Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật Ký Tin Văn [TV last page]
Album

&

Bông hồng là bông hồng là bông hồng
If you sit long on the bank of the river, you may see the body of your enemy floating by.
Cách ngôn Trung Hoa (Joseph Brodsky trích dẫn trong bài viết "Collector's Item")
[On finit toujours par voir passer le cadavre de son ennemi]

[Ngồi lâu bên bờ sông, thể nào cũng thấy xác kẻ thù trôi ngang qua....]

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival; duplicity is.
Joseph Brodsky
(Sống sót do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).
Lạ. Chẳng lẽ "hoa hồng là hoa hồng" mà Nguyễn Quốc Trụ lại không phải là Nguyễn Quốc Trụ ư?
NHQ

*

*

The Paris Review Spring 2015

Hilary Mantel on the art of fiction: “I suppose if I have a maxim, it is that there isn’t any necessary conflict between good history and good drama.” Lydia Davis on the art of fiction: “ I find what happens in reality very interesting and I don’t find a great need to make up things, but I do like retelling stories that are told to me.”  Elena Ferrante on the art of fiction: “ The media simply can't discuss an artwork unless it can point to some protagonist behind it. And yet there is no work of literature that is not the fruit of tradition, of many skills, of a sort of collective intelligence.”

Poems

Three Poems

Charles Simic

January

Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.

An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.

[Note: Bài thơ này, trên báo giấy, có hai khúc, như trên.
Trên báo net, ba:

January

Children’s fingerprints
On a frozen window

Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,

Maintains itself through
The cruelty of its prisons.]

Tháng Giêng

Vân tay con nít trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi trường nhỏ

Một đế quốc, Gấu Cà Chớn đọc đâu đó
Tự gìn giữ, chính nó
Bằng sự độc ác của những nhà tù của nó 

[Ui chao, đọc bài thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng, nhờ cái thứ giáo dục, ngày hôm nay, em bắn rớt ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên Ngụy, mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó, mà còn đánh thắng được cả hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới]

A LIFE OF VICE BEGINS IN THE CRADLE

Grandpa loved crawling
Under the skirts of his mother's friends
As they sat on the porch
On warm summer afternoons
Sipping sweet tea and chatting
About neighbors and relatives,
Ignoring the toddler running
His small hands up their legs.

Một đời trụy lạc bắt đầu từ trong nôi

Ông nội mê xục xạo
Bên dưới váy mấy bà bạn của mẹ
Khi họ ngồi buôn chuyện
Ở bên dưới vòm cổng
Vào những chiều hè
Về lối xóm và bà con họ hàng
Lim dim chiêu ngụm chè tươi
Vờ ngón tay thằng bé lăn tăn, lăn tăn
Giữa những sợi lông chân
Tới tận háng!

MYSTERY THEATER

Bald man smoking in bed,
Naked lightbulb over his head,

The shadow of his cigar
Next to him on the wall,

Its long ash about to fall
Into a pitch-dark fishbowl.

Tuồng Bí Mật

Đầu trọc nằm hút thuốc lá trên giường
Cái bóng đèn trộc lốc trên đầu hắn ta

Cái bóng điếu xì gà
Kế hắn ta, trên tường

Mẩu tàn thuốc, dài ơi là dài
Hăm he rớt
Xuống cái chậu cá, đen ơi là đen.


1 YEAR AGO TODAY

Wed, May 7, 2014

https://fbcdn-profile-a.akamaihd.net/hprofile-ak-xfa1/v/t1.0-1/c0.0.50.50/p50x50/1380274_3646597140004_1844869334_n.jpg?oh=02bdab0dc91001e782f5d0edab6917a1&oe=55D01E3E&__gda__=1438983532_8f2d9ca5ec1d66884471e4fa567c7b8b

Quoc Tru Nguyen

May 7, 2014 at 9:43pm ·

Về hai mùa xuân lớn và về anh/chị em nhà Skvorecky

1

Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris dưỡng thương vài ngày. Josef và Zdena Skvorecky cũng có ở đó. Hình ảnh 1 chàng thanh niên trở lại với tôi, và 1 giọng điệu thật hung hăng: “Đám Tchèques như các người, thực sự muốn gì? Bộ tụi mi quá chán chủ nghĩa xã hội rồi ư?”...

Continue Reading

&

     The Fashionable Life

Thăm chốn nghỉ dưỡng nằm giữa mây trời của nhà văn Nguyễn Quí Đức

Nhà văn Nguyễn Quí Đức đã chia sẻ với Harper’s Bazaar Việt Nam về không gian sáng tạo, nơi nghỉ dưỡng độc đáo của mình tại Tam Đảo

 *

The Scene of the Crime
Chuyến đi Mỹ Lai của 1 phóng viên và những bí mật của quá khứ

Seymour M. Hersh

Nguyen Qui Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular bar and restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen. Thirty-one years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning journalist and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to come back and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and living as someone else in the United States. I was grateful for the opportunities in America, but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time as a reporter for National Public Radio, and fell in love with it."

