*

 




POETS  PHOTOGRAPHED

Poets photographed,
but never when
they truly see,
poets photographed
against a backdrop of books,
but never in darkness,
never in silence,
at night, in uncertainty,
when they hesitate,
when joy, like phosphorus,
clings to matches.
Poets smiling,
well- informed, serene.
Poets photographed
when they're not poets.
If only we knew
what music is.
If only we understood.

Adam Zagajewski: Unseen Hand 

Thi sĩ chụp hình
Thi sĩ chụp hình,
chẳng bao giờ khi
họ thực sự nhìn
thi sĩ chụp hình
bìa sau sách,
chẳng bao giờ trong bóng tối
chẳng bao giờ trong câm lặng
vào ban đêm, trong bất trắc,
khi họ ngại ngần,
khi niềm vui, thì như ánh lửa ma trơi
lập loè, cố trụ lại.
Thi sĩ mỉm cười,
rất được thông tri về thời của mình, rất tâm linh, thanh thản,
giá như ngồi bên tách cà phê nữa, thì lại càng số dách.
Thi sĩ chụp hình
khi họ đếch phải là thi sĩ.
Giả như Gấu biết,
Nhạc sến đã đời ở chỗ nào, khi nào, nhỉ?
Giả như Gấu hiểu.

Những thi sĩ được chụp hình

Những thi sĩ được chụp hình
nhưng chẳng bao giờ vào lúc họ thực sự nhìn thấy
Các thi sĩ được chụp hình
Với cái nền đằng sau đầy sách
nhưng chẳng bao giờ lúc (họ) đang ở trong bóng tối
chẳng bao giờ lúc đang câm lặng
Vào ban đêm, lúc đang phân vân
lúc đang ngại ngần,
lúc đang vui, như diêm sinh
bám lấy cây quẹt.
Những thi sĩ mỉm cười,
cảnh giác, trầm lặng
Những thi sĩ được chụp hình
vào những lúc họ chả là thi sĩ
Giá như mà chúng ta biết
âm nhạc là gì
Giá như chúng ta hiểu được .

K

Note:
Bản dịch của GCC có 1 ý sai, bìa sách & phông sách.
Tks. NQT

SELF-PORTRAIT

MAY 2008, AFTER SEEING
ERIC FISCHL'S SELF-PORTRAIT 

Keeps growing older. Frayed costumes. Reads a lot,
                sometimes vanishes
in books like Indians in trackless jungles. Repeats himself,
everything repeats, yellow notebook in his pocket, music's
                great summons.
Evenings he moves to the window in a rumpled shirt and
               yawns.
Looks a little different in each picture-his father's face
invades his own, slightly melancholy face; the short white
               beard,
his enemies insist, must signify capitulation.
The eyes gaze at the lens with hope. Growing older. 

Likes water, flat sleepy rivers, and the green ocean:
swimming, his body disappears in the dark currents
as if temporarily testing another mode of being.
The wind takes his breath, night bestows absolute peace
(the only absolute we've got, a friend scoffs,
they've been arguing for a decade).
A citizen, he thinks of his injured country,
the garden of a childhood that never was.

Takes many trips-April in Belgrade, the pockmarks of a
            recent war,
the swollen Danube recalls its carefree early years in Germany;
Jerusalem in May, more scars of war, but holiness
drifts above the mythic city like the scent of magnolias.
A journalist's questions seem oddly familiar.
Strangeness grows. Always the same: early breakfast, after
             lunch
a long stroll. Slowly becoming a fixed object.
Dreams drag him underground, dawn deftly rescues him.

But it is I, still I, ever searching
and shapeless, always I, every morning opens
a shining new chapter and can't finish it, it is I,
on the street, at the station, I hearing a child's cry, students
            laughing,
a starling's shriek, the I of ignorance, uncertainty, desire,
expectation, and wild joy, the I who understands nothing,
answers insults, hesitates, starts afresh,
guards himself in conversations, in despair, in learned debates,
in a winter day's quiet, it is I, bored, resigned,
unhappy, haughty, it is I, daydreaming
like a teenager, dead tired like the aged,
I in the museum, at the seashore, on Krakow's main square,
yearning for a moment that won't show, that hides
like mountain peaks on cloudy afternoons, brightness
finally arrives, and I suddenly know all, know it is not I.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Chân Dung Tự Họa

Cứ tiếp tục già thêm ra.
Chạy đua với Thần Chết.
Quần áo luộm thuộm, già, lùn, lé: Có sao đâu!
Đọc khẳm.
Lâu lâu biến mất vào trong những cuốn sách, như 1 nhân vật của Cô Tư nhé, chịu không?
Hay như những tên mọi da đỏ, vào trong những cánh rừng không dấu vết.
Tự lập lại chính mình.
Mọi chuyện thì đều lập đi lập lại, cuốn sổ tay màu vàng trong túi quần, những ngày ngồi quán cà phê túi Sài Gòn, đọc La Nausée, thấy câu nào hay bèn chôm, bèn ghi vô cuốn sổ tay, giấu thật lẹ, khi nhìn thấy bóng dáng BHD xuất hiện, hà, hà!
Nhạc nữa chứ, nhất là nhạc sến,
“Đôi khi lầm lỡ, đánh chết ân tình cũ”!
Buổi chiều tối tà tà đến bên cửa sổ, trong cái cộc tay cháo lòng, làu nhàu, thủng lỗ, (2) và bèn há to họng, ngáp 1 cái bể trời!

