Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica

















 

Album

*

*

CANADA DAY


Thơ Mỗi Ngày

Note: Mừng SN/GCC, 16.8, Robert Hass viết bài này.
Và để đáp lại tấm thịnh tình, Zbigniew Herbert, từ bên kia thế giới, bèn đi một đường về… BHD!
Hà, hà!


AUGUST 16 [1998]

In Memoriam: Zbigniew Herbert

Zbigniew Herbert died a few weeks ago in Warsaw at the age of seventy-three. He is one of the most influential European poets of the last half century, and perhaps-even more than his great contemporaries Czeslaw Milosz and Wladislawa Szymborska-the defining Polish poet of the post-war years.
    It's hard to know how to talk about him, because he requires superlatives and he despised superlatives. He was born in Lvov in 1924. At fifteen, after the German invasion of Poland, he joined an underground military unit. For the ten years after the war when control of literature in the Polish Stalinist regime was most intense, he wrote his poems, as he said, "for the drawer." His first book appeared in 1956. His tactic, as Joseph Brodsky has said, was to turn down the temperature of language until it burned like an iron fence in winter. His verse is spare, supple, clear, ironic. At a time when the imagination was, as he wrote, "like stretcher bearers lost in the fog," this voice seemed especially sane, skeptical, and adamant. He was also a master of the prose poem. Here are some samples:

The Wind and the Rose

Once in a garden there grew a rose. A wind fell in love with her. They were completely different, he-light and fair; she immobile and heavy as blood.
    There came a man in wooden clogs and with his thick hands he plucked the rose. The wind leapt after him, but the man slammed the door in his face.
    -O that I might turn to stone-wept the unlucky one-I  was able to go round the whole world, I was able to stay away for years at a time, but I knew that she was always there waiting.
    The wind understood that, in order really to suffer, one has to be faithful.

Robert Hass: Now & Then. The Poet’s Choice Columns 1997-2000

Zbigniew Herbert mất vài tuần trước đây, ở Warsaw thọ 73 tuổi. Ông là 1 trong những nhà thơ Âu Châu, ảnh hưởng nhất trong nửa thế kỷ, và có lẽ - bảnh hơn nhiều, so với ngay cả hai người vĩ đại, đã từng được Nobel, đồng thời, đồng hương với ông, là Czeslaw Milosz và Wladislawa Szymborska -  nhà thơ định nghĩa thơ Ba Lan hậu chiến.
Thật khó mà biết làm thế nào nói về ông, bởi là vì ông đòi hỏi sự thần sầu, trong khi lại ghét sự thần sầu. Ông sinh tại Lvov năm 1924. Mười lăm tuổi, khi Đức xâm lăng Ba Lan, ông gia nhập đạo quân kháng chiến. Trong 10 năm, sau chiến tranh, khi chế độ Xì Ta Lin Ba Lan kìm kẹp văn chương tới chỉ, ông làm thơ, thứ thơ mà ông nói, “để trong ngăn kéo”.
Cuốn đầu tiên của ông, xb năm 1956. Đòn của ông [his tactic], như Brodsky chỉ cho thấy, là giảm nhiệt độ ngôn ngữ tới khi nó cháy đỏ như một mảnh hàng rào sắt, trong mùa đông. Câu thơ của ông thì thanh đạm, mềm mại, sáng sủa, tếu tếu. Tới cái lúc, khi mà tưởng tượng, như ông viết, “như những người khiêng băng ca – trong khi tản thương, [“sơ tán cái con mẹ gì đó”, hà hà] -  mất tích trong sương mù”, thì tiếng thơ khi đó, mới đặc dị trong lành, mới bi quan, và mới sắt đá làm sao.Ông còn là 1 sư phụ của thơ xuôi. Thí dụ:

Gió và BHD

Ngày xưa, trong một khu vườn, có BHD. Anh Cu Gió bèn tương tư nàng. Chúng mới khác nhau làm sao. Anh Cu Gió, thì bông lơn, cà chớn, lêu ba lêu bêu, nhẹ hều, còn Nàng thì bất động, và nặng, như máu.
Rồi tới 1 ngày, một tên đàn ông, đi guốc mộc, tới vườn. Hắn dùng tay dày ngắt bông hồng. Gió đuổi theo, nhưng gã đàn ông đóng sầm cửa vào mặt nó.
-Ui chao, thế này thì ta biến thành đá mất – Anh Cu Gió bất hạnh khóc. Ta có thể đi khắp đó đây, ta bà thế giới, ta có thể cô đơn 1 một mình, hàng năm trời, ở trong cái xó xỉnh nào, nhưng ta biết, Nàng chẳng bao giờ còn ở đó nữa, để mà đợi ta.
Anh Cu Gió ngộ ra 1 điều là, để thực sự đau khổ, người ta phải thành thực, hết lòng, một lòng một dạ, tin tưởng, trung thuỷ…. 

Choáng!

Tôi có quen với nhà thơ Triệu Từ Truyền, có đọc thơ anh, vừa rồi định đi dự buổi ra mắt tập thơ "Hạt sứ giả tâm linh" nhưng bận không đi được và vì vậy tìm một chút thông tin trên báo chí. Và tôi thật sự bị choáng!

Nói rõ là tôi chưa đọc tập thơ này, không nhận xét về tập thơ, nhưng đọc bài của nhà báo Lam Điền tôi choáng với những lời tụng ca "tầm vũ trụ" của nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học Nhật Chiêu mà tôi trích dưới đây:

"Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu chia sẻ sâu sắc với cảm hứng vũ trụ của Triệu Từ Truyền, ông cho rằng “Triệu Từ Truyền muốn làm một cuộc phối hôn giữa vũ trụ với thơ, vật lý với thơ…”. Điều này có sự tham gia của khoa học và cách “xử lý” của người làm nghệ thuật. Nhật Chiêu dẫn lại ý của nhà phê bình văn học Adorno, rằng khoa học giúp con người được khai minh, nhưng đồng thời nó lại tạo ra nguy cơ làm mất đi cái “mê diệu” của vũ trụ. Tức là khi ta biết rõ vầng trăng, cầu vồng là gì, thì có nguy cơ ta không còn nhìn thấy sự kỳ diệu của nó. Tuy nhiên, với Triệu Từ Truyền, cảm hứng vũ trụ trong thơ của anh cho thấy “cái mê diệu” vẫn còn mặc dù thơ anh nói về khoa học. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu chứng minh bằng cách đọc bài thơ “Con cá bảy màu bơi trong mưa phùn” và nhận định: Triệu Từ Truyền viết về khoa học mà không có một thuật ngữ khoa học nào. Và Nhật Chiêu chiết tự hai chữ Từ Truyền trong bút danh nhà thơ: Phải chăng là anh đang trao truyền một loại ngôn từ đầy… mê diệu."

Mấy hôm nay chỉ đọc chuyện đời thường, nào công an bắt trẻ vị thành niên, nào tượng đài, nào bão lũ... Thật không ngờ ông Nhật Chiêu đã khai sáng cho tui một cái tầm vũ trụ quá hớp, đọc mà nghe như lựu đạn nổ bên tai, quên béng ngay cái vụ 1400 tỷ! Và tui choáng!

Kiểu này phải tìm mua một cuốn thơ của anh rồi, anh Tư Truyền.

*****

"Adorno, rằng khoa học giúp con người được khai minh, nhưng đồng thời nó lại tạo ra nguy cơ làm mất đi cái 'mê diệu' của vũ trụ."
Giả như Adorno có phán như vậy, thì sai.

Ấy là vì Bachelard đã đi vài cuốn, về điều này, thí dụ Thi tính của không gian, La poétique de l’espace.
Mà cũng chẳng cần Bachelard, thường nhân chúng ta, mỗi lần thèm thơ là bèn ra ngó không gian vũ trụ, thay vì ngồi tản mạn bên ly cà phê, bên thằng bạn thơ rồi!

