Viết
mỗi ngày
Viết
mỗi ngày
Bảo
Ninh:
Gặp lại người Mỹ (ANTG
11-10-17) - Hình như một phiên bản của
bài này là bài đăng trên
New York Times:
The First Time I Met Americans (NYT 5-9-17)
Cuộc chiến tranh kết thúc cách nay đã
hơn 40 năm, bởi vậy những tấn thảm kịch mà nó gây
ra cần phải được quên đi, hoặc không thể quên thì
cũng cần tránh đi, như người ta nói "gác lại quá
khứ".
Tôi cũng như mọi người lính còn
sống sau chiến tranh luôn tự nhủ và luôn nói với
nhau như vậy. Và như tôi thấy thì hầu hết các
cựu chiến binh Việt Nam, cả những người nguyên là đồng đội
của tôi lẫn những người nguyên là kẻ địch của tôi,
theo dần năm tháng, tuổi tác, đã thực sự "gác
lại quá khứ". Nhưng, "quên đi" và "gác lại" không
có nghĩa là quan niệm khác đi về quá khứ.
Chẳng hạn như tôi và ông bạn cựu
binh Sư đoàn 23, nay là họa sĩ, cũng có những góc
nhìn và quan điểm không thể đồng nhất.
Tuy nhiên, dù không đồng quan điểm
về toàn bộ mọi vấn đề nhưng chúng tôi cũng vẫn đồng
ý được với nhau rằng: Việc tôi và ông ấy cùng
là người Việt Nam, cùng ngôn ngữ, cùng văn
hóa, cùng một lứa tuổi trẻ học trò trung học, chỉ
khác là người thì được cha mẹ sinh ra ở Sài
Gòn, người thì được cha mẹ sinh ra ở Hà Nội, vậy
mà đã dữ dội chĩa súng vào nhau, quyết giết
nhau.
"Tôi không bắn anh thì anh bắn tôi",
đó là một trong những nỗi bất hạnh sâu sắc và
đau đớn nhất mà người Việt đã phải chịu đựng.
Và chính nhờ không bao giờ quên
nỗi đau đớn ấy của bản thân mình và đất nước mình
trong quá khứ chiến tranh, mà ngày này chúng
tôi mới có thể bỏ qua mọi bất đồng trong quan niệm về cuộc
chiến đó để sống bên nhau, hòa thuận, bạn hữu với
nhau.
Note: Nhảm.
O, vị bằng hữu của trang Tin Văn, vẫn thường phán, mi lãng
mạn quá, cứ chờ mong 1 cú ngoạn mục, từ lũ Bắc Kít,
trong có cả mi!
Vấn đề là, chính cái quá
khứ khốn nạn, với hai cuộc chiến thần thánh của lũ Vẹm, đẩy xứ
Mít vô tình trạng mấp mé bờ địa ngục như bây
giờ!
Vậy mà khép lại quá khứ?
Phải có 1 cú ngoạn mục, thí dụ như tên già
NN, tay đầy máu Ngụy, cởi trần cởi truồng, bắt chước 1 vị nguyên
thủ của nước Pháp, bò ra Mả Ngụy, sám hối, cầu xin
Thượng Đế tha thứ, thì may ra mới có tí hy vọng cứu
vớt.
Bạn chỉ có thể quên quá khứ, một khi hiện tại cho
phép bạn, quên được nó.
Cái gì làm cho
hai cuộc chiến thần thánh biến xứ Mít mấp mé bờ địa
ngục như hiện nay?
D.M. Thomas, khi viết cuốn tiểu sử của Solz, dựa vô
viễn ảnh khủng khiếp, Thượng Đế và Quỉ Sứ đổi chỗ cho nhau.
Một cách nào đó, xứ Mít gặp đúng
tình trạng này
D.M. Thomas cho rằng sự chuyển hoá từ Christ qua
Demon, [ông viết, Christ và Devil đổi chỗ cho nhau], Kẻ Cứu
Rỗi thành Quỉ Sứ, đã xẩy ra vào thời kỳ đầu Cách
Mạng Vô Sản ở Nga, và được khắc họa, bằng những tác
phẩm văn học, như "Demons" của Pushkin, "Twelve" của Blok (1), và
Bài Thơ Không Có Anh Hùng, "Poem Without a Hero",
của Akhmatova.
Trong khi tại Việt Nam, vào lúc kết thúc cuộc chiến.
Sau một đêm 30 Tháng Tư, ngủ dậy, thay vì thấy một
cái nhà Việt Nam to đẹp hơn, một con người Việt Nam hạnh phúc
hơn, thanh thản hơn, thì chỉ có một con bọ.
Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn thấy sự chuyển hóa này
qua con quỉ chuồng heo [cũng một hình tượng văn học khác,
từ Kafka, trong Y Sĩ Đồng Quê], biến thành con bọ phố phường.
Bạn cũng có thể coi 30 Tháng Tư 1975,
như 1 ngày.... Giáng Sinh, Chúa trở lại với thế
gian, nhưng thay vì dưới hình dạng người, thì là
1 con bọ!
Đây là 1 trong những cách đọc, truyện
ngắn Hóa Thân của Kafka, như 1 cas "Chúa Sẩy Thai".
Hoá Thân
Một trong những cách đọc Kafka, là coi
ông là một nhà văn tôn giáo. Theo cách
đó, Weinberg coi hiện tượng Samsa sáng ngủ dậy thấy biến
thành con bọ, là hiện tượng "Chúa Sẩy Thai" (1). Thay
vì Chúa Giáng Sinh, Chúa đầu thai làm
người để cứu độ nhân loại, thì lại có một... con bọ!
Vào những ngày kỷ niệm 30 năm Lò Cải Tạo, Gấu tui
hơi bị liên tưởng tới một giấc mơ khác của nhân loại:
Sáng ngủ dậy thấy biến thành một người Việt Nam.
Liệu có thể coi đây là hai giấc mơ, một trước, và
một sau, Lò Cải Tạo? Và vẫn chỉ là một? [Như D.M.
Thomas, trong cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, đã coi Quỉ và Kẻ
Cứu Rỗi, chỉ là một? Xin coi Tuổi Bụi ]
Ông Hồ chẳng đã từng mơ tưởng: Thắng trận giặc này,
sẽ làm một cái nhà Việt Nam to lớn hơn đàng hoàng
hơn.
Rút cục, chỉ có một con bọ "VC Đỏ"! hay "VC Đen", tức Mafia
Việt Nam.
Đỏ hay Đen, thì cũng một thứ!
(1) Weinberg khai triển biểu tượng tôn giáo ngầm chứa trong
câu chuyện, đã coi đây là một chuyển hoá
tiêu cực, a negative transfiguration, một nghịch đảo hiện tượng Chuá
nhập thân làm người phàm, một Khổ nạn Giê-xu
sẩy thai [the Passion of an abortive Christ figure]
[Hoá Thân của Kafka, bản tiếng Anh, Bantam Books; phần phụ
lục, Explanatory Notes To The Text].
Người độc nhất, nhìn ra cuộc chiến Mít,
và cắt nghĩa nó, đúng nhất, là Dương Thu Hương,
khi, đúng vào ngày 30 Tháng Tư, bà ngộ
ra liền sự thực; Đây là mọi rợ thắng văn minh.
Còn lại, những tên như NN, BN... toàn đồ bỏ!
NQT
Bà DTH, lần đầu nhìn thấy tù binh
Ngụy, gần như té ngửa, vì trong thâm tâm, Bà
cứ nghĩ cả nước Mít đánh thằng Mỹ xâm lược. Cũng thế,
là nhạc sĩ Tô Hải. Đẩy lên 1 mức nữa, hay nhìn
ngược lại, chưa 1 tên Vẹm nào nhận ra cái phần tội lỗi
của nó, trong cuộc chiến Mít: Tên nào cũng có
mùi máu, cứt, của cải… Ngụy, như là phần thưởng
của cuộc giết người.
Đây là ý của Hirsche, thi sĩ Mẽo,
tác giả cuốn Làm thế nào đọc 1 bài thơ và
tương tư thơ, “How to read a Poem and Fall in Love with Poetry”, trong bài
viết "Thơ và Lịch sử: Thơ Ba Lan sau Tận Thế".
Mít chúng ta, khi nhìn lại cuộc chiến, là
phải nhìn như thế: Sau Tận Thế.
Làm đếch gì có chuyện quên
quá khứ như đấng BN này phán!
Kít!
le Carré: Bản tiếng Tây
của bản tiếng Anh, trên TV.
Nhà
văn quá, dưới mắt điệp viên. Điệp viên quá dưới
mắt nhà văn.
The fiction of John le Carré
Giả tưởng của le Carré
Ngày 23 Tháng Giêng,
1963, Kim Philby, gián điệp Anh (cộng tác viên một thời
cho Người Kinh Tế) chuồn qua Xô Viết. Chín tháng
sau, “Điệp Viên Từ Miền Lạnh" ra lò.
Giả
tưởng, tất nhiên, nhưng hình như nó còn thực
hơn cả sự thực, phản chiếu một thực tại rộng lớn hơn, cái gọi là
Cuộc Chiến Lạnh.
Bảnh
hơn nữa, nó xuất hiện, và sau đó, tiểu thuyết
điệp viên thay đổi hẳn, không còn như trước nữa.
Cuốn tiểu thuyết mở ra với cảnh Alec Leamas, điệp
viên Anh, phụ trách một đơn vị phản gián ở Bá
Linh, chờ 1 đệ tử, biệt kích ném qua Đông Đức, bị
cháy, và phải bỏ chạy, qua Trạm kiểm soát Charlie.
Ngay từ câu “rất” đầu tiên, là cái viết của Le
Carré, như 1 con rắn độc, thò mỏ ra chơi 1 phát. Những
xen, cảnh thì được chiếu sáng theo kiểu cà giựt,
bằng “flashpoint” [điểm hỏa, tia loé]. Nhân vật thì
được phác họa bằng những câu sắc, lẹ. Câu văn ngắn, điểm
đúng huyệt. Tình tiết rắc rối, không dễ mò,
nhưng không bao giờ lâm vô tình trạng quá
tải, với những nhân vật phụ, những cú xoắn thừa thãi,
hay khúc ngoặt không cần thiết.
Không
giống tiểu thuyết gián điệp “James Bond 007”, thế giới của le
Carré gân guốc, chai sạn, và rặt một màu u
tối. Leamas tự mình chuốc rượu mình, trong những căn phòng
tù mù, bàn ghế không phải không bày
mà gần như đếch có. Đờn bà thì câm, nếu
không muốn nói là nín khe, trầy trụa, không
phải thứ lụa là gấm vóc của Ian Fleming. Xa vời cái
thứ hoành tráng, say đắm, những điệp viên của le Carré
thì, bằng những từ của Leamas, "tuồng ảo hóa đã bày
ra đấy, toàn 1 lũ khùng điên, ba trợn, phản bội, những
tên sa đích, ghiền rượu, những
kẻ thắp sáng cuộc đời thối rữa của chúng, bằng cách
chơi trò cao bồi vs mọi da đỏ”, “a squalid procession of vain fools,
traitors…pansies, sadists and drunkards, people who play cowboys and Indians
to brighten their rotten lives”.
Cái
sự “trần thùi lụi” này làm cho thế giới của những
tên ma quỉ, gián điệp hai mang của le Carré, nếu không
“xác thực”, thì “đáng tin”, như chính ông
viết, trong lời bạt, 50 năm sau khi nó được xb lần thứ nhất. Cái
viết ông mắc nợ rất nhiều từ 1 bậc thầy khác, trong giới viết
truyện điệp viên bảnh tỏng, Graham Greene, và tác phẩm
thần sầu của ông này, “Brighton Rock”, xb năm 1938. Nhưng cái
vẻ gân guốc, chai sạn của “Tên Điệp Viên Từ Miền Lạnh”
còn có thể tìm thấy ở trong 1 giả tưởng khác,
cũng xuất hiện vