Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật Ký Tin Văn [TV last page]

Album

**

*

Mekong River, Vientiane

*

Vientiane

Thơ Mỗi Ngày  

**          

EGOISM

IN HER MEMOIRS, Lidia Chukovsky, who knew Solzhenitsyn well, tells how The Gulag Archipelago came to be. Solzhenitsyn devoted every free moment to this work. He had no time for conversation. After eating dinner he rushed from the table and returned to work. He stopped seeing friends. Friends bitterly accused him of egoism.

Ích Kỷ
Trong Hồi Ký, Lidia Chukovsky, rất rành về Solz, kể, Gulag đã được viết như thế nào.
Solz dành trọn thời giờ cho nó, đếch có thì giờ ngồi uống cà phe với bạn quí ở Starbucks.
Ngưng gặp bạn quí luôn.
Thế là bạn quí cay đắng phán, thằng khốn đó ích kỷ quá.

FROM ANOTHER WORLD

POEMS COME FROM another world. From what world? From the world the inner life lives. Where is that world? I can't say. Ideas, metaphors, and moods come from another world. Sometimes they are full of lofty trust, at other times they exude scorn or irony. They appear at strange times, unasked, un- announced. Yet when they are called, they prefer not to show up.
    On the streets of Paris, mimes often appear who amuse the crowds by imitating the gait of some serious passerby hurrying to work, carrying a hefty briefcase in his hand and hefty thoughts in his head. They follow someone like this, scrupulously imitating his way of moving, his face, bearing, seriousness, hurry, absorption. The minute the passerby notices that he is being accompanied by a moving ape parodying him, the fun ends, people burst out laughing, and the victim of the joke quickens his step and disappears into a side street; the mime then bows and collects his money.
    The life of the spirit apes the serious world of politics, his- tory, and economics in a similar way. It walks right behind it, step for step, sad or happy. It follows the real world like II crazy, redheaded guardian angel and cries or bursts into laughter, plays the violin or recites poetry. When reality finally notices it is not alone, the phantom shadow bows to the public and vanishes.
    Poems come from another world. From where? I don't know.

Từ thế giới khác

Thơ tới từ thế giới khác. Từ thế giới nào? Từ thế giới mà cuộc sống nội sống. Thế giới đó ở đâu? Tôi không thể nói. Tư tưởng, ý nghĩ, ẩn dụ, và tâm trạng tới từ thế giới khác. Đôi khi chúng thì đầy một sự tin cậy cao ngất, những lúc khác, chúng ứa ra sự khinh miệt hay mỉa mai. Chúng xuất hiện vào những lúc kỳ cục, không ai yêu cầu, không báo trước. Tuy nhiên, khi được gọi, chúng vờ.
Trên đường phố Paris, những anh hề thường xuất hiện để làm vui đám đông, bằng cách bắt chước dáng điệu nghiêm trọng của 1 khách bộ hành, vội vã tới sở làm, tay khư khư cái cà táp nặng nề, đầu khư khư những tư tưởng nặng nề, như cái cà tạp. Họ đi theo một người như vậy, bắt chước y chang cách người này đi, bộ mặt thì ra sao, hì hục, khư khư ôm lấy cuộc đời, với sự hối hả, cuốn hút, thái độ nghiêm trọng. Đúng vào phút người khách bộ hành nhận ra mình đang đi song đôi với 1 kẻ nhại lại đời mình, thì cuộc đùa chấm dứt


On the Anniversary of Joseph Brodsky’s Death

Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông

January 2001

Archangelsk, cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết 

Cái ớn lạnh Bắc Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.

Mặt trời rùng mình sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ

Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ 

Siêu hình đấu với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian

Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước

Và những con mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải

Sau đó, là một cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo

Suốt đêm tôi nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố

Dưới cái vỏ thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,

Tôi thức giấc, bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.

*

Cafe Chez Rendez-Vous Hanoi

No Childhood

And what was your childhood like? a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers

Adam Zagajewski

Tuổi thơ ư, No!

Và tuổi thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.

Source     

           Used Clothing Store

A large stock of past lives
To rummage through
For the one that fits you
Cleaned and newly pressed,
Yet frayed at the collar.

A dummy dressed in black
Is at the door to serve you
His eyes won't let you go.
His mustache looks drawn

With a tip of a dead cigar.
Towers of pants are tilting,
As you turn to flee,
Dead men's hats are rolling
On the floor, hurrying
To escort you out the door.

Charles Simic: New and Selected Poems

Tiệm quần áo cũ

Cả một lô một lốc những đời cũ
Tha hồ mà chọn
Cuộc đời nào vừa với mi
Được tẩy rửa sạch sẽ
Là, ủi; như đồ mới, đồ xịn
Tuy nhiên cổ áo, sờn.

Một hình nộm bận đồ đen
Phải cửa này hân hạnh hầu ông,
Thưa Ngài Gấu Cà Chớn?
Mắt hắn ta dai như…  đỉa!
Bộ ria mép mới ủ rột làm sao
Với mẩu bịt của điếu xì gà chết

Tháp tháp quần dài nghiêng nghiêng
Đến lượt Gấu bỏ chạy
Mũ, nón người chết dài dài trên sàn nhà
Lẹ, lẹ lên
Tiễn ông Gấu ra khỏi tiệm.

Used Book Store

Lovers hold hands in never-opened novels.
The page with a recipe for cucumber soup is missing.
A dead man writes of his happy childhood on a farm,
Of riding in a balloon over Lake Erie.

A sudden draft shuts his book in my hand,
While a philosopher asks how is it possible
To maintain the theologically orthodox doctrine
Of eternal punishment of the damned?

Let's see. There may be sand among the pages
Of a travel guide to Egypt or even a dead flea
That once bit the ass of the mysterious Abigail
Who scribbled her name teasingly with an eye pencil.

Tiệm sách cũ

Những đứa yêu nhau nắm tay nhau trong những cuốn tiểu thuyết chưa từng hân hạnh được mở ra
Cái trang có bí quyết nấu món xúp dưa chuột không biết bị ai xé mẹ nó mất!
Một đấng đàn ông viết về tuổi thơ hạnh phúc của hắn ta ở một cái trại
Về cưỡi bong bóng bay qua hồ Lake Erie

Một cú giật bất thình lình đóng cuốn sách của anh ta trong tay Gấu
Trong lúc một triết gia hỏi, liệu có thể gìn giữ
Lý thuyết chính thống giáo thần học
Về hình phạt đời đời cho những kẻ trầm luân?

Để coi nào. Ở chỗ này thấy có cát giữa những trang sách
Hướng dẫn du lịch Ai Cập và ngay cả một con rận chết
Đã từng đợp vào đít một em Abigail bí ẩn
Em này đã từng viết tên của em
Bằng 1 cây viết chì kẻ lông mi
Lên trái tim GCC!

ETERNITIES

Small store, is it only cobwebs
And shadows you sell?
I saw my pale reflection
In your dimmed-out interior

Like a gentleman burglar
Unable to make up his mind
Between a pearl necklace
And an antique clock on the wall.

Raindrops blurred the rest,
Trickling down the glass
I pressed my forehead against
As if to cool down its fevers.

Vĩnh Cửu

Tiệm nhỏ, không lẽ mi chỉ bán mạng nhện và những cái bóng?
Gấu nhìn thấy cái bóng nhợt nhạt của mình
Phản chiếu từ bên trong tiệm lù tà mù

Như 1 tên trộm phong nhã
Không làm sao quyết định
Giữa chuỗi hạt
Và cái đồng hồ cổ xưa ở trên tường

Mưa xoá nhòa cái còn lại
Lách tách trên ô kính
Gấu bèn tì cái trán của mình lên
Như để làm mát đi cơn sốt của nó.
 

LATE-NIGHT INQUIRY

Have you introduced yourself to yourself
The way a visitor at your door would?

Have you found a seat in your room
For everyone of your wayward selves

To withdraw into their own thoughts
Or stare into space as if it were a mirror?

Do you have a match you can light
To make their shadows dance on the wall

Or float dream-like on the ceiling
The way leaves do on summer afternoons,

Before they take their bow and the curtain drops
As the match burns down to your fingertips?

Điều ch/tra ch/trễ trong đêm

Mi tự thổi mi,
Cách mà bạn quí tới trước cửa nhà mi?

Mi có kiếm ra cái ghế ở trong phòng của mi
Một cái ghế dành cho mọi người
Thì tất cả một đám GCC ương ngạnh, bướng binh, “bad Gấu”, như mi

Để chúng, như con rùa, co rúm vào trong những ý nghĩa của riêng chúng
Hay ngơ ngáo nhìn vào… hư vô, như thể đó là một tấm gương?