Nhật Chiêu là 1 đấng cũng được coi là thi sĩ, sao mà phán nhảm như thế?

Hồi mới lớn, Gấu đọc Bachelard, mê quá, nhân quen được Joseph Huỳnh Văn, rồi nhân bạn làm tổng thư ký tờ Tập San Văn Chương, cần bài viết, rồi nhân Bếp Lửa ra ấn bản chung quyết, GCC bèn gom hết lại, và đi 1 đường về “thời của mình”, nghĩa là viết về cuốn Bếp Lửa.

Cả bài viết của Gấu, có thể coi như 1 tiếng vang, “écho”, từ cuốn “Thi Tính của Không Gian”, của Bachelard.

Thơ vốn chú trọng tới ẩn dụ. Có thể nói, không có ẩn dụ không có thơ. Bachelard, trong “Thi Tính của Không Gian”, coi thi ảnh, hay ảnh tượng, image poétique, bảnh hơn ẩn dụ, là vì ẩn dụ muốn hiểu nó, phải viện tới tri thức. Lấy cái này nói, thay cho cái kia, thì phải cần đến tri thức, cho người đọc nhận ra. Lấy “cái quần” của em, thay cho “em”, “cánh buồm” thay cho “con thuyền”, thì 1 đứa con nít không làm sao biết được.
Nhưng thí dụ, bạn viết, “buổi sáng sớm tinh sương như 1 vết thương mới lên da non” [1 câu trong Bếp Lửa], thì đây là thi ảnh, không phải ẩn dụ.
Cuốn Bếp Lửa, có thể nói, đầy những thi ảnh, như câu vừa trích dẫn:


Bếp lửa

Báo Văn, số đặc biệt về TTT

*

Và nếu như thế, thì tại làm sao mà dám nói vũ trụ không có thơ, không có cái “mê diệu” của thơ?

*

Trong lời dẫn nhập, introduction, Bachelard viết, tâm lý học cổ điển không thèm để ý tới ảnh tượng, image poétique, và luôn lầm nó với ẩn dụ.

1. Ẩn dụ hay là vai trò của tu từ pháp trong văn chương.
Ẩn dụ, métaphore, là một từ hoa, một trong những trò chơi của tu từ pháp. Những cánh buồm thay vì con thuyền, cội huyên thay vì cha già, bóng hồng thay vì giai nhân... là những ẩn dụ.
Từ métaphore, gốc Hy Lạp, vốn có nghĩa, transition, thiên di. Một nhà ngôn ngữ học định nghĩa, Ẩn dụ là một từ hoa, une figure, nhờ đó, lý trí áp dụng, để chỉ vật này cho một vật khác, do một tính chất chung làm chúng sát lại gần nhau.
Không phải chỉ riêng ngôn ngữ, mà cả thế giới sự vật, con người, đều dựa trên 'một tính chất chung làm chúng sát lại gần nhau'. Trong một giọt nước có cả đại dương, thế giới là một convenance, tương hợp, của những sự vật [Michel Foucault: Chữ và Vật]. Thí dụ: Linh hồn và thể xác tương hợp không chỉ một, mà tới hai lần: Bởi vi tội lỗi có thể làm cho linh hồn sa đọa, cho nên, do tránh cho nó khỏi bị sa đọa, Thượng Đế bèn để linh hồn trong tận đáy sâu của thể xác. Tuy nhiên, do thân cận, chung đụng với thể xác, linh hồn bèn đón nhận từ nó, những rung động. Còn thể xác, sa đọa, ấy là do linh hồn có quá nhiều đam mê.
Trong văn chương, Proust cho rằng, bút pháp không thể nào đẹp được, nếu không có ẩn dụ. Tuy nhiên ẩn dụ, hay nói chung, từ hoa, là con dao hai lưỡi. Nước chở thuyền, nhưng nước cũng làm lật thuyền. Máy bay bay được là nhờ khí trời, nhưng khí trời cản sức bay. Dây điện truyền điện, tải điện, nhưng cũng cản điện: Từ hoa, cùng lúc, vừa chuyên chở vừa cản trở văn chương. Tu từ pháp là kích thước, chiều hướng yêu đương, đằm thắm của cách viết [La rhétorique est la dimension amoureuse de l'écriture. Roland Barthes: Tiểu luận phê bình], nhưng, thùng rỗng kêu to: lạm dụng nó, nó giết chết văn chương, biến văn chương thành trò biền ngẫu, nói quẩn [tautologie].
2. Ảnh tượng trong thơ.
Không có ảnh tượng, không có thơ [Pas de poésie sans image]
3. Sự khác biệt giữa ẩn dụ và ảnh tượng.
Ẩn dụ đi kèm tri thức. Một đứa trẻ không thể coi cánh buồm là con thuyền. Trong trí tưởng tượng của nó, con thuyền có thể có nhiều hình dáng quái dị, nhưng không thể giản dị là cánh buồm.


