thật lịch sự!

Tuyệt!

TV sẽ, thay vì chúc anh, và nhóm của anh, thì dịch bài viết trên tờ [báo Tây] Books, vinh danh Lưu Hiển Ba, đúng tinh thần Uỷ Ban trao giải xuất bản sách báo cho Bùi Chát.
Như thế chúng ta có thể coi đây là giải Nobel Hòa Bình của Mít.

Ðúng như vậy!
NQT

(1)

Đây là một trong những "quái vật" của Petersburg. Bức tượng kỵ sĩ đồng đứng trên một cái bệ đá nặng trên 15 ngàn tấn, hàng ngàn người đã mất 3 năm di chuyển nó từ một nơi cách xa thành phố 12 dặm. Đám sĩ quan nổi loạn tin tưởng khi bắt buộc nhà vua phải chia sẻ quyền lực, họ có thể làm cho Peter từ bỏ ý định Âu hóa và để ý đến những vấn đề ở trong nước. Biến cố này đã được Puskhin ghi lại trong trường thi Kỵ sĩ Đồng, 1833. Mở đầu là một ngợi ca vì vua và thủ đô của ông, bài thơ đột nhiên chuyển giọng, kể lại thảm kịch của một viên chức nghèo, Yevgeny, đã mất những người thân yêu trong trận lụt 1824. Như phát khùng vì nỗi nhớ thương, anh nắm chặt tay chỉ về phía bức tượng ông vua, người đã xây dựng thành phố trên mặt nước rồi bỏ chạy, bị dượt đuổi bởi chính "thần tượng" là mình! Cuộc dượt đuổi cứ tiếp tục hằng đêm, và tiếng vó ngựa khủng khiếp vang rền khắp những con phố hoang vắng. Khi anh tự hỏi, phải chăng anh đang mơ, giấc mơ kinh hoàng là trận lũ lụt tàn bạo, thi sĩ ngắt lời nhân vật của mình: Phải chăng đời sống chỉ là một giấc mơ rỗng tuếch, một màn kịch tiếu lâm, được trình diễn với phí tổn của trời và đất?

Nơi Người Chết Mỉm Cười


*

Cái tít, dịch ra tiếng Mít:
Bùi Chát và sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà!
Hà, hà!
*

**

Cái tít này, “Dịch là nghệ thuật buôn lậu”, được gợi hứng từ của Gấu,
bài đầu tiên viết cho SCN, talawas: "Dịch là cướp"!

*

Roberto Bolano: Lèm bèm lần chót

*

Âu Châu trong mơ của Kundera

Bài viết về Kundera trên tờ Books, số mới nhất, Tháng Ba 2011, [tờ này theo Gấu, bảnh nhất hiện giờ, vượt biên cương Pháp, vì giới thiệu không chỉ văn Tây, không như tờ Magazine Littéraire, thí dụ], thật tuyệt.

Bài viết, nhân Kundera vô Pléiade, ngay từ khi còn sống, nhân ở quê hương của ông cho xb một tác phẩm tập thể, [ouvrage collectif], về ông, nhưng hơn hẳn thế, đưa ra 1 cái nhìn thật là bảnh về Âu Châu! 

Ông ta hết còn là 1 tác giả của 1 cái xứ ở dưới đó, một xứ CS!

Trung Âu là 1 ám dụ về phía âm u, une allégorie du côté sombre, của thế kỷ 20, thông qua, via, sự vinh danh của cái “căn cước thật” của nó.

Tiểu thuyết, một biểu hiện sáng suốt, une expression lucide, của thế giới.

Nếu tiểu thuyết là 1 nghệ thuật, thì sự khám phá ra văn xuôi, la prose, là nhiệm vụ của nó, và không có 1 thứ nghệ thuật nào khác làm được điều này.


Thơ mỗi ngày

The Invisible

People here still tell stories
About a blind old man
Who rolled dice on the sidewalk
And paid children
In the neighborhood
To tell him what number came up. 

When they were away in school,
He'd ask anyone
Whose steps he heard,
The mailman making his rounds,
The undertakers loading a coffin in their black wagon,
And you, too, mister,
Should you happen to come along.

Kẻ Vô Hình

Người ở đó vẫn truyền tụng
Về một ông già mù
Thẩy xúc xắc bên lề đường
Và giúi tiền cho mấy đứa con nít
Để chúng cho ông biết
Con lục, hay con nhất. 

Khi chúng ở lớp học
Ông hỏi bất cứ một người
Khi nghe tiếng chân
Anh đưa thư đi lòng dzòng
Đám nhà hòm đưa hòm lên xe tang
Hay chính ông, Thưa Ngài
Nếu ông lớ ngớ mò tới đó

Note: Bài thơ dài này, của Charles Simic, GNV cảm thấy có 1 cái gì đó, như là 1 ẩn dụ, móc tới "người vô hình" đột nhiên biến thành hữu hình, là Bùi Chát, “khăn đóng áo dài, đứng trên đài cao, nhận giải Tự Do Xuất Bản".
Vinh danh thêm bạn, bằng những dòng viết về Brodsky
của David Remnick

Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ. Ông không nói giỡn. Buổi chiều ông có thời giờ ngồi làm những bài thơ "xấu xa", và tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa hình thức trưởng giả" từ những thần tượng của ông. Hai đoạn thơ sau đây của Auden đã làm ông "ngộ" ra:

Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique, 

Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet. 

Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp, 

Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng. 

Auden 

Ông bị xúc động không hẳn bởi cách mà Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm bật nó ra như trong dân ca - nhưng bởi ngay chính sự khôn ngoan, ý nghĩa này: Ngôn ngữ là trên hết, xa xưa lưu tồn dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác, ngay cả thời gian cũng phải cúi mình trước nó. Brodsky coi đây là đề tài cơ bản, trấn ngự của thi ca của ông, và là nguyên lý trung tâm của thơ xuôi và sự giảng dạy của ông. Trong cõi lưu đầy như thế đó, ông không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn đóng, áo choàng, ông bước lên bục cao nơi Hàn lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel văn chương, nói về tính độc đáo của văn chương không như một trò giải trí, một dụng cụ, mà là sự trang trọng, bề thế xoáy vào tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác phẩm của ông là một thông điệp đơn giản, đó là điều ông học từ đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa mai, dửng dưng mà văn chương bày tỏ trước nhà nước, tự bản chất phải hiểu như là phản ứng của cái thường hằng - cái vô cùng - chống lại cái nhất thời, sự hữu hạn. Một cách ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn tự cho phép can dự vào những công việc của văn chương, khi đó văn chương có quyền can thiệp vào những vấn đề của nhà nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ hệ thống nào nói chung, do định nghĩa, đều là một hình thức của thời quá khứ muốn áp đặt chính nó lên hiện tại, và nhiều khi luôn cả tương lai."

Tôi hết còn tin vào nơi chốn ấy


Carlos Fuentes: Women
on
Sister Benedicta & Anna Akhmatova & Simone Weil

Triết gia Đức gốc Do Thái Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời phán của ông thầy xuống đệ tử, là suy đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc, mỗi năm, một triết gia hay một nhà thơ, như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã hội. “Tôi thuộc phe Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như bản chất của nó, thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định biến tư tưởng của bà thành hành động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường phố, ở xưởng thợ, ở mặt trận. Khi còn là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh Nữ Đỏ”, và bà biểu lộ khuynh hướng tả phái của bà bằng cách đi tới nhà máy, xưởng thợ cùng làm việc với công nhân, chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha, và sau đó, dục bỏ “chủ nghĩa ái quốc của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói của Ky Tô Giáo Pháp, hô hào: “Thà Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng Simone Weil cũng dục bỏ Liên Xô Cộng Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng của Stalin.


RUSSIA: THE WILD EAST

Russia: Miền Đông Hoang Dã

INTRODUCTION 

Russia is the largest country in the world-a sixth of its land mass-with a record of upheaval, terror and bloodshed unparalleled in this century. First, the revolution of 1905, bloodily suppressed; then the revolution of 1917, bloodily won; then Stalinism, with millions killed in its forced migrations, exterminations and prison camps; and (concurrent with the last) invasion by Germany and a war in which upwards of twenty million Soviet citizens died. Finally, after decades of sacrifice which turn the Soviet Union into a military rival of the United States, acknowledgement that it has all been for nothing, that capitalism and liberal democracy have won; and with their victory comes the shredding of a state, an empire, a way of living and thinking-and pre-revolutionary levels of social inequity. To be a Russian old enough to have lived through most of this is to know extremes of hardship and disillusion that other people, at least in other industrialized nations (even Germany), can barely imagine. As Anatol Lieven writes in his new book on the recent Chechen war, Chechnya: Tombstone of Russian Power: 'To most of its inhabitants the Soviet Union was more than just a civilization, or a warped version of modernity. It was indeed a world, the only one they knew, and-according to its founders and mentors-the greatest of all worlds, the summit of human history, knowledge and achievement.'

'Reform' is the word that the West has attached, optimistically, to Russia's new condition, in which taxes and wages go unpaid, gross domestic product and life-expectancy decline, the rouble crashes and inflation (in 1998) runs at 200 per cent; where fear of the state and its laws has been replaced by corruption, crime and ruthless self-interest-'bandit capitalism'. These are, as Lieven writes, not so much unfortunate by-products of 'reform' as the phenomena at the very heart of it. If the Russian people were not so soured, confused and exhausted by their experience of ideology, one might be tempted to say that, once again, they looked ripe for revolution.

In literature, Russia has a great, perhaps the greatest, tradition of realism, which seems to have come to a temporary halt. Perhaps because reality itself is now so quicksilver and the truth about it no longer repressed, new Russian writers often favor satire and allegorical fantasy, forms which, when they lose their social context, can face a difficult crossing to other societies and languages. This issue of Granta contains an example that has made the crossing successfully: the piece by Victor Pelevin. It also includes, by contrast, a newly translated story by Andrei Platonov, who died in 1951 and most of whose work was banned until the last years of Soviet rule. Only in the past decade has he come to be recognized-but not widely enough-as one of the finest Russian writers of prose this century. His story, 'The River Potudan', is hypnotic in its quiet strength and sincerity; written of a time when it looked as though the future had been won.

Ian Jack


TTT


Mémoirs

Thế nào là đương thời, thế nào là cổ điển? 

-Là một nhà văn đương thời, có nghĩa là, sẽ có hai nhà phê bình, nếu ngồi cùng bàn, một khen hết lời, một chê chẳng kém, cuốn sách bạn vừa mới xuất bản, trong khi cả hai đều mê Truyện Kiều của Nguyễn Du, hay gần hơn, tuỳ bút Nguyễn Tuân. 

[Tôi không dám nghĩ tới trường hợp, cả hai ông đều chửi um lên!]

-Cổ điển, có nghĩa là sống sót được cả hai thằng cha phê bình đó! 

Ý trên, mô phỏng Virginia Woolf, trong How it strikes a contemporary. Riêng về cụm từ "chê chẳng kém", bà nữ sĩ Anh này cay độc hơn nhiều: cái thứ đó chỉ đáng giấy chùi đít (waste paper), và nếu lửa đốt không cháy, thì phải dí vào tận đáy lò.
 

Ý dưới, từ Coetzee, trong What is a Classic? Nhà văn Nam Phi này nhắc tới một bài diễn thuyết cùng tên, của T.S. Elliot, vào tháng Mười 1944, tại London, khi Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu). Về cuộc chiến, ông chỉ nhắc tới, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng chỉ là tai nạn của hiện tại (accidents of the present time), một cái hắt hơi, xỉ mũi, đối với cuộc sống của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo cho bài nói chuyện. "Nhà là nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts from], "Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning is my end], nhà thơ cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải trở lại với nhà thơ lớn lao nhất, của  "cổ điển của chính thời đại của chúng ta" (the great poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert. Với Herbert, đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ. Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo với những láng giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính cách quí báu nào đó, là làm cho cổ điển sống sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at all costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.


Madame Nhu



Thật ra, lỗi là do chủ biên Lê Thị Huệ khi làm phần kỹ thuật, cắt nguyên con bảng html từ một đoạn cũ nào đó, đã quên sửa chữ “tiểu thuyết”. Ông Nguyễn Quốc Trụ tố ông Đào Trung Đạo trên trang blog của ông nhiều lần. Mấy lần là do lỗi của chủ biên. Mr. Đào Trung Đạo vô can.

Gió O

DTD, tác giả, GNV, độc giả, đọc bài ông ta viết, có quyền có ý kiến khen chê, sao lại gọi là "tố"?
"Tố”, là DTD, khi tố đám Miền Nam, tố Nguyễn Văn Trung, trong một bài viết trên talawas.
NVT có thể là Thầy của DTD.  Bởi vì DTD học Văn Khoa, vào đúng thời kỳ NVT làm Khoa Trưởng.
Tố ở đâu không tố, nhè talawas mà tố, không bậy sao? 

.... trên trang blog của ông nhiều lần.

TV, sự thực không phải là blog!

Blog, mới có đây thôi, trong khi TV có mặt trên net, cho tới nay, là trên 10 niên, thọ nhất trong số những trang văn học trên lưới, vì phải kể cả thời gian tá túc tại VHNT của PCL, 1998.

Gấu nhớ rõ, vì Gấu qua Cali ra mắt sách Lần Cuối Sài Gòn, 1998. Gặp NMG, đề nghị giới thiệu Steiner trên VH, ông lắc đầu.
Trước khi đi, Gấu cũng đã nghi rồi, và cố tình làm quen Hợp Lưu, bằng cách gửi bài dịch Nhà Văn và Chủ Nghĩa CS, của Steiner. Tính trong đầu, nếu mi đăng, là phải cho vợ chồng ta tá túc, những ngày ở Cali!

Anh đăng thật, [Tks. NQT] và mời vợ chồng Gấu tới ở nhà anh [Tks. NQT].
Nhưng ông bạn Khế Iêm, tạp chí Thơ lại giới thiệu 1 ông bạn, độc thân.
Gấu ở nhà “mobile home” của ông bạn này một đêm, sáng hôm sau, NMG đề nghị về nhà anh ở, cho tiện, và cũng để gặp gỡ cả nhóm VH.

Về lại Canada, Gấu làm quen PCL. Và trang TV sau đó ra đời.

Blog dù thế nào thì vẫn phải phụ thuộc cái thằng server cho bạn sử dụng free, nhưng bù lại, bạn phải chịu một số điều kiện của nó.
Trang TV không chịu 1 điều kiện của ai, làm sao coi là blog được?

Đâu phải Gấu mê văn thơ, mê viết đến độ mở blog?
Trang TV đâu phải mở ra để viết văn, làm thơ, hay làm chủ quán đóng vai người khám phá thiên tài thi ca, như Gió O của bà Huệ, thí dụ?

Gấu đâu phải là cớm văn nghệ, mà tố Đào quân? Tố cái gì chứ?

Ông ta viết dở, thì chê, dịch sai, viết câu tiếng Việt không nên thân, lòng dạ đố kỵ, có cái bằng cử nhân Triết của Văn Khoa Sài Gòn, lên mặt chê người khác không phải dân khoa bảng, tố bạn thân, đồng nghiệp, là HPA chưa có trình luận án, tố với ai, nhè SCN, một em Bắc Kít, mà tố, dân trong nghề gọi là “mét bu, mét má"!
*  

Thấy mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer thiên tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là những người Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền nong và chính trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ lập ra, ca mấy người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời. Nhắm tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn chương ấy.
LTH

Quả là bạo ngôn!

Và,

Quả có Do Thái dính vô mấy giải thưởng Nobel được bà Huệ viện ra, nhưng không phải mafia, mà là 6 triệu người Do Thái bị Nazi đưa vô Lò Thiêu.

Khi trao những Nobel văn chương trên, một cách nào đó, Uỷ Ban Nobel đã nhân danh toàn nhân loại sám hối tội ác Lò Thiêu.
Đấy là nói về mặt tinh thần tác phẩm.
Còn về văn tài, thì phải từ từ giãi bày sau. Bởi vì, nếu không phải là những tác phẩm văn học có giá trị, thì làm sao được Nobel?
 

Nhắm tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn chương ấy.

OK! Mít nhắm tít mắt dịch dọt…
Nhưng không lẽ Tây mũi lõ, thí dụ, cũng nhắm tít mắt…?

Trên TV, Gấu đã hơn một lần, bạo miệng hơn cả bạo miệng, dõng dạc phán, chỉ vài năm gần đây, Nobel văn chương mới thực sự là Nobel văn chương, vì cho đúng người, đúng tinh thần của người đặt ra giải thưởng, cũng 1 thứ Đại Ác, vì phát minh ra võ khí giết người, là thuốc nổ TNT. Giải Noebl văn chương, bản chất của nó, như thế, là 1 giải thưởng mang tính sám hối.
Điều kiện “cần”, mấy tay mà bà Huệ nêu ra, và bịt mũi, đáng được.

Điều kiện “đủ”, là, liệu có tí văn chương nào trong đó không?