Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật Ký Tin Văn [TV last page]



Thơ Mỗi Ngày

WHY THE CLASSICS 

if art for its subject
will have a broken jar
a small broken soul
with a great self-pity

what will remain after us
will be like lovers' weeping
in a small dirty hotel
when wallpaper dawns

Zbigniew Herbert

Giả như nghệ thuật, về đề tài của nó
Có cái bình bể
Một linh hồn nhỏ tan hoang
Với nỗi tủi thân thực là bự

Cái còn lại, sau chúng ta
Sẽ là tiếng nức nở của những kẻ yêu nhau
Ở 1 khách sạn nhỏ dơ dáy
Khi tờ giấy dán tường sáng lên dần cùng với rạng đông

GCC đọc đoạn trên, từ bài viết của Adam Zgajewsi, cái Tiều Tụy và cái Đỉnh Cao The Shabby and the Sublime, trong A Defense of Ardor, thì bèn nhớ ra bài này đã giới thiệu trên TV, kèm luôn cả bài viết của chính tac giả về bài thơ của ông, nhưng chưa có bản tiếng Việt.

I CHOSE THIS POEM after some hesitation. I do not consideration the best poem I've written, nor is it one that can represent my poetic program. I think it does have two virtues: it is simple, dry, and speaks of matters that are truly close to my heart, without superfluous ornament or stylization.
Tớ chọn bài thơ này, sau tí lưỡng lự. Tớ không coi nó là bài thơ bảnh nhất, cũng không phải thứ đại diện cho thơ của mình. Nhưng có lẽ chỉ vì, nó giản dị, khô, và rất gần gụi với trái tim của tớ, ấy là những gì bài thơ lèm bèm, thay tớ, không màu mè, không huê dạng.

Lâu lắm, Tin Văn không đi 1 đường nào về Adam Zagajewski.

GCC đọc bài viết trên, trước hết là do câu Adam trích dẫn, làm chó gì có thứ thơ thấp lè tè, thơ tán gái, thơ tán bạn, thơ tán cà phê.
Nếu có, thì nó chính là cái Tiều Tụy, đầy rẫy trong thơ Mít, hà hà!

Il n'est pas de poésie sans hauteur...
-Philippe Jaccottet

Đây cũng là quan niệm của Joseph Brodsky, như bài viết dưới đây, Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980], cho thấy:

Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh.

Bèn đi luôn bài của Adam, bài thơ, và bài viết về thơ của chính tác giả: Tại sao [Những Nhà] Cổ Điển?

Cái gọi là Đỉnh Cao, là Đẳng Cấp, là Văn Hóa, như Milosz định nghĩa, khi viết về Brodsky:

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

TTT cũng đã trải qua những khoảnh khắc thần tiên còn hoài hoài, khi cùng bạn tù nghe đọc thơ của ông, được 1 bạn tù phổ nhạc:

Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền 

Note: Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2


Nguyễn Quang Lập

Tháng 4 năm 1976 tôi tròn 20 tuổi, lần đầu tiên nghe ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao tôi đã khóc. Tôi khóc không phải chỉ vì đây là điệu valse hay nhất mọi thời đại của ca khúc Việt, chính là vì con người phải sống trong đau khổ bức bối vì một cuộc sống bị kiềm thúc là tác giả của điệu valse hào sảng và thơ mộng, ngọt ngào ấm áp tình người trong niềm vui thống nhất đất nước, không hề thấy một gram khổ đau nào trong từng nốt nhạc của ông.

Lần đầu tiên tôi biết thế nào là tâm hồn một nghệ sĩ lớn.
Chỉ tiếc ước mơ của ông sau ngày thống nhất:"Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người /Từ đây người biết yêu người" ... đã không thành sự thật.

Note: Bài hát này, nếu lời đúng như trên, thì cùng1 air bánh vẽ với “Như có Bác Hồ”, hay,Thắng trận này sẽ xây dựng cái nhà to đùng.
Bánh vẽ làm sao thành sự thực?

Rõ ràng là, nếu lời đúng như trên, thì tại sao bản nhạc bị cấm, mà phải Đài Moscow mới dám hát, lần đầu tiên?
Lời nhạc thực sự, theo GCC, là, “từ nay người biết quên Người”, tức là quên Vua Bịp.
Đó là thông điệp của Văn Cao ngày 30 Tháng Tư
Văn Cao, giết người, đau quá, bặt tiếng, đến 30 Tháng Tư mới lên tiếng, nhắn nhủ Mít, phải quên Người [viết hoa] đi, thì mới biết thương người [không viết hoa].
Trên TV hình như đã lèm bèm về vụ này.
Nhưng, hỏi Bọ Lập, có lần nào "tôi đã khóc" cho 1 tên...  Ngụy chưa?
Hình như chưa có tên VC nào thỏ thẻ, tớ có lần thương lũ Ngụy bị nhà nước cải tạo lâu quá, bật khóc?
Phải 1 Bọ Lập đã khóc vì đã từng dúng tay vào máu Ngụy, thì mới đáng nói, chứ bánh vẽ khóc hoài, chán lắm!
Phải có 1 tên VC có dũng khí nói ra lời thực, như DTH, thí dụ, thì may ra mới có thay đổi.
Nên nhớ, và phải nên nhớ, cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị VC bịp. Cả hai đều bị VC cố tình làm cho nó xẩy ra để thủ lợi.
Khốn nạn nhất, chúng lạy thằng Tẫu, kẻ thù truyền kiếp của Mit, để chiến thắng, và đẩy dân Mít vào cái thế như hiện nay.
Làm đéo gì có sự thực mà "không thành sự thực", đúng như câu của Wat sau đây:

Sacrifice the children-an old story, pre-Homeric-so that the nation will endure, to create a legend.
-ALEKSANDER WAT

Mistaken ideas always end in bloodshed, but in every case it is someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just about everything.
-CAMUS

Charles Simic trích dẫn, trong bài viết Bi khúc trong mạng nhện, ELEGY IN A SPIDER'S WEB, The Life of Images
Tư tưởng lầm lạc tận cùng trong biển máu, nhưng trong mọi trường hợp, máu người khác, đếch phải máu Bọ Lập, hay NN!  



The Lunatic

THE LIGHT

Admittedly, yours is an odd
Sort of work, galactic traveler.
I watched you early this morning
Get on your knees by my bed
To help a pair of my oId shoes
Find their way out of the dark.

ÁNH SÁNG

Thành thực mà nói, công việc của bạn có chi kỳ kỳ
Bạn, người du hành thiên hà.
Sáng sớm bữa nay tớ quan sát bạn
Quỳ ngay bên giường
Để giúp đôi giầy há mõm của tớ
Kiếm ra đường ra khỏi bóng tối.


Thơ Dã Viên


     
Map

Once we had the world backwards and forwards:
- it was so small it fit in two clasped hands,
so simple that a smile did to describe it,
so common, like old truths echoing in prayers. 

History didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung dirty sand into our eyes.
Ahead of us lay long roads leading nowhere,
poisoned wells and bitter bread. 

Our wartime loot is knowledge of the world,
- it is so large it fits in two clasped hands,
so hard that a smile does to describe it,
so strange, like old truths echoing in prayers.

From Unpublished Collection 1944-1948

Đã có thời chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt trong hai vòng tay
Giản dị, một nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen, như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa

Lịch sử đếch đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc Kít. (1)
Trước mắt chúng ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng

Nam Kít nhận họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể diễn tả được.
Cái gì gì, vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.

(1) Bà vợ góa của Osip Mandelstam, với lũ văn sĩ Liên Xô: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta".
Bà DTH, lịch sự hơn:
Năm 1994, nhờ sự can thiệp của phu nhân tổng thống Pháp, Danielle Mitterrand, bà Hương được sang Pháp nhận một giải thưởng. Bà được đề nghị hưởng quy chế tị nạn chính trị. “Tôi trả lời, ‘cám ơn, nhưng ở nước tôi, sự sợ hãi đang nghiền nát mọi thứ, những người lính can đảm đã trở nên thường dân hèn nhát’, bà nhớ lại. “Vì vậy tôi phải trở về. Tôi trở về để làm điều duy nhất: phỉ nhổ vào mặt chế độ.’”  (2)

*

Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
Joseph Brodsky
Gửi DTH.
Jennifer Tran

Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.

Tôi muốn tản mạn thêm một chút, ở đây. Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm tính, ở đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc nhất cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là ngôn ngữ. Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế  - có được lăng kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác nhất, và có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có những tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần, bởi vì, do định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng những nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng, coi cá mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn).

Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng -  khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.


30.4.2015

*


Banyan

Forty years on

The strategic order in place in Asia since the Vietnam war is being challenged

AT THE time, the events in Indochina of April and May 1975 seemed to mark in the starkest way the end of a period of unchallenged American hegemony in Asia and the Pacific. Cambodia fell to the brutal Khmers Rouges, South Vietnam was absorbed by the North and communists took power in Laos. Famous pictures of an evacuation by helicopter from the American embassy roof in Saigon (now Ho Chi Minh City) captured the apocalyptic mood: the humbling of the superpower, in bedraggled retreat from Asia. Yet, 40 years later, as Vietnam marks the anniversary of unification, America’s defeat in Vietnam looks in retrospect no more than a blip in a prolonged Pax Americana. Only now is the durability of the American-led regional order being seriously questioned.

Jonathan Schell, an American journalist who covered the Vietnam war, wrote that what had led America to enter and expand it was not over-optimism about its chances of victory, but “overly pessimistic assessments of the consequences of losing”. These entailed not just the tumbling of other Asian “dominoes” to the communist menace, but a catastrophic loss of American prestige and credibility. Indeed, for a while after the war America did seem in global retreat. Jimmy Carter, elected president the following year, oversaw what Lee Kuan Yew, Singapore’s late patriarch, called in his memoirs “four years of pious musings about America’s malaise”, during which Iran’s revolution and the Soviet invasion of Afghanistan further dented America’s standing.

It soon turned out, however, that Mr Carter’s predecessor, Gerald Ford, had been right in a speech he made on April 23rd 1975 in which he said that events in Indochina “tragic as they are, portend neither the end of the world nor of America’s leadership in the world.” Communism did not advance beyond Indochina to elsewhere in Asia. And by then, partly in response to the quagmire in Vietnam, America had already tilted towards China with Richard Nixon’s visit in 1972. This softened the strategic impact of the humiliations three years later.

A de facto alliance with China against the Soviet Union left America’s supremacy in Asia uncontested. After the war, the region boomed. American intervention in Vietnam no longer looked such an unmitigated disaster. Lee Kuan Yew portrayed it almost as a triumph: without it, South-East Asia would probably have fallen to the communists. America bought the region time and, by 1975, its countries were “in better shape” to stand up to them. The prosperous emerging-market economies they have become “were nurtured during the Vietnam war years”.

The greatest beneficiary of the new global alignment was China itself, which embarked in 1979 on its great economic transformation, against the backdrop of a stable region secured by America’s unchallenged primacy. China has done so well out of this arrangement that many Americans struggle to understand that it might want to challenge and to change it. But growing numbers of analysts now believe that it does: that its goal is to supplant America as the Asia-Pacific’s—and eventually the world’s—leading power. Hugh White, an Australian writer on strategic affairs, argues that China is achieving by totally different means under its current leader, Xi Jinping, what it failed to attain under Mao Zedong: wealth, power and a dominant role in its own region.

Most American strategic thinkers have tended until recently to argue that China can be accommodated in the existing world order; and that even if it harbours greater ambitions, it is so far behind America in economic and military terms that it will set them aside for the foreseeable future. A more alarmist school of thought is gaining strength, however. A new report for the Council on Foreign Relations, an American think-tank, by two analysts who have worked in government, Ashley Tellis and Robert Blackwill, calls for a new “grand strategy” for dealing with China, including strengthening America’s army and stepping up military co-operation with its allies. It argues that “the American effort to ‘integrate’ China into the liberal international order has now generated new threats to US primacy in Asia—and could eventually result in a consequential challenge to American power globally.” In a similar vein, Michael Pillsbury, another former American government official, has published a book with a self-explanatory title: “The Hundred-Year Marathon: China’s Secret Strategy to Replace America as the Global Superpower”.

The American administration itself seems to be adopting a harder line towards China. It has always denied that its “pivot” or “rebalancing” towards Asia was aimed at China’s containment. But it was certainly intended to reassure its friends and allies in the region that it was not simply going to stage a strategic withdrawal to make way for a rising China. And it is becoming more open in its rivalry. Recently it tried in vain to persuade its allies to shun a Chinese-led development bank. To garner support for its ambitious trade agreement, the Trans-Pacific Partnership, it has stressed how the deal is essential if America is to prevent China from writing the rules for the region.

Full circle

China, for its part, constantly suspects America of trying to contain it; and it argues that the alliances that tie America to Asia, notably its defence treaty with Japan, are cold-war relics that should be dismantled. None of the allies wants that; and none wants to be forced to choose between its security ties with America and its links with China. But, if the pessimists are right, they may one day find they have to. As Mr White sees it, America’s experience in the Vietnam war is an “Aesop’s fable of the perils of statecraft”. America, having fought in Vietnam to stop China building a sphere of influence that excluded it, was driven by the war into opening to China and has since facilitated China’s rise—and that rise has been so successful that China now threatens to build a sphere of influence that excludes America.
Note: GCC sử dụng Google mở được hết trang bị cấm, do hết credit!



Live at Club Revolution 

Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll
In a slow, absentminded striptease.
Her shoulders are already undraped,
And so is one of her sagging breasts.
The kisses she blows to us
Are as cold as prison walls 

Once we were a large wedding party.
It was a sunny weekend in June.
Women wore flowers on their straw hats
And white gloves over their hands.
Now we run dodging cars on the highway.
The groom, someone points out, looks like
President Lincoln on a death notice. 

It's time to burn witches again,
The minister shouts to the congregation
Tossing the Bible to the ceiling.
Are those Corinna Brown's red panties
We see flying through the dark winter trees,
Or merely a lone crow taking home
His portion of the day's roadkill? 

Charles Simic

 

Tương lai xứ Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống tắc nghẹn
Trong một xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ để trần
Cũng thế, là một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em ban cho chúng ta
Lạnh như tường nhà tù Phan Đăng Lưu 

Một lần tụi này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi này đang chạy xe lắt léo trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một tay nào chỉ ra,
Sao giống y chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử. 

Đã đến giờ lại thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1 chú quạ
đem về nhà
phần chia những xác chết vì xe cán trong ngày?

/tap_ghi_5/gach_bac_ho.html
[Tháng nào cũng hot, cũng Top Ten: Viên Gạch Của Bác Hồ]

Đầu những năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người đã qua đời được vài năm, một tổ công tác chính trị được thành lập. Đa số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn, bảo tàng, lịch sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM sau này.
Nhiệm vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước, và một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước. Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục đích đó.
Một nhiệm vụ cụ thể của nhóm công tác là tìm hiểu về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa đông khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng nghèo khổ ở Paris, sống ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con.
Nhóm công tác đã phỏng vấn nhiều người dân sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch, và kết quả là không có người dân nào biết về sự kiện này.
Đến ngày cuối cùng trong thời gian làm việc. Nhóm công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn nheo móm mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống tại nhà số 11 ngõ Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi ấm trong mùa đông giá rét ở Paris, bà cụ già công nhận là có biết chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ giúp đỡ để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam, bà cụ gật đầu mỉm cười duyên dáng và nói:
- "Viên gạch đó chính là tôi đây!"

IN THE JUNK STORE

A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.

I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.

Charles Simic: The Little Something

Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ

Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!

Gấu lật lật 1 cái huy chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!

Hà, hà!

Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….

Top 10 books about betrayal
Top Ten về Phản Bội 

From John le Carré to Muriel Spark, the novelist chooses fiction that reflects a perennial human failing which can wound the betrayer as much as the betrayed

Đứng đầu, phải là Graham Greene!  GCC chưa đọc mà đã đoán ra được!

1. The End of the Affair by Graham Greene

I could have picked any of Greene’s novels: if there was ever a master of betrayal fiction, it was Greene. The End of the Affair, published in 1951, is a sad and beautiful story of love racked by jealousy and Catholic guilt. Written during the postwar austerity era, but set in wartime London, the narrative is loosely based on Greene’s affair with Lady Catherine Walston. When jealous ex-lover Maurice Bendrix realises that his major rival for the love of Sarah Miles is God, The End of the Affair is cast in new light.

Tuy nhiên những nhận xét của tác giả bài viết, về "Tàn Ngày", thật thú

4. The Remains of the Day by Kazuo Ishiguro

Compared with Medea – with anyone, really – Mr Stevens, the narrator of The Remains of the Day, is restrained. Butler at Darlington Hall, the poised Mr Stevens decides to visit his old colleague of 20 years’ standing, Miss Kenton. The quality of restraint, along with dignity and loyalty, is part of the idea of “greatness” by which Mr Stevens has always lived. But the novel ends with the elderly butler realising how the beliefs that have sustained him have also betrayed him.

Làm sao không có John le Carré cho được!

9. The Spy Who Came in from the Cold by John le Carré

Spies are betrayers by profession. The clandestine nature of their trade makes them prone to the kind of duplicity where one part of their own character will always be busy betraying the other. Le Carré manages to convey this complexity of deception in many of his characters, often forced by circumstance to act callously, but The Spy Who Came in From the Cold is, in my view, his best book. Written in 1963, the novel carries strains of film noir, with the lonely, haunted war veteran, feeding on whisky in bleak cityscapes, trying to do right, trying and failing to save the girl he loves. British spy Alec Leamas is assigned one last operation before he can be brought in “from the cold”. He uncovers layer upon layer of duplicity and betrayal and, in the end, must choose between life and loyalty.

Le Carré rất mê CS, và rất tởm tư bản, Anh Quốc, mà hiện thân của nó, là qua ông bố của mình. "Người về từ miền lạnh", khi chấp nhận mission, vượt bức màn sắt, qua thế giới CS, để cứu 1 điệp viên Hoàng Gia Anh, luôn luôn đinh ninh trong đầu, là cái tên, tạm gọi là B, vì tên này cực bảnh, về đạo hạnh, về lý tưởng cao đẹp của CS… Chỉ đến phút chót, anh mới biết, đó là tên mà anh phải loại bỏ, và cái tên anh ta phải kíu, thì cực tởm, đúng như lũ Chống Cộng Điên Cuồng, hay đám bộ lạc Cờ Lăng hiện giờ.

Chúng không phải là phe ta ư?

Đâu có phải dòng dã 40 chục năm chúng ta hận thù VC không thôi đâu. Chúng ta hận thù cả những tên tởm lợm chống cộng điên cuồng, những tên dựa vào chống cộng để mà làm giàu, cho bản thân và gia đình chúng.

*

John le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ Ngoại giao (công tác gián điệp), do vậy, không được dùng tên thực. Cuốn The Spy Who Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài danh vọng. Đã được quay thành phim, với tài tử Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú vị nhất, đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng, Người Thứ Tám, phóng tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu Lâm vào hàng thượng thừa, Văn Bình được Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra Bắc (Hà Nội), để cứu một điệp viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ tài liệu: nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách mạng" ở một ngân hàng Thụy Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận tiền…

Trong nguyên tác của Le Carré, câu chuyện xẩy ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc ăn, ông đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau khi thất bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái thương tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với "cách mạng" (Đông Đức).

Mọi việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn, Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu của anh chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.

Bí mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo đều là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ địch này là một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"! Còn cái người mà anh điệp viên "tởm" nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!

*

TLR

JOHN LE CARRÉ

WINTER 2015

INELLIGENCE HAS ONE MORAL LAW - IT IS JUSTIFIED BY RESULTS.

THE SPY WHO CAME IN FROM THE COLD


Nhắc tới le Carré, có liền. Báo Điểm Văn lấy luôn nick cho số Mùa Đông 2015, là John le Carré.
Thú hơn nữa, đọc loáng thoáng ở tiệm sách, trúng ngay 1 bài, đề tặng Vila-Matas: The Dark Twin.

Đọc cái tít ngờ ngợ.
Đọc hết bài, hoá ra thuổng của….  GCC, trong bài viết về Cô Tư, chôm Faulkner:

Cái câu của Faulkner nói về nhà văn, và cái câu của Coetzee nói về Faulkner, xem ra đều áp đụng thật là đắc địa vào trường hợp của Cô Tư (a)
"A book is the writer's secret life, the dark twin of a man: you can't reconcile them."
William Faulkner: Mosquitoes [1927] (1)
Một cuốn sách là cuộc đời bí ẩn của nhà văn, cái thằng anh em sinh đôi u tối của hắn ta: Bạn đừng hòng hoà giải hai thằng chả này.

(1) Coetzee trích dẫn trong 1 bài viết trên tờ Điểm sách Nữu Ước, khi đọc cuốn tiểu sử Faulkner

ESSAY

Sergio Pitol

The Dark Twin

Translated from Spanish by George Henson

FOR ENRIQUE VILA-MATAS

Bài essay này cực sướng. Nó nhắc tới cuốn MCNK của TTT, khi nhắc tới cuốn tiểu thuyết Voi Đi Đâu Để Chết, Where Elephants Go to Die?

Với độc giả của TTT, của MCNK, thì biết liền: ở Đà Lạt.
Trong MCNK có nhắc tới giai thoại này, như là 1 cái dấu báo về cái chết của Kiệt.
Dark Twin của TTT, là MCNK.

Tin Văn sẽ đi liền bài này, như 1 cách nhớ Đà Lạt, và tưởng niệm Kiệt và TTT.

Ông Trung Tá mập có vẻ bệnh hoạn. Ông từng bị địch bắt hồi Mậu Thân khi về quê nhà ăn Tết và vượt ngục trốn thoát sau sáu tháng bị giam cầm trong rừng gần biên giới. Từ trại An Dưỡng ông được đưa lên làm việc tại trường và được giao giữ một chức vụ mới đặt riêng cho ông, không có trong bảng cấp số: thanh tra các lớp học. Ông ngụ trong cư xá độc thân mặc nhiên trở thành trưởng trại. Gia đình ông ở Sàigòn và ông lủi thủi một mình không có bạn.
Tiếng ông nói nhanh nghe như lắp bắp, tiếng cười phát ra bất thường và ngắn ngủi. Nhìn nét mặt ông ngay sau khi tiếng cười vừa tắt, không ai có thể biết ông đã cười.
Ông chết cách đây mấy tháng. Một trái lựu đạn nhỏ bằng trái chanh đã nổ trong gian phòng ông ngủ ban đêm. Gian phòng chếch với gian phòng của Kiệt thuộc khối nhà bên kia quảng trường. Nằm đây bên cạnh cửa sổ kính dầy, Kiệt chỉ ngó thấy được gian phòng ấy bằng tưởng tượng. Gian phòng không ai dám ở nữa, lỗ chỗ những mảnh lựu đạn trên cửa, trên tường, trên sàn.
Cuộc điều tra đưa đến kết luận tử nạn vì công vụ, giúp cho vợ con của ông được hưởng các quyền lợi của một tử sĩ . Cái chết phủ nhiều bí mật với nhiều dư luận đồn đãi. Đêm trái lựu đạn nổ trong phòng ngủ của ông, Kiệt có ngủ tại trại nhưng không hề hay biết. Chàng hoảng hồn ngơ ngác trong buổi sáng tinh mơ đứng trên bãi đậu xe nghe tiếng người la lớn đối đáp báo tin biến cố đêm hôm.
Kiệt nhìn ánh điện vàng nhòe của ngọn đèn giữa quảng trường chiếu trên mặt kính. Đêm ấy, ngọn đèn này tắt, Kiệt nhớ.
Chàng ngồi lên trong mùng, ngó quanh quất.
Bữa leo núi, trong khoang chiếc trực thăng, lần duy nhất Kiệt nói chuyện với người đã chết. Chính ông gợi chuyện. Ông hỏi chàng ở ngoại quốc bao lâu? Chàng về nước năm nào? Cảm tưởng của chàng những ngày đầu mới trở về? Kiệt lịch sự trả lời vừa đủ, không dài dòng trong khi hai người cùng mầy mò quan sát những mối dây điện cao thế bị cắt rời khỏi các bộ phận đã tháo gỡ. Bỗng không ông nhận xét: buổi tối nằm lại trong khoang tầu này chắc rét chịu không thấu. Mùa đông vừa qua, ông sưởi bằng bóng đèn 500 [watts] ngay trong phòng làm việc, bóng đèn giấu dưới gầm bàn. Rồi ông hỏi: "Tại sao ông lên trên này?". Ngồi trên xe díp trước khi mở máy, ông ngó chiếc phi cơ nói: "Ông trông nó giống con voi không? Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi." Ngưng vài giây, ông nói tiếp bằng giọng bình thường: "Tôi mới đọc một quyển truyện về voi, thật thích. Tôi đang cố gắng dịch quyển sách ấy". Kiệt hỏi: "Trung Tá viết sách?" Ông vội vàng cải chính: "Đâu có. Tôi dịch để gửi về cho mấy đứa nhỏ ở nhà đọc. Chúng nó không đọc được sách ngoại quốc mà quyển này thì chắc chẳng có ai mất công dịch, in làm chi. Tại tôi thích... với lại viết thư cho tụi nhỏ tôi chẳng biết viết gì...".  Về đến thành phố giữa buổi trưa ngà nắng, ông bảo: "Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Sau buổi ấy, Kiệt không còn dịp nào nói chuyện với ông. Gặp lại chào ông, được ông đáp bằng vẻ dửng dưng như với mọi người. Cái chết thình lình lấp kín ông. Đêm nay chàng sực nghĩ đến tập sách dịch của ông, muốn đọc, chàng quên không hỏi ông về nhan đề quyển sách, tự hỏi chẳng rõ ông dịch xong chưa, rồi tự đáp, cuốn sách dịch bỏ dở dang. Và không lý do, chàng kết luận ông tự vẫn.


The Life of Images

Một tên BVVC của Gấu, một năm trước đây, mail Gấu, tại làm sao mà mi không về nước mà thù đồng bào Mít của riêng, của chính mi?
Hắn chọc quê Gấu.
Tuy nhiên, Gấu cũng quê.
Gấu bèn trả lời, cái chuyện thù hận, thù ghét, Gấu không quen, rằng, lâu lâu ghét thằng này, ưa thằng kia, giữa lũ Mít hải ngoại, OK, nhưng làm sao mà thù hận trọn dân Mít của Gấu được?

Vậy là mi đánh mất cái hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 tên Mít có được ở trên đời rồi!

Einstein as a Jew and a Philosopher

Toni Morrison: 'I want to see a white man convicted for raping a black woman'

The Nobel prize-winning author tells Daily Telegraph that America’s race issues will never end until disparities in criminal justice system are resolved


Kafka Poet

*

*

*

Faut-il bruler Kafka?

Liệu có nên đốt bỏ Kafka?

Bữa trước TV có nhắc tới câu này, và gán cho Marte Robert. Nay coi lại, không phải, mà là của tờ Action. Tin Văn sẽ đi 1 số trích đoạn, của 1 số phê bình gia thế giới, khi đọc Kafka. Trước hết, xin giới thiệu Camus. Ông coi đây là tiểu thuyết triết học. Nhưng nếu đọc như thế, thì lại chống lại cách đọc tôn giáo của Max Brod. Ông bạn của Kafka coi K là 1 vì thánh, mà thánh thì đâu cần đến chim, thế là bèn xóa sạch những câu mê gái của Kafka, thí dụ,

Tôi đứng trước ổ nhện như đứng trước ngôi nhà của người tình thân thương, (Je passai devant le bordel comme devant la maison de la bien-aimée, nhật ký 1910, đã bị Brod kiểm duyệt)

Di Chúc Kafka

Về sự tủi hổ của Kafka. Kundera nghĩ đến đoạn cuối Vụ Án: hai người đàn ông cúi xuống cắt cổ K. Từ hai con mắt đang mờ dần, K. còn nhìn thấy, ngay sát mặt anh, kề má anh, là hai người đàn ông đang ngắm thành quả của họ. Như một con chó!, K. nói, như thể sự tủi hổ phải sống dai hơn anh, chỉ có nó sống sót.

Tủi hổ, shame, tiếng cuối cùng của Vụ Án.

Và đây là hình ảnh của sự tủi hổ; hai khuôn mặt lạ hoắc đang dí sát, như muốn tách bạch mọi chi tiết riêng tư thầm kín nhất, và cơn hấp hối của anh. Trong từ cuối, tủi hổ, trong hình ảnh cuối, cõi người của K. được cô đọng lại: một con người bị tróc nã, săn đuổi, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, đang giấc nồng trong đêm khuya, trong phòng ngủ, không kịp ăn sáng, lúc nào cũng sẵn sàng để được hỏi cung, ngày cũng như đêm; bị tịch thu, ngay cả những tấm màn che cửa sổ; không được gặp, quen biết những người K. muốn gặp; không còn thuộc về mình, mất hết tư cách như là một cá nhân, con người. Cuộc hoá thân từ con người thành đồ vật, K., chúng ta, cảm nhận rõ ràng, như một sự tủi hổ.

Kundera cho biết, ông cảm thấy khó khăn khi nói ra hai từ thống khổ, (anguish, angoisse), và chuyện tầm phào (talk, bavardage), mỗi lần nói ra là ông nghĩ tới ý nghĩa mà Heidegger đem đến cho chúng. Những triết gia hiện sinh đã thổi ý nghĩa triết học vào những ngôn từ hàng ngày. Tiểu thuyết gia còn đi trước triết gia. Trong khi quan sát những tình huống của nhân vật, họ làm bật ra những từ của riêng họ, thường là những từ-chìa khóa. ý nghĩa của chúng vượt ra ngoài ý nghĩa có trong từ điển. Theo cách đó, ở Dostoevsky là từ tủi nhục (humiliation), ở Stendhal là thói đời (vanity). Với Kafka, chúng ta có hai từ tòa án (tribunal), và vụ án (trial). Những từ-chìa khoá của thế kỷ chúng ta, cùng với chúng, sự tủi hổ, sống dai hơn chúng ta. Tha hồ chúng ta sử dụng chúng, với tất cả những kinh nghiệm riêng tư của mình.

Tòa án: đâu chỉ đặt ra để trừng phạt những người không tuân thủ phát luật. Toà án, theo ý nghĩa Kafka, là quyền lực, nó xét xử, bởi vì nó là quyền lực. Khi hai kẻ lạ đột nhập phòng của K., anh nhận ra ngay quyền lực đó, và anh chịu trận.

Vụ án do tòa phán, là tuyệt đối, nó liên quan đến đời riêng cũng như đời chung (công cộng). Brod kết tội chết cho K., vì chỉ nhìn đàn bà ở cái sex tồi tệ nhất; Kundera nhớ lại những vụ án chính trị vào năm 1951 ở Prague. Tiểu sử của những người bị buộc tội được in ra đầy rẫy, và đó là lần đầu tiên, ông được đọc dâm thư. Khi chế độ CS bắt đầu xụm, vụ án đầu tiên chống lại Marx, là nhắm vào đời tư của ông (ngủ với người làm); trong Chuyện Diễu, ba anh sinh viên kết án Ludvik, về một câu trong thư viết cho bạn gái. Anh bạn chống đỡ, nói viết vội không kịp suy nghĩ. Họ trả lời: anh chỉ viết ra những gì có trong anh; bởi vì tất cả những gì bị cáo nói, nói thầm, suy nghĩ, tất cả những gì giấu kín bên trong anh ta đều bị đưa ra tòa, để tòa tùy nghi sử dụng.

Án tòa là tuyệt đối, không riêng tới cuộc đời bị cáo bị huỷ diệt, mà luôn cả bà con thân thuộc. Tội lỗi của một Do-thái chứa đựng trong đó tội lỗi của cả Do-thái, của mọi thời. Lý lịch trích ngang, về nguồn gốc giai cấp, ít nhất là phải ba đời, đối với CS. Tội ác thực dân là thuộc về Âu châu: Sartre kết án, không chỉ những tên thực dân, mà còn cả Âu châu, của mọi thời, bởi vì "có một tên thực dân ở trong mỗi chúng ta", và "là một con người ở đây, có nghĩa, là một đồng lõa, kể từ khi tất cả chúng ta đều hưởng lợi, từ việc bóc lột thuộc địa." Hồi ức tòa án thật là đồ sộ, nhưng nó là một loại hồi ức đặc thù: có thể quên mọi chuyện, trừ tội ác. 

Tội ác kéo theo hận thù, do đó: có thể quên mọi chuyện, trừ hận thù. 

NQT 


 

Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

30. 4. 2013

Thơ JHV

TMT

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011
TTT 2012
7 năm TTT mất

Tribute to PCL & VHNT
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi
Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

NQT vs DPQ

@ NMG's

Lolita vs BHD