Nếu có quẹt thì hãy đốt lên
Để làm bóng chúng nhảy múa trên tường

Hay lững lờ như mơ trên trần nhà
Như những lá cây vào những buổi xế trưa mùa hạ

Trước khi chúng cúi đầu chào và những chiếc màn cửa buông xuống
Mà này, liệu que diêm đã đốt bỏng ngón tay của mi chưa?


Sách Báo

&

*

The only true exile
is the writer who lives in his own country
Julio Cortázar

Tên nhà văn lưu vong thứ thiệt độc nhất, là kẻ sống trên chính quê hương của nó.

Đúng như thế!

GCC này chẳng đã từng phán, bạn ngồi vào bàn viết, là bạn biến thành lưu vong!
Số báo này, “báo nhà”, có 1 bài tuyệt lắm, nó nói về nước Niên Xô, nhưng đúng là nói về xứ Mít, bởi là vì cái Hội Nhà Thổ gốc của nó là ở Niên Xô!


Tự Do Viết


Man Booker International prize 2015

Hungarian rhapsody



BACK in 2007, the prize-winning Irish writer, Colm Toibin, told a press conference that the most interesting writer he had come across in two years of reading contemporary fiction as a judge of that year’s Man Booker International prize was Laszlo Krasznahorkai, a reclusive Hungarian with a reputation for sentences so long and convoluted that some of them went on for an entire chapter.

So impressed was Mr Toibin by the Hungarian’s fabulist confections that he founded a small publishing imprint, Tuskar Rock Press, to bring just such fiction to a wider audience. Eight years on, Mr Toibin’s faith in Mr Krasznahorkai’s talent has been vindicated. Just after Tuskar brought out his latest book, “Seiobo There Below” in Britain, the Hungarian novelist was named the winner of the Man Booker International prize for 2015. Now ten years old, the prize, the winner of which was announced on May 19th, differs from the annual Man Booker prize for fiction in that it is awarded every two years, and for a body of work rather than a single book.

This novel of 17 stories brings together a series of artists—the Italian Renaissance painter Perugino in his workshop, a Japanese Noh actor rehearsing—and ordinary people who are trying to grasp what sacred means or understand what beauty, art and transcendence might look like. Mr Krasznahorkai’s sentences worry at these eternal questions, picking and unpicking tiny details, actions and reactions, in a relentless attempt both to pin down and describe the complexities of contemporary life.

The Hungarian is, of course, not the first modernist to manhandle prose and use the sentence as instrument. But even more than Thomas Bernhard or W.G. Sebald, he winds and unwinds and rewinds, creating what one translator has described as “a slow lava-flow of narrative, a vast black river of type”, which along the way acquires a transcendent quality of its own. The stories in “Seiobo There Below” are arranged according to the Fibonacci mathematical sequence, with each one as long as the two previous ones, which adds to the reader’s sense of being on a journey. As always with Mr Krasznahorkai, real understanding remains beyond mortal grasp, though a sense of illumination is pervasive. As a novelist he is a one-off, even if his work—as this book so finely shows—is universal.

Note: Bài điểm sách này, post trên TV, với cái tít khác:

*

Man Booker International prize 2015

Transcendental meditation

Laszlo Krasznahorkai’s modernist creations receive fitting recognition

30.4.2015

Note: Nhân cái vụ bài toán lớp ba, bèn post lại bài này.

Dân Mít vốn giỏi toán. Đúng hơn Bắc Kít, và sự kiện này liên quan tới sông Hồng, mỗi năm mỗi lụt, mỗi năm mỗi chia lại đất đai đồng bằng sông Hồng.
Tuy nhiên, do/nhờ đọc Simone Weil, GCC phát giác ra chân lý chết...  Mít:
Phải có một mắc mứu ‘cốt tuỷ, chết chóc, thánh thiện, ma quỉ…’, giữa Toán Học và Cái Ác Bắc Kít, từ đó, đẻ ra Cái Đẹp NBC!
Có thể, những tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, là thể nào não cũng bị mất 1 tí, là cũng do... Toán!
Đâu có phải tự nhiên mà Tẫu gọi nước của chúng là... Trung Nguyên!

Và Đức Phật Sống phán, bè lũ Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, não bị mất 1 mẩu, là do đó!

Ngô Bảo Châu, Nobel Toán



This was a Soviet invention: writers housed in one place allowed the authorities to control their minds, pens, and wallets. Each person who has ever read about Bulgakov, Mandelstam, or Pasternak certainly remembers the stories about literary apartment houses and tenements, about houses in which there were more typewriters than gas stoves. This same model for a collectivized literature was transferred after 1945 to all the countries conquered by Stalin. In time, in Poland at least, this model lost its distinctiveness. There were fewer "literary tenements"; writers came to live in regular houses, having regular neighbors-engineers, laborers, officials. But collectivism did not give up all its attributes, such as literary houses and cafeterias, to name two.

Adam Zagajewski phán, nó - Hội Nhà Thổ -  là phát minh của Liên Xô: những nhà văn được dồn vào một nơi, cho phép nhà nước kiểm soát những cái đầu của họ, những cây viết của họ, và những cái bóp cũng của họ. Người nào đã từng đọc về Bulgakov, Mandelstam, hay Pasternak hẳn là nhớ những câu chuyện về những căn hộ văn chương, trong đó máy đánh chữ nhiều hơn là bếp ga. Cũng cùng kiểu mẫu này được điều động, sau 1945, tới tất cả những xứ sở được Xì thâu tóm. Sau cùng, ít nhất ở Ba Lan, cái kiểu mẫu này bớt nặng mùi, bớt đi những “căn hộ văn chương”; nhà văn tới sống trong những căn nhà bình thường, có hàng xóm láng tỏi bình thường.
Nhưng chủ nghĩa tập thể vưỡn chưa chịu buông tha những con mồi của nó, không chịu buông xuôi những linh vật tượng trưng cho những uy quyền của nó, như “căn hộ, và căng tin văn chương”, chỉ nêu ra hai, ở đây.
Tình cờ vớ đúng bài viết thật thú, liên quan tới Hội Nhà Thổ và Văn Đoàn Văn Vịt Độc Nập.
Bài viết này, của AZ, lúc đầu Gấu đọc thoáng, hiểu sai đi, cứ nghĩ là 1 bài bình thơ!
Nhảm quá.
Bi giờ đọc lại, hóa ra là 1 bài viết về số phận đám nhà văn VC được nhà nước VC dồn vào 1 nơi gọi là Hội Nhà Thổ, cho phép nhà nước kiểm tra cái đầu, cây viết và túi tiền của họ!

Nhưng, 20 tên nhà văn Mít VC, bye bye HNT, là do túi tiền bị VC chiếu cố, hay cái đầu, hay cây viết?

Căng, hỉ!

Về Nguyễn Quang Thiều. Gấu có 1 kỷ niệm phải nói là tuyệt đẹp về anh, lần về Hà Nội, lần đầu. Và người làm hỏng nó, không phải anh, mà là Gấu. Nhưng bây giờ, nghĩ lại, thì mới hiểu, cái sự quí mến của anh dành cho Gấu, có một nguyên nhân sâu xa, và đẹp đẽ hơn rất nhiều: Hình như đối với anh, và có thể, từ đó nhân ra, một nhà văn CS, Bắc Kít, như anh, mà được 1 nhà văn Ngụy, trước 1975, công nhận là 1 nhà thơ, và thực tình mong được kết bạn, cực kỳ hiếm hoi, và tất nhiên, cực kỳ quí giá.

Hà, hà!

*

   BVVC

**

Tết này, diện bộ này, về HN gặp "bạn văn", tại
Điểm Hẹn, Chez Rendez-Vous, vào đêm giao thừa,
thì cũng được đấy nhỉ!
Nhưng chỉ sợ, lại phải trầm trồ, "Vĩ đại thay là đồn CA ..." (1)


(1) "Vĩ đại thay, là đồn Công An! Đó là nơi tôi có hẹn với Nhà Nước."
'What a great thing is a police station! The place where I have the rendez-vous with the State'.
[Phu quân tôi, nhà thơ] Mandelstam thường nhắc câu trên, của Khlebnikov.
Nadezhda Mandelstam: Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng.

Brodsky: Ai điếu Nadya

Great poetry 'hurt' her into prose.

*
Lần về Hà Nội đầu, đầu thiên niên kỷ, sau hơn nửa thế kỷ xa cách, gặp những bạn bè chẳng hề quen, trong có NTS, liền tập tức anh làm Hai Lúa nhớ đến một người bạn thân, cùng học Nguyễn Trãi, mà Hai Lúa bỏ lại khi nhẩy vội lên con tầu xuống Hải Phòng, chạy một mạch vô Sàigòn.
*

Nhưng mà này, liệu có cái gọi là văn học Việt Nam hải ngoại không đấy, Hai Lúa nhớ, ông nhà văn ra đi từ miền bắc VTH đã  có lần nham nhở hỏi lại cái tay phỏng vấn ông.

"Nhưng mà này, có còn cái gọi là Hà Nội.... "

Có thể nói, cũng là cảm giác ấy, của tay nhà văn ra đi từ miền Bắc kia, khi nham nhở như thế đấy, tuy nhiên, bàng hoàng hơn, sửng sốt hơn, sung sướng hạnh phúc hơn nhiều, khi Hai Lúa gặp một nhà văn ra đi từ Hà Nội, cùng với gia đình của bà, lần "ghé thăm" cựu lục địa.

-Ôi chao, những con người Hà Nội, thứ thượng hảo hạng của nó, sau 1954 cho đến mãi ngày này, mà vưỡn còn, hử?

Thế mình về được rồi! Phải về rồi!

Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh buốt.
Lần Cuối Sàigòn

*
Hậu quả là gì, thưa ông?
- Sự mất giá.
 Ai mất giá?

Hai Lúa sợ rằng phải nói ngược lại.
Chính cái chợ chiều đó mới là hy vọng của văn chương trong nước. Đó là cách tốt nhất để huỷ diệt cái giá trị đã từng áp đặt lên những nhà văn. Thời cơ vàng để bắt đầu viết.
Không có ai, không có bất cứ một thứ quyền lực... nào bảo hiểm cho nhà văn ngoài tác phẩm của người đó
Hội Nhà Văn, lại càng không.

Nhân đây post lại đoạn Pasternak nói, về ý trên.

18 Tháng Sáu [1936]: Marxime Gorki ngỏm. Từ lâu, nhiều người tin rằng Staline đã cho đầu độc nhà văn nhớn, đầu tầu văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa này.
19 và 25 tháng Sáu: André Gide tới Moscow... "Căn hộ sáu phòng thoải mái tại Métropole. Tắm rất ư thoải mái; ăn với vợ chồng Aragon... Pasternak tới nhập bọn. Mặn mà lắm, nhất là cái nhìn, nụ cười..."

Tới 30 Tháng Tám 1940, Gide trở lại với đề tài này: "Pasternak, tay độc nhất tôi "tin cậy được" ở Liên Xô, kể cho tôi, về cuộc nói chuyện của ông với tay Lounartcharski. Tay này say sưa với những kế hoạch cứu [sauvegarder] văn hóa, ông ta tin rằng, nó đang gặp nguy.
"Tại sao lại phải tìm cách bảo vệ nó?" P. quạt lại anh ta. "Cái đám khốn nạn Hội Nhà Văn Nhà Véo gì đó đang làm cho nó trở thành điêu tàn, mảnh vụn hả? Thì kệ mẹ tụi nó. Mà này, hãy phụ chúng một tay...", giọng P. trở nên run lẩy bẩy vì xúc động, "Bởi vì, chỉ sau đó, may ra mới có được cơ may, từ ba cái rác rưởi, mảnh vụn, điêu tàn...".
André Gide: Sổ Ghi từ Liên Xô về, Nhật Ký II, 1926-1950, nhà xb Gallimard, tủ sách Pléiade, 1977, trang 524, trang 727.
Nhật Ký Tin Văn


Hai Lúa có lần nhắc tới ông anh Hiếu Chân, và lần ông đi dự hội nghị Hội Nhà Văn quốc tế, tức PEN, ở Tokyo. Ông là một trong những người sáng lập ra tổ chức PEN Việt Nam, cùng với những ông Đỗ Đức Thu, Vũ Hoàng Chương...
Nhân đây cũng xin nói một tí về PEN Việt Nam, và những ngày đầu của nó.
Có Hội, thì có Họp. Muốn họp thì phải có trụ sở. Thế là sau khi thành lập Hội, mấy ông già nhà văn bèn đi kiếm một căn nhà dựng bảng hiệu, kiếm một em làm thư ký, đi ra đi vô, và kiếm một ông trong bọn làm ông Từ giữ đền.
Ông anh HC của Hai Lúa được tổ chức giao cho chức vụ ông Từ. Ông Từ thấy cô thư ký ngon quá, bèn xáp vô. Cô có bầu, thế là ông Từ phải đi muớn một căn nhà nho nhỏ cho cô em.
Cả đời ông anh Hiếu Chân của Hai Lúa chỉ mong có tí con trai, để nối dõi "nghiệp văn", hay nói theo ông, để nối dõi tông đường!
Còn một cô nữa, hồi ông làm nhiệm vụ đưa đồng bào vô Nam tại đầu cầu Hải Phòng.
Cái cô ở Hải Phòng đó, Hai Lúa cũng đã kể sơ qua rồi. Trong Ông anh HC.
Cả hai cô đều cho ông hai cô con gái.
Rõ khổ!

Nhớ, hồi đó, nhà thơ TTT, nghe chuyện, cười ngất, phán: Mấy ông già thì chỉ kiếm được thứ mấy em đó thôi!
Đâu có bảnh như Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, không thèm đi kiếm mà em tự động tới?
Nhưng, theo Hai Lúa, Kiệt đau hơn nhiều. Bởi vì cô học trò mi-nhon, kiếm ông thầy, xin thầy cho em gặp riêng ở nhà thầy đó, gặp thầy, là chỉ nói một câu, em yêu thầy, rồi.... bye, bye.
Bởi rằng thì là em chỉ cần "kỷ niệm đẹp"!

Bỗng dưng, Gấu nhớ đến một em của nhà văn Durrell. Em này mê viết văn, mê quá là mê, mà viết chẳng ra gì, em mới đi coi bói, hỏi cõi âm, coi mình có thành nữ văn sĩ được không. Cõi Âm phán, tại rằng là vì em còn nguyên, chưa có "vết thương dậy thì" [tên tác phẩm đầu tay của nữ văn sĩ miền nam trước 1975]. Thế là em đi gặp một ông trùm văn nghệ, năn nỉ, anh giúp giùm em, để em làm nhà văn!
Bố lếu bố láo thiệt!
*
*
@ nhà BNT tại Hải Phòng.

Lần gặp BNT, bi giờ nghĩ lại, cũng thật là ly kỳ, và thú vị.
Như bức hình cho thấy, đó là ngày 15 Tháng Sáu, 2001. Lần về thứ nhất.

Trước khi về, NTV, chủ nhà xb Thời Mới, nơi in cuốn Chuyện Kể Năm 2000, nhờ, gặp BNT giùm.
Trong câu chuyện, giữa đám bạn mới quen ở Hà Nội, Gấu vô tình nói, cần phải gặp ông này một tị. Thế là chuyến đi được soạn thảo, ở đâu đó, Gấu không biết, nhưng đã được thực hiện. Gấu nghi, đây hoàn toàn là do lòng tốt của mấy "bvvc" mới quen. Nhưng bi giờ, nhớ lại, và tự hỏi, lỡ ra mà Gấu này vô tình buột miệng, muốn yết kiến nhà văn DTH, không hiểu sự tình sẽ ra sao!

Gặp được BNT cũng coi như là quá vui rồi.
Ngay câu đầu, ông gửi lời cám ơn, và hỏi thăm tới gia đình LMH.  Ấy là vì LMH có đi một bài điểm cuốn CKN2000.
Nhưng, lời cám ơn đó, chỉ có... một nửa dành cho LMH.
Nửa kia nó như thế này:
Tớ có đọc bài cậu viết về cuốn của tớ rồi. Cám ơn cậu, tuy cậu đập tớ một cú thật ra trò!
Đọc CKN2000: Cái Đẹp và Con Thú

BVVC: Bạn văn VC

huyvespa viết:

Dear tác giả,

Tôi có một chi tiết nhỏ muốn note ở đây:)

“Chúng ta đi mang theo quê hương” đúng ra là tên 1 bức tranh của họa sỹ PHẠM TĂNG vẽ cho nhật báo Tự Do xuất bản tại Saigon năm 1956.

Câu này MAI THẢO đã dùng lại trong “QUÊ HƯƠNG TRONG TRÍ NHỚ” trên báo SÁNG TẠO – 1958 – SỐ ĐẶC BIỆT HÀ NỘI:
“Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần mỗi chúng ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đã không thành vấn đề. Đi không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người Hà Nội hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài gòn, ở khắp nơi hôm nay mới chính là Hà nội, cái phần tinh hoa, cái phần quý giá nhất của Hà nội. Chúng ta đi mang theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là vì thế. Mà cũng chính là trong lối sống mà chúng ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là những người Hà nội…”

Thanks,

Lần Cuối Sài Gòn

V
iết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".


Nguyễn Đức Tùng viết:

Rất cám ơn anh (chị) Huyvespa. Bổ túc của anh thật quý báu. Chúng ta cần tìm hiểu và ghi nhận nhiều hơn về lịch sử.
Chúc anh một tuần lễ vui vẻ.
Nguyễn Đức Tùng.

Note:

Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế. (1)

Một con người bình thường, khi độc giả góp ý, thì cám ơn, giản dị như vậy. Không có ai lên giọng dậy lại người góp ý theo kiểu tên này, nó chứng tỏ sự vô lễ, giống trường hợp ông thi sĩ đất Thần Kinh, sau khi đi 1 cái còm góp ý, bèn “mấy lời”.
Viết như thế là tự làm nhục mình, vì tất cả độc giả của diễn đàn bị ông ta lôi ra phủ dụ “mấy lời”.

Mỹ là mẹ đạo hạnh, Brodsky phán.
Quả đúng như thế.
Đạo hạnh đếch có mà viết lách cái gì!

Thử để ý coi, lũ trở về bợ đít VC, có tên nào viết ra hồn, là do đạo hạnh là con số không


TTT 2006-2015

pasternak

"Nghệ Thuật, nếu nó là đồng minh của hồi ức và tư tưởng, liệu có được quyền năng, làm sống lại cái đắm, chìm, tiêu, ma, huỷ, diệt? Pasternak tin như vậy, và biến niềm tin thành hành động, dù biết rằng, có thể mất, chính cái mạng của mình, vì nó."
Hélène Henry, người biên tập, chỉ đạo, và viết lời giới thiệu cho cuốn mới ra lò: Pasternak: Écrits Autobiographiques. Le Docteur Jivago, nhà xb Gallimard, tủ sách Quarto, 1316 trang, 66 tài liệu, giá 23 Euro.
"Nhưng đâu phải một cuộc đời như mọi cuộc đời nhà văn khác. Đây là cuộc đời một con người đã trước tác, la vie d'un homme qui a oeuvré et écrit, dòng dã 42 năm, trong lòng Liên Bang Xô Viết. Một nhà thơ, mà tác phẩm đầu tay lớn lao, Em tôi cuộc đời, 1922, còn có tiểu đề là "Mùa Hè 1917" ["Một Mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra", Phạm Duy], và bài thơ cuối cùng, "Giải thưởng Nobel", Tháng Giêng-Ba 1959, gần như một tiếng thét:
Người, Tự Do, Ánh Sáng
Thì thật gần, nhưng ngay kế bên chân
Ta nghe tiếng bầy chó săn tới gần
Bị bắt giữ, ta tru lên như một con thú cùng đường.
Giữa hai ngày tháng đó, 1917 và 1959, là cuộc đối đầu, giữa nhà nước khốn kiếp, độc tài... và tiếng nói tự do của một nhà văn, bị ám ảnh bởi cái vô cùng, nhưng quyết  định sáng tác, nếu có thể, trong lịch sử và trong thực tại.
[Và đúng như tên của tác phẩm], đây là một thứ "Sauf-Conduit" [Thông Hành], cho cuộc đời.
Hélène Henry.


18 Tháng Sáu [1936]: Marxime Gorki ngỏm. Từ lâu, nhiều người tin rằng Staline đã cho đầu độc nhà văn nhớn, đầu tầu văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa này.
19 và 25 tháng Sáu: André Gide tới Moscow... "Căn hộ sáu phòng thoải mái tại Métropole. Tắm rất ư thoải mái; ăn với vợ chồng Aragon... Pasternak tới nhập bọn. Mặn mà lắm, nhất là cái nhìn, nụ cười..."
Tới 30 Tháng Tám 1940, Gide trở lại với đề tài này: "Pasternak, tay độc nhất tôi "tin cậy được" ở Liên Xô, kể cho tôi, về cuộc nói chuyện của ông với tay Lounartcharski. Tay này say sưa với những kế hoạch cứu [sauvegarder] văn hóa, ông ta tin rằng, nó đang gặp nguy. "Tại sao lại phải tìm cách bảo vệ nó?" P. quạt lại anh ta. "Cái đám khốn nạn Hội Nhà Văn Nhà Véo gì đó đang làm cho nó trở thành điêu tàn, mảnh vụn hả? Thì kệ mẹ tụi nó. Mà này, hãy phụ chúng một tay...", giọng P. trở nên run lẩy bẩy vì xúc động, "Bởi vì, chỉ sau đó, may ra mới có được cơ may, từ ba cái rác rưởi, mảnh vụn, điêu tàn...".
André Gide: Sổ Ghi từ Liên Xô về, Nhật Ký II, 1926-1950, nhà xb Gallimard, tủ sách Pléiade, 1977, trang 524, trang 727
.

Sartre, Aron và Chủ Nghĩa Cộng Sản: Cục Ung Thư Của Thế Kỷ.
Trong Hồi Ký  [1985, nhà xb Gallimard], Raymond Aron đã nói tới "vô minh dẫn tới ngu ngốc đơn thuần. Chẳng bao giờ nhà triết học về tự do, thành công, hay nhẫn nhục mà nhìn ra được bộ mặt thực của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa toàn trị xô viết, căn bệnh ung thư của thế kỷ, ông ta [Sartre] chẳng bao giờ chẩn đoán, cũng chẳng bao giờ lên án, nó là như thế."
[Dans ses Mémoires, R. Aron parle d'une "ignorance qui conduit à la sottise pure et simple. Jamais le philosophe de la liberté n'a réussi, ou ne s'est résigné, à voir le communisme tel qu'il est. Le totalitarisme soviétique, le cancer du siècle, il ne l'a jamais diagnostiqué, il ne l'a jamais condamné en tant que tel". Magazine Littéraire, số đặc biệt về Sartre, Mars 2005 - Mai 2005]

Nhưng, hình ảnh lá cờ đỏ của chiến thắng, của chinh phục, mà một cô nữ sinh tiên tiến được vinh dự cắm lên một thành phố miền nam, sau trở thành một ám ảnh, ở một nhà văn.
"Ba mươi năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi cắm vào Bà Rịa trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu dân thường, 1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa, hàng chục triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít chất độc hoá học và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về lịch sử, tôi không khai quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng nhất của cuộc chiến tranh đạt những kỉ lục không thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên, đơn giản vì chúng chưa bao giờ được đưa vào danh sách các hậu quả cần khắc phục."
PTH: Cái còn lại
Thế thì, "cái còn lại", ở một kẻ bị... chinh phục? Một tên Ngụy?
Có thể, hắn chỉ nghĩ đến ám ảnh của những không  may. Những xui xẻo.
Đó là một trong những lý do, khi điền đơn Cao Uỷ Tị Nạn, tại trại Panat Nikhom, Thái Lan, tuy tới Bangkok vào ngày 19 tháng Năm, có một kẻ bị chinh phục, phải chạy trốn quê hương, nó đã chọn cho nó một ngày khác, thay vì ngày sinh của Bác Hồ, với hy vọng một tái sinh, một đổi đời.
Bởi vì, trong những năm chiến tranh, vào những ngày trọng đại như thế đó, những người Cộng Sản lại hô hào biến đau thương, căm thù thành hành động. Hãy có thêm nhiều xác Mỹ Ngụy làm quà dâng tặng ngày sinh Hồ Chủ Tịch, ngày thành lập Đảng..
.


bac_ho

... Uncle Ho, stand discarded.
Ông Hồ...  liệng cống [discarded], thay vì... lộng kiếng!

In one of the back streets of Ho Chi Minh, busts of the father of the nation, Uncle Ho, stand discarded. A local magazine polled young people to discover that they identified Bill Gates as their personal hero rather than the long-dead leader Ho Chi Minh. Police quickly confiscated copies of the paper and burned them after firing the paper’s chief editor.
Tượng ông Hồ ở một con phố đìu hiu, [hay, buồn thiu?], ở thành phố mang tên ông. Cha già dân tộc thua phiếu anh Mẽo Bill Gates, qua một cuộc thăm dò giới trẻ Sài Gòn. Tờ báo đăng thăm dò, tịch thu, đốt bỏ, chủ bút, cho về vườn.
“Viet Nam at peace”: the empire strikes back
[Việt Nam thời bình: Đế quốc quật ngược]



Viết













Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây