*

Tribute

1
2
3
4























*

Camus by David Levine 

Thus The Plague teaches no lessons. Camus was a moraliste but he was no moralizer. He claimed to have taken great care to try to avoid writing a "tract," and to the extent that his novel offers little comfort to political polemicists of any school he can be said to have succeeded. But for that very reason it has not merely outlived its origins as an allegory of occupied France but has transcended its era. Looking back on the grim record of the twentieth century we can see more clearly now that Albert Camus had identified the central moral dilemmas of the age. Like Hannah Arendt, he saw that "the problem of evil will be the fundamental question of postwar intellectual life in Europe-as death became the fundamental problem after the last war.”
Fifty years after its first appearance, in an age of post-totalitarian satisfaction with our condition and prospects, when intellectuals pronounce the End of History and politicians proffer globalization as a universal palliative, the closing sentence of Camus's great novel rings truer than ever, a fire-bell in the night of complacency and forgetting:

The plague bacillus never dies or vanishes entirely, ... it can remain dormant for dozens of years in furniture or clothing, ... it waits patiently     in bedrooms, cellars, trunks, handkerchiefs and old papers, and ... perhaps the day will come when for the instruction or misfortune of             mankind, the plague will rouse its rats and send them to die in some well-contented city.
Tony Judt: Lessons of Camus’s “Plague”
NYRB Nov 29, 2001


 Prince of the absurd
Ông Hoàng của SPhi Lý

Khi Camus bị tử nạn xe cộ cách đây 50 năm, vào ngày 4 tháng Giêng, ông 46 tuổi, đã được Nobel văn chương và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, Kẻ Xa Lạ, giới thiệu tới độc giả trên toàn thế giới một thứ triết học về sự phi lý. Tuy nhiên, vào thời điểm ông mất, Camus thấy mình là một tên bị xã hội ruồng bỏ, tứ cố vô thân tại Paris, bị nhạo báng bởi Jean-Paul Sartre và những trí thức tả phái khác, họ tố cáo thứ suy tư tự do của ông, là từ chối không chịu hò theo những quan điểm chính trị đang ăn khách. Như cô con gái của ông nói: “Bố tôi thì cu ki, chỉ có mình bố tôi” [“Papa was alone.”]
Lịch sử nhận ra Camus ở về phía của rất nhiều giải pháp đạo đức của thế kỷ 20. Ông gia nhập Kháng chiến Pháp chiến đấu chống Nazi, biên tập nhật báo chui Chiến đấu. Hô hào bãi bỏ án tử hình. Một thời đã từng theo CS, tác phẩm chống chế độ toàn trị Con người phản kháng, xb năm 1951, có trong nó những cảm nhận đáng kể về những cái ác của chủ nghĩa Stalin, và đưa đến cú đoạn tuyệt với Sartre, vào lúc đó vẫn bảo vệ Liên Xô và từ chối kết án hệ thống nhà tù Gulag.
Camus bỏ Algeria về đất liền Pháp quốc, nhưng Algeria không hề bỏ ông. Khi cuộc nổi dậy chống thực dân thuộc địa nổ ra vào những năm 1950, sự từ chối gia nhập vào lời kêu gọi hợp lề luật, bien-pensante, cho một nền độc lập đã bị coi là một hành vi phản quốc bởi đám tả phái người Pháp. Ngay cả khi khủng bố tấn công những người Algiers, Camus vẫn đòi hỏi một cách vô ích một giải pháp liên bang, cùng với một nơi chốn cho người định cư. Khi ông tuyên bố thật lẫy lừng, “Tôi tin tưởng ở công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công lý”, ông bị tố cáo là một kẻ biện hộ cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Gần 40 năm sau, Mr Lenzini kiếm ra tông tích người cựu sinh viên Algerian đã gây hấn vì lời tuyên bố trên tại một cuộc họp báo, anh ta thú nhận, vào lúc đó, anh ta chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của Camus, và sau đó, đã bị ‘sốc’ và cảm thấy mình chẳng là gì khi đọc Camus viết về sự nghèo khổ của những người Ả Rập.
*

*
Nadine Gordimer chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:

Non-fiction - Camus at "Combat": Writing  1944-1947 by Albert Camus, edited by Jacqueline Levi-Valensi (Princeton): editorials and other texts, letters, published at high personal risk by Camus in what began as an underground newspaper during the German of Occupation of France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of passionate conviction and objectivity in intellecctual force that distinguishes Camus's creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider. As editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the Occupation and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that destroy themselves owing to the heavy price they eventually exact when they seek to become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria what held good for other colonial empires as well: "The failure to peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II ... a serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.

… Loại không giả tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho người viết, trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng viết, chứa trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách quan, trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng tạo của Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch Kẻ Xa Lạ.  Vừa là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước Pháp bị] Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông chẳng còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên chúng ta, nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ chúng, và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần trong thực tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là tốt, không chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực dân thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa thực dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại nghiêm trọng, nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước Pháp”.
Nguồn

*

Gấu mới xuống phố, vớ được số báo mới nhất về Camus. Toàn những bài viết tuyệt vời về ông.
Camus, l'"homme rare": Kẻ hiếm, người lạ, hàng độc!

L' « homme rare» : la formule est de Sartre, quand l'écrivain meurt tragiquement en janvier 1960. Celui qui se voulait « un artiste et non un philosophe» fut d'abord un témoin, dans ses romans comme ses articles de presse, un coéquipier sur le terrain ou sur les planches, un juste, qui prit le parti des humbles et des oubliés, en marge des systèmes et des dogmatismes.
Người ‘hiếm’: Công thức này là của Sartre, khi Camus mất một cách thật là bi thương vào Tháng Giêng, 1960. Kẻ, muốn mình là ‘nghệ sĩ chứ không phải triết gia’, thoạt đầu là một chứng nhân, trong những cuốn tiểu thuyết cũng như trong những bài báo của ông, một ‘chiến hữu’ trên sân cỏ và trên sân khấu, một người công chính, kẻ nhận phần của mình, giữa những con người khiêm nhuờng, những kẻ bị bỏ quên, ở bên lề của những hệ thống và những chủ nghĩa độc đoán.
*
“Mourir bêtement»: si la formule a un sens, c'est bien à propos de Camus. Cette embardée fatale, le 4 janvier 1960, au milieu d'une vie sans dérapage, on eût dit une vengeance de l'Absurde, fâché d'avoir été trop regardé en face. Quel gâchis de dons et de promessses dans ce froissement de tôle!

*

Một trong những nhà tư tưởng hiếm hoi nhất của thế kỷ 20 đặt ra những giới hạn cho đế quốc Lịch Sử, nghĩa là Con người.
Alain Finkielkraut
Chàng tự mô tả mình, như là một trộn lẫn, un mélange, của Humphrey Bogart và Fernandel.
Chàng tán tỉnh, và thành công, và đắm đuối với nữ nghệ sĩ Maria Casarès, và từ chối những mời gọi [les avances] của Simone de Beauvoir, vì sợ em nhiều chuyện, ngay cả khi đang làm tình!
Cuốn tiểu thuyết dở dang trong túi xách, khi tử nạn, là để tặng bà mẹ, một bà mẹ mù chữ, gần như câm, sống cuộc đời làm thuê, làm mướn: “Tặng Mẹ cuốn sách này, người chẳng bao giờ đọc được nó”

*

«Je me révolte, donc nous sommes ... »
“Il y a la beauté et il y a les humiliés.”
“Le bonheur et l'absurde sont inséparables”

“Il y a la beauté et il y a les humiliés.”
Có cái đẹp và có những người bị sỉ nhục.
Ui chao sao mà đúng y chang tình cảnh Mít, trước và sau Anus Mundi [hậu môn của thế giới]
Trước, cả nhân loại nằm mơ ngủ dậy, biến thành Mít.
Sau, Mít, có nghĩa là, bị sỉ nhục!

Vào thời cực thịnh của Camus tại miền nam Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh Tâm Tuyền đã coi Camus muốn làm một kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời, ngó xuống thế gian... và kết luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông vào quá khứ.
Khi gọi Camus là một "juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến kịch phẩm "Những người công chính" (Les Justes) của Camus, (bản tiếng Anh dịch là Những Tên Sát Nhân Chính Trực, The Just Assassins); người viết đọc, vẫn những ngày đầu, thời mới lớn, trong một thành phố Sài Gòn đang còn thanh bình, và chỉ còn nhớ mài mại, đây là về một tay khủng bố không chịu ra tay khủng bố, chỉ vì có những đứa trẻ tại hiện trường.

Ui chao, lại nhớ đến tên khủng bố, VC nằm vùng DH, tà tà chạy Honda, tà tà thẩy bom vô trạm gác Ngụy, tà tà đi tiếp!
DH đã từng tuyên bố, do đọc Camus mà đi làm Cách Mạng!


Tờ TLS, Jan 15, 2010, mục Tạp Ghi, tiểu mục Lễ lạc văn học, Literary Anniversaries: Năm mươi năm trước Camus tử nạn xe hơi trên đường đi Paris, chiếc xe hơi của ông, Facel Vega HK500, một địch thủ của Aston Martin vào thời kỳ đó. Tháng Nov. cùng năm nhà văn Mẽo ly hương Richard Wright mất tại bệnh viện Eugène Gibez, nằm trên con phố Vaugirard. Camus 46 tuổi., Wright 52.
Thế rồi tờ báo viết tiếp: Cái chuyện bạn xục xạo để tìm ra một điều gì mới về Camus, thì kể như zéro, bởi vì ông này là nhà văn được tìm hiểu [researched] nhiều nhất trong thế kỷ vừa qua. Wright cũng không phải là nhà văn vô danh, tuy thế giá không bằng Camus, nhưng cũng đã có tới năm cuốn tiểu sử khác nhau về ông. Hi vọng độc nhất, của chúng ta là, tại sao không nối hai ông này lại, để tìm ra một điều gì mới?
Có, thật!
Wright là một “thằng bé da đen” (a “black boy”: tên cuốn tiểu sử của ông), từ Mississippi lên Chicago, rồi New York;  Camus: một tên chân đen (a pied noir), từ French Algeria, dời đi Paris. Cả hai như thế đều là di dân bắc tiến. Cả hai đều viết về một vụ sát nhân tình cờ. Camus trong Kẻ Xa Lạ, L’Étranger; Wright, trong Native Son. Cả hai đều láng cháng với những râu ria của chủ nghĩa hiện sinh của khu Chợ Cầu Muối, St-Germain-des-Prés. Trong lúc Camus cố giãn ra khỏi băng đảng [“Tớ đâu phải ‘con hoang’ của Sartre!”], Wright bệ nguyên con, nào pour-soi, nào en-soi vào cuộc sống đường phố của đám Mẽo gốc Phi châu, và đẻ ra được một tác phẩm thật bảnh.
Bạn có biết tên tác phẩm là gì không? The Outsider (1953). Đúng cái tít cuốn của Camus được dịch qua tiếng Anh, tại Anh, trong khi tại Mẽo, nó có tên là The Stranger.
*

Dịch hạch, như thế, chẳng dậy một bài học. Camus thì đạo đức, nhưng không là kẻ rao giảng đạo đức. Ông cho biết, rất cẩn trọng cố tránh cho bài viết của mình cái giọng đạo đức, dậy đời, và, có thể nói, những cuốn tiểu thuyết của ông, theo cái đà cẩn trọng đó, cũng ít đem lại sự hài lòng, thoải mái tới cho những cuộc bàn luận chính trị của bất cứ một trường lớp nào có thể có ông ở trong đó. Nhưng chính đây là cái lý do rất lý do, the very reason, nó sống dai, vượt ra khỏi gốc gác, vốn là một ẩn dụ về một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng, vượt ra khỏi thời đại của nó. Nhìn lại cái thế kỷ xám xịt với những thành quả xám xịt vừa qua, chúng ta mới ngỡ ngàng làm sao, khi ngộ ra một điều là, Albert Camus đã chỉ ra nan đề trung tâm của thời đại. Như Hannah Arendt, ông nhìn ra “vấn đề cái ác sẽ là câu hỏi cơ bản của cuộc sống trí thức thời hậu chiến tại Âu Châu – như cái chết là vấn đề cơ bản của cuộc chiến vừa qua”.
[
Like Hannah Arendt, he saw that "the problem of evil will be the fundamental question of postwar intellectual life in Europe-as death became the fundamental problem after the last war.” Tony Judt: Lessons of Camus’s “Plague”. NYRB Nov 29, 2001]

Ui chao đúng là câu Mít sau cuộc chiến cần đọc!
Nhất là cái lũ thắng trận!


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

V/v mặc cảm chiến tranh của Mũi Lõ. (1)

(1) Brad Adams, người đứng đầu ban Á châu của tổ chức này, nói chính phủ các nước phương Tây nói chung lờ đi tình hình tại Việt Nam do đất nước này có quá khứ về chiến tranh.
“Tại phương Tây có nhiều người cảm thấy có lỗi trong các cuộc chiến với Pháp và Hoa Kỳ tại Việt Nam.”
BBC
*
Hai cuộc chiến, với Pháp, và với Mẽo, cuộc chiến đầu thì còn có thể đổ cho dã tâm của anh Tây muốn trở lại Việt Nam. Và câu của Gordimer vinh danh Camus là lời phê bình đích đáng nhất đối với mẫu quốc ngày nào của dân Mít:
Nadine Gordimer chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at "Combat": Writing  1944-1947 by Albert Camus, edited by Jacqueline Levi-Valensi (Princeton): editorials and other texts, letters, published at high personal risk by Camus in what began as an underground newspaper during the German of Occupation of France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of passionate conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes Camus's creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider. As editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the Occupation and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that destroy themselves owing to the heavy price they eventually exact when they seek to become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria what held good for other colonial empires as well: "The failure to peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II ... a serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho người viết, trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng viết, chứa trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách quan, trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng tạo của Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch Kẻ Xa Lạ.  Vừa là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước Pháp bị] Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông chẳng còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên chúng ta, nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ chúng, và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần trong thực tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là tốt, không chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực dân thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa thực dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại nghiêm trọng, nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo, có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là những gợi ý của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao tránh khỏi cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra một lời giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp ngựa để thắng cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh Miền Nam, và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng chẳng ai cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở tung, và con quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến, chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương, trong hồn, trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe nanh múa vuốt xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi chuồng heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của Gogol, sự xuất hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn chân", hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ gọi anh là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng mảnh dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao đổi ma quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị (offering) thân chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ lấy đi còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi chuyến đi với cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an bài"!
Tchekhov và Kafka

Bạn cũng có thể hình dung ra con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp cho anh bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made in China’, và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu, núi đâu, gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?


Thạch Chương [thuộc nhóm Sáng Tạo]
Trình bày và phê bình hai quan niệm nổi loạn của Albert Camus

*

Albert Camus au procès du maréchal Pétain devant la Haute Cour de justice en 1945.
Il note dans ses Carnets ce constat amer sur l'épisode de l'épuration: « Avoir connu l'injustice en croyant servir la justice. »

 Camus tại “Viện Kiểm Sát Tối Cao Nhân Dân”, trong vụ xử tướng Pétain phò Nazi.
Ông ghi vào Sổ Tay: "Làm điều ác, làm điều bất công, trong khi lại tin rằng mình phục vụ công lý"

Ui chao đúng là chuyện ăn cướp mà lại cứ tin rằng mình giải phóng, phỏng dái!


DOSSIER ALBERT CAMUS
Roman déroutant pour la critique de l'époque, La Chute est une mise en abyme de la question du jugement, qui traverse toute l'œuvre de Camus.

La Chute ou la question du jugement

La Chute a provoqué une réaction de choc dans une partie de la critique littéraire qui, croyant avoir compris Camus (romancier lyrique, écrivain à thèses, fondamentalement « humaniste »), se trouvait totalement déroutée face à ce nouveau roman.

*

Những phóng sự của Vũ Trọng Phụng không chỉ có giá trị nhất thời, tức là vẽ nên những tệ đoan xã hội của thời Pháp thuộc, mà còn có giá trị cho mọi thời, bởi những sự thật mà ông phanh phui những năm 30 của thế kỷ trước, vẫn còn là hiện thực của hôm nay và hôm qua: chỉ cần đổi tên Kỹ nghệ lấy Tây thành Kỹ nghệ lấy Mỹ, là chúng ta rơi vào hoàn cảnh phụ nữ thời 54 -75 ở miền Nam, hoặc thành Kỹ nghệ lấy Đại hàn là có điều kiện của những phụ nữ bán thân cho ngoại quốc hôm nay, nhiều khi còn phải chịu số phận biệt xứ.
Vũ Trọng Phụng là nhà văn đã vẽ nên Con người toàn diện (L' homme total) theo nghĩa của Sartre, nghĩa là ông nhìn thấy toàn diện mọi khía cạnh của con người, của mọi hạng người, như trường hợp Nguyễn Du.
[…]
Sự bất nhân của con người
Một tín hiệu đi đôi với khuynh hướng thứ hai trong tư tưởng Vũ Trọng Phụng: sự bất nhân trong con người. Tháng tám năm 1931, ông dịch truyện ngắn Fou (Điên) của Guy de Maupassant. Trong đó Maupassant ghi lại hồi ức một ông toà điên, mặt tiền xử tử những tội phạm, mặt hậu chính ông toà là kẻ giết người.
Truyện của Maupassant đã ảnh hưởng đến Camus khi viết La chute (Sa đọa), và chắc chắn đã củng cố thêm cho cái nhìn Vũ Trọng Phụng về cái ác của con người. Những nhân vật trong những truyện ngắn như Một cái chết, Bà lão loà, Chống nạng lên đường, Vũ đã mô tả sự bất nhân trong nhân tính như một hiện thực không xoá bỏ được. Và muốn tìm hiểu sự lầm than, chết chóc thì phải lật cái bộ mặt bất nhân ấy lên, phô ra ánh sáng.
Thụy Khuê
*
Nhận xét “Con người toàn diện” theo nghĩa của Sartre, giả như có, thì cũng phải nói thêm, nó ra làm sao, rồi mới đem cái nón này đội vô đầu Vũ Trọng Phụng, coi có vừa không, rồi lại phải giải thích "con người toàn diện" của Sartre giống "con người toàn diện" của Nguyễn Du ra làm sao… Chứ đâu cứ viết khơi khơi như vậy được!
Từ sự kiện Vũ Trọng Phụng dịch một truyện ngắn của Maupassant, làm sao mà liên tưởng Maupassant ảnh hưởng Camus, nhờ vậy ông này mới viết được Sa Đọa, rồi lại nhảy về Vũ Trọng Phụng với một lô truyện ngắn, chắc là nhờ dịch Fou, Điên của Maupassant mà viết ra được…
Ui chao nhảm ơi là nhảm!

Bà TK này ở Tây, mà coi bộ chưa từng đọc Sartre, hay Camus!

Sa Đọa, sự thực cũng khó đọc thực, và cũng chẳng hiểu ẩn dụ của nó ra làm sao, nhưng nhân tiện 50 năm sau khi ông mất, chúng ta đọc một bài viết về cuốn La Chute này, trong số báo Le Magazine Littéraire, Mai 2006, đặc biệt Camus: Penser la révolte.
Bài của Lissa Lincoln, giáo sư môn văn học so sánh tại đại học American University of Paris, tác giả một chủ đề, une thèse, Camus và vấn đề phán đoán
Sa Đọa hay câu hỏi về sự phán đoán
La Chute ou la question du jugement
Tin Văn post nguyên tác tiếng Tây, và nếu có thể, sẽ dịch sau, hầu quí vị.

Thuỵ Khuê đọc VTP, và nhìn ra cái dâm, cái độc, cái ác, cái thú tính… của con người [của Bắc Kít, đúng hơn], ở nơi văn chương ông, nhưng bà lầm khi coi rằng, VTP muốn đạt tới “con người toàn diện”!
Ông chỉ muốn cảnh cáo về những tai ương sắp sửa giáng xuống đầu dân Mít mà thôi!
Như một nhà văn Nga cũng đã từng cảnh cáo: Người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau!

*

Ông Phạm Ngọc Thành không chỉ được biết đến là chủ “Rẫy ông Thành 507” gây tai tiếng trong vụ thả chó cắn chết bà Phạm Thị Ngắn mà ông còn là giám đốc Công ty Quản lý và xây dựng đường bộ (QL-XDĐB) Đắk Lắk, một trong hai đơn vị đem máy móc phá Rừng Quốc gia Yok Đôn.
Nguồn: boxitvn.blogspot.com


Gấu cứ tưởng tượng ra  rằng, nhờ ơn giải phóng, tay PNT này bèn rời bỏ Bắc Kít vô Đắc Lắc, và....

Làm gì có "khoảng cách giầu nghèo" ở đây, mà là khoảng cách giữa Thiện và Ác, giữa Kẻ Cướp, Tên Sát Nhân với Người Lương Thiện.
*

.. chỉ cần đổi tên Kỹ nghệ lấy Tây thành Kỹ nghệ lấy Mỹ, là chúng ta rơi vào hoàn cảnh phụ nữ thời 54 -75 ở miền Nam
TK

Bà này khi đó chắc là không ở Miền Nam, mà lánh nạn chiến tranh ở bên Tây rồi, có thể. Bi vì thời gian đó, chưa xẩy ra cái dịch vụ này. Gái Miền Nam do chiến tranh bỏ đồng quê về tỉnh lỵ, và để ‘sống sót’ làm gái snack bars, lính Mẽo thì cũng chỉ cần có thế, để quên chiến tranh, để đỡ nhớ vợ con, quê nhà.
Không chỉ phục vụ Mẽo, mà còn phục vụ lính Ngụy nữa chứ.
Bà TK chắc là biết đến những dòng thơ trứ danh của Nguyễn Bắc Sơn, mà Gấu nhớ đại khái:

Mai ta đụng trận may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đ
ốt tiền mua lấy một đêm vui…

Đây có lẽ là bài thơ ra mắt của thi sĩ với độc giả Sài Gòn, trên Thời Tập của Viên Linh.
Người đầu tiên giới thiệu thơ Nguyễn Bắc Sơn là Thanh Tâm Tuyền.
Bởi vì làm gái snack bars là dư tiền xài, và gửi về cho gia đình rồi, cần gì phải mở ra kỹ nghệ lấy Mẽo làm chi.?

Vậy là bà TK chắc không biết đến chuyện Mẽo chơi xong trả bằng tiền giả, tức đô la đỏ?
*
Hải ngoại có mấy nhà phê bình, thì đều ưa phán cho thật kêu, mà chẳng cần chứng minh. Một nhà phê bình thứ thiệt, thường là rất cẩn trọng, khi đưa ra một nhận xét, và nếu đó là một nhận xét “chết người”, thì bắt buộc phải có dẫn chứng, không thể phán khơi khơi được, “nhất là”, Gấu nhắc lại, “nhất là” phán về một nhà văn mới viết, về tác phẩm đầu tay của người đó.
Tôi không cầu chúc anh thuận buồm xuôi gió. Một câu phán như thế, là tất cả tấm lòng của người đọc, lại lập lại, người đọc, rồi mới tới nhà phê bình, gởi tới một cánh chim báo bão!
Bản thân Gấu, mỗi lần đưa ra một nhận định, là đắn đo, là tìm tòi, là tra cứu đủ thứ thí dụ, đủ thứ trường hợp, đưa ra nhằm bảo vệ cho nhận xét của mình, chúng giống như những “giả thiết”, bắt buộc phải có, trong trường hợp chứng minh một bài toán, một định lý toán. Với toán học, giả thiết không thể thiếu, mà lại càng không thể dư. Với văn chương, càng nhiều giả thiết càng tốt, càng củng cố nhận xét táo bạo của người điểm sách, phê bình.
*
Truyện của Maupassant biến cuộc đời thành phường tuồng, một nhà phê bình nước ngoài mà Gấu không còn nhớ tên, nhận xét. Quả có thế. Thí dụ, truyện một bà vợ mê nữ trang, sắm hết món này tới món khác, chồng hỏi, ui đồ dởm không hà, luơng của anh chỉ đủ ăn ngày hai bữa, tiền đâu mà sắm nữ trang. Khi bà vợ mất, nhìn mớ nữ trang, càng thêm nhớ ơi là nhớ, [thì cũng đập cổ kính ra tìm lại bóng, xếp tàn y lại để hửi mùi… nội y], thế là đem ra tiệm quách, ông chủ tiệm coi đi coi lại, tấm ta tấm tắc, toàn đồ xịn, thứ dữ, hàng độc, ông chồng ngớ người, lại khệ nệ bưng về, lâu lâu nhớ vợ quá, lấy ra một cái, đem đi bán, xong vô xóm, kiếm em.
Nhưng hai truyện sau đây, thì so với chúng, chính đời sống mới là phường tuồng!
Thứ nhất, câu chuyện này, khá nhiều người biết, nhưng độc nhất, chỉ một ông bạn của Tzvestan Todorov mới nhìn ra lời cảnh báo của nó, khi liên tưởng tới chủ nghĩa CS với thiên đường Ngày mai ăn bánh khỏi trả tiền của nó!
Todorov trong cuốn Kẻ Bán Xới, L'Homme dépaysé, chương Chấm dứt của chủ nghĩa CS, La fin du communisme, [đây cũng là một cuốn mà mấy anh VC nên đọc, và có lẽ ngài Trần Văn Tích cũng nên đọc, thay vì cứ bám chặt vào mấy cái
archétypes stéréotypés; Gấu cũng bị một độc giả TV mắng mỏ y chang, “Bác TV” chuyên khoanh vùng, còn dã man hơn cả nhà nước VC, khi khoanh vùng Việt gian theo Pháp, Ngụy theo Mẽo so với dân Mít thứ thiệt!], viết về nỗi buồn hậu toàn trị, mélancolie post-totalitaire, kể, về một ông bạn Vesko người Bulgarie, nói với ông là ông ta cảm thấy mình như là một nhân vật trong một truyện ngắn của Maupassant, Chuỗi ngọc trai. Một bà vợ, lương của chồng thuộc loại "nhu mì hiền hậu", một bữa mượn chuỗi ngọc của một bà bạn giầu đi ăn đám cưới, lỡ làm mất, thế là đành đi vay mượn cả một đống tiền, mua một chuỗi ngọc thiệt, trả cho bạn, và suốt đời kéo cầy trả nợ, đến già, xác xơ, gặp lại bà bạn, kể chuyện cũ, bà bạn đau lòng quá, nói, chuỗi ngọc mà hồi đó tôi cho bạn mượn, là đồ dởm!
Ui chao, đúng là cái tâm sự của một Miền Nam, lỡ tin vào chuỗi ngọc thực, là thằng anh ruột thịt Bắc Kít của mình, cho đến bữa 30 Tháng Tư tay bắt mặt mừng, mới tá hoả ra, là thằng ăn cướp!
Ông bạn Vesko thì nghĩ rằng, cái niềm tin của ông vào chủ nghĩa CS thì cũng nát tan như bà vợ kia tin rằng cái chuỗi ngọc đi mượn là đồ thực, hóa ra dởm.
Nhưng với Mít, thì đây còn là hình ảnh một Miền Nam ở trong tim trong hồn của một Miền Bắc, cho mãi đến ngày 30 Tháng Tư, thì mới té ngửa ra là, mình trao duyên lầm tướng cướp!

Nhưng Do Thái cũng làm thịt người, vậy!
Jews can persecute too.

*

Tông tông Bush đọc Kẻ Xa Lạ

**

** 

Tạp Chí Văn Học Tháng Năm, 2006

Đọc lại Camus
Suy tư làm giặc: Penser la révolte.
*
Lịch sử chống lại ký ức?
Thực dân thuộc địa không chỉ là vấn đề mang tính lịch sử. Nó còn cho thấy sự chuyển biến những tương quan giữa chính trị và ký ức.
Thí dụ như ở Việt Nam ngày nay, người dân thèm ra báo, như thời bị ông Tây cai trị!
Và họ nhận ra, Đảng còn tởm hơn Tây!
*
Olivier Todd: Tôi mất năm năm viết cuốn tiểu sử xừ luỷ. Nhưng những lần gặp, khi ngọt như mía lùi, khi mặn đắng như muối. Một bữa, khoảng những năm 1950, tôi ngồi Café de la Marie, công trường Saint-Suplice, với cô vợ trẻ măng, đẹp như tiên. Xừ luỷ dzô, đến quầy ngồi, cặp mắt cú vọ như muốn bóc trần nàng ra. Tôi tức điên lên.
-Tức điên lên, hay là phổng mũi lên?
-Tức điên lên. Tôi quay qua ông bạn ngồi kế, Charles-Roger Leblanc: "Bộ hắn tưởng hắn là ai, thằng khốn này?".
"Thì hắn tưởng hắn là Albert Camus".  Ông bạn còn phạng thêm cho cú nữa!
Nhưng bây giờ cá nhân của ông ta làm tôi hài lòng. Rất ư hài lòng. Không chỉ là một tay quân tử, phong nhã, mà còn lương thiện - và can đảm. [Non seulement un honnête homme - mais un homme honnête - et courageux].

*

Kỷ niệm 50 năm Camus mất, mấy tờ báo Tây, Le Magazine Littéraire, Lire, Le Monde… nhất loạt, cùng ra số đặc biệt.


 **
*

Il y a d'abord une terre, la nôtre, qui semble façonner les hommes à sa démesure, dans l'«éclaboussement du soleil d'été» et la « respiration mesurée de la mer heureuse dans les soirs dorés et poussiéreux ».
Đầu tiên, có một miền đất, cái xứ sở của chúng ta. Nó nhào nặn chúng ta theo cái vẻ khắc nghiệt, khốn khổ khốn nạn của nó, trong “chói chang của mặt trời mùa hạ”, và trong “hơi thở nhịp theo biển hạnh phúc trong những buổi chiều vàng bụi bặm”.
“Mi đâu có thương yêu chi ta… “

*
*

Page manuscrite rédigée en mai 1935, extraite du premier cahier de Camus, dont la couverture est reproduite (à d.).
« Ce que je veux dire :
Qu'on peut avoir - sans romantisme - la nostalgie d'une pauvreté perdue. Une certaine somme d'années vécues misérablement suffisent à construire une sensibilité. Dans ce cas particulier, le sentiment bizarre que le fils porte à sa mère constitue toute sa sensibilité. Les manifestations de cette sensibilité dans les domaines les plus divers s'expliquent suffisamment par le souvenir latent, matériel de son enfance. Une glu qui s'accroche à l'âme. [ ... ]»
*

La Chute ou le jugement en question
«Je suis donc pour toute théorie qui refuse l'innocence à l'homme et pour toute pratique qui le traite en coupable », affirme Clamence dans La Chute, roman qui interroge le positionnement même du lecteur.


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

*


*

Il y a d'abord une terre, la nôtre, qui semble façonner les hommes à sa démesure, dans l'«éclaboussement du soleil d'été» et la « respiration mesurée de la mer heureuse dans les soirs dorés et poussiéreux ».
Đầu tiên, có một miền đất, cái xứ sở của chúng ta. Nó nhào nặn chúng ta theo cái vẻ khắc nghiệt, khốn khổ khốn nạn của nó, trong “chói chang của mặt trời mùa hạ”, và trong “hơi thở nhịp theo biển hạnh phúc trong những buổi chiều vàng bụi bặm”.
“Mi đâu có thương yêu chi ta… “

Điều tôi muốn nói, là, người ta có thể có – không sướt mướt, ỷ ôi – một niềm hoài nhớ về một sự nghèo đói đã mất. Một số năm tháng khốn cùng đủ để tạo nên một cảm tính. Trong trường hợp đặc biệt ở đây, tình cảm kỳ cục mà người con trai dành cho mẹ là tất cả cảm tính. Cảm tính này, trong những hoàn cảnh cho dù rất ư khác biệt, bộc lộ ra một cách đầy đủ, qua hồi ức âm ỷ, vật chất của thời thơ ấu. Một thứ keo bám vào tâm hồn… 

DISCOURS DE SUÈDE

Dédié à Louis Germain, qui fut l'instituteur de Camus, ce discours fut prononcé le 10 décembre 1957 à l'Hôtel de Ville de Stockholm, à la fin du banquet qui clôturait les cérémonies de l'attribution des prix Nobel.

Chaque génération, sans doute, se croit vouée à refaire le monde. La mienne sait pourtant qu'elle ne le refera pas. Mais sa tâche est peut-être plus grande. Elle consiste à empêcher que le monde se défasse. Héritière d'une histoire corrompue où se mêlent les révolutions déchues, les techniques devenues folles, les dieux morts et les idéologies exténuées, où de médiocres pouvoirs peuvent aujourd'hui tout détruire mais ne savent plus convaincre, où l'intelligence s'est abaissée jusqu'à se faire la servante de la haine et de l'oppresssion, cette génération a du, en elle-même et autour d'elle, restaurer, à partir de ses seules négations, un peu de ce qui fait la dignité de vivre et de mourir. Devant un monde menacé de désintégration, où nos grands inquisiteurs risquent d'établir pour toujours les royaumes de la mort, elle sait qu'elle devrait, dans une sorte de course folle contre la montre, restaurer entre les nations une paix qui ne soit pas celle de la servitude, réconcilier à nouveau travail et culture, et refaire avec tous les hommes une arche d'alliance. Il n'est pas sûr qu'elle puisse jamais accomplir cette tâche immense, mais il est sûr que, partout dans le monde, elle tient déjà son double pari de vérité et de liberté, et, à l'occasion, sait mourir sans haine pour lui. C'est elle qui mérite d'être saluée et encouragée partout où elle se trouve, et surtout là où elle se sacrifie. C'est sur elle, en tout cas, que, certain de votre accord profond, je voudrais reporter l'honneur que vous venez de me faire.
Du même coup, après avoir dit la noblesse du métier d'écrire, j'aurais remis l'écrivain à sa vraie place, n'ayant d'autres titres que ceux qu'il partage avec ses compagnons de lutte, vulnérable mais entêté, injuste et passionné de justice, construisant son œuvre sans honte ni orgueil à la vue de tous, touujours partagé entre la douleur et la beauté, et voué enfin à tirer de son être double les créations qu'il essaie obstinément d'édifier dans le mouvement destructeur de l'histoire. Qui, après cela, pourrait attendre de lui des solutions toutes faites et de belles morales? La vérité est mystérieuse, fuyante, toujours à conquérir. La liberté est dangereuse, dure à vivre autant qu'exaltante. Nous devons marcher vers ces deux buts, péniblement, mais résolument, certains d'avance de nos défaillances sur un si long chemin. Quel écrivain dès lors oserait, dans la bonne conscience, se faire prêcheur de vertu? Quant à moi, il me faut dire une fois de plus que je ne suis rien de tout cela. Je n'ai jamais pu renoncer à la lumière, au bonheur d'être, à la vie libre où j'ai grandi. Mais bien que cette nostalgie explique beaucoup de mes erreurs et de mes fautes, elle m'a aidé sans doute à mieux comprendre mon métier, elle m'aide encore à me tenir, aveuglément, auprès de tous ces hommes silencieux qui ne supportent dans le monde la vie qui leur est faite que par le souvenir ou le retour de brefs et libres bonheurs. +
Discours de Suède © Gallimard


Albert Camus

CAMUS said that the only true function of man, born into an absurd world, is to live, be aware of one's life, one's revolt, one's freedom. He said that if the only solution to the human dilemma is death, then we are on the wrong road. The right track is the one that leads to life, to the sunlight. One cannot unceasingly suffer from the cold.
So he did revolt. He did refuse to suffer from the unceasing cold. He did refuse to follow a track which led only to death. The track he followed was the only possible one which could not lead only to death. The track he followed led into the sunlight in being that one devoted to making with our frail powers and our absurd material, something which had not existed in life until we made it.
He said, 'I do not like to believe that death opens upon another life. To me, it is a door that shuts.' That is, he tried to believe that. But he failed. Despite himself, as all artists are, he spent that life searching himself and demanding of himself answers which only God could know; when he became the Nobel laureate of his year, I wired him 'On salut l'âme qui constamment se cherche et se demande'; why did he not quit then, if he did not want to believe in God?
At the very instant he struck the tree, he was still searching and demanding of himself; I do not believe that in that bright instant he found them. I do not believe they are to be found. I believe they are only to be searched for, constantly, always by some fragile member of the human absurdity. Of which there are never many, but always somewhere at least one, and one will always be enough.
People will say He was too young; he did not have time to finish. But it is not How long, it is not How much; it is, simply What. When the door shut for him, he had already written on this side of it that which every artist who also carries through life with him that one same foreknowledge and hatred of death, is hoping to do: I was here. He was doing that, and perhaps in that bright second he even knew he had succeeded. What more could he want?
William Faulkner
[Transatlantic Review, Spring 1961; the text printed here has been taken from Faulkner's typescript. This previously appeared in Nouvelle Revue Française, March 1960, in French.]

L'âme qui s'interroge - Le rayonnement
Par William Faulkner

Camus disait que le seul rôle véritable de l'homme, né dans un monde absurde, était de vivre, d'avoir conscience de sa vie, de sa révolte, de sa liberté. Il disait que, si l'unique solution au dilemme de l'homme était la mort, nous faisions fausse route. La bonne voie est celle qui conduit à la vie, à la lumière du soleil. On ne peut pas sans répit supporter le froid.
Aussi s'est-il révolté. Il a effectivement refusé de supporter le froid sans répit. Il a effectiveement refusé de suivre une voie qui ne conduiisait qu'à la mort. La voie qu'il a prise était la seule qui pût ne pas conduire uniquement à la mort. La voie qu'il a prise conduisait à la lumière du soleil: car elle amenait à créer de nos fragiles pouvoirs et de nos absurdes matéériaux quelque chose qui n'existait pas dans la vie avant que nous l'eussions créé.
Il disait: “Je n'aime pas croire que la mort ouvre sur une autre vie. Pour moi, c'est une porte qui se ferme.” C'est ce qu'il essayait de croire. Mais il n'y parvenait pas. Malgré lui, comme tous les artistes, il a passé sa vie à chercher et à exiger de lui-même les réponses que Dieu seul connaît; lorsqu'il fut désigné pour le Nobel, je lui adressai à Stockholm un télégramme qui disait: “On salue l'âme qui constamment se cherrche et s'interroge.” Pourquoi n'a-t-il pas alors renoncé, s'il ne voulait pas croire en Dieu?
À l'instant même qu'il a heurté l'arbre, il continuait à se chercher et à s'interroger. Je ne crois pas que dans l'éclat de cet instant il ait trouvé la réponse. Je ne crois pas qu'on puisse trouver les réponses, mais je crois seulement qu'il faut qu'il y ait sans cesse et constamment, pour les chercher, quelque fragile participant de l'humaine absurdité. Il n'y en a jamais beauucoup à la même époque. Mais il y en a toujours au moins un quelque part, et ce sera toujours suffisant pour nous sauver tous.
On dira qu'il était trop jeune, qu'il n'a pas eu le temps d'achever. Mais la question n'est pas combien de temps, ni quelle quantité, mais simplement quoi. Lorsque pour lui la porte s'est fermée, il avait déjà écrit ce que tout artiste espère écrire lorsqu'il porte à travers la vie la connaissance par avance et la haine de la mort: J'étais là. Il continuait. Peut-être a-t-il su, dans cette éclatante seconde, qu'il avait abouti. Que pouvait-il vouloir de plus?
Traduit de l'américain.
La Nouvelle Revue française, n° 87, mars 1960

Diễn văn Thụy Điển
Tặng Louis Germain, thầy giáo của Camus, được đọc này 10 Tháng Chạp 1957 tại Tòa Thị Sảnh Stockholm, cuối bữa tiệc bế mạc lễ trao giải Nobel.
Thế hệ nào thì cũng hăm hở làm lại thế giới. Thế hệ của tôi, không. Thừa hưởng một lịch sử hư hỏng, hầm bà làng ở trong đó, là những cuộc cách mạng suy sụp, những kỹ thuật trở thành điên khùng, những vị thần chết toi, những ý thức hệ mệt lử, nơi những quyền lực tồi tệ, vào lúc này, có thể phá huỷ tất cả, nhưng không thể thuyết phục, nơi trí tuệ xuống cấp trở thành đầy tớ cho hận thù, áp bức, thế hệ đó, tự trong nó, từ quanh nó - phải tái tạo dựng một chút phẩm giá để sống và để chết, từ những phủ định của nó, chỉ có thế. Trước thế giới bị đe dọa rã nát ra, nơi những đại phán quan của chúng ta đành chọn lựa một lần cho xong những vương quốc của thần chết, nó biết, nó phải tái tạo dựng, trong cuộc đua khùng điên chống lại với chiếc đồng hồ, giữa những quốc gia, một nền hòa bình không phải thứ hòa bình tôi đòi...
*
Tran Minh Huy:
Albert Camus avait ses maximes en journalisme, dont celle-ci: « En toutes choses, ne pas admettre que la politique l'emporte sur la morale ni que celle-ci tombe dans le moralisme. » Considération révélatrice du fossé qui le sépare de Jean-Paul Sartre ...
Daniel Rondeau:
On ne peut rien créer sur le mensonge, dit un jour Albert Camus. « Le privilège du mensonge est de toujours vaincre celui qui prétend se servir de lui. Et aucune vertu ne peut s'allier à lui sans mourir. » Ce qui va séparer Camus et Sartre, c'est principalement la question de savoir s'il est bon ou pas de dire la vérité sur les camps soviétiques . On peut d'ailleurs faire une lecture rétrospective de la littérature française du xx· siècle sous cet angle particulier: mensonge/ vérité. Ce qui a été engagé avec Barrès (mentir au procès de Rennes (2) pour ne pas désespérer l'armée française) est continué par les valses rouges de Hourrah l'Oural et conduit aux délires de Sartre sur l'URSS (pour ne pas désespérer Billancourt). Rares sont les écrivains qui n'ont pas participé à l'étouffement de leurs contemmporains par le mensonge. Citons quand même Gide, Mauriac, Camus bien sûr, et naturellement Malraux. S'il existe, comme je le pense, une fraaternité distante entre Camus et Malraux, elle est fondée sur l'estime réciproque et par un goût profond des deux hommes pour la vérité. Je sais bien ce qu'on reproche à Malraux: ses invenntions, son art de broder sur le réel, mais au fond, dès qu'il s'agit de choses sérieuses, et malgré des chemins parfois « farfelus », Malraux est toujours en quête de vérité.
[Trò chuyện với Daniel Rondeau, nhà văn. Le Magazine Littéraire Mai 2006]
Tran Minh Huy:
Camus có những châm ngôn của ông khi làm nghề báo, thí dụ, «Trong mọi chuyện, đừng chấp nhận chính trị vượt đạo đức, cũng đừng chấp nhận để cho đạo đức xuống cấp, trở thành rao giảng đạo đức”. Đúng là một nhận xét mặc khải làm bật cái hố phân cách Camus và Sartre....
Daniel Rondeau:
Camus đã từng nói, người ta không thể sáng tạo gì được với nói dối. “Đặc quyền của nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó. Không có một tính tốt nào, một khi đồng minh với nói dối, mà không ngỏm củ tỏi.” Camus và Sartre xa nhau, “anh đi đường anh, tôi đường tôi,” chính là khi cả hai đứng trước câu hỏi, liệu nói hay không nói sự thực về những trại tập trung Xô Viết. Người ta có thể nhìn lại văn học Pháp thế kỷ 20 dưới khía cạnh đặc biệt này : dối trá/sự thật. Điều mà Barrès dấn vô [nói dối ở tòa án Rennes để khỏi làm nhụt chí quân đội Pháp] được tiếp tục bằng những điệu luân vũ đỏ Hourrah Oural và đưa tới những lời nói sảng của Sartre về Liên Xô (để khỏi làm nản lòng Billancourt). Hiếm có nhà văn nào mà không tham dự vào cơn nghẹt thở của những đồng nghiệp đương thời của họ, vì nói dối. Kể luôn Gide, Mauriac, Camus đương nhiên, và tất nhiên Malraux. Theo tôi, nếu có một tình huynh đệ xa xa nào giữa Camus và Malraux thì tình này được xây dựng trên sự tương kính lẫn nhau và cái khiếu sâu đậm của cả hai về sự thật. Tôi biết người ta trách Malraux về những điều ông ta thêu dệt ra, về nghệ thuật chờn vờn chung quanh cái thực, nhưng xét cho cùng, một khi đụng chuyện nghiêm túc, và, mặc dù những con đường đôi khi ‘phù phiếm’, Malraux lúc nào cũng truy tìm sự thật.
*
“Đặc quyền của nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó”
Ui chao, áp dụng vô Mít, mới “thiên tài, thiên tai” làm sao!