Coi bộ cũng không khác ông via là mấy, qua từng bức hình - bộ mặt ông via xâm lăng bộ mặt của chính thằng con trai của ổng, hơi có tí “buồn vào hồn không tên”; bộ râu trắng ngắn; Đám "bạn quí" năn nỉ, phải nói lên sự đầu hàng.
[Bố xâm lăng, con đầu hàng].
Cặp mắt nhìn cặp kính “len”, với hy vọng. Già thêm nữa đi!
Đừng vội chết nhe!

Như nước, những con sông ngái ngủ, nằm dài, và biển xanh: Bơi lội, thân thể của anh biến mất trong những dòng nước đen
như thể tạm thử một cách sống, một hiện hữu khác.
Gió mang hơi thở của anh, đêm đặt để cõi bình an bình tuyệt đối
(cái tuyệt đối độc nhất mà chúng ta có, một đấng bạn chọc quê, họ đã từng lèm bèm cả chục năm)
Một công dân, anh ta nghĩ về cái xứ sở bị thương tích của mình,
Khu vườn của tuổi thơ chẳng bao giờ có.

Làm nhiều chuyến giang hồ vặt – Tháng Tư ở Belgrade, vết sẹo đậu mùa của 1 cuộc chiến mới vừa rồi,
Con sông Danube sưng phồng làm nhớ những năm đầu đời bất cần đời ở Đức;
Jerusalem vào Tháng Năm, nhiều vết sẹo chiến tranh, nhưng cái linh thiêng lêu ba lêu bêu ở phía bên trên thành phố huyền hoặc
giống như mùi hoa mộc lan.
Những câu hỏi của 1 tay ký giả xem ra quen thuộc 1 cách kỳ cục lạ.
Sự xa lạ tăng mãi lên.
Luôn luôn là như vầy: Sáng, điểm tâm.
Sau bữa trưa là 1 cú lang thang tản bộ dài.
Chầm chậm biến thành một khúc gỗ bất động.
Những giấc mơ kéo anh ta xuống bên dưới mặt đất, rạng đông khéo léo giải cứu anh ta.

(1)

Có 1 giai thoại liên quan tới bản nhạc này. BHD có lần ngân nga, đúng thời gian bản nhạc thịnh hành, cái gì gì, "đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn", nhưng hát trại đi, "đôi khi lầm lỡ, đánh chết nhân tình cũ…"
Và bèn cười!
Bi giờ thì hiểu ra.
Em quả đánh chết thằng cha Gấu thiệt!
Hà, hà!

(2)

Brodsky có tấm hình, mặc áo thun thủng lỗ, do tàn thuốc lá, trong "Chuyện trò với B." của Volkov.
Thời gian viết mướn ở Bưu Điện, Gấu có mỗi một cái áo cộc tay, khi nào dơ quá, đêm về, cởi ra giặt ngủ trần, sáng mặc vô, đi viết muớn tiếp.
Đó là thời gian gặp lại “bạn quí”. Người đi bỏ thư, lỡ gặp, kẹt quá, bèn hẹn, “tối ghé tao nhé”. Ghé chứ. Làm sao không?  Bạn quí kêu Bà Chị Hai lấy cho 1 cái áo cộc tay cũ, người nhận thì quên mẹ, người cho thì nhớ hoài, đúng bạn quí!
Hà, hà!
Cái bà Chị Hai này, cũng có giai thoại. Thủng thằng kể tiếp.
Đúng là “đánh chết ân tình cũ”!
Hà, hà!
NQT

GOING HOME

 
I love to speak with Leonard
He's a sportsman and a shepherd
He's a lazy bastard
Living in a suit 

But he does say what I tell him
Even though it isn't welcome
He will never have the freedom
To refuse 

He will speak these words of wisdom
Like a sage, a man of vision
Though he knows he's really nothing
But the brief elaboration of a tube 

Going home
Without my sorrow
Going home
Sometime tomorrow
To where it's better
Than before 

Going home
Without my burden
Going home Behind the curtain
Going home
Without the costume
That I wore

He wants to write a love song
An anthem of forgiving
A manual for living with defeat
A cry above the suffering
A sacrifice recovering
But that isn't what I want him to complete

I want to make him certain
That he doesn't have a burden
That he doesn't need a vision

That he only has permission
To do my instant bidding
That is to SAY what I have told him
To repeat 

Going home
Without my sorrow
Going home
Sometime tomorrow
Going home
To where it's better
Than before 

Going home
Without my burden
Going home
Behind the curtain
Going home
Without the costume
That I wore

I love to speak with Leonard
He's a sportsman and a shepherd
He's a lazy bastard
Living in a suit

-Leonard Cohen

The New Yorker, Jan 23, 2012

Về nhà

Gấu thích nói với Leonard
Hắn là thể tháo gia, và người chăn cừu
Lười tổ cha
Bận đồ lớn

Nhưng hắn nói điều mà Gấu biểu hắn nói
Dù có khi không thích
Nhưng không bao giờ có tự do
Để từ chối.

Hắn sẽ nói những minh triết
Như hiền giả, nhà thấu thị
Mặc dù hắn chẳng biết cái chó gì
Chỉ là một sinh sản ng
ắn ngủi của cái ống.

Về nhà
Không nỗi u sầu của Gấu
Về nhà
Đâu đó sớm mai
Về nơi bây giờ bảnh hơn trước.
Về nhà, không gánh nặng của Gấu
Về nhà, sau bức màn [sắt của VC]
Về nhà không bộ đồ Gấu mặc.

Hắn muốn viết một bản tình ca,
như thiên tài âm nhạc xứ Mít [ai thì các bạn biết rồi!]
Một bài hát ngợi ca sự tha thứ [“Nối vòng tay lớn” nhé?]
Một cẩm nang, làm sao sống với sự thất trận
Một tiếng kêu trên cả nỗi đau khổ
Một sự hy sinh tìm lại được
Nhưng đó đếch phải điều Gấu muốn hắn hoàn tất,

Gấu muốn hắn chắc chắn một điều
Là hắn chẳng có gánh nặng cái con mẹ gì hết
[Phản biện ư, đừng hòng. Hãy nhớ Arendt nói gì]. (1)
Hắn đếch cần viễn ảnh, thấu thị, tầm nhìn rộng ra khỏi nước Mít
Hắn chỉ được phép [đối lập cuội, quốc doanh, lạc quan vô tận]
Thực hiện mệnh lệnh tức thời của Gấu
Đó là NÓI điều Gấu phán,
Lập lại:

Về nhà
Không nỗi u sầu của Gấu
Về nhà
Đâu đó sớm mai
Về nơi bây giờ bảnh hơn trước.
Về nhà, không gánh nặng của Gấu
Về nhà, sau bức màn [sắt của VC]
Về nhà không bộ đồ Gấu mặc.

Gấu thích nói với Leonard
Hắn là thể tháo gia, và người chăn cừu
Lười tổ cha
Bận đồ lớn

(1)

Để chống lại chủ nghĩa toàn trị, bạn chỉ cần nhớ, có mỗi một điều này: Chủ nghĩa toàn trị nhất quyết không thí cho bạn một tí tự do nào.
Hannah Arendt: Về bản chất của chủ nghĩa toàn trị
Bản tiếng Anh, [nguyên tác tiếng Đức]: In order to fight totalitarianism, one need understand only one thing: Totalitarianism is the most radical denial of freedom.
Một chủ nghĩa như thế, mà đòi phản biện?

FAMILY HOME 

You come here like a stranger,
but this is your family home.
The currants, the apple and cherry trees don't know you.
One noble tree readies
a new brood of walnuts in peace,
while the sun, like a worried first-grader,
diligently colors in the shadows.
The dining room pretends it is a crypt,
and doesn't give out one familiar echo-
the old conversations haven't lingered.
There, where your life doubtless
began, someone else's television stutters.
But the cellar's been collecting darknesses –
all the nights since you left
are snarled like the yarn of an old sweater
in which wild cats have nested.
You come here like a stranger,
but this is your family home.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Nhà của nhà nhà mi

Mi tới đây như kẻ lạ
nhưng đây là nhà của nhà nhà mi
Những trái lý chua, những cây táo, anh đào không biết mi
Một cái cây phong nhã sửa soạn một lứa trái óc chó trong hòa bình
Trong khi mặt trời, như một đứa học trò lớp nhất xốn xang,
cần cù tô màu trong những bóng dâm.
Phòng ăn giả đò như nó là một cái hầm mộ
và không thèm đưa ra một tiếng vang thân quen nào có tính gia đình –
Những câu chuyện cổ, vào dịp Tết
thì cũng không chờ dịp để kể ra.
Đó, ở đó, nơi cuộc đời của mi chẳng hồ nghi
bắt đầu
cái TV của ai đó bèn nói lắp.
Nhưng cái hầm rượu thì đang thu gom bóng tối –
tất cả những đêm, kể từ khi mi bị VC đá đít, chạy đến đây “tạm ở”,
thì càu nhàu như sợi len của cái áo nịt cũ
ở trong đó những con mèo hoang làm tổ
Mi tới đây như một kẻ lạ,
nhưng đây là nhà của nhà nhà mi.

JANUARY 27

Frosty day. A winter sun. White breath.
 But on this Friday we didn't know
what to celebrate and what to mourn -
it was Holocaust Memorial Day
and Mozart's birthday.
Our memory was perplexed.
Our imagination lost its way.
The candle on the windowsill wept
(we'd been asked to light candles),
but the gentle music of young Mozart
reached us from the speakers, rococo,
the age of silver wigs and not the gray hair
we knew from Auschwitz,
the age of costumes, not of nakedness,
hope and not despair.
Our memory was perplexed,
our imagination grew lost in thought.

Adam Zagajewski: Unseen Hand 

27 Tết

Ngày lạnh giá. Mặt trời mùa đông. Hơi thở trắng
Nhưng vào Thứ Sáu này chúng ta không biết
Ăn mừng cái gì, và than khóc cái gì –
Đó là ngày Tưởng Niệm Lò Thiêu
Và sinh nhật Mozart.
Trí nhớ của chúng ta lúng túng.
Trí tưởng tượng trật đường rầy.
Ngọn nến nơi cửa sổ khóc
(chúng ta được yêu cầu thắp nến)
Nhưng nhạc êm dịu của Mozart khi còn trẻ
tới lỗ tai chúng ta từ mấy cái loa, cổ lỗ sĩ,
thời tóc giả màu bạc, không phải tóc xám
mà chúng ta biết từ Lò Thiêu,
thời quần áo, không phải khoả thân
Hy vọng, không phải thất vọng.
Trí nhớ của chúng ta lộn tùng phèo,
Trí tưởng tượng của chúng ta lạc lối về.

ALSO VITA CONTEMPLATIVA 

IN THE TRAIN TO WARSAW 

It can happen anywhere, sometimes in a train,
when I'm nowhere: suddenly the door
opens and forgotten figures enter,
my little nephew, who no longer is,
but approaches cheerful, laughing,
and a certain Chinese poet, who loved
the leaves of autumn trees and music,
theology students from Cordoba, still beardless,
emerge from nothingness and leap into view,
resuming their debate on God's attributes,
and splendid life surges like a waterfall in spring,
until at last a ringtone sounds, importunate,
then another, and a third, and all this great, strange world
contracts and vanishes, exactly like a field mouse,
who, sensing danger, draws adroitly into
its secret apartments.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Trên xe lửa tới Warsaw

Có thể xẩy ra bất cứ ở đâu, đôi khi, trên xe lửa
khi chẳng biết chốn đó là chốn nào, và,
bất thình lình cửa mở,
những khuôn mặt đã quên, đi vô,
đứa cháu trai của tôi, chẳng còn nữa,
tiến lại gần, vui như Tết, cười toét miệng,
và một đấng thi sĩ Tầu, yêu lá cây mùa thu và âm nhạc,
những sinh viên thần học từ
Cordoba, chưa để râu
từ hư không vọt ra, và đi vô tầm nhìn,
tiếp tục cuộc luận bàn về những thuộc tính của Thượng Đế,
và cuộc đời tuyệt vời xuất hiện như con thác mùa xuân
cho đến lúc, những tiếng chuông, nhũng nhiễu,
rồi một hồi nữa, và hồi thứ ba, và thế là
cả một thế giới lớn lao, lạ kỳ, co rúm lại, và
biến mất như lũ chuột đồng
ngửi ra hiểm nguy,
khéo léo rút về những căn phòng bí mật của chúng.

FACES 

Evening on the market square I saw shining faces
of people I didn't know. I looked greedily
at people's faces: each was different,
each said something, persuaded,
laughed, endured. 

I thought that the city is built not of houses,
squares, boulevards, parks, wide streets,
but of faces gleaming like lamps,
like the torches of welders, who mend
steel in clouds of sparks at night.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Những bộ mặt

Buổi chiều tối tôi nhìn thấy ở công viên Chợ Bến Thành
những khuôn mặt rạng ngời của những người mà tôi không quen biết.
Tôi nhìn thiết tha
những bộ mặt; mỗi bộ mặt một khác,
mỗi bộ mặt nói một điều gì đó, thuyết phục
tươi cười, chịu đựng.

Tôi nghĩ thành phố Sài Gòn hồi đó của tôi
thì được xây dựng lên,
không phải bằng những ngôi nhà,
công trường, đại lộ, công viên, những con đường rộng rãi,
mà là bằng những bộ mặt sáng lên như những ngọn đèn,
như những ngọn đuốc của người thợ hàn,
hàn que thép ở những đám mây
của những đốm sáng
vào lúc ban đêm.

 UNWRITTEN ELEGY 

FOR KRAKOW'S JEWS 

My family lived here for five hundred years - DR. M. S.

 

But Joseph Street is the saddest, spare as a new moon,
not a single tree though not without charm,
the dark charm of a province, of parting, a quiet burial;
in the evening shadows gather here from every neighborhood,
and even some brought by trains from nearby towns.
Joseph was the Lord's favorite, but his street knew no
            happiness,
no pharaoh distinguished it, its dreams were sorrowful,
            its years were lean. 

In the Church of Corpus Christi I lit candles for my dead,
who live far off-I don't know where
-and I sense they warm themselves in the red flame too,
like the homeless by a fire when the first snow falls.

I walk the paths of Kazimierz and think of those who are
             missing.
I know that the eyes of the missing are like water and can't
be seen-you can only drown in them.
To hear footsteps in the evening-and see no one.
They walk on, although there's no one here, the tread of
             women in boots
shod with iron, beside the hangman's quiet, almost tender
             steps.
What is it? As if black memory moves
above the city, like a comet withdrawing from the stratosphere.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Bi khúc chưa viết
cho những người Do Thái ở
Krakow

Gia đình tôi sống ở đây 500 năm rồi - DR. M. S.

Nhưng con phố Joseph Street thì buồn nhất,
và gầy, như 1 vừng trăng non
Tuy nhiên, không 1 cái cây riêng lẻ nào mà không có sự mê hoặc
Sự mê hoặc âm u của một thị trấn, của sự ra đi, của sự chôn cất
Vào buổi chiều những cái bóng từ mọi khu xóm tụ tập về đây
Còn có cả những cái bóng đến bằng xe lửa từ những thành phố kế cận
Joseph [HV] là con cưng của Chúa,
nhưng con phố của anh ta thì đếch biết hạnh phúc là cái chó gì!
Hà, hà!
Chẳng có một vì vua pharaoh nào nhận ra nó
những giấc mơ của nó thì u sầu, những năm tháng thì mới gầy guộc làm sao.

Ở nhà thờ Church of Corpus Christi, tôi đốt nến cho những người chết của tôi
họ sống ở đâu đó, xa vời, làm sao tôi biết được –
và tôi cảm thấy họ tự ấm họ lên trong ánh lửa đỏ,
như những người vô gia cư kế bên ngọn lửa, khi tuyết đầu mùa đổ xuống.

Tôi đi bộ trên những lối đi ở Kazimierz và nghĩ tới những người mất tích
Tôi biết mắt của họ thì giống như nước,
Và không thể được nhìn thấy – bạn chỉ có thể chết chìm ở trong đó.
Nghe những bước chân của họ vào buổi chiều - và chẳng nhìn thấy một ai
Họ bước đi, mặc dù chẳng có ai ở đây,
tiếng bước chân của những người đàn bà mang giầy bốt, 
bịt móng sắt, bên cạnh tiếng bước chân lặng lẽ, dịu dàng, êm ái
của tên treo người, kẻ sát nhân, gã đao phủ.
Cái gì vậy? Như thể một hồi ức đen chuyển động ở phiá bên trên thành phố
Như ngôi sao chổi rút ra khỏi t
ầng bình lưu.

IMPROVISATION

First you take the world's whole weight on yourself
and make it light, bearable.
Toss it on your shoulders
like a backpack and take to the road.
Best at evening, in the spring, when
trees breathe peacefully and the night promises
to be fine, in the garden elm branches crackle.
The whole weight? Blood and ugliness? Can't be done.
A taste of bitterness always stays in the mouth
and the contagious despair of the old woman
you saw yesterday in the tram.
Why lie? Rapture, after all,
lives only in imagination and quickly vanishes.
Improvisation-always just improvisation,
we know nothing else, small or large-
in music, when the jazz trumpet weeps gaily,
or when you look at a white sheet of paper
or also when you flee
from sorrow and open a favorite book of poems,
the telephone usually rings right then
and someone asks, would you consider, sir or ma'am,
our latest models? No, thank you.
Grayness and monotony remain; mourning
that the finest elegy can't heal.
Perhaps, though, there are hidden things before us
and in them sorrow blends with enthusiasm,
always, daily, like the birth of dawn
on the seashore, or no, hold on,
like the happy laughter of the two little altar boys
in white surplices, on the corner of Jan and Mark,
remember?

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Ứng tác

Đầu tiên bạn lấy cả sức nặng của thế giới lên bạn
Và làm cho nó nhẹ đi, có thể mang được.
Quẳng nó qua vai,
như cái cặp ở sau lưng và lên đường.
Tốt nhất là lúc buổi chiều tối, mùa xuân, khi
cây thở hiền hòa và đêm hứa hẹn sẽ đẹp, ngon cơm là đằng khác,
trong vườn những cành cây đu lách cách, lách cách
Trọn sức nặng? Máu và sự xấu xí? Không được đâu.
Một tí chua chát, cay đắng luôn nằm trong miệng bạn
Và cái sự chán chường, thất vọng ưa lây lan
của 1 bà già bạn gặp trên xe điện hôm qua.
Tại sao dối trá? Sung sướng vô ngần, nói cho cùng,
chỉ sống ở trong tưởng tượng và tan biến rất ư là lẹ làng.
Ứng tác – luôn luôn chỉ là ứng tác
[bà LTH thì bảo là bắt chước, ăn cắp tụi mũi lõ, ứng tác cái con mẹ gì, hà hà!]
Mà chúng ta sự thực cũng chẳng biết gì, nhỏ hay lớn –
Trong âm nhạc khi cái kèn jazz khóc vui vẻ,
hay là khi bạn nhìn tờ giấy trắng
và cũng là khi bạn chạy trốn nỗi u sầu
và mở ra một cuốn thơ tủ [của Adam Zagajewski, thí dụ],
và đúng lúc đó chuông điện thoại reo, và 1 người nào đó đề nghị,
bà hay ông, xin lỗi, đã coi qua những mẫu hàng mới nhất của chúng tôi?
No, tks U.
Cái xám xịt, cái đơn điệu còn đó;
than thở, bi khúc tuyệt cú mèo
thì cũng chẳng làm sao chữa lành.
Có lẽ, tuy nhiên, có những sự vật ẩn náu trước chúng ta,
Và trong chúng, nỗi u sầu âu yếm với niềm phấn khởi
luôn luôn, hàng ngày,
như thể bình mình sinh ra ở bãi biển,
hay là, không, chờ tí,
như tiếng cười hạnh phúc của hai cậu bé phụ lễ trong bộ đồ trắng,
ở nhà thờ Phanxicô, góc Phan Đình Phùng, Phạm Đăng Hưng, Sài Gòn.
hay ở câu lạc bộ Làng Văn, cũng ngay kế đó (1).
Nhớ không? 

(1)

Nào, đâu, thư viện Gia Long, thư viện Văn Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc bộ, có quán cà phê Làng Văn, đêm nào đang bữa tiệc bỏ ra về, chẳng thể làm thơ, và cũng chẳng bao giờ là thi sĩ, và Du Tử Lê khi đó chưa làm giùm hai câu:

Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ cuối đường...


Tết, lạnh quá, nằm nhà đọc Cô Tư

Cúi Xuống Là Đất.
Liệu cái tít, chỉ cái tít, tiên đoán cú Tiên Lãng?

MORNING

Sunday morning, the wind has washed our minds,
the streets are bleak as a monastic regimen.
The young still sleep in their white tents,
and only the elderly head churchwards.
A ginkgo, still clinging to its leaves,
aglow with autumn's yellow fire,
announces that the moment has arrived.
Sunday morning, above the roofs of palaces and houses,
somber chimes hold conversations
while little bells laugh; Dominicans
and Norbertines exchanging telegrams.
Clad in bronze, the Planty Garden monuments
doubtless long for normal skin,
for flesh and aching heads, but eternity has its demands. 

We quarreled here once, do you remember,
I looked for you in evening's labyrinth;
I held a book, you wore a summer dress
(the book went unread, but the dress spread
like the jacket of a Neoplatonic tract).
A bronze Boy-Zelenski gazed at me, his eyes
retained the image of a firing squad,
that masterpiece of Prussian architecture.
The wind washed minds and streets, it washed the sun.
Georg Trakl died a few hundred yards away,
killed by ecstasy or despair.
And we sat on that bench late one night
and tried to hear the ocean.
The moon was full, the stars ran quietly. 

The moment came, after long negotiations,
broken off and taken up, abandoned once again,
when the past, wise and dryas parchments,
decided to make peace with petty day,
with the morning's improvisation, its damp breath,
my thoughts' dampness, my unrest,
and a delegation of the dead-poets, but also night watchmen,
experienced students of the darkness, and midwives,
who knew how bodies opened-
agreed that it was high time,
in silence, Sunday morning, when trees
flame peacefully, agreed conditionally
that I should wake and realize that the moment had arrived,
the moment had arrived-and would be gone.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

BALANCE

I watched the arctic landscape from above
and thought of nothing, lovely nothing.
I observed white canopies of clouds, vast
expanses where no wolf tracks could be found. 

I thought about you and about the emptiness
that can promise one thing only: plenitude -
and that a certain sort of snowy wasteland
bursts from a surfeit of happiness. 

As we drew closer to our landing,
the vulnerable earth emerged among the clouds,
comic gardens forgotten by their owners,
pale grass plagued by winter and the wind.

I put my book down and for an instant felt
a perfect balance between waking and dreams.
But when the plane touched concrete, then
assiduously circled in the airport's labyrinth,
I once again knew nothing. The darkness
of daily wanderings resumed, the day's sweet darkness,
the darkness of the voice that counts and measures,
remembers and forgets.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

Cân bằng

Từ phía bên trên tôi ngắm phong cảnh Bắc Cực
Và nghĩ về vô thường, cái vô thường đáng yêu
Tôi quan sát những vòm mây trắng, chốn thênh thang rộng lớn,
nơi chẳng dấu vết sói nào có thể kiếm thấy.

Tôi nghĩ về em, và về sự trống rỗng
Cái trống rỗng chỉ hứa hẹn 1 điều: sự viên mãn –
Và một số phận nào đó của hoang địa tuyết
bật ra từ thừa thãi hạnh phúc.

Trong khi chúng ta tới gần chỗ hạ cánh
Trái đất dễ thương tổn hiện ra giữa những đám mây,
Những vườn tược tiếu lâm bị chủ bỏ quên
Cỏ nhợt nhạt dưới trận dịch mùa đông và gió

Tôi để cuốn sách xuống và trong 1 thoáng cảm thấy
Một sự cân bằng tuyệt hảo giữa thức và mộng.
Nhưng khi máy bay chạm vô mặt đất cứng,
và rồi thì cứ thế quay mòng mòng trong mê lộ của phi trường,
Tôi lại một lần nữa chẳng biết cái gì.
Bóng tối của những cuộc lang thang trong ngày tiếp tục,
Bóng tối ngọt ngào của ngày,
Bóng tối của tiếng nói
đếm và đo,
nhớ và quên.

THE REVOLUTION HAS ENDED

REMEMBERING JULIAN KORNHAUSER'S

MOURNFUL REVOLUTIONARIES

The revolution has ended. In the parks pedestrians
marched slowly, dogs traced perfect circles,
as if guided by an unseen hand.
The weather was lovely, rain like diamonds,
women in summer dresses, children as always
slightly peeved, peaches on tabletops.
An old man sat in a cafe and cried.
Sports car motors roared,
newspapers shrieked, and essentially,
it should be said,
life revealed ascendant tendencies
-to employ a neutral definition,
thus wounding neither victors nor the vanquished,
or those who still didn't know
which side they were on,
that is, in effect, all of us
who write or read these words.

