Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 





Thơ Mỗi Ngày

The Lunatic

ON THE BROOKLYN BRIDGE

Perhaps you're one of the many dots at sunset
I see moving slowly or standing motionless,
Watching either the gulls in the sky or the barge
With a load of trash passing on the river below.

The one, whose family doesn't want to hear from,
On his way to a night class in acting, passing
An old Chinese waiter going in the opposite direction,
And a bodybuilder and a nurse holding hands.

And what about the one I'm always hoping to run into?
Though I barely remember what she looked like?
She could be one of the few that have lingered on,
Or the one that vanished since I last glanced that way.

Trên cầu Brooklyn Bridge

Có lẽ em là một cái chấm nhỏ trong rất nhiều chấm chấm vào lúc mặt trời lặn
Mà anh nhìn thấy đang chuyển động
Hay đang đứng bất động
Nhìn những con hải âu trên bầu trời
Hay con thuyền chở rác trên dòng sông bên dưới

Hay là một cái chấm mà gia đình không thèm muốn nghe nói tới
Đang loay hoay, len lỏi
Trên con đường tới lớp đêm
Hay tên bồi người Tàu đi ngược lại
Và một tên lực sĩ và một cô y tá, tay trong tay.

Nhưng mà này, còn cái người mà anh luôn luôn mong muốn chạy tới ôm chầm lấy?
Tuy nhiên chán làm sao anh không làm sao nhớ ra nổi khuôn mặt em
Ở tiệm cà phê Starbucks buổi sáng bữa đó
Em có thể là một trong vài người lần lữa,
Hay cái người mà đã biến mất từ MCNK [một chủ nhật khác] không hề có?
Cái người mà anh lần cuối nhìn lại
Như nhìn lại Xề Gòn
Đã mất?


Thơ Dã Viên



*     
Map
 
Note: Bữa nay, kiếm 1 góc, lật đọc tại tiệm, đành phải bấm bụng bệ về, vì có nhiều bài thơ chưa từng biết tới, như bài mở ra tuyển tập, chưa từng được xb.

***

Once we had the world backwards and forwards:
- it was so small it fit in two clasped hands,
so simple that a smile did to describe it,
so common, like old truths echoing in prayers. 

History didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung dirty sand into our eyes.
Ahead of us lay long roads leading nowhere,
poisoned wells and bitter bread. 

Our wartime loot is knowledge of the world,
- it is so large it fits in two clasped hands,
so hard that a smile does to describe it,
so strange, like old truths echoing in prayers.

From Unpublished Collection 1944-1948

Đã có thời chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt trong hai vòng tay
Giản dị, một nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen, như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa

Lịch sử đếch đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc Kít. (1)
Trước mắt chúng ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng

Nam Kít nhận họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể diễn tả được.
Cái gì gì, vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.

(1) Bà vợ góa của Osip Mandelstam, với lũ văn sĩ Liên Xô


... không thể có hòa giải với chính quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi. Một khi chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa các quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai cũng có quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với ai nữa, mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.
Cù Huy Cận’s fils

Đúng như thế. Mà muốn được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha đẻ quái vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép phê!
Bởi là vì cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị lũ Việt Minh, trước, và Bắc Kít, sau, giật giây, xỏ mũi.

Đau thế.
Thảm thế.
Note: "ngập máu Mít", theo nghĩa biểu tượng.
Có thể, cả hai tên chưa từng thực sự dúng tay vào máu, như 1 Văn Cao, thí dụ. NQT

Cha mẹ nạn nhân vụ đánh bom ở Boston chống án tử hình đối với bị cáo

Hoá giải hận thù thì phải như thế này, ở về phía nạn nhân, hay, đao phủ thủ Mậu Thân, hay, chủ nhân quái vật Núp, ở phía kẻ phạm tội ác.

Lê Công Định with Lê Công Định

21 mins ·

Vì sao chưa bầu được Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam?

Cha đẻ quái vật Núp chắc là có đọc bài viết này?
Quái thai Liên Đoàn LS VC, là 1 trong những quái thai, nhờ quái vật Núp mà có.
Cái chính thể VNCH, mà VC chê bai, là thể chế dân chủ nhất mà xứ Mít có được, chắc chắn như vậy, theo GCC, vì dù chê bai, chửi nó thế nào, thì nó cũng thoát thai từ những thể chế dân chủ của thế giới.
Bắc Kít, xuyên suốt lịch sử bốn ngàn năm, chưa hề biết mùi vị của dân chủ nó ra làm sao.
Đây có thể là do tụi Tẩy mà ra.
Không phải chia để trị, như VC thường rêu rao, mà là, bằng 1 cách nào đó, ngay từ lúc thoạt đầu, chúng hửi ra được, cái gọi là mentalité của lũ Nam Kít [có gì giống chúng chăng?] và chúng cho xứ Nam Kít hưởng chế độ tự trị, khác hẳn xứ Bắc Kít, bảo hộ.
GCC lấy chuyện này chứng minh, cái gọi là mentalité của Nam Kít, khác Bắc Kít. Ngay sau khi Diệm bị làm thịt, Phòng Thông Tin của VNCH ở Saigon cho chơi 1 bản nhạc nhái, nhạo Bác Hồ, cái gì gì, xon mì xon chúng mình yêu nhau đi, nhờ Bác Hồ mà chúng ta mê ly.
Được đâu 1, 2 ngày là phải dẹp bỏ, vì dân Miền Nam không quen cái trò làm nhục, nhạo báng kẻ thù.
Trong khi Bắc Kít, khi lấy được Nam Kít, bày ra đủ trò làm nhục Ngụy.

Now we must choose, said Mercier
    Between what? said Camier
    Ruin and collapse, said Mercier
    Could we not somehow combine them? said Camier.

-Samuel Beckett, Mercier and Camier

Chúng ta phải chọn, Mercier nói
Giữa những cái đéo gì? Camier hỏi
Điêu tàn và sụp đổ
Liệu chúng ta có thể phối hợp chúng?


Làm sao hóa giải, hòa giải, combine, hai cái mentalité đó?



*

*

“L'Express”, 15 & Avril 2015

Nhân vật Lara, một cách nào đó, là bản gốc, “đẻ” ra những nhân vật như Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh; Hà, trong Sau Cơn Mưa của Lý Hoàng Phong; Thanh trong Bếp Lửa, của TTT.
Nếu không có bàn tay lông lá của Xịa, Pạt chưa chắc đã được Nobel, và cuốn tiểu thuyết của Pạt có thể cũng không nổi đình nổi đám đến như thế, đúng như tờ báo Tẩy phán, XỊA là “agent littéraire” của Pạt.

Bắc Kít không có thứ "traitre" như Pạt:
Cái sự quảng bá cuốn sách, ký bản án tử, cho Pạt, tên phản bội, sự ô nhục của Niên Xô chúng ta. Nhưng chính Xịa làm cho nó trở thành bất tử.
Và ở trung tâm của nó là Mắt Bão, của trận bão có tên là Chiến Tranh Lạnh.

Cái thứ văn học, tác phẩm VC được quảng bá ở Mẽo, do ổ VC ở Mẽo xb, những gì gì, Nếu Đi Hết Biển, thí dụ, chỉ là kít. Ngay cả những cuốn sách được lũ lâu la, bộ lạc Cờ Lăng, xb thì cũng là kít.
Phải có 1 cái gì như Xịa trong vụ này, mới được, và đấy là “khía cạnh mới mẻ nhất" của cuốn sách ["Bác sĩ Zhivago"], trong lịch sử tình báo.... như tờ báo Tẩy viết.




*

Thúy Hà Lê

November 18, 2014 · Hoang Cau, Vietnam · Edited ·

Mỗi lần tôi vào một nhà vệ sinh cũ kỹ, âm u nhưng sạch sẽ không chê vào đâu được ở khu đền thờ Nara hay Tokyo, tôi lại thấy thán phục những hiệu quả phi thường của kiến trúc Nhật Bản. Phòng khách có thể mang nét duyên dáng riêng nhưng nhà vệ sinh Nhật mới đúng là nơi thư giãn tâm hồn. Nó luôn nằm tách biệt với ngôi nhà chính, ở tận cùng của hành lang, trong một khu rừng hương hoa với lá cây và rêu. Không từ ngữ nào có thể diễn tả cái cảm giác một người đang ngồi trong nguồn sáng lờ mờ, phơi mình trong ánh sáng yếu ớt phản chiếu từ cánh cửa trượt dán giấy, đắm chìm trong suy nghĩ hoặc nhìn đăm đắm ra khu vườn. Tiểu thuyết gia Natsume Soseki xem những chuyến đi ra nhà vệ sinh buổi sáng là niềm vui lớn, ông gọi đó là “niềm khoái cảm sinh lý”… Tôi thích ngồi lắng nghe tiếng mưa rơi nhè nhẹ ở trong một nhà vệ sinh như thế, với những cửa sổ dài và hẹp nằm ngang mặt đất; ở đó có thể nghe được thật gần tiếng mưa rơi xuống từ mái chìa và cây cối, thấm xuống mặt đất sau khi dội vào lớp đế của cây đèn đá và làm tươi mới lớp rêu trên những tảng đá giậm bước.. Tôi ngờ rằng đây là nơi mà các nhà thơ haiku qua năm tháng đã nghĩ ra nhiều ý thơ tuyệt vời… (Ca tụng bóng tối – In praise of shadows, 陰翳礼讃 Junichiro Tanizaki, 1933)

Cuốn này, cc 1994, GCC mượn thư viện về đọc, hồi mới qua Xứ Lạnh, làm nghề bán bảo hiểm nhân thọ, - thì cũng để chiều lòng cô bạn ngày nào, ông chồng của cô là 1 tay trong nghề, vả chăng, cũng cần có 1 nghề làm, để lo cho mấy đứa nhỏ còn kẹt lại ở Lào, tính bỏ luôn ba cái trò viết lách… -   mê quá, bèn đi 1 đường về nó, khi làm nghề viết muớn cho ông chủ NMG, cc 1997, giữ mục Tạp Ghi. Và khi thôi viết, đã đi 1 đường từ giã băng VH, với những ông bạn thân như Trúc Chi, Tạ Chí Đại Trường - nhờ viết muớn cho tờ VH mà quen được - bằng những dòng viết về nhân vật Hương Cơ, một nhân vật của Trúc Chi.
Em của GCC, hồi nào, đọc bài viết, mê lắm, có mail khen!



Tôi vốn không có thói quen cất giữ báo Việt, thí dụ tờ Văn Học.....

[Nhớ là, Trúc Chi đọc, bật cười, phách lối thật!]


"Ngày mai là ngày hôm qua", đó là câu mở đầu cuốn tiểu thuyết "Gặp gỡ ở Westphalie" của nhà văn Đức, Gunter Grass. Sau Cuộc Chiến Lớn 1939-45, những gì còn lại của nước Đức của ông chỉ là những điêu tàn, và một nền văn chương đã phát sinh từ đó: văn chương của những mảnh vụn, và phản ứng của một nhà văn trước những mảnh vụn đó: Làm thế nào, sau Hitler, những ngòi bút Đức viết lại sự sống, Vũ Trụ Luận? Làm thế nào con chim phượng hoàng thò cái mỏ của nó ra khỏi biển lửa? Heinrich Boll, Nobel văn chương (1972), nhà văn người Đức cùng thời với ông, đã viết: Chúng ta chẳng có bất cứ lý do gì để mà hổ thẹn về một nhãn hiệu như thế... Chúng ta nhìn sự vật như nó là, với con mắt trần tục, thường không hoàn toàn khô, và cũng không hoàn toàn ướt, nhưng mà là ẩm, bởi vì đừng quên, từ La-tinh diễn tả ẩm là humor, diễu cợt*. Nếu Grass không thể chọn một văn phong nào khác, ngoài văn phong ẩm (theo tôi có thể giải thích văn phong của Phạm Thị Hoài trong Marie Sến), ông cũng không thể nào chọn lựa những đề tài khác: những đề tài của tôi đã có sẵn, đã được "chỉ định": chế độ Nazi, hậu quả của nó (theo như người viết được biết, đề tài, nhân vật trong Marie Sến, đều "thực" cả, tác giả của nó không hề hư cấu ra những nhân vật như thế).

Nguyễn Tuân, trong một truyện ngắn, cho rằng trăng mười bốn hơn trăng rằm: trong cái chưa chín có cái chưa tàn lụi. Nghe nói ở bên Nhật, có những cảnh chùa dở dang: cứ để dành một khoảng trống cho tín đồ nhập vào. Đây là sự khác biệt rất cơ bản giữa Đông và Tây. Charles Moore, trong lời giới thiệu tác phẩm Ca Ngợi Bóng Tối (21) của nhà văn Nhật Tanizaki, cho rằng đồng minh mãnh liệt nhất (the most powerful ally) của chúng ta (Tây phương) là ánh sáng. Dẫn Louis Kahn, một nhà kiến trúc: 'Mặt trời chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã xuống bức tường của một tòa nhà'; do đó việc xây nhà dựng cửa (là một trong những đòi hỏi cơ bản, đòi hỏi trú thân, nối kết, quần tụ với nhau, cho dù theo kiểu ăn xổi ở thì với nơi chốn thuộc về con người, hay con người thuộc về nó, nhưng) đối với chúng ta, cái nhà phải tương hợp với mặt trời, đồng minh số một, phải giúp đồng minh ban ánh sáng. Và ông cho rằng Tây phương đã "tá hoả" khi nghe chuyện ca ngợi bóng tối và bóng đen; và đã sững sờ thích thú khi nhận ra rằng, nhạc sĩ, ở đâu đâu cũng thế thôi, tạo nên những âm thanh của họ, là để nắm bắt sự im lặng, và kiến trúc sư, khi tạo ra nhà cửa, là để ôm lấy quãng không.
Thành thử cái thuyết tài mệnh tương đố mà Nguyễn Du vin vào đó để làm khổ cô Kiều, là nằm trong truyền thống Đông-phương: không phải ông Trời ghen cái đẹp, mà là: ông Trời chỉ đẹp, khi té xuống, khi nhập vào một con người luân lạc như Kiều. Với Hương Cơ của Trúc Chi, tiếng đàn, trong chín phần hư cần một phần thực, và phần thực này, chỉ có cuộc đời - cuộc nồi da nấu thịt, củi đậu đun hạt đậu, chúng ông "chơi" chúng mày... - mang lại cho nó thôi.




Thúy Hà Lê "Một chuyến đi" hay quá bác Quoc Tru Nguyen, em thích cả đoạn Kafka btw, em nghe In praise of shadow lâu rồi, có đọc trích đoạn tiếng Anh qua 1 số tác phẩm khác nhưng không nghĩ là chưa từng được dịch ra tiếng Việt (ít ra là SG cũ đã phải dịch rồi chứ). Bản dịch này là của my cousin, cá nhân em rất thích, nếu có điều kiện em xin thay mặt dịch giả tặng bác 1 bản

Tks. NQT

V/v Kafka:

Walter Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính cái gọi là vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái" (17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka. "Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những tư tưởng hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời: Thượng Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,' Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng Đế, một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những nhân vật thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng tròn gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là loài vật; ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb hay Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm của người cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên ngoài vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this circle). (20).

Note: Những dòng chót - Tâm, trong Bếp Lửa của TTT, khi chạy thoát ông bố Bắc Kít, xứ Bắc Kít, viết cho Thanh - khép lại cuốn Bếp Lửa, cái gì gì, buộc vào quê hương, là phải ruột thịt, bạn bè không thôi, chưa đủ, có thể là từ Kafka, mà, có thể, khi đó TTT chưa đọc


Thanh,

Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.

Tâm

Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956


Nhật Ký Tin Văn
[TV last page]

*

*
  *
SN Xilo
13.4.1975-2015


 Obituary: Günter Grass

The beat of the drum

Günter Grass, novelist, artist and all-round agitator, died on April 13th, aged 87

WHEN he was young, Günter Grass was taken by his mother to see “Tom Thumb” at the Stadttheater in Danzig. It delighted him. The Grimm Brothers’ tiny boy, unseen, tricked and adventured his way through life, a gadfly getting into places nobody else could. He crept into a horse’s ear, rode in triumph on the brim of a hat, was eaten by a cow, and in the end reappeared grinning from the belly of a wolf.

Tom also lodged in Mr Grass’s brain; and in 1959 he reappeared as Oskar Matzerath, the diminutive hero of his first and most celebrated novel, “The Tin Drum”. Oskar, at three, refused to grow any more, and became a small, irritating, persistent witness to 20th-century events that most Germans wished to forget. Crouched under a rostrum in 1933, he watched brownshirts and blackshirts at a rally. Hidden in a toyshop corner in 1938, he saw the Jewish owner abused and taken away, the shop smashed and fouled and the dolls disembowelled. In September 1939, curled asleep in a basket of letters in Danzig’s Polish post office, he heard and felt the shelling as the Nazis invaded.

Nor was Oskar silent. First, he had a red-and-white drum, which he hardly ever ceased beating and which, beaten right, could summon up the past. Second, he could scream high enough to shatter glass: sometimes just to make a mess, but at other times with diamond precision.

He could be an ignorant pest but was also, in some ways, Mr Grass’s ideal of how a writer should be. Not at the centre of events but on the fringes, unbiddable and subversive. Not with the establishment, the capitalists and the complacent petty bourgeois, like his own shopkeeper parents, but down with the victims and the poor, preferably on the political left. And, above all, loud. The job of a writer, especially in a postwar West Germany wrapped in wilful amnesia and silence, was to keep drumming, drumming, drumming: “pissing on the pillars of power, sawing away at the throne”, and hauling painful memories to the surface again.  

Subjunctives and sausage

There was much to be recaptured, not all of it heinous. For him, the war had taken away two particular loves. One was his birthplace, Danzig, the city of towers and continuous bells, of multicoloured ancient stone and marble-topped café tables, of shipyards and the smell of the Baltic: all now lost to Poland, but reconjured in his first three picaresque novels. The other loss was his pleasure in his own language. Only regular postwar readings with other radical writers could “take the goosestep out of German” and revive his love of its “utterly supple hardness”, its artfulness and the beauty of its subjunctives; rekindling, too, his childhood feeling for the word Labsal, refreshment, as when safely home from some perilous adventure.

Again, it was important to say the words aloud. The writing of his long, dense books was slow, punctuated by coffee and by the drawing and sculpting in which he was also trained and gifted. The drawings, many of fish, plants or reptiles, appeared in the books and on their jackets, often coming to the fore if words failed; and he spoke as he wrote, chewing over the sentences with the same reflective relish he might devote to potato pancakes, roast goose or liver sausage. He liked, he said, to mix spit with his ink.

He did so in all senses, for he never held back from voicing rage. The unification of Germany he thought a disaster, an invitation to more warmongering and the end of the distinctive culture of the East; his novel on the subject, “Too Far Afield” was written from the nostalgic viewpoint of two elderly men. Fired with pacificism, he attacked Germany’s military help for Israel and the presence in Germany of American missiles. Two giant novels, “The Flounder” (1977) and “The Rat” (1986) fumed about the world’s indifference to hunger, environmental destruction and the patient, adaptable wisdom of animals. He was a speechwriter for Willy Brandt of the Social Democrats in three campaigns, but it was a rare politician who would link himself for so long to such a fulminator.

His allies did so because this vigorous figure, in cord trousers and tweed jackets and, under an ever-drooping moustache, an ever-present pipe, was both Germany’s Nobel prizewinner and its moral voice. Hence the dismay when, in “Peeling the Onion” in 2006, Mr Grass revealed that part of his own life had been wrapped in silence: his service as a teenager in the Waffen-SS in 1944. By that time, he explained, this was a mere fighting arm of that vicious organisation; he had been conscripted into it; had not fired a shot, and was soon invalided out. In his meticulous account of it all, no detail seemingly forgotten now, he was another character from a Grimm fairy tale: this time a tearful, foolish young man on the run in the woods as the Russians advanced, wetting himself with terror.

His enemies, thoroughly tired of his political eruptions, called him a hypocrite. Friends thought it showed the immensity of the task he had taken on in the beginning. National amnesia afflicted even the fearless creator of the red-and-white drum. But what would they have done without him? And what other literary figure—apart from Tom Thumb, perhaps—had so persistently, and irritatingly, and triumphantly, got under his country’s skin?

Trận Biển Đông

Một cái hàng không mẫu hạm Mẽo
Và một cái Nhà Thờ Gothic
Cùng lúc đánh chìm nhau
Ở giữa Thái Bình Dương
Cho đến chót
Vì cha sứ trẻ chơi đàn óc gan.
Bây giờ, máy bay & thiên thần lắc lư trên bầu trời
Đếch có chốn nào để mà hạ cánh.

Gunter Grass

*

On Christa Wolf

Christa Wolf thuộc thế hệ trong có cả tôi. Chúng tôi đều bị đóng dấu bởi chủ nghĩa Quốc Xã  và sự “ngộ” ra muộn - quá muộn - về tất cả những tội ác mà người Đức đã phạm phải trong quãng thời gian chỉ trải dài 12 năm. Kể từ đó, cái gọi là hành động viết, đòi hỏi, mi đã làm cái gì trong 12 năm đó, nghĩa là, phải giải thích những dấu vết còn lại của năm tháng kể trên.
Một trong những tác phẩm của Christa Wolf, Patterns of Childhood, "Những Mẫu Mã của Ấu Thời", đáp ứng đòi hỏi trên, phơi bày ra sự nhúng chàm tuần tự với chế độ độc tài của bà, và với những lý thuyết của chủ nghĩa Stalin.
Những lối đi lầm lạc nhẹ dạ tiếp theo, những kích động của hồ nghi, và của sự cưỡng lại những câu thúc, ép buộc, hạn chế của chế độ, của uy quyền, và quá cả nó, sự nhìn nhận sự tham dự của riêng mình, của 1 con người, vào một hệ thống, tất cả những điều ép lên những lý tưởng không tưởng của Chủ nghĩa xã hội – đó là những “dấu ấn” của năm thập kỷ viết lách đã kiến tạo danh tiếng của Wolf, một cuộc hành trình dẫn từ cuốn sách này tới cuốn khác, từ "Bầu Trời Chia Cắt", "The Divided Sky", 1963, tới cuốn sau cùng, "Thành phố của những thiên thần", "Stadt der Engel" (“City of Angels,” 2010); và những cuốn sách còn lại.
Lấy ra 1 cuốn: "Cái còn lại", “What Remains” là tít của một câu chuyện được xb Tháng Sáu, 1990, bởi Aufbau Verlag, tại Đông Đức, và Luchterhand Verlag, Tây Đức. Ngay cả trước khi nó có thể tới tay độc giả Đông cũng như Tây Đức, một vài ký giả Đông Đức - thứ ký giả coi họ là những kẻ ở về phiá của những người thắng trận đối với lịch sử, và cái giờ để xác nhận điều này thì trong tầm tay – cũng chẳng hề biết sự cấm cản, và ra tay. Christa Wolf, tác giả nổi tiếng và được ngợi khen rất nhiều qua sự kháng cự của bà, người đã từng được trao giải thưởng văn học danh giá nhất của Đức, the Büchner Prize, vào năm 1980, người đã từng được sinh viên hâm mộ vây quanh, hai năm sau đó, khi đọc diễn văn về Thơ, tại Frankfurt, Christa Wolf, mà tiếng nói được nghe bởi cả hai nước Đức, thì bây giờ - Bức Tường thì đã sập – là đề tài để thiên hạ thi nhau ném đá. Chẳng khác gì một cuộc xử tử, hành quyết trước công chúng.
Tuần báo Die Zeit, và nhật báo Frankfurter Allgemeine Zeitung mở ra cú tấn công vào 1 và 2 Tháng Sáu 1990. Ulrich Greiner và Frank Schirrmacher đặt để giọng điệu vặn mức độ ra đòn, kéo theo cả 1 lũ báo chí, ký giả, bóp nghẹt “phản biện” từ 1 số ít không cùng phe.
Bầy sói hung dữ dựa vào cái chi để xâu xé, huỷ diệt Wolf? Một bản văn viết vào mùa hè 1979, mà đề tài của nó là hồ nghi, hồ nghi về chính mình, và sự theo dõi của cơ quan mật vụ nhắm vô vợ chồng Wolf. Bầy sói buộc tội Wolf đã hèn nhát, không cho in bản văn ngay sau khi viết.
"Bởi vì nếu làm như thế, thì coi như hết đời Wolf, như là nhà thơ của nhà nước, và kết quả sẽ là lưu vong ở Tây Phương, một điều quá dễ dàng cho Wolf", Ulrich Greiner từ cái góc an toàn của mình, phán. Còn  Frank Schirrmacher, đi xa hơn, buộc tội Wolf bằng "con mắt của quần chúng, của đám đông": “Mọi người ai thì cũng nhận ra đó là những con chữ của 1989, không phải của 1979”.
Không ai thừa nhận rằng, tác phẩm Sommerstück (“Summer Piece”, tạm dịch, Kịch Mùa Hè,), bà viết liền sau “What Remains”, đã phải đợi 10 năm thì mới được xb ở GDR.
Ý của Grass theo GCC hiểu là, giả như Wolf cho in liền, thì cũng đếch có đứa nào dám in! Đây cũng là luận điệu đám Chống Cộng điên cuồng chửi mấy anh Trùm VC, cứ phải đợi về hưu mới dám lên tiếng, hà, hà!
Cơn giận dữ, trận ném đá của đám đạo đức giả, đám báo chí Đức mới khủng khiếp làm sao. Chúng có bao giờ lâm vào trường hợp được Đảng lãnh đạo, viết dưới ánh sáng của Đảng CS Mít quang vinh, trong tinh thần ba dòng thác Cách Mạng của thời đại chúng ta, và dưới sự kiểm duyệt của nhà nước. Được dẫn dắt bởi mấy những tờ báo có thế lực, và ảnh hưởng, chiến dịch bôi nhọ Wolf tiếp tục cả tới khi bà mất, trong những dòng cáo phó, phân ưu, nhất là trong cái từ “Gesinnungsästhetik” [một thứ mỹ học dựa trên niềm tin vào con mắt của nhân dân nghĩa là vào lũ cớm VC, hải ngoại cũng có thứ này, trong số Chống Cộng Điên Cuồng, chính nghĩa VNCH, hay trong lũ viết lách vô tài, chỉ chờ dịp để tố kẻ khác], dựa vào niềm tin của cái gọi là chính trị phải đạo, và chúng sử dụng thứ mỹ học này để soi vô tác phẩm của Wolf và nhiều tác giả khác nữa, thời hậu chiến.
1990. Năm “Cái còn lại” được xb và cũng là năm tình bạn của chúng tôi bắt đầu. Gặp gỡ, thư từ trao đổi thường xuyên. Mặc dù Christa còn cực đau, và cố giữ đừng để cho thể xác cùng tinh thần suy sụp, nhưng rõ ràng là những đòn khốn kiếp của báo chí đã ảnh hưởng nặng nề lên bà. Điều gì đã xẩy ra cho bà trong xứ sở của chính bà, một xứ sở mà bà yêu thương mặc dù đủ thứ chuyện, bây giờ lại tiếp tục vũ như cẩn, trong cái mạch Nam Bắc một nhà, 30 năm mới có ngày hôm nay vui sao nước mắt lại trào [pan-German vein]. Lăng mạ, trích dẫn méo mó, sai lạc, không ngừng nghỉ toan tính ám sát "tính cách", dưới cái khiên “tự do diễn đạt”. Cái cách cư xử nhục nhã này cũng là 1 trong những “cái còn lại”. Đó là những điều cực kỳ nhơ bẩn, xẩy ra, sau khi nước Đức được thống nhất [thua xa xứ Mít!]

The Paris Review

Günter Grass, The Art of Fiction No. 124

GRASS

As a child I was a great liar. Fortunately my mother liked my lies. I promised her marvelous things. When I was ten years old she called me Peer Gynt. Peer Gynt, she said, here you are telling me marvelous stories about journeys we will make to Naples and so on . . . I started to write down my lies very early. And I continue to do so! I started a novel when I was twelve years old. It was about the Kashubians, who turned up many years later in The Tin Drum, where Oskar’s grandmother, Anna, (like my own) is Kashubian. But I made a mistake in writing my first novel: all the characters I had introduced were dead at the end of the first chapter. I couldn’t go on! This was my first lesson in writing: be careful with your characters.

INTERVIEWER

What lies have given you the greatest pleasure?

GRASS

Lies that do not hurt, which are different from lies that protect oneself or hurt another person. That is not my business. But the truth is mostly very boring, and you can help it along with lies. There is no harm in that. I have learned that all my terrible lies really have no effect on what is out there. If, several years ago, I had written something that predicted the recent political developments in Germany, people would have said, What a liar!

Khi còn nhỏ, tôi tổ sư nói dóc. Mẹ tôi cực ưa chúng! Tôi gặp trục trặc với cuốn tiểu thuyết đầu tay: Tất cả những nhân vật tôi trình ra, thì đều chết ở cuối chương Một.
Đây là bài học dầu tiên về viết của tôi: Hãy cẩn trọng với những nhân vật của mình

Gunter Grass:

Christa Wolf thuộc thế hệ trong có cả tôi. Chúng tôi đều bị đóng dấu bởi chủ nghĩa Quốc Xã  và sự “ngộ” ra muộn - quá muộn - về tất cả những tội ác mà người Đức đã phạm phải trong quãng thời gian chỉ trải dài 12 năm. Kể từ đó, cái gọi là hành động viết, đòi hỏi, mi đã làm cái gì trong 12 năm đó, nghĩa là, phải giải thích những dấu vết còn lại của năm tháng kể trên.

Có tên nhà văn VC nào làm được điều như GG.
Bốn chục năm, chúng ngộ đến phát ngộ về tội ác của VC, của hai cuộc chiến, nhưng đâu có tên nào lên tiếng?
Khốn kiếp hơn, chúng đổ hết cho Mỹ Ngụy!


Lao Home, 2014 & 15 Trip


Thơ Mỗi Ngày

Kêu đêm

I

Giọt mực khô, trên giấy mới, đêm thêm sâu. Tiếng kêu
vọng từ hang thẳm thời gian.
Hãy lui lại, mân mê vết thương hằn vách dựng. Mệt ngủ quên cái chết
dài sâu. Đợi mầm chết trổ hoa trên đá. Và vệt máu
hoen trên giấy ố phẳng phiu

II

Đội nón mê lướt qua cánh đồng. Lúa chưa gặt
như kho vàng cất giấu, lãng quên. Những hột mồ hôi, muối
trả về đất. Vào mùa hấp hối, máu nhỏ giọt trên cánh chim
đơn độc. Khi cơn bão quỷ ma ào tới, thành bầy bù nhìn giăng
trên dây gai. Và nửa đêm mắt cú sáng rực.  

III

Núi cao đèn treo. Bước quanh co chỉ thấy bóng lớt phớt.
Người lìa phố đổ nát theo tiếng vọng khe sâu. Bản thảo
thời gian gõ trên bậc đá rêu. Nghe xa xa tiếng kẹt cửa, âm tiết
im bặt trong cõi người bấy lâu.

IV

Cái nhìn im trong khoảng gió lặng. Nét cọ nắng vàng
bình minh hay xế chiều. Ngửng đầu lên ngưng đọng tuổi trái chín.
Mắt môi ngực chìm sâu khung trời đêm thâu. Bước đi mãi
tìm tiếng gọi sơ đầu. Đêm nhẹ buông những sợi đàn run rẩy.  

Dã Viên

Twenty-year-old students talking poetry and philosophy until dawn, sitting in a cheap cafe in a garret in Krakow or Paris: who can match their ardor, who can defend or indict all writers, living and dead, with greater passion? No one better honors the works of the human spirit than students sitting for hours in the smoke-filled rooms oflittle restaurants, students caught up in conversation.

Adam Zagajewski: Another Beauty

Zagajewski was considered one of the “Generation of ’68” or “New Wave” writers in Poland; his early work was protest poetry, though he has moved away from that emphasis in his later work. The reviewer Joachim T. Baer noted in World Literature Today that Zagajewski’s themes “are the night, dreams, history and time, infinity and eternity, silence and death.” The titles of his collections of poetry suggest some of these concerns: Tremor (1985), Mysticism for Beginners (1997), and World Without End: New and Selected Poems (2002). (a)

* *

Gombrowicz died; Americans walked on the Moon,
hopping cautiously, as though it might break.
Erbarme dich, mein Gatt
, one black woman sang
in a certain church.
Summer scorched us,
the lake water was warm and sweet.
The cold war dragged on, the Russians occupied Prague.
We met for the first time that year.
Only the grass, worn and yellow, was immortal.
Gombrowicz died. Americans walked on the Moon.
Have mercy, time. Have mercy, destruction.

1969

Gombrowicz chết; Người Mẽo đi bộ trên Mặt Trăng
Nè, bước nhè nhẹ coi chừng bể!

Erbarme dich, mein Gatt, một người đàn bà da đen hát
trong 1 nhà thờ nào đó
Mùa hè làm sém thịt sém da chúng ta
Nước hồ thì ấm và ngọt
Cuộc chiến lạnh kéo dài mãi
Người Nga chiếm đóng Prague
Chúng ta gặp nhau lần đầu năm đó.
Chỉ có lũ cỏ, mòn ra, vàng đi, là bất tử
Gombrowicz chết. Người Mẽo đi bộ trên Mặt Trăng
Cám ơn mi, Thời gian. Cám ơn mi, Huỷ diệt.

Adam Zagajewski
Without End

1969

Cõi Khác

Chúng ta gặp nhau lần đầu năm đó

Tuyệt!
Đúng là me x
ừ Adam này tả giùm GNV, cũng gặp cô bạn năm đó, 1969, và viết ra được cái mẩu Cõi Khác, và còn có thêm được cái khúc 1996 sau này!

Cám ơn mi, thời gian!
Đếch cám ơn mi, huỷ diệt!

 


Yes, defending poetry, high style, etc.,
but also summer evenings in a small town, where gardens waft and cats sit quietly
on doorsteps, like Chinese philosophers.
Adam Zagajewski
[Eternal Enemies 2008]

Bảo vệ thơ, và vân vân.

Đúng rồi, bảo vệ thơ, văn phong cao, v...v…
Nhưng cũng bảo vệ những buổi chiều mùa hạ
trong một thành phố nhỏ,
với những khu vườn đong đưa,
và những con mèo ngồi trầm tư nơi bậu cửa,
như những nhà hiền triết Trung Hoa
*

Kính gửi đến ông vài lời, sau khi làm độc giả thường nhật của tanvien.net hơn một năm nay. Bởi quá thích, mục Thơ mỗi ngày, nên hôm nay mới đánh bạo viết mấy dòng gửi ông, để cám ơn những gì mà một mình ông làm, kiến tạo và duy trì hào hứng trang web này trong suốt thời gian qua. Kính chúc ông viết hăng mỗi ngày, và qua việc viết, sẽ đem đến cho đời ông, và độc giả những chất liệu và phương thức sống, đọc & viết tươi mới mãi.
Trân trọng.

Phúc đáp: Đa tạ
Mục “Thơ Mỗi Ngày”, do trục trặc kỹ thuật, một số bài bị ‘delete’. Trong có mấy bài về Pessoa, và mail của bạn, trên.

Sorry abt that. NQT

[GCC post lại mail trên, hy vọng vị độc giả vưỡn đọc TV, và reply, vì GCC không còn địa chỉ mail của vị này]

A FLAME 

God, give us a long winter
and quiet music, and patient mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a flame, high, bright.

Một ngọn lửa 

Chúa ơi, cho GNV một mùa đông dài
và nhạc trầm lặng, những cái miệng nhẫn nại
và một tí phách lối - trước khi những ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu Già sự ngỡ ngàng, kinh ngạc
và một ngọn lửa, cao, sáng.

Adam Zagajewski Without End

FOR YOU

 It's not the only poem-are you asleep now
in a cloud of woolen dreams-I've written for you.
For you, triumphant, smiling, lovely,
but also for you, conquered and subdued,

(although I've never understood
who could defeat you!),
for you, mistrustful and uneasy,
I've written poem after poem, 

as if hoping one day-like the tortoise
– to reach, by way of faulty words
and images, the place where you have been so long,
where life's lightning carried you.

 Cho Em

Đây không phải là bài thơ độc nhất – em lúc này thì đang ngủ
ở giữa  một đám mây của những giấc mơ mượt mà – anh viết cho em.
Cho em, thắng thế, mỉm chi, đáng yêu,
và cũng vẫn cho em, bị chinh phục, và chịu trận

 (mặc dù anh chẳng bao giờ hiểu được,
ai có thể đánh bại em),
cho em, chẳng đáng tin cậy, và cũng thật khó khăn
anh viết bài thơ này tới bài thơ khác

 như thể, để hy vọng, có 1 ngày nào,
đài gương soi đến dấu bèo-
hay,
như 1 con rùa
– bò tới được - bằng những từ ngữ và hình ảnh không hoàn hảo,
 – lâu đài em hằng ngự,
nơi ánh sáng cuộc đời nâng niu em.

 Adam Zagajewski
Without End


Thơ mỗi ngày

November 18, 2010 5:49:49 AM

Kính bác Gấu:

       Thơ mỗi ngày mỗi dày đặc, trên Tản Viên, nhưng thơ thứ thiệt, thì bao nhiêu cho đủ? Hầu như bài nào cũng hay, thích nhất mấy bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy mất... niềm hứng khởi của GNV!
À, từ đầu đến cuối thấy bác lèm bèm hoài hoài về Brodsky, sao không giới thiệu thơ của ông?
Rất cảm ơn sự miệt mài của bác.
DV
*
Tks

Tôi thích giới thiệu những essays của Brodsky hơn. Chúng có gì liên quan tới cái xứ Bắc Kít ngày nào của tôi. Hồi mới ra được hải ngoại, tôi biết đến Brodsky là nhờ đọc Coetzee viết về ông trên tờ NYRB, 1 bài viết về những tiểu luận của B. Khi đó, vốn liếng tiếng Anh quá ít ỏi, đọc cái được, cái mất, bây giờ, đọc lại, cũng là để mong có hứng viết về xứ Bắc Kít, những ngày đi tù VC của tôi "vs" của Brodsky!

Nhưng trên TV cũng có 1 bài thơ thật là tuyệt vời của Brodsky, gửi cô con gái.
Post lại ở đây, (b) trong khi chờ hứng, dịch tiếp Phận lưu vong

Thân
NQT


Simic trả lời phỏng vấn

Ông tới Mẽo khi còn là 1 đứa con nít. Ông bật mí cho biết cái mánh hội nhập nó ra làm sao?

Phiến diện mà nói, tôi hội nhập cũng khá nhanh. Tiếng Anh cháo húp quanh, nhờ vậy mà đọc sách, có thêm bạn, lậm vô xã hội mới, văn hóa phổ thông... Cũng mất đâu chừng hai, ba năm. Cái còn lại thấm từ từ khi sống cùng 1 cái đời như những người đương thời. Tôi vô quân đội, rồi Cuộc Chiến Mít [như ông Gấu nói], rồi thì thập niên 1960 etc… 40 năm dòng dã tại xứ sở này, và tôi cảm thấy hoàn toàn ở nhà.

Ông nhận được "bố cu" giải thưởng, kể cả Pulitzer. Nhiều như thế có ảnh hưởng gì tới ông?

Ảnh hưởng khỉ gì. Thơ của tôi bán bảnh hơn nhiều. Chúng xâm nhập nhiều trường trung học qua những tuyển tập. Mọi người nghĩ, thằng chả khôn lắm! Không, tôi không phải như vậy. Nói 1 cách rốt ráo, thì như… châm ngôn: “Mọi phép lạ chỉ kéo dài được 3 bữa”!

Tới một mức độ nào, ở Mẽo, nếu nói về cái sự thăng bằng giữa, 1 bên là những nguyên lý vật chất, và 1 bên là những nguyên lý về tinh thần?

Chẳng có mắc mớ gì giữa hai món đó. Mẽo không phải là 1 xứ sở; nó là 1 đại lục được cư ngụ bởi chồng chất những truyền thống, văn hóa, tín ngưỡng, một nơi chốn đầy những mâu thuẫn, ngược ngạo. Cái mâu thuẫn, ngược ngạo nhất, theo tôi, là chúng tôi bằng 1 cách nào đó, cứ sống bên nhau hoài hoài như thế. Hay, nói như 1 ông VC nào đó, cầm tay nhau đi dưới bảng hiệu Mẽo!
Và đó là cái viễn ảnh hợp nhất độc nhất. Một lý tưởng về 1 dân tộc, thống nhất, và khác biệt.
Nguồn
*

Vừa mới ra lò.
Nóng hổi vừa thổi vừa đọc!


30.4.2015

Phòng Ngủ Thiên Đàng

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/12.html

Ba triệu Mít chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về Cuộc Chiến Mít
Như về Thần Dược Sex
Gấu trợn mắt, kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì một con tem bị phế thải tới hai lần

Gấu sống được, nhưng đời thì thật là khốn nạn
Ngày đó đó, đâu đâu cũng thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên VC
Lịch sử Mít liếm góc mép đầy máu của nó

Trên băng phải trả tiền,
Một người đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi những cái hôn thèm khát
Xé nát quần áo của nhau
Gấu trố mắt nhìn
Âm thanh tắt và căn phòng tối
Trừ màn hình,
Đỏ như máu
Hồng như Đông Phương Hồng

**

Thông báo, lấy từ Blog Bùi Văn Phú (1)
Bùi Văn Phú published an article on WordPress.
5 hrs ·

Bùi Văn Phú Hôm 20/3 vừa qua, một toà án xử những vụ kiện vì thiệt hại nhỏ (small claim court) ở San Jose, California đã ra một phán quyết liên quan đến tác quyền, buộc các ông Phạm Phúc và Lê Huy trả cho ông Phạm Duy Hùng số tiền 1200 đôla, cộng với 180 đôla án phí, vì tổ chức văn nghệ có hát nhạc Phạm Duy mà không xin phép. [ 2923 more words. ]



Kafka Poet

* 

(April, 1920)

So, I’m expecting one of two things. Either continued silence, which means: Don’t worry, I’m fine. Or else a few lines.
                                                                                                                                                         Cordially Kafka

It occurs to me that I really can’t remember your face in any precise detail. Only the way you walked away through the tables in the café, your figure, your dress, that I still see.

(Meran, June, 1920)
….

More tomorrow. But if it should be the day after, don't "hate" again, please, not that.

I reread the Sunday letter, it's even more frightening than I thought at first. One ought, Milena, to take your face in both hands and look you square in the eye, so that you would see yourself in the eyes of the other person, then you could not even think the kinds of things you wrote there.

Kafka: Letters to Milena

Vậy là anh mong ước 1 trong hai điều. Hoặc là Em cứ tiếp tục im lặng, và nó có nghĩa, mi đừng lo cho ta, ta vưỡn OK.
Hoặc là mail vài dòng!
Chuyện xẩy ra với anh là, không làm sao nhớ nổi khuôn mặt Em, mà chỉ là dáng đi hối hả, giữa những dẫy bàn tại tiệm cà phê, bữa đó!
Anh đọc lại lá thứ bữa Chúa Nhựt và sợ quá là sợ. Phải là anh, ôm mặt em vào lòng hai bàn tay của mình, nhìn vào mắt của em, và như thế, em sẽ nhìn thấy khuôn mặt của anh trong mắt anh, và biết, anh thương em biết là chừng nào, và em sẽ không còn nghĩ quẩn là bỏ anh dưới cơn mưa Xề Gòn...

[Dịch nhảm]

**

Phê bình gia của thời chúng ta và Kafka

Cuốn này, những phê bình gia cực bảnh, "không phải thời nào cũng có", đi những đường cực kỳ khác nhau, về Kafka.
GCC mua xon, tại tiệm sách Tẩy đã đóng cửa ở Toronto.
Marthe Robert, người đã từng dịch Nhật Ký Kafka, người đã từng đưa ra câu phán, Phải đốt bỏ Kafka chăng, Faut-il bruler Kafka? đi 1 bài khá dài, tên công dân của nhà nước không tưởng, "Citoyen de l'utopie", lần đầu xuất hiện trên OBS, số đặc biệt về nhà văn nước ngoài, mai-juin 1971. Bà vinh danh nước Tẩy, về cái thái độ niềm nở, ngay từ thoạt đầu, với Kafka, một tác giả cực kỳ khó chịu, khó hiểu, không phải nước nào cũng làm như vậy được.



TTT 2006-2015

*

Nghệ Thuật số 52, 1966

Note: Bài nói chuyện về thơ sau cùng của TTT, trước 1975, có lẽ là bài đọc trong ĐÊM THƠ VHC

Thơ là lời và hơn lời

Tuyệt!

ĐÊM * THƠ * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TUESDAY, SEPTEMBER 21, 2010

Đoạn văn dưới đây là phần chính bài nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong Đêm Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975 tại phòng trà Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền

Sự hiện diện của các bạn cùng chúng tôi hôm nay là một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng những cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm thơ - không biết, không thể làm gì khác - mà còn cho tất cả mọi thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng ta? Sướng ích chi mà có những người để một đời như Vũ Hoàng Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không biết - thật chăng? Có lẽ cũng chỉ là một cách nói riêng của thi sĩ. Riêng chúng ta có biết, chúng ta biết tận trong thâm tâm chúng ta, biết qua động cơ thúc đẩy cuộc hội họp tối nay được chính chúng ta dấu diếm bằng những lý lẽ rất tầm thường hằng ngày. Chúng ta biết rằng chúng ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt nhau đêm nay: “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.” Chúng ta biết rằng khi mọi giá trị thiêng liêng đều chẳng còn đáng gì, đều bị liệng bỏ dần dọc theo đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải thế chăng? Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các giá trị thiêng liêng. Không là giá trị thiêng liêng - có bao giờ thơ như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong đời sống chúng ta - như lúc này, giây phút này đây - và nó đủ năng lực để cuốn đời sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng chúng ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và sống với người.
Chúng ta còn có thể nói đến những điều ghê gớm hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại còn có thể vượt ra ngoài mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên nói cho đến cùng (biết đâu là cùng?) Thơ vẫn chỉ là lẽ thường của đời người, là sự thường của kiếp sống - ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng hát.

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.

Và lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người nào đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói như Đinh Hùng Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng ta quây quần nơi đây nào khác, như giữa đám rừng dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên và tiếng trống kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng thẳm của Thơ mời chúng ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi, giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
16-1-1975

(Văn, giai phẩm, 14-2-75)


Một bữa, vào thời kỳ đó, giữa thập niên 1950, Olga Ivinskaya nhận cú điện thoại từ người yêu, Pasternak. Giọng ông nức nở, đứt đoạn, đầy nước mắt.
Bà hoảng quá, hỏi dồn, "Chuyện gì, chuyện gì?"
"Ông ta chết, chết, chết", ông lập đi lập lại.
Ông ta nói về Yuri Zhivago. Đó là đoạn vị bác sĩ bị bịnh tim quật sụm trên xe điện Moscow, (cũng không xa nơi sau này con trai của Pasternak bị chết)...

Nghệ thuật, Pasternak viết, luôn luôn là suy tư về cái chết từ đó đẻ ra đời sống.

Gấu bỗng nhớ đến cái chết của nhân vật Kiệt trong Một Chủ Nhật Khác, của Thanh Tâm Tuyền.
Anh chàng này, may mắn được du học, nhưng ngu si, bỏ về, và chết lãng nhách tại Đà Lạt...
Chương Zhivago bị quất sụm coi như chấm dứt "thời kỳ đó".
Như cái chết của Kiệt.
Không ai có thể ngờ, đời sống lại được bắt đầu từ những trại tù.
Từ biển cả.


Suspended Sentences by Patrick Modiano – three novellas from the Nobel laureate

He has been hailed as a contemporary Marcel Proust, but Modiano’s investigations into the moral history of the occupation make him a pure original
Những câu văn bị treo: Được thổi là Proust hiện đại, nhưng những điều tra của Modiano vào cái phần đạo đức của lịch sử thời Pháp bị Đức đô hộ khiến ông bảnh hơn nguyên gốc, tức sư phụ của mình.

Đám Bắc Kít thử đi đường điều tra thời kỳ Bắc Kít đô hộ Nam Kít, kể từ 30 Tháng Tư 1975, coi có ra được tí tác phẩm nào không?
Đếch 1 giọt mắt cá sấu – chưa nói đến nước mắt thực, pure original, làm sao ra tác phẩm!

All his novels resemble crime stories, but the genre’s usual finale of clarification never occurs.
Tất cả những cuốn tiểu thuyết của ông đều có mùi trinh thám, nhưng khó mà gọi nó là cái thứ gì.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Epilogue

The Other

THIS book has not been a self-portrait. I leave such a portrait to my friends and enemies. All the same, I did find myself for many years in search of someone who called himself Graham Greene.

When I bought Edward Thomas's Collected Poems more than fifty years ago, one poem called 'The Other' haunted me, though I didn't know why. It was not one of Thomas's best poems. It told of a traveller who along his road, at this inn or that, continually stumbled on the trace of someone exactly like himself who had preceded him along the same route.

I learnt his road and, e'er they were
Sure I was I, left the dark wood
Behind, kestrel and woodpecker,
The inn and the sun, the happy mood
When first I tasted sunlight there.
I travelled fast, in hopes I should
Out run that other, what to do
When caught, I planned not, I pursued
To prove the likeness, and if true
To watch until myself I knew.

The poem ends,

He goes: I follow: no release
Until he ceases. Then I also shall cease.

[suite]
Graham Greene: Ways of Escape

Tên Gấu Khác

Có bao nhiêu tên Gấu?

Cuốn sách này đếch phải 1 thứ tự thuật. Gấu để cho mấy tên bạn quí làm cái cú này.
Bạn quí thì cũng cẩm như kẻ thù.

Tuy nhiên, nói cho cùng, trong bao nhiêu năm tháng, Gấu Cà Chớn quả có cái hăm he, ngông cuồng, cà chớn, đi tìm 1 thằng cha Gấu Cà Chớn, khác, “Je est un Autre”, như ông anh nhà thơ của GCC đã từng.


GCC ra hải ngoại, gặp lại cô bạn, cô phù dâu ngày nào, nhờ đó, làm được mấy bài thơ, viết được tí truyện ngắn, nhưng, nếu không có cái cơ may đọc cuốn trên, cái gì gì, Đài Gương Soi Đến Dấu Bèo [L'Inespérée, dịch ra tiếng Mít chẳng phải thế sao?], thì vô phương!

Thành ra, số phận 1 bài viết, không phải chỉ là cái viễn ảnh của nó ở trong đầu bạn, mà còn do cơ may ông Trời ban cho bạn.
Bài thơ Biển của GCC, cũng nhờ gặp lại cô bạn mà làm được, nhưng cái cơ may của nó, là ở câu nói của ông bạn đời của cô, khi giải thích, bãi biển này là bãi biển giả, cát ở đây, là từ nơi nào mang tới, chứ ở đây không có cát!

Bữa đó đó, cũng những ngày mới qua Xứ Lạnh, mò vô 1 thư viện ở Toronto, mò tới khu sách Tẩy, và tình cờ cầm cuốn sách trên lên, tình cờ lật đúng trang, có những câu, và nhìn ra bài viết ở trong đầu:

Anh viết kể từ khi em đọc
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta

Nhớ, có lần cô bạn phán, đọc vậy đủ rồi.

Viết về ta đi!

 *

  Cõi Khác 

1996

"J'écris depuis que tu me lis
Les mots sont en retard sur nos vies"
Christian Bodin (L'inespérée)

(Tôi viết kể từ khi em đọc
Chữ sao muộn màng so với đời sống của chúng ta)

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.

Cũng trong cuốn Đài Gương Soi Đến Dấu Bèo, GCC khui ra được 1 câu, thần sầu, áp dụng cho bài viết, cho tập truyện ngắn của 1 bạn văn

Và tôi cứ tưởng tượng ra cậu học trò ngày xưa, đã nói với cô giáo như thế này:

"Đó là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).

Đen một cách ghê rợn, phải chăng là những ngày dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là "vầng trăng thơ ấu mãi"?

 NQT

 

 



Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

30. 4. 2013

Thơ JHV

TMT

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011
TTT 2012
7 năm TTT mất

Tribute to PCL & VHNT
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi
Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

NQT vs DPQ

@ NMG's

Lolita vs BHD