The New Yorker, My Lai Revisited, Mar 30 2015

NQD nhà văn Mít 57 tuổi, chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ luôn muốn về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi 17 tuổi, và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó ban cho tớ. Nhưng cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.

Note:  Nhà văn NQD trả lời ký giả The New Yorker, về cái vụ ông không làm sao lưu vong được
Như vậy, cái phần chưa xong, chưa đầy đủ đó, bây giờ chắc đầy đủ rồi?

Nhân "Meursault, Phản Điều Tra" đợp Goncourt (1)
Hai cuộc chiến, với Pháp, và với Mẽo, cuộc chiến đầu thì còn có thể đổ cho dã tâm của anh Tây muốn trở lại Việt Nam. Và câu của Gordimer vinh danh Camus là lời phê bình đích đáng nhất đối với mẫu quốc ngày nào của dân Mít:

*

FOREWORD

Albert Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror

Our twentieth century is the century of fear.... We live in terror.

-ALBERT CAMUS,

"The Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)

I have always believed that if people who placed their hopes in the human condition were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there will be only one honorable choice: to wager everything on the belief that in the end words will prove stronger than bullets.

Tôi luôn luôn tin rằng, nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người -  khùng, thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin, sau cùng chữ mạnh hơn đạn.

-ALBERT CAMUS,

"Toward Dialogue" (Combat, November 30, 1946)

Nadine Gordimer chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:

Non-fiction - Camus at "Combat": Writing  1944-1947 by Albert Camus, edited by Jacqueline Levi-Valensi (Princeton): editorials and other texts, letters, published at high personal risk by Camus in what began as an underground newspaper during the German of Occupation of France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of passionate conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes Camus's creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider. As editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the Occupation and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that destroy themselves owing to the heavy price they eventually exact when they seek to become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria what held good for other colonial empires as well: "The failure to peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II ... a serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho người viết, trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng viết, chứa trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách quan, trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng tạo của Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch Kẻ Xa Lạ.  Vừa là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước Pháp bị] Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông chẳng còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên chúng ta, nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ chúng, và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần trong thực tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là tốt, không chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực dân thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa thực dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại nghiêm trọng, nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo, có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là những gợi ý của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao tránh khỏi cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra một lời giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp ngựa để thắng cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh Miền Nam, và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng chẳng ai cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở tung, và con quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến, chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương, trong hồn, trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe nanh múa vuốt xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi chuồng heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của Gogol, sự xuất hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn chân", hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ gọi anh là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng mảnh dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao đổi ma quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị (offering) thân chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ lấy đi còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi chuyến đi với cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an bài"!
Tchekhov và Kafka

Bạn cũng có thể hình dung ra con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp cho anh bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made in China’, và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu, núi đâu, gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?


Nam Le, bestseller

Anh cũng nhớ ông bố đã từng quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và anh biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi ông mới 14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là những xác dân làng, trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị lính Mỹ xả súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ; khi được hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn sát đó, ông trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất cả mọi người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra tấn, và bị bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.

*
Cái tít truyện “Love and Honor”, là từ Diễn văn Nobel của Faulkner:

THE BOAT is an engaging and free-wheeling collection of seven short stories by first-timer Nam Le, organized in a cleverly self-referential package. In the pivotal first story, "Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice" (a title drawn from William Faulkner's Nobel Prize acceptance speech in 1950), a young Vietnamese American lawyer-turned-aspiring author named Nam is visited by his father, just arrived from Australia. Nam has settled in Iowa to attend the renowned Iowa Writer's Workshop.
As he struggles to meet its creative demands and beat his own writer's block, a friend encourages Nam simply to write about Vietnam, since "ethnic literature's hot." Another friend differs: "It's a license to bore. The characters are always flat, generic." It's that last friend who tosses out as an aside, "You could totally exploit the Vietnamese thing. But instead, you choose to write about lesbian vampires and Colombian assassins, and Hiroshima orphans - and New York painters with hemorrhoids." And thus is THE BOAT.
The second story follows the perilous life of Juan Pablo Merendez, an adolescent assassin in Medillin, Colombia as he is called to task by his boss for failing to carry out an execution. Next comes "Meeting Elise," the story of an aging, hemorrhoid-afflicted painter seeking desperately to make amends with his estranged (and engaged) daughter as she makes her Carnegie Hall debut as a concert cellist. Another story, titled simpy "Hiroshima," traces the life of a young Japanese girl moved to the safety of the nearby countryside in the days immediately preceding the dropping of the atomic bomb. "Hiroshima" is sandwiched between two other stories, one a "coming of age" story in a coastal Australian town, the other a "coming to life's purpose" story in Tehran, Iran. After this whirlwind tour, Nam Le returns for the finale to Vietnam for his title story, "The Boat." Not surprisingly, this one is a flight and survival story, focusing on Mai, a young girl cast adrift for days in the Pacific with two hundred other refugees on a smugglers' trawler that has lost its engines.
So what to make of the metastructure? In Nam Le's opening story, the writer Nam succumbs to the pressure of his writing assignment and opts to "exploit the Vietnamese thing." He interviews his father, a survivor of the My Lai massacre, and converts this horrific story relatively quickly and easily into typewritten copy. He awakens the next morning to discover that his father has read and then destroyed the one and only copy. Has Nam Le the author discarded ethnic literature of his own (the figurative tearing up of the My Lai story by his fictional father in the first story) for that of Colombians, Japanese, Iranians, and Australians? And has he, upon attempting to step outside his own ethnicity and into the skins of others, returned unsatisfied to his own Vietnamese experience for his closing story? Is the reader intended to compare the relative merits of Nam's own ethnic (Vietnam-based) stories with those drawn from the world at large? Or are we to see the opening and closing stories as literary "brackets" of the immigrant/ethnic literature genre, one a tale of departure or escape, the other of adaptation and assimilation?
There seems little doubt that the opening and closing stories are Nam Le's most affecting. The opener is touching in its treatment of intergenerational relationships and differences in perception, while the closer is a harrowing tale of sun, salt, thirst, and death for the sake of freedom. In between, the other stories show notable flashes of literary command, but only the "Cartegena" story in Colombia engages the reader with anything approaching the story-telling power of the opening and closing Vietnamese stories.
Perhaps Nam's fictional friend in his opening story is correct, that one writes best about what one knows best, that it really is best to "totally exploit" ethnic literature. In Nam Le's case, THE BOAT shows an emerging authorial talent that promises the possibility of compelling ethnic literature as well as a future range well beyond "the Vietnamese thing." It is quite easy to recommend this book on its merits and also advise readers to keep a watchful eye out for Nam Le's next effort.
Steve Koss (New York, NY United States)
*

The poet's, the writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to help man endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor and hope and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the glory of his past. The poet's voice need not merely be the record of man, it can be one of the props, the pillars to help him endure and prevail.
William Faulkner: Nobel Prize Speech
Stockholm, Sweden
December 10, 1950
Như vậy Nam Le này, cũng một thứ cứ "lải nhải" Faulkner, chăng?

Gặp Hà Nội 1 phát là mê liền.
Chưa ghê bằng 1 ông nhà văn Mít hải ngoại, Bắc Kít 1954, bị bố mẹ bắt di cư, rồi bắt qua Mẽo, mất mẹ căn cước Mít, về Hà Nội, nhìn hai vết đạn Tẩy để lại trên thân thể Hà Nội mà đau như cắt, và khi hỏi, về không, làm sao không, về đâu, Hà Nội chứ đâu nữa!

Ở hay Về

Với Hà Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có người bạn hỏi đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.” Không kịp suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
Nguồn


Thơ Mỗi Ngày

The Lunatic

THREE COWS

These must be the cows who prayed
to be born again
and graze side by side
on this pretty meadow.

And did so all summer long,
lifting their heads only
to look with their sad eyes
at some poor devil like you,

who has stopped by their fence,
wearied by some thought or other,
and has now roused himself
discovering he has company.

Ba con bò

Hẳn là những con bò này đã từng cầu khẩn
Được tái sinh
Và đứng bên nhau gặm cỏ
Trên cánh đồng xinh đẹp này

Và lui cui, cặm cụi gặm cỏ, hoài
Suốt mùa hè dài
Chỉ nhấc cái đầu lên
Để nhìn bằng những con mắt buồn ơi là buồn
Một tên cà chớn, quỉ tha ma bắt, là mi, Gấu Cà Chớn

Đứng kế bên hàng giậu
Ưu tư cái này cái nọ cái chó gì đó
Và chợt giựt mình
Ngộ ra mình có bạn!

IN THIS PRISON OF OURS

Where the turnkey is so discreet,
No one ever sees him
Making the rounds,
It takes a brave soul
To tap on the wall of his cell
When the lights are out,
Hoping to be overheard,
If not among the angels in heaven,
Then among the damned in hell.

Trong nhà tù này của chúng ta

Một khi mà tên giữ chìa khoá quá thận trọng
Chẳng ai nhìn thấy hắn ta
Làm những tua tuần tra,
Phải là 1 linh hồn can đảm
Mới dám gõ tường xà lim của hắn ta
Khi đèn tắt
Hy vọng nghe lén
Nếu không, giữa những thiên thần ở thiên đàng
Thì là, giữa những kẻ trầm luân nơi địa ngục

AUTUMN EVENING

Poor goldfish
Some kid threw in
A rain puddle.

