Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica

















 



   
SERVING TIME
Another dreary day in time's invisible
Penitentiary, making license plates
With lots of zeros, walking lockstep counter-
Clockwise in the exercise yard or watching
The lights dim when some poor fellow,
Who could as well be me, gets fried.

Here on death row, I read a lot of books.
First it was law, as you'd expect.
Then came history. ancient and modern.
Finally philosophy-all that being and nothingness stuff.
The more I read, the less I understand.
Still, other inmates call me professor.

Did I mention that we had no guards?
It's a closed book who locks
And unlocks the cell doors for us.
Even the executions we carry out
By ourselves, attaching the wires,
Playing warden, playing chaplain

All because a little voice in our head
Whispers something about our last appeal
Being denied by God himself.
The others hear nothing, of course,
But that, typically, you may as well face it.
Is how time runs things around here.

Charles Simic
Mười năm rồi lại muời năm nữa
Lại một ngày ảm đạm trong nhà tù vô hình của thời gian
Làm thảm xuất khẩu
Với những chiếc kim sét gỉ
[Thời gian ở Bà Bèo]
Bước nối đuôi nhau ngược chiều kim đồng hồ
Nơi sân nhà tù
Hay nhìn ngắm ánh đèn lịm dần
Khi một tên tù nào đó
Ai nếu không phải là tớ
Quá phê thuốc lào

Bây giờ, là ở dẫy tử tội, tớ đọc cả lố sách.
Trước hết là sách luật, như bạn mong đợi
Rồi tới lịch sử, cổ xưa hoặc hiện đại
Sau cùng là sách triết – cái gì gì hữu thể và hư vô
Càng đọc tớ càng mù tịt
Vậy mà lũ bạn tù gọi tớ là Thầy – hay là chúng lầm tớ với Thầy Đạo, Thầy Kuốc?

Hình như tớ có nói, nhà tù đếch có quản giáo?
Đó là cuốn sách, đóng và mở
Cửa phòng giam cho chúng tớ
Ngay cả những cú hành quyết thì cũng chúng tớ cũng tự làm lấy
Nào buộc dây
Nào đóng vai quản giáo
Thầy tu

Tất cả, là bởi vì tớ nghe có tiếng nói ở trong đầu
Thì thào, đơn xin ân xá của mi lên Viện Kiểm Sát Tối Cao của VC,
Đã bị vứt vô thùng rác rồi
Không phải Chúa, mà là Bác Hồ phán:
No!
Những người khác không thể nghe
Lẽ tất nhiên
Nhưng điều này, điển hình mà nói,
Bạn hẳn là sẽ phải đối đầu
Như thế nào thời gian điều khiển những điều lòng vòng quanh đây.

LATE SEPTEMBER

The mail truck goes down the coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.

Last night you thought you heard television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.

This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.

Charles Simic: The Voice at 3:00 AM 

Tháng Mười Cũ

Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình

Đêm qua bạn nghĩ bạn có nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu

Sáng nay, sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng mình.


Album

*

*

…. chỉ nghĩ tới mình và những bài thơ đã làm, đang làm, và sẽ làm thôi.

Đây đúng là giấc mơ những ngày đầu mới ra hải ngoại của Gấu: Làm 1 gã bán bảo hiểm nhân thọ, đi chào hàng, trong túi, như sư phụ - lúc nào cũng thủ, 1 cuốn Thánh Kinh, và 1 cuốn Shakespeare – lúc nào cũng thủ 1 cuốn Faulkner, cho tới 1 bữa vô 1 thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner. Và sau đó là cả 1 giấc “đại mộng”, lại xông vào giang hồ, cố làm rạng ra Cái Ác Bắc Kít, như… Steiner, cố cảnh tỉnh về một Lò Thiêu…

Hà, hà! Lớn lối quá!

Sự thực đơn giản hơn nhiều: Gấu không thể gạt ra khỏi cái đầu…  Cái Đói Bắc Kít, qua hình ảnh 1 con ốc nhồi nằm dưới 1 cánh bèo!
Không làm sao tưởng tượng ra được Cô Hồng Con của Gấu, gục xuống bờ ao ngay ngoài cổng nhà cô, khi bị cả cái xứ Bắc Kít bỏ mặc cho chết, vì đói, vì bịnh thương hàn, vì khát.

Đâu khác gì Anne Frank?

Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách. (1)

Lời chúc SN của K còn ẩn tàng trong nó, 1 cảnh báo, buông dao...  đồ tể xuống đi, để làm…  thi sĩ!

Tuyệt!

Tks. Many Tks.

Gấu không thể ngờ, có ngày làm được thơ, nhưng có ngày “dịch được thơ” mới sướng mê tơi. “Lão Tặc Thiên” [Tạ Tốn phán], quả là quá thương Gấu, cho Gấu “dịch được thơ”, mà, theo 1 nghĩa thật tuyệt vời, sướng hơn làm thơ rất nhiều!

Ui chao, nghĩ ra được 1 lời chúc GCC, như thế, thì quá cả tri kỷ. Bởi vì phải sống thế nào, đau thế nào, cuộc chiến Mít, thì mới nghĩ ra 1 lời chúc rất ư là vị kỷ như thế: Chỉ nghĩ tới mình!


Thơ Mỗi Ngày   

My Letter to the World

Beckett
Linh tinh

Đầu tháng, bài lạ xuất hiện


8767.83 KB3924


/notes_1/2325.80 KB64


/Tho_Poetry/trang_tho_ctc.html8 53


/GT/vnch.html715.92 KB42


/Al/3.html629.81 KB11


/Al/2.html614.25 KB11


/scan/doc_va_dep.html53.41 KB22


/Al/1.html512.36 KB  


/GT/tong_van_binh_do_kh.html411.66 KB21


/Notes_2/clean.html495.08 KB  


/D_5/4.html495.66 KB11


/Al/Thu_Thiem.html424.06 KB  


/scan/liu_that_day.html420.85 KB  


/J9/2.html415.38 KB11


/Tuong_niem/nhan_van_phi_chau_kourouma.html49.47 KB11


/J9/1.html414.41 KB11


/Al/Happy_Birthday_To_Grandma_and_Mom.html418.60 KB  


/notes_1/phu_nu_va_gia_tuong.html429.24 KB  


/D_1/3.html476.96 KB11


/tap_ghi_5/hoa_than_kafka.html423.46 KB  


/J9/9.html414.61 KB 1


/Ky/1.html436.05 KB11


/Al/466.65 KB2 


/Al/ho_vc_khung.html447.53 KB  


/Sach_Moi_Xuat_Ban/

Nhờ đầu tháng, đọc được khúc này, Tẩy mũi lõ chửi “Yankee lõ & tẹt”

De Lattre nói với một tay phóng viên Mẽo:

Chúng tôi bỏ tất cả những vị trí thuộc địa. Có tí mỏ than, có tí vườn cao su chúng tôi không thể giữ được nữa. Nhưng cái gì có thể so sánh với máu của đám Tây mũi lõ con cháu của chúng tôi đổ ra, và 350 triệu phật lăng chi mỗi ngày cho Đông Dương? Cái việc chúng tôi đang làm là cứu vớt dân Mít. Và cái trò tuyên tuyền của Yankee mũi lõ các anh, coi chúng tôi chỉ là thực dân cũ làm chúng tôi đau lắm, thiệt hại lắm cho tất cả chúng ta - dân Mít, chính lũ Mẽo nhà các anh, và chúng tôi.
Và ông đọc diễn văn trước đám sinh viên Hà Lội:
Cuộc chiến này, dù tụi khốn mày có thích hay là không thích, thì nó vẫn là cuộc chiến của tụi mày, cho chính tụi mày. Và nước Pháp chỉ có thể gánh tí nào cho lũ chúng mày, nếu chúng mày ôm lấy nó... nếu chúng mày muốn chiến đấu cho Bác Hồ thì cút cha lên bưng, lên rừng đi!

Người thân chỉ cho mình bài viết của tác giả Nguyễn Hưng Quốc về đề tài "lãnh đạo" và "cai trị". Đây là một đề tài rất hay để suy ngẫm.

[Nguyễn Hưng Quốc] Lãnh đạo chứ không phải là cai trị. Đó là hai điều hoàn toàn khác nhau. Cai trị chỉ cần dùng sức mạnh để dập tắt mọi sự phản kháng của những người bị trị để giữ nguyên tình trạng hiện có trong đó người cai trị vẫn là những người cai trị và những người bị trị vẫn tiếp tục bị trị. Nói cách khác, cai trị là nỗ lực kéo dài một...