Adam_Zagajewski_1
2
3


CHINESE POEM

I read a Chinese poem
written a thousand years ago.
The author talks about the rain
that fell all night
on the bamboo roof of his boat
and the peace that finally
settled in his heart.
Is it just coincidence
that it's November again, with fog
and a leaden twilight?
Is it just chance
that someone else is living?
Poets attach great importance
to prizes and success
but autumn after autumn
tears leaves from the proud trees
and if anything remains
it's only the soft murmur of the rain
in poems
neither happy nor sad.
Only purity can't be seen,
and evening, when both light and shadow
forget us for a moment,
busily shuffling mysteries. 

ADAM ZAGAJEWSKI 

Thơ Tầu

Tôi đọc thơ Tầu,
viết từ một ngàn năm trước.
Thi sĩ nói về những giọt mưa đêm,
rơi trên mái thuyền tre,
và sau cùng đem đến sự bình an cho trái tim của mình.
Liệu chỉ là tình cờ,
Tháng Chạp lại tới,
với sương mù,
và hoàng hôn nặng nề?
Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở đâu đó?
Thi sĩ đặt nặng vào giải thưởng, thành công
nhưng thu này, thu tới
vặt lá ra khỏi đám cây cao ngạo
và nếu có gì còn lại,
thì chỉ là tiếng thầm thì của mưa
trong những bài thơ
chẳng hạnh phúc, mà cũng chẳng buồn bã.
Chỉ có sự tinh khiết là không thể nhìn thấy
Và buổi chiều, khi cả hai, ánh sáng và bóng tối,
đều quên chúng ta trong thoáng chốc
vì bận bịu trao đổi những điều bí ẩn

Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở đâu đó? 

Tuyệt!

Đúng ‘air’ Lý Thương Ẩn:
Gặp đã khó, xa nhau càng khó;
Có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực khó! (a)

(a)

Có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
Lại càng cực khó!

Đây là cái cực khó, vị thân hữu K., gọi là “Rule number One” của trang art2all!

Thôi thì cứ hẹn, kiếp sau, kiếp khác, mình gặp nhau,
Thì Gấu này sẽ kể cho nghe,
Về cái đêm mưa ao thu dâng đầy, nhé?  (1)

Note: Bài "Thơ Tầu" này, Gấu Cái mê lắm.


Quên nữa, lâu rồi mới được đọc lại Adam Zagajewski, tks bác nhé

Trong số những nhà thơ  TV giới thiệu, mỗi lần gặp Zagajewski là 1 lần thoải mái, gặp Simic, thì sờ sợ. 

Quái thế!


WITH ONE GLANCE

That mirror understood everything about me
As I raised the razor to my face.
Oh, dear God!
What a pair of eyes it had!
The eyes that said to me:
Everything outside this moment is a lie.

* 

As I looked out of the window today
At some trees in the yard,
A voice in my head whispered:
Aren't they something? 

Not one leaf among them stirring
In the heat of the afternoon.
Not one bird daring to peep
And make the hand of the clock move again. 

*

Or how about the time when the storm
Tore down the power lines on our street
And I lit a match and caught a glimpse
Of my face in the dark windowpane

Với Cú Nhìn

Cái gương biết mọi chuyện về Gấu Cà Chớn
Khi GCC đưa lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa! Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt lé, mắt nọ chửi bố mắt kia.
Chúng nói với Gấu:
Mọi chuyện ở bên ngoài thời khắc này đều là dối trá
Đều thuộc Vua Bịp
Hà, hà!

Khi Gấu nhìn ra ngoài cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái cây ở ngoài vườn
Một giọng nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu chúng là “cái gì gì cái chi chi, something”?

Không 1 chiếc lá trong bọn chúng động đậy
Trong cái nóng của buổi xế trưa
Không một chú chim nào dám hé nhìn
Và làm cho cái kim đồng hồ lại nhích nhích

Hay là như thế nào, ấy là nói về trận bão,
Khi nào thì nó quật sụm mấy đường dây điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt 1 que quẹt
Và chộp được cái nhìn khuôn mặt thảm hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái lần nhìn bóng dáng thiểu não của Gấu
Trên cái kính xe hơi bên đường
Lần chạy theo BHD
Ở bên ngoài Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng Hòa, Xề Gòn
!

The Dictionary

Maybe there is a word in it somewhere
to describe the world this morning,
a word for the way the early light
takes delight in chasing the darkness
out of store windows and doorways

Another word for the way it lingers
over a pair of wire-rimmed glasses
someone let drop on the sidewalk
last night and staggered off blindly
talking to himself or breaking into song.

Từ điển

Có thể có một từ, đâu đó, trong đó
diễn tả thế giới sáng nay
một từ, theo đó, tia sáng sớm sủa,
sướng điên lên, khi truy đuổi bóng tối,
ra khỏi những khung cửa sổ, những lối ra vô, nơi cửa tiệm, kho hàng. 

Một từ khác, qua đó, nó nấn ná, bịn rịn, với cặp kiếng, gọng bằng dây,
mà một người nào đó, bỏ rơi trên lối đi, đêm qua,
lảo đảo như 1 anh mù, lèm bèm với chính mình, hay bật thành bài ca.

Note: Trên The New Yorker số mới nhất, July 1st, 2013.
Gấu chưa mua tờ này, nhưng thấy trên Blog NL nên bê về đây.
Nay, có trong The Lunatic

V/v Có nhau trên đời, chưa từng gặp.
Adam Zagajewski có 1 bài, nói cái ý này, nhưng không cho đôi ta, mà cả 1 thành phố, thí dụ, Xề Gòn, cả 1 miền đất, Miền Nam:

FACES 

Evening on the market square I saw shining faces
of people I didn't know. I looked greedily
at people's faces: each was different,
each said something, persuaded,
laughed, endured. 

I thought that the city is built not of houses,
squares, boulevards, parks, wide streets,
but of faces gleaming like lamps,
like the torches of welders, who mend
steel in clouds of sparks at night.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Những bộ mặt

Buổi chiều tối tôi nhìn thấy ở công viên Chợ Bến Thành
những khuôn mặt rạng ngời của những người mà tôi không quen biết.
Tôi nhìn thiết tha
những bộ mặt; mỗi bộ mặt một khác,
mỗi bộ mặt nói một điều gì đó, thuyết phục
tươi cười, chịu đựng.

Tôi nghĩ thành phố Sài Gòn hồi đó của tôi
thì được xây dựng lên,
không phải bằng những ngôi nhà,
công trường, đại lộ, công viên, những con đường rộng rãi,
mà là bằng những bộ mặt sáng lên như những ngọn đèn,
như những ngọn đuốc của người thợ hàn,
hàn que thép ở những đám mây
của những đốm sáng
vào lúc ban đêm

Bài Thi sĩ chụp hình, dưới đây, cùng trang thơ trên, thì nói cái ý, TMBLCP - Tản Mạn Bên Ly Cà Phê - chưa chắc đã… ra thơ.
Chưa chắc cái khỉ gì nữa.
Có ra thơ, nhưng thứ thơ nhạt thếch.

POETS  PHOTOGRAPHED

Poets photographed,
but never when
they truly see,
poets photographed
against a backdrop of books,
but never in darkness,
never in silence,
at night, in uncertainty,
when they hesitate,
when joy, like phosphorus,
clings to matches.
Poets smiling,
well- informed, serene.
Poets photographed
when they're not poets.
If only we knew
what music is.
If only we understood.

Adam Zagajewski: Unseen Hand 

Những thi sĩ được chụp hình

Những thi sĩ được chụp hình
nhưng chẳng bao giờ vào lúc họ thực sự nhìn thấy
Các thi sĩ được chụp hình
Với cái nền đằng sau đầy sách
nhưng chẳng bao giờ lúc (họ) đang ở trong bóng tối
chẳng bao giờ lúc đang câm lặng
Vào ban đêm, lúc đang phân vân
lúc đang ngại ngần,
lúc đang vui, như diêm sinh
bám lấy cây quẹt.
Những thi sĩ mỉm cười,
cảnh giác, trầm lặng
Những thi sĩ được chụp hình
vào những lúc họ chả là thi sĩ
Giá như mà chúng ta biết
âm nhạc là gì
Giá như chúng ta hiểu được .

K

Note:
Bản dịch của GCC có 1 ý sai, bìa sách & phông sách.
Tks. NQT


My Letter to the World

 Viết Mỗi Ngày

INNOCENCE AND EXPERIENCE

WE OWE William Blake the famous Songs of Innocence and Songs of Experience. We incline instinctively toward a chronological reading of Blake's poems: first innocence, and then, compensated for by suffering, experience. Is this really so? Is innocence really something that we lose, like childhood, once and for all? Isn't it possible that experience can also be lost? Experience is a kind of knowledge, and there is nothing that disintegrates as easily as knowledge. This also goes for ethical knowledge, that is, wisdom. Someone who has survived a concentration camp, dignity and moral sense intact, might later change into a cocky egoist, might hurt a child. If he notices this and begins to regret it, he will return to a state of innocence. That is why it may not be right to have experience come at the end. Innocence follows experience, not the other way around. Innocence richer in experience but poorer in self-assurance. We know so little. We understand something for a moment and then forget it, or we betray the moment of understanding. In the end there is innocence, the bitter innocence of ignorance, despair, curiosity.
Adam Zagajewski: Two Cities

Ngây thơ & Kinh nghiệm

Chúng ta mắc nợ William Blake về Những Bài Ca của Sự Ngây ThơNhững Bài Ca của Kinh Nghiệm, nổi tiếng, của ông.
Thơ của ông, theo dòng biên niên, lúc đầu ngây thơ, rồi thì, cái ngây thơ như được đền bù bằng đau khổ, bằng kinh nghiệm.
Thực thế ư? Thực thế ư, cái sự kiện ngây thơ là cái mà chúng ta mất đi – tính dịch nhảm, như trinh tiết của một em, hà, hà – như tuổi thơ, một lần cho tất cả.
Nhưng nếu như thế, thì liệu, kinh nghiệm cũng có thể mất đi?
Kinh nghiệm là 1 thứ tri thức, hiểu biết, và không có chi dễ tan rã ra, dễ dàng, như là tri thức. Y chang như thế, là tri thức đạo hạnh, nghĩa là cái gọi là túi khôn, là minh triết.
Một gã Ngụy, tù cải tạo VC mút mùa lệ thuỷ, sống sót nó, giữ nguyên vẹn đủ thứ trên đời, nào là phẩm giá, nào là cảm quan, ý nghĩa đạo đức, vậy mà sau đó, có thể trở thành 1 tên ích kỷ, có thể làm tổn thương 1 đứa con nít.
Nếu hắn ta nhận ra điều này, bắt đầu ân hận, hắn ta sẽ trở về trạng thái ngây thơ.


IN PRAISE OF INVECTIVE
Ngợi Ca Văng Tục, Chửi Thề

DARK NIGHT

Because life eternal is boring,
Angels play pinochle in heaven,
Devils play poker in hell.
You can hear the cards smack the table
In the dead of the night.
God playing a game of solitaire,
Satan playing one as well,
Except he cusses and cheats.

ĐÊM ĐEN

Bởi là vì đời thì lúc nào cũng, thiên thu cũng, chán ngấy người lên được
Thế là thiên thần bèn chơi bài pinochle ở thiên đàng
Quỉ sứ chơi poker ở địa ngục
Bạn có thể nghe tiếng mấy con bài rớt lách nhách lên mặt bàn
Trong đêm đen tận cùng đêm đen,
Chúa chơi solitaire, mình Chúa
VC cũng chơi, ở BBP, như bất cứ một ai
Nhưng vừa chơi, vừa chửi tục, vừa bịp.

[Chúng nghĩ ra cú đầu độc tù VC ở Phú Lợi,
Học tập cải tạo 10 ngày...
Vào những lúc này]

Hà, hà!

Đọc lại, mấy dòng chót, thì Gấu bỗng nhớ tới bài viết của Charles Simic, vừa loáng thoáng đọc, trong Cuộc sống của những Hình Ảnh, The Life of Images, song song với tập thơ “Tên Khùng”, The Lunatic, của ông.
Cái tít bài viết thật hợp với mấy dòng phịa ra ở trên:

Ngợi Ca Sỉ Vả, In Praise of Invective.

Bài viết mở ra bằng 1 câu, cũng quá thú vị:

Ở cuối thế kỷ sát nhân, hãy trù ẻo….  lũ VC!
[At the end of murderous century, let’s curse the enemies of the individual]


…. How are we to defend ourselves against these monsters dividing the members of society into useful and useless? For them, the ideal citizen is a voluntary slave! America, or any other place on earth, must be a school of virtue where even the political meaning of a sunset in a poem will be carefully examined for unauthorized views!
    I knew a thirteen-year-old who wrote a letter telling off President Johnson about the conduct of the Vietnam War. It was some letter. Our president was an idiot and a murderer who deserved to be napalmed himself, and worse. One evening as the boy and his mother and sister, who told me the story, were sitting around the kitchen table slurping their soup, the doors and the windows leading to the fire escape opened at the same time and men with drawn guns surrounded the table. We are the FBI, they announced, and they wanted to know who was Anthony Palermo? The two women pointed at the boy with thick glasses and crossed eyes. Well, it took a while to convince them that he was the one who wrote the letter. They were expecting a full-grown Commie assassin with long hair and an arsenal of weapons and bombs by his side.
    "What do you want from me, blood?" I heard an old woman shout once in a welfare office. She kept cussing them for another five minutes, not because she had any expectation that the wrongs done to her would be righted, but simply in order to make herself feel good and clean for one brief moment.

Charles Simic: In Praise of Invective

Tôi biết 1 thằng bé 13 tuổi viết thư sỉ vả tổng thống Mẽo Johnson về cách hành xử trong Cuộc Chiến Mít. Mi thật đáng đem nướng bằng bom napan, hay tệ hơn thế nữa, bởi là vì mi vừa ngu ngốc vừa sát nhân.
Một buổi chiều, đứa bé đang ngồi với mẹ và chị thì FBI đạp cửa xông vô nhà, hỏi, đứa nào là Anthony Palermo. Họ chỉ thằng bé mắt lé, kính cận dày cộm…
“Tụi mi muốn chi, lũ khốn!”
....

Tôi đã từng nghe một bà già sỉ vả như thế, tại 1 văn phòng trợ cấp xã hội. Bà già tiếp tục sỉ vả thêm vài phút nữa, không hẳn là để đòi hỏi họ phải điều chỉnh gì đó, ở trong hồ sơ trợ cấp của bà, nhưng chắc là để cảm thấy mình dễ chịu hơn, trong 1 thoáng chốc nào đó.


Thư Tình nơi Sofa
Letter in the Sofa
1957

Life finds a thousand ways to cheat lovers.
Đời kiếm đủ cách để gạt những kẻ yêu nhau