No, worse than that!

Swimming
In a dead man's
Pickle jar.

Yeah, poor fish. 

Chiều Thu

Tội con cá vàng
Một tên nhóc
Ném vũng bùn vô

Tệ hại hơn thế nhiều!

Tung tăng trong bình nước giầm
Của người chết

Ui dà dà
Tội nghiệp chú cá vàng
 

THE FEAST

Dine in style tonight
With your misery, Adele.
Put on your silver wig
And that black dress
With plenty of cleavage,
And haughtily offer it a seat
At the head of the table,
Leaving the intimacies
That are sure to follow
This feast of empty plates
To your neighbor's imagination. 

Charles Simic: The Paris Review, Summer 2014 

Bữa tiệc

Ăn tối, đúng điệu, tối nay
Với sự khốn cùng của em, Adele.
Hãy đội mớ tóc giả bạc
Mặc cái áo dài đen
Thiếu vải, khoe hàng
Và thật kiêu căng,
Ban cho nó chỗ ngồi
Ở đầu bàn.
Bỏ mặc những riêng tư
Thật dễ dàng theo dõi
Bữa tiệc với những cái dĩa không
Cho sự tưởng tượng của lối xóm.

Note: Bản trong The Lunatic, câu chót:

To your friend's imagination

Softly

Lay the knife and fork by your plate.
Here, where it's always wartime,
It's prudent to break bread unobserved,
Take small sips of wine or beer
Sneaking glances at your companions. 

June evening, how your birds worry me.
I can hear them rejoicing in the trees
Oblivious of the troubles that lie ahead.
The fly on the table is more cautious
And so are my bare feet under the table. 

Hundreds of bloody flags fleeing at sunset
Across the darkening plains.
Some general leading another army into defeat,
While you pour honey over the walnuts,
And I wait my turn to lick the spoon. 

Charles Simic: New and selected Poems 

Nhè nhẹ

Để con dao và cái nĩa kế bên cái dĩa của bạn
Ở đây, nơi luôn luôn là thời chiến
Nên thận trọng bẻ mẩu bánh mì, đừng để ai nhìn thấy
Uống những ngụm nho nhỏ, rượu chát, hay là bia
Lén đưa mắt nhìn bạn quí cùng ngồi

Buổi chiều 30 Tháng Tư,
Như thế nào mấy con chim của Cao Bồi làm Gấu tôi bừng bực
Chúng vui mừng ở trên cây
Rõ ràng là đếch thèm để ý đến những troubles của lũ Ngụy ở phía bên dưới
Con ruồi trên mặt bàn cũng thật là thận trọng
Và cũng thế, là đôi bàn chân của Gấu ở dưới mặt bàn

Hàng trăm lá cờ máu me, ba que, cà chớn…  bỏ chạy vào lúc hoàng hôn
Qua những cánh đồng thẫm tối
Vài ông tướng dẫn một binh đội khác vào thất trận
Trong lúc bạn quí tưới mật ong lên cái bánh bông lan
Và Gấu thì đợi đến lượt mình liếm cái muỗng!


     Map

Sách Báo Mới [new]

Cỏ Xanh Đường Làng

Trên TV đã giới thiệu Anne Enright, được Booker với cuốn "The Gathering", từ Faulkner, “Trong Khi Nằm Hấp Hối”, mà ra. (1)


Trở lại nơi một thời vang bóng

Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và tuyên bố:
Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục. 

 Nguyễn Quốc Trụ

Cứ theo lịch sử mà nói, thì luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao chúng ta không nói ngược lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến lượt Gấu buộc tội xứ sở Mít phản bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của Ha Jin, trong bài Ngôn ngữ Phản bội, The Language of Betrayal, trong Nhà văn như là Di dân, The writer as Migrant.
Ông giải thích thêm:
Rất nhiều xứ sở là những tên phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến nhà văn đếch làm sao viết với sự chân thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ sĩ.
The worst crime the country commits against the writer is to make him unable to write with honesty and artistic integrity. (1)


  Ghi chú trong ngày

**

Trong Khi Chờ Tầu!
[Tầu, means Tẫu]

Nhân đọc mẩu viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý của tay viết.

Và của Gấu!

EN ATTENDANT LE TRAIN

MÉDITANT SUR TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une brève parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à minorer les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II ne faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à l'indicateur Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme ceux de Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture de L'ldiot, quand le prince Muichkine et Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou encore à la tragédie d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
    Vronsky, on le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus enviables. D'autant que le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses héros vers de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les tribus du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros tolstoien s'évade volontiers à la campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans le royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
    Quand, rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi, abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les lieux de sa jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui est à ses trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare, à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons de voyage: Les Frères Karamazov et les Essais de Montaigne.
    La Russie et l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait Stendhal. De son coté, Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif... Reconnaissant sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan Karamazov: « Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais que je ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que c'est! » Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris, Rome ou Vevey.
    Indifférente à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et réticence les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence de contraintes esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces « grands monstres informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a écrit pas moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il se risqua à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec l'infinité, il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un prélude à l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit même trois pour éviter de tout à faire conclure

Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles de la littérature russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+

(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.


hồng vệ binh 30/4 (1)

Note: Được, được!
V/v Nhà thơ Đại Hàn này, TV cũng đã đi 1 đường bình loạn, khi anh “thú tội trước bàn thờ” [thuổng Kiệt Tấn: anh viết, thú hơn, nhưng Gấu không tiện lập lại ở đây!], 1 dòng thơ trong bài thơ thần sầu "quê hương", không phải của ảnh!

Phúc phương phì
Câu cuối không hề có!

Ui chao, trễ quá rùi

Một độc giả Tin Văn, chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn. For Your Eyes Only, không nhớ sao, Chú/Bác Gấu?

Bà/Cô nhắc tuồng Gấu: Phải so sánh với trường hợp Grass, và cái chân lý về thế kỷ bửn, thế kỷ Lò Thiêu, Lò Cải Tạo: Không ai muốn từ giã nó mà trên người không có tí… cứt!

Quả có thế: Đỗ Thi Sĩ chẳng có tí gì dơ dáy, sau một cuộc chiến nhơ bẩn như vậy!
PXA than địa ngục hết chỗ, ông không biết đi đâu, không phải vì ông nghĩ ông sạch, mà là vì cỡ như ông, phải có một nơi nào khác, thí dụ, Lò Luyện Ngục. Nhưng nếu nói huỵch tẹt ra thì cao ngạo quá. Nên nhớ, chỉ những thứ long trời lở đất, khi còn sống, thì chết, mới được đưa xuống Lò Luyện Ngục, Purgatoire, thí dụ Sartre, Aragon, chẳng hạn.

*

Văn Hóa vs Cái Ác Bắc Kít

“Je suis une sorte de survivant, tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như vậy về ông, là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà không có tí cứt trên người, là đếch có được!
Nhờ ông già khôn như…  Bắc Kít, gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông già của ông sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn quá, khi ông con tính định cư luôn ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có lý, còn cái mẹ gì để mà nói nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại Âu Châu, quanh quẩn bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình Steiner thoát Lò Thiêu vào phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông kể với tờ The Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép lạ Mỹ Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay lưng vào bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói lòa tung tăng trên sóng nước, thì đâu còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không được VC thưởng cho hai trái mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có thể cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất, là cái lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái hình cánh tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì, nhưng Tết đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết với gia đình 1 phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những lần sau, mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!




*

Kamel Daoud, prix Goncourt du Premier roman
Hụt năm ngoái, năm nay OK!

Dans "Meursault, contre-enquête", le journaliste et romancier algérien proposait une relecture de "l'Etranger" de Camus.

Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a reçu ce mardi 5 mai le prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes Sud). Dans ce spin-off de «l’Etranger», Daoud fait parler le frère de l’Arabe tué par Meursault dans le livre d’Albert Camus. Il donne un nom à cet illustre inconnu, Moussa, et raconte son histoire - manière de relire un classique sous l’angle du non-dit colonial. L’autre côté de l’histoire, en somme.

Ký giả, tiểu thuyết gia người Algérie, Kamel Daoud, đã được Goncourt của cuốn đầu tay, với cuốn “Meursault, Phản điều tra”. Trong cuốn tiểu thuyết “tháo gỡ” [spin-off, by-product] “Kẻ Xa Lạ”, Daoud đã để cho người em trai của tên Ả Rập bị Meursault làm thịt, lên tiếng, và cách nói, kể.. ở đây, một cách nào đó, đề nghị đọc lại 1 cuốn tiểu thuyết cổ điển, dưới góc cạnh “non-dit”, không-nói, mang tính thực dân thuộc địa. Từ phía bên kia lịch sử, có thể nói như vậy.

Dans une récente interview au «New Yorker», Daoud, célèbre en Algérie pour ses chroniques tonitruantes, présente son livre comme «une manière d’analyser l’œuvre de Camus, […] de la faire relire par un Algérien et par des lecteurs d’aujourd’hui.»

Trong cuộc phỏng vấn mới đây với tờ "Người Nữu Ước", Daoud, nổi tiếng tại Algérie do những bài ký sấm sét của mình, đã coi cuốn sách, như là 1 cách phân tích tác phẩm của Camus… và đề nghị đọc lại nó, bởi 1 tên Algérie, và bởi giới độc giả bây giờ.

Il ne faudrait pas résumer le roman à cette seule démarche. Il a sa propre histoire à raconter, celle de Haroun, le frère de Moussa. Il parle sa propre langue, bien plus ronde que la camusienne. Mais c’est bien l’ouverture du roman, dans laquelle le narrateur reproche à Camus d’avoir glosé sur l’absurdité de la condition humaine en taisant la violence de la condition coloniale, qui s’est imposée comme le texte le plus fort paru l’année dernière.

Đừng tóm tắt cuốn sách bằng phương pháp độc nhất này. Ông ta có tiếng nói của ông ta. Tròn trịa hơn của Camus. Nhưng chính ở đoạn mở ra cuốn tiểu thuyết, người kể chuyện đã trách cứ Camus, đã chú giải tính phi lý của phận người, bằng cách làm lặng câm bạo lực giáng lên phận người thuộc địa

Sorti en 2013 en Algérie et en juin dernier chez nous, le roman de Kamel Daoud a connu un très joli succès. Il a notamment été finaliste du grand Goncourt, en novembre, et a reçu le prix des Cinq Continents. Aujourd’hui, tandis que son auteur se trouve menacé par un appel à la fatwa, il s’exporte. Il paraîtra en juin aux Etats-Unis, où «l’Etranger» est un classique révéré, sous le titre «The Meursault Investigation».

L'Académie Goncourt a par ailleurs remis d'autres prix. Le prix de la Poésie/Robert Sabatier, lui, va à William Cliff, et celui de la Nouvelle à Patrice Franceschi pour «Première personne du singulier» (Points Seuil).



30.4.2015

Lê Công Định

3 hrs ·

Xin giới thiệu một bài viết tuyệt vời của nhạc sĩ Tuấn Khanh.

https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2015/05/08/su-that/

Nhạc sĩ Tuấn Khanh viết:

Lịch sử đã mở ra nhiều góc cạnh của sự thật, cho dù sự thật đó được rao giảng, bị cưỡng ép như thế nào đi nữa. Sự thật là lối đi mà số phận dân tộc nào may mắn mới qua suốt được trên con đường đó, để lớn khôn qua thời gian. Nếu không, dối trá sẽ làm mù lòa dân tộc và đẩy quốc gia vào tăm tối.

Tất nhiên như thế, tuy nhiên với xứ Mít, với VC, làm sao có sự thực lịch sử. Chúng bịp suốt, làm sao biết đâu là sự thực?

Theo GCC, muốn biết lịch sử Mít, chỉ có biết qua… giả tưởng. Đọc tiểu thuyết, thí dụ!

Với lịch sử thời kỳ 1954, đọc Bếp Lửa.

Với cú CCRD, đọc Ba Thằng Lăng Nhăng.

Kẹt quá thì đọc trang... Tin Văn!

Ngay cả với thế giới, họ cũng phải sử dụng cách này, khi không làm sao kiếm ra được sự thực thì bèn đề nghị 1 thứ sự thực của…  giả tưởng
Trường hợp Hitler, thí dụ, đám tiểu thuyết gia đưa ra hằng hà giả tưởng, để giải thích lịch sử Hitler, do làm sao mà ông thù Do Thái đến như thế.
Cũng thế, với xứ Mít.
Có hai đề nghị của… GCC, xem ra có lý, về hai cuộc chiến thần thánh, chống Tẩy, và chống Mẽo. Cả hai đều do VC bịp và cả nước Mít bị bịp.
Bịp ra làm sao thì GCC đã giải thích rồi.
Hilary Mantel, một nữ tiểu thuyết gia, chuyên viết những đề tài lịch sử, khi trả lời tờ The Paris Review, cho biết, bà hụt cơ may làm sử gia nên đành chọn thứ sái của nó!
Tuyệt!

INTERVIEWER

You started with historical fiction and then you returned to it. How did that happen?

MANTEL

I only became a novelist because I thought I had missed my chance to become a historian. So it began as second best. I had to tell myself a story about the French Revolution-the story of the revolution by some of the people who made it, rather than by the revolution's enemies.

INTERVIEWER

Why that story?


Lê Công Định shared BBC Vietnamese's photo.

28 mins ·

Hoan hô nhà văn Võ Thị Hảo! Thứ văn nô, bồi bút đứng chung xuồng với họ làm chi.

Note: Ít ra phải có 1 người.
Nhưng không ép phê bằng tên già NN, thí dụ, cha đẻ quái vật Núp, tay đầy máu Ngụy, khi dám xổ toẹt. 
Hay đao phủ MT.

Hay anh hùng Cổ Thành, Bọ Lập (?)
Hay anh hùng Trường Sơn
Tạ lỗi chưa đủ.
Phải sám hối thế nào đó cơ!

VTH “tay sạch” [chữ từ Sartre,"les mains sales"] quá!

Epitaph for a Poet

He wanted to sing, to sing
to forget
his true life of lies
and to remember
his lying life of truths. 

Bia mộ nhà thơ

Anh ta muốn hát, hát
Để quên
Cuộc đời thực toàn dối trá
Và để nhớ
Cuộc đời dối trá toàn sự thực
Của anh ta

Octavio Paz: Poems [1941-1948]

DL: Nếu rõ ràng hội NVVN là một tổ chức của đảng CSVN nhằm thao túng và khống chế lực lượng cầm bút ở VN, đã góp phần giúp chế độ toàn trị của đảng CS bưng bít thông tin, tô hồng xã hội và nô lệ hóa dân trí thì tại sao trong một dân tộc có truyền thống văn chương như VN, lại rất ít tiếng nói phản đối hành động đó của hội ? Liệu những nhà văn ưu tú và được hâm mộ một thời, cha đẻ của những tác phẩm mang nặng tính nhân đạo, tinh thần khai sáng như „Nỗi buồn chiến tranh“, „Vàng lửa“, „Tướng về hưu“, „Thời xa vắng“, „Mùa lá rụng trong vườn“... có biết những điều đó không?

VTH: Tôi nghĩ rằng nhiều người biết, rất biết nhưng họ đã chọn im lặng khi đụng đến những vấn đề nước sôi lửa bỏng mà người dân cần nhà văn lên tiếng một cách trực diện. Người Việt vẫn tự che đậy sự vô cảm của mình bằng câu „im lặng là vàng“, hoặc là „tôi không thích tuyên ngôn“, „tôi không quan tâm đến chính trị“…đó là những câu nói không những lệch lạc mà còn mang tính phản động – tức phản lại tiến bộ xã hội và sự minh bạch, che đậy sự hèn mà thôi. Thật đáng tiếc. Tôi mong những nhà văn có tài năng và nhân cách, đã được bạn đọc trong nước nhiều năm nay ngưỡng mộ và ủng hộ, ngoài việc bày tỏ thái độ trong những tác phẩm hư cấu, lại càng phải lên tiếng trực diện, luôn luôn để bảo vệ lẽ công bằng. Vì hậu quả của việc né tránh không lên tiếng là có nhiều người chết đuối khi anh chỉ đứng trên bờ nhìn họ kêu cứu, lý do rằng tôi chỉ biết viết văn, tôi đang bận xây dựng hình tượng một anh hùng cứu người chết đuối, hoặc tâm trạng của một người sắp chết đuối chứ tôi không có trách nhiệm cứu người. (1)

Grass, who was born in 1927, never pretended to have escaped the war unstained.
Lịch sử, hay chính xác hơn, lịch sử Đức quả đúng là một cái nhà xí bị tắc. Chúng ta cứ thế móc cứt và cứt cứ thể đùn lên. Một nhân vật của Grass lầu bầu.
Bây giờ cứt ngập đến tận cổ me-xừ Grass.
Nhưng đây là một con người đếch chịu trốn thoát lịch sử mà không có tí cứt ở trên người...

Grass và SS

Nếu như thế, thì không thể có chuyện 1 cú Nhân Văn được lập lại, như bà Hảo cảnh cáo, về cái chuyện ông Trùm gạch tên 1 số vị ra khỏi Hội Nhà Thổ, và bà Hảo, thì tự mình cho phép mình xóa tên ra khỏi sổ đoạn trường, chẳng cần khúc sông Tiền Đường.
Già rồi, quỹ thời gian đâu còn?

Nói rõ hơn, để ra ngoài trường hợp tay sạch của bà Hảo, với đám còn lại, phải là 1 tay tay đầy máu Ngụy, thì mới xứng với cas của Grass, cứt ngập đến tận cổ!
Chứ cái kiểu, "không có câu đó", "sợ anh hùng quá rồi", nhưng toàn tập vẫn "vũ như cẩn", vưỡn có quái vật Núp ở trỏng, thì còn ra cái đéo gì nữa!
Vậy mà một…. “Nhăn Dzăng” khác ư?
Vậy mà cũng bày đặt “ni hôn” [hình như tên 1 tác phẩm của 1 đấng văn sĩ VC],  ra ở riêng, thành lập văn đàn riêng…
Ra cái điều mấy đứa chúng ông “sạch”



TTT 2006-2015

Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi.

Thư gửi đảo xa.

TTT trải qua thời thơ ấu ở Sài Gòn. Thành ra không hiểu lớp ba là lớp mấy, so với thời của GCC.