Adam Zagajewski

Cách Mạng Chấm Dứt

Tưởng nhớ những nhà cách mạng sầu thảm
của JULIAN KORNHAUSER

Cách mạng chấm dứt. Ở công viên, bộ hành,
bước chầm chậm, những con chó vẽ những vòng tròn tuyệt hảo
như được dẫn dắt bởi một bàn tay không nhìn thấy
Thời tiết thật đáng yêu
Mưa rơi như kim cương
Phụ nữ trong áo hè, con nít càu nhàu tí tí,
chúng luôn thế, những trái đào trên mặt bàn.
Một ông già ngồi trong quán cà phê, và la khóc.
Xe hơi thể thao, xe gắn máy gầm rú
Nhật báo la bai bải, chủ yếu muốn nói,
đời bi giờ là vinh quang, đỉnh cao
– dùng những từ chung chung, để khỏi làm đau lòng
kẻ thắng cũng như người bại,
hay họ ở bên nào Cách Mạng hay là Ngụy,
Họ, có nghĩa là, tất cả chúng ta
Những người viết, hay đọc những dòng này.

Note: Tếu thật, đúng là ông thi sĩ Ba Lan làm bài thơ cho chúng ta đọc trong dịp Tết này!

 

SELF-PORTRAIT IN AN AIRPLANE

IN ECONOMY CLASS 

Crouched like an embryo,
crushed into the narrow seat,
I try to remember
the scent of fresh-cut hay when wooden carts descend
in August from the mountain meadows, lurching down dirt roads
and the driver cries out
as men always do when they panic
-they screamed that way in the Iliad
and have never fallen silent since,
not during the Crusades,
or later, much later, near us, when no one listens.

I'm tired, I think about what
can't be thought-about the silence that reigns
in forests when the birds sleep,
about the coming end of summer.
I hold my head in my hands
as if shielding it from annihilation.
Seen from outside I doubtless
seem immobile, almost dead,
resigned, deserving sympathy.
But it's not so-I'm free,
maybe even happy.
Yes, I hold my heavy head
in my hands,
but inside it a poem is being born.

Adam Zagajewski

Chân dung tự họa trên máy bay

Cuộn người như phôi nhi
Bèo nh
èo, co rúm trong ghế chật
Tôi cố nhớ mùi cỏ khô mới cắt khi những chiếc xe bò bằng gỗ
đi xuống, vào Tháng Tám,
từ những cánh đồng miền núi,
lảo đảo, lắc lư, trệu trạo trên những con đường đất bẩn thỉu,
và người lái xe la lớn, họ vẫn la như thế, khi hoảng hốt
- họ la như thế ở trong Iliad,
và kể từ đó, chẳng bao giờ im lặng,
trong cuộc Thập Tự Chinh,
hay sau đó, mãi sau đó, kế ngay chúng ta,
khi chẳng có ai lắng nghe.

Tôi mệt mỏi, tôi nghĩ về điều không thể nghĩ
– về sự im lặng ngự trị trong rừng, khi những con chim ngủ
về mùa hè chấm dứt.
Tôi lấy tay ôm đầu
như che chở cho nó khỏi bị tiêu tùng

Nhìn từ bên ngoài, quả là nó bất động, hầu như chết rồi.
Ui chao cái đầu của tôi mới ẩn nhẫn, mới năn nỉ sự cảm thông làm sao.
Nhưng đâu phải như thế - Tôi tự do
Có lẽ hạnh phúc nữa đấy nhé.
Tôi ôm cái đầu nặng chình chịch của tôi
ở trong hai bàn tay,
nhưng ở trong đó,
một bài thơ đang thành hình.

Ui chao lại nhớ câu của cô Tú, “trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở”.
Tết này, lai rai dịch mấy bài thơ trong cuốn mới tậu, cũng thú nhe.

I DREAMED OF MY CITY

WRITTEN WHILE ATTENDING
A HERBERT CONFERENCE IN SIENA 

I dreamed of my distant city-
it spoke the language of children and the injured,
it spoke in many voices, rushing
to shout one another down, like simple people suddenly
admitted
to the presence of a great official:
"There is no justice," it cried; "All
has been taken from us," it wailed loudly;
"No one remembers us, not a soul";
I saw feminists with dark eyes,
petty nobles with forgotten family trees,
judges wearing togas sewn of nettles
and devout, exhausted Jews-
but slowly, relentlessly
the gray dawn drew near and the speakers faded,
dimmed, submissively went back to their barracks like
legions of toy soldiers,
and then I heard completely different words:
"Still there are miracles, not everyone believes,
but miracles do happen ... " And waking, slowly,
reluctantly departing the dream's bunker,
I realized that the arguments continue,
that nothing has been settled yet ...