Cai trị, là từ “rule”, cai trị, “ruler”, kẻ cai trị, và thường được dùng để chỉ lũ thực dân, và xưa nữa, vua chúa, cai trị dân đen.
Lãnh đạo, leader, thường dùng để chỉ 1 tay đảng trưởng, lãnh đạo 1 đảng, 1 lực lượng, như Vẹm vẫn khoe lãnh đạo dân Mít đánh thắng hai tên đế quốc đầu sỏ.
Tất nhiên. hai từ khác nhau. Ở xứ dân chủ, làm gì có cái chuyện cai trị. Lãnh đạo cũng không luôn, theo GCC. Bởi là vì 1 vị nguyên thủ quốc gia, chỉ là người đứng đầu 1 chính phủ, và quả là ông ta lãnh đạo đất nước, nhưng đâu chỉ mình ông ta. Còn chính phủ, còn lưỡng đảng còn quốc hội, và tất nhiên còn dân chúng. Lãnh đạo dở, là đi chỗ khác chơi, tao bầu thằng khác, đảng khác, trong kỳ tới.
Do VC còn tàn ác hơn cả thực dân Pháp, hay Tẫu, thành ra dùng từ “cai trị” quá đúng với chúng. Cai trị đã ghê, “toàn trị”, lại càng khiếp.
Lãnh đạo cái con khỉ gì bây giờ nữa.
Tình trạng xứ Mít VC hiện nay, do chúng tranh quyền lẫn nhau, giữa những tên đầu sỏ, thành ra có thể nói, không có lãnh đạo. Trước kia, uy quyền nằm trong tay tên Tổng Bí Thư, bây giờ, Tổng Lú yếu xìu, so với Y Tá Dạo Ba Dzũng. Phải chờ chúng đấu đá xong, tên nào sống, còn đứng vững, thì mới biết được.

Lạ, là 1 bài tào lao, về 1 số từ ngữ quá xưa cũ đã mòn sạch cả nghĩa, được Nguyễn Tiến Trung ca ngợi, rất hay để suy ngẫm? 
*


The Ocean, the Bird, and the Scholar: Essays on Poets and Poetry
by Helen Vendler

Charles Simic đọc nữ phê bình gia số 1, một thứ Thụy Khê của Mẽo. Bà Thụy Khê Yankee mũi lõ này bảnh lắm, đúng là 1 chuyên gia về thơ.
Tin Văn sẽ đi bài này, thì cũng 1 cách giới thiệu cho những nhà phê bình Mít, phê bình là gì, và phê bình thơ ghê gớm cỡ nào.
Tuy nhiên, cái tít hình như chôm của NXH, phê bình gia không thể so sánh vs phê bình gia không phải thời nào cũng có được.

Helen Vendler khám phá ra tài phê bình thơ của bà năm 23 tuổi, khi đọc thơ Wallace Stevens. Trước đó bà cũng đã đọc thơ, và nhớ khá nhiều bài, nhưng đọc Stevens, là, như thi sĩ Mít hải ngoại Nguyễn Đức Tùng, hòa tan vô liền - chôm từ của Thanh Thảo, hay dùng từ của chính bà:  tôi cảm thấy cái tinh anh khoả thân của chính tôi nói với tôi từ trang giấy, “as if my own naked spirit spoke to me from the page”!
Bài viết này tuyệt lắm. Mít ta chưa có tay nào phê bình thơ bảnh như bà này.
Có Đặng Tiến, nhưng với riêng Gấu, Đặng Tiến phê bình thơ có cái bẩm sinh, nghĩa là ít…  đọc, còn bà này, đọc kinh người, khác hẳn.

Curriculum Vitae
http://scholar.harvard.edu/vendler/home

Helen Vendler is the A. Kingsley Porter University Professor at Harvard, where she received her Ph.D. in English and American literature, after completing an undergraduate degree in chemistry at Emmanuel College. She has written books on Yeats, Herbert, Keats, Stevens, Shakespeare, Seamus Heaney, and Emily Dickinson. Her most recent books are The Ocean, the Bird, and the Scholar; Dickinson: Selected Poems and Commentaries; Last Looks, Last Books: Stevens, Plath, Lowell, Bishop, Merrill; and Our Secret Discipline: Yeats and Lyric Form. She is a frequent reviewer of poetry in such journals as The New York Review of Books, The New York Times Book Review, and The New Republic. Her avocational interests include music, painting, and medicine.

30.4.2012

by David Remnick

Aleksandr Solzhenitsyn, tiểu thuyết gia chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, mất ngày 3 Tháng Tám 2008, thọ 89 tuổi.
Vài tuần sau khi chôn ông, nhà nước Nga của Putin làm 1 cú thật đểu cáng, [a sly, even cynical gesture] là đổi tên 1 cái phố lớn nhất của VC Nga, ở Moscow, thành tên của Solz. Và còn làm 1 tấm plaque vinh danh những thành tựu văn học của ông, kế ngay bảng tiệm McDomald, trên cùng con phố!
Bà vợ góa của nhà văn, Natalia Solzhenitsyn kiên nhẫn ôm những trớ trêu của lịch sử. Tuần lễ vừa rồi, bà tới Triển Lãm Sách Mẽo, ở trung tâm Javits Center, vì một dự án tưởng niệm quan trọng hơn nhiều: Thành lập một kho dự trữ hồ sơ văn học gồm tất cả những gì, từ tuổi thơ bị đóng đinh thập tự của Solz, tới hàng ngàn trang bản thảo viết tay của ông, trong có bản thảo Quần Đảo Gulag mà bạn bè đã chôn giấu từ 20 năm ở vùng quê Estonia, bên ngoài tầm tay của KGB.

Alexa Ranking, June 4, 2012

Tin Văn: 1,242,390
Gió To: 1,475,097
Da Mùi: 1,874,281
Một mình một ngựa mà trùm thiên hạ, thế mới ghê chứ!
Hà, hà!
Lâu lâu thì cũng phải cho GCC phởn 1 tí chứ!
Cứ.... Lò Thiêu hoài, mệt quá!

TV có nhiều cộng tác viên “thầm lặng”, chứ 1 mình GCC, sức mấy mà bảnh như thế!
Tks all.
NQT

* 

Ảnh: Bùi Chát trong buổi đọc văn tại Literaturwerkstatt, Berlin tháng 11.2010 (Ảnh của Hồ Phạm Huy Đôn)

Hành xử trong chế độ ta và chế độ Ngụy

Trang web của tỉnh Bến Tre có bài viết về sự ra đời của đội quân tóc dài. Trong bài viết đó có đoạn thuật lại như sau: "Nhiều người phẫn nộ không ngần ngại tụt quần trườn mặt những tên ác ôn mặt dày mày dạn làm chúng phải cúi mặt bỏ đi". Trang Ngôi sao đăng những bức ảnh chụp cảnh cưỡng chế đất, trong đấy có những cảnh vệ sĩ lôi kéo hai phụ nữ trần truồng ở Cần Thơ. Dưới chế độ Ngụy những tên ác ôn mặt dày mày dạn đã cúi mặt bỏ đi trước những người phụ nữ lõa thể, nhưng ở chế độ ta những người ngày ngày được nghe tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn hăng hái xông vào lôi kéo những người phụ nữ trần truồng. Đấy là điểm khác nhau giữa chế độ ta và chế độ Ngụy. Không biết những người phụ nữ trong đội quân tóc dài ngày xưa đấy giờ ra sao, có kinh nghiệm gì truyền lại cho chị em hôm nay không và khi xuôi tay có nhắm mắt được không?
Đông A Blog

Note: Lần đầu tiên 1 anh VC xác nhận, chế độ ta khốn kiếp hơn nhiều so với chế độ Ngụy
Cái đội quân tóc dài ngày nào, nhờ Bắc Kít giải phóng, biến thành Quỉ  Đỏ hết rồi.
Chứng cớ: Một bà Bình, chót đời viết hồi ký, đâu có biết Bà là Quỉ, thua 1 một em Yankee mũi lõ như Jane Fonda, mang nỗi đau qua bên kia mồ, thua Cao Bồi PXA, không làm sao nhắm mắt.

*

Hình "Our Vietnam", báo Mẽo

Our Viet Nam


Be careful what you wish for
Hãy coi chừng, hãy cẩn thận cái điều mà bạn mong muốn:

Bắc Kít mong thắng cuộc chiến với bất cứ giá nào.
Thắng, nhưng cái giá phải trả đắt quá, và nó liên quan tới cái sự giáo dục con nít hận thù.

Ở hải ngoại, có ba diễn đàn. Hậu Vệ và Da Mùi không rành tiếng Mít, Chợ Cá quá rành, nhưng toàn thứ cực độc, cực ác, phải dẹp tiệm, quay qua “lốc liếc”, nhưng cũng không khá!
Không thể nào khá được, bởi vì cái độc nó tẩm vô người tới xương tới da, tới linh hồn Bắc Kít rồi, mà điều này là do nền giáo dục hận thù gây nên.


Sách Báo

* *
 
Đường ngắn tới… Heo
Heo 1: Ngay sau 30 Tháng 4, 1975 cho lũ Ngụy
Heo 2:  Dài dài sau đó, cho tới 40 năm sau, và sau nữa, cho xứ Mít.
Nhìn hình, thì thấy Tông Tông Thiệu bảnh trai hơn bất cứ 1 tên nào ở Bắc Bộ Phủ!
Được, được!

“Short road to Hell”, cụm từ này, là của tuỳ viên báo chí của Tông Tông Thiệu, phát biểu, khi Nixon và Kissinger tìm đủ mọi cách đe dọa Thiệu, bắt ông phải ngồi vô bàn hội nghị ở Paris. Trên tờ Vietnam, số mới nhất Tháng 10, 2015, có bài viết của J. Veith, tác giả Tháng Tư Đen: Miền Nam thất thủ, Black April : The Fall of South Vietnam, 1973-75, viết về cú bức tử Miền Nam của Nixon và Kssinger. Bài viết là từ cuốn New Perceptions of the Vietnam War: Essays on the War: The South Vietnamese Experience, The Diaspora, and the Continuing Impact, do Nathalie Huynh Chau Nguyen biên tập:
Sau khi dụ khị đủ mọi cách, Thiệu vẫn lắc đầu, Nixon dọa cắt hết viện trợ Mẽo, nếu không chịu ký hòa đàm.
After persuasion had failed, Nixon threatened Thieu with the cessation of all American aid if he did not sign the accords
Tổng Lú nhớ đọc nhe, vừa hôn đít O bá mà, vừa đọc nhe!
Hôn rồi, về xứ Mít đọc, cũng được!
Chúng ta giả dụ, sau khi Mẽo lại đi đêm với Tập, như Kissingger đã từng đi đêm với Mao, chúng yêu cầu, thịt thằng VC Mít nhe?

*

*

*

Mẽo dùng bom khôn đánh sập cầu Hàm Rồng [the Dragon's Jaw]

  Kẻ mạo tiếng

  Viết Mỗi Ngày
John Fowles

From John Fowles with love: how the author’s first true romance and lost poem came to light
http://www.theguardian.com/books/2015/aug/01/john-fowles-love-affair-poem

In 1951 John Fowles was an assistant teacher at Poitiers University when he fell seriously in love for the first time. More than 60 years on, Mike Abbott meets the student he fell for and uncovers the unpublished poem he wrote for her

Gao Interview


EBRUARY 6, 2014

Le Promeneur Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser

***
A Place in the Country

GCC, do mắt kém, vừa già, vừa lé, vừa đọc lộp chộp, as always, lầm Walser với Alfred Kazin.
Nhân mới đọc 1 entry trên Blog NL, mới à 1 phát, ta lầm rồi, bèn đi 1 đường về nhà văn đã từng được coi là bảnh hơn cả Kafka này. Trên tờ The New Yorker có 1 bài về ông, nhưng GCC hết credit, chịu thua, dù đã đi 1 đường vòng qua google, đành giới thiệu bài của Coetzee trên NYRB.

 

Robert Walser (15 April 1878 – 25 December 1956) was a German-speaking Swiss writer.

Walser is understood to be the missing link between Kleist and Kafka. "Indeed," writes Susan Sontag, "At the time [of Walser’s writing], it was more likely to be Kafka [who was understood by posterity] through the prism of Walser. Robert Musil, another admirer among Walser’s contemporaries, when he first read Kafka pronounced [Kafka’s work] as, 'a peculiar case of the Walser type.'"[1] Walser was admired early on by artists such as Robert Musil, Hermann Hesse, Stefan Zweig, Walter Benjamin and Franz Kafka,[2] and was in fact better known in his lifetime than Franz Kafka or Walter Benjamin, for example.[3]

[Wiki]
The Genius of Robert Walser
http://www.nybooks.com/articles/archives/2000/nov/02/the-genius-of-robert-walser/
J.M. Coetzee
November 2, 2000 Issue

Was Walser a great writer? If one is reluctant to call him great, said Canetti, that is only because nothing could be more alien to him than greatness. In a late poem Walser wrote:

I would wish it on no one to be me.
Only I am capable of bearing myself.
To know so much, to have seen so much, and
To say nothing, just about nothing.
Robert Walser (15 April 1878 – 25 December 1956) was a German-speaking Swiss writer.

Walser được hiểu như là 1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,” Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì đúng là Kafka [như được hậu thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những người đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser [một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig. Benjamin, và Kafka;  đúng ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều hơn, so với Kafka, hay Benjamin.

W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur Solitaire,” offers the following biographical information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere was he able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions. He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece of furniture, and as far as clothes are concerned, at most one good suit and one less so…. He did not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald goes on to ask, “How is one to understand an author who was so beset by shadows … who created humorous sketches from pure despair, who almost always wrote the same thing and yet never repeated himself, whose prose has the tendency to dissolve upon reading, so that only a few hours later one can barely remember the ephemeral figures, events and things of which it spoke.”

Trong Kẻ du tản cô đơn, Sebald viết về Walser,