Ấy là vì, phải đến năm học Đệ Tam trường Hồng Lạc, khoảng đó, thì Gấu mới được học cuốn "Le Petit Chose", cuốn sách “tủ” của Thầy Roch Cường.
Mỗi ông Thầy của Gấu thì đều có 1 cuốn sách. Với Thầy Kỳ, dạy Anh văn lớp Đệ Ngũ, Nguyễn Trãi, thì là cuốn "She stoops to conquer".
Tuy nhiên, cái nhân vật con nít mà Gấu bị ấn tượng, thì là "Poil de Carrote", cũng 1 tuổi trẻ bất hạnh của Jules Renard.
Nhớ hoài cái xen, thằng bé, được cả nhà o bế, chỉ có mày là nhất, can đảm nhất, cái gì cũng nhất, chỉ có mày mới ra khỏi nhà vào lúc đêm tối như thế này, để đóng cửa chuồng gà vịt.
Thằng bé bèn xung phong, xung phong.
Khi xong việc, trở về căn nhà, mái ấm gia đình, thì cả nhà thản nhiên phán, nếu vậy, đêm nào mày cũng nhớ đóng cửa chuồng vịt nhe!

ALPHONSE DAUDET

Time passes at dizzying speed. When I was an adolescent and I lived in the south of Chile, I discovered Daudet, Alfonso Daudet, as he was called then, his name Hispanicized to make it more familiar, though I've never heard of Charles Baudelaire or Paul Verlaine being called Carlos Baudelaire or Pablo Verlaine.
    Reading Daudet back then was (and still is) a pleasure and a luxury that only an adolescent lost at the end of the world could fully appreciate, with the happy sense of license that comes after a perfect theft and the feeling of freedom derived from smoking one's first cigarettes, outside under a tree on a rainy afternoon. His books have accompanied me ever since, especially Tartarin of Tarascon, a treatise on the joy of living which can be ridiculous at times, though it isn't unusual to come upon the truth, hidden beneath the ridiculous, a brave, relative truth containing great doses of epicureanism; and also Letters from my Mill, a collection of cameos and miscellaneous prose to which the early work of Arreola is much indebted; or the Memoirs, a melancholy book in which Daudet, so well sketched by Jules Renard in his Journal, doesn't lecture on the human and the divine but rather glides, like a sleepwalker, from the human to the divine, from Cartesian clarity to pure song, from the useful to the useless, and even from the useless to the useless, this last a feat worthy of real writers; or The Nabob, a reflection on the figure of a politician; or L'Arlesienne, which Bizet set to music; not to forget the sequels to the unforgettable Tartarin: Tartarin on the Alps and Port Tarascon.
    Daudet was a friend of Victor Hugo, whose work he admired, and yet he didn't allow Hugo's titantic force to negatively influence his own work, which is much lighter, more delicate, approaching at moments the naturalism of Zola and Maupassant. Despite his prestige and success, he always saw himself as a lesser writer, easy to like. In other words, he never look himself too seriously. He was generous and, according to his contemporaries, lacking in envy, a sentiment all too common in the backbiting world of letters (which pretends to be so civilized). He loved his children. One of them, Leon Daudet, born in 1867, when his father was twenty-seven, became a writer, and his works rank among the worst of French literature, though it would've hurt his father more to know that in 1907, his crooked offspring would found, with Maurras, the Action Francaise, organ of the far right and seed of French fascism. But Alfonso Daudet didn't live to see it. He died in 1897, after suffering from a nervous complaint for many years. Today, in the south of Chile, almost no one reads Daudet. Not even writers, to whom Daudet sounds vaguely like the name of a pop singer or balladeer.

Bolano: Trong ngoặc

Thời gian qua nhanh đến chóng mặt. Khi mới lớn, sống ở miền nam Chile, tôi khám phá ra Daudet, qua cái tên mang mùi Tây Bán Nhà, Alfonso Daudet, như ông được gọi, nghe thân quen hơn.
Đọc Daudet vào lúc đó (và bi giờ cũng thế) là 1 lạc thú, và một thú vui xa xỉ, mà chỉ một tuổi mới lớn, mất tiêu vào lúc tận cùng thế giới, mới có thể tràn trề hưởng thụ và gật gù tán thưởng, với cảm quan hạnh phúc phóng túng, sau một cú chôm chĩa hoàn hảo, và một cảm nghĩ về tự do, có được nhờ những điếu thuốc lá đầu tiên trong đời, ở bên ngoài trời, dưới 1 tàn cây trong một chiều mưa. Những cuốn sách của ông từ đó không bao giờ rời tôi, đặc biệt là Tác Ta Ranh ở Tarascon, một tiểu luận về nguồn vui của cuộc sống 







Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

30. 4. 2013

Thơ JHV

TMT

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011
TTT 2012
7 năm TTT mất

Tribute to PCL & VHNT
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi
Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

NQT vs DPQ

@ NMG's

Lolita vs BHD