Adam Zagajewski

Tôi mơ thành phố của tôi

Viết trong lúc dự hội nghị ở Siena

Tôi mơ thành phố xa vời của tôi
nó nói ngôn ngữ của những đứa trẻ và những người bị thương, bị nhục nhã
nó nói trong nhiều giọng, tranh nhau nói, như những con người giản dị
bất thình lình được cho phép vô gặp
Vị Chủ Tịch Nước, hay đồng chí Tấn Dũng.
“Đếch có công lý”, nó la lớn như thế,
“Tụi Mafia Đỏ lấy hết tất cả của chúng ta”, Nó than van ỏm tỏi;
“Chẳng ai nhớ gì đến chúng ta, không hề có lấy 1 mống”;
Tôi nhìn thấy mấy bà nữ quyền mắt u tối,
Những bậc phong nhã nhỏ nhen, hèn hạ mất mẹ gia phả,
những đấng thuộc Viện Kiểm Sát Nhân Dân
vận áo tòa đính gai tầm ma
và chân thành, mộ đạo là đám Miệt Vườn kiệt quệ -
Nhưng chầm chậm, chẳng có chút vội vã, hoàng hôn xám xịt lờ đờ tới,
và những người nói năng láo nháo đó nhạt nhòa đi,
lặng lẽ, an phận trở về lại những trại giam như những đoàn lính đồ chơi
Và rồi thì tôi nghe những từ hoàn toàn khác hẳn:
“Vưỡn có phép lạ, không phải mọi người đều tin, nhưng phép lạ xẩy ra…”
Và giật mình tỉnh dậy, từ từ, ngần ngừ, rời cái boong ke của những giấc mơ,
Tôi nhận ra, cuộc tranh luận vẫn tiếp tục
Chưa có gì là ngã ngũ cả

NOT THINKING ABOUT AESTHETICS

When, in the eighties, my father copied out
my poem "To Go to Lvov" for friends
(he told me about it much later,
with some embarrassment), I doubt he was thinking about
aesthetics,
metaphors, stresses, deeper meanings,
only about the city he'd loved and lost, the city
where his early years, his epiphanies, his meetings with
the world
had been detained like hostages,
and he must have struck the keyboard of his faithful old
typewriter with such force that if we
better understood the conservation of energy,
we might perhaps regenerate
on this basis at least one street
of his first rapture.

Adam Zagajewski

Không nghĩ tới mỹ học

Vào những năm 1980 khi cha tôi chép bài thơ "To Go to Lvov"  [Đi tới Lvov] của tôi
gửi cho bạn bè (ông nói với thằng con sau đó, với tí ngượng nghịu),
tôi nghi là ông đang nghĩ về mỹ học, ẩn dụ, những nhấn mạnh, và những ý nghĩa sâu xa,
chỉ để nghĩ về thành phố mà ông yêu và mất, thành phố,
nơi chốn của những năm đầu đời
những hiển hiện, những gặp gỡ với thế giới của ông 
đã bị cầm giữ như con tin,
và ông đập mạnh phím máy đánh chữ trung thành, cổ lỗ sĩ của ông.
Ông đập mạnh đến nỗi, một con phố xuất hiện
Cùng với sự sảng khoái đầu tiên của ông
Nếu chúng ta biết tí ti về cuộc trò chuyện về năng lượng, nghị lực…

THE GREAT POET HAS GONE

THINKING OF C.M.

Of course nothing changes
in the ordinary light of day,
when the great poet has gone.
Gray sparrows and dapper starlings
still squabble heatedly
in the tops of ancient elms.

When the great poet has gone,
the city doesn't miss a beat, the metro
and the trams still seek a modern Grail
In the library a lovely girl
looks in vain for a poem that could explain it all

At noon the same noise surges,
while quiet concentration reigns at night,
among the stars-eternal agitation.
Soon the discotheques will open,
indifference will open-
although the great poet has died.

When we part for a long while
or forever from someone we love,
we suddenly sense there are no words,
we must speak for ourselves now,
 there's no one to do it for us
-since the great poet is gone. 

Nhà thơ lớn đã ra đi

Nghĩ về C.M.

Lẽ dĩ nhiên chẳng có gì thay đổi
Trong ánh dương bình thường của ngày,
Khi nhà thơ lớn đã ra đi
Bầy sẻ xám, đám sáo đá lanh lẹn
Vưỡn cãi nhau loạn sạ trên những ngọn cây đu

Khi nhà thơ lớn ra đi
Thành phố đếch thèm hụt 1 nhịp, xe điện ngầm, xe điện,
vưỡn tìm kiếm một Grail hiện đại
Trong thư viện, một em xinh ơi là xinh, đáng yêu cực đáng yêu
Kiếm đỏ con mắt một bài thơ giải thích mọi chuyện cà chớn đó

Tới trưa, vẫn thứ tiếng ồn đó nổi lên,
Trong khi một sự chú tâm lặng lẽ ngự trị đêm
giữa những vì sao - một lay động thiên thu
Chẳng mấy chốc, quán nhạc mở cửa
sự lạnh lùng, dửng dưng cũng sẽ mở cửa –
mặc dù nhà thơ lớn đã chết,

Khi chúng ta bỏ đi, một chuyến đi dài
Hay mãi mãi, xa một người nào đó mà chúng ta yêu
Chúng ta bất thình lình cảm thấy đếch kiếm ra lời.
Đếch có lời.
Chúng ta phải nói cho chúng ta, bây giờ.
Đếch có ai làm chuyện này cho chúng ta nữa-
Kể từ khi mà nhà thơ lớn đã ra đi

Adam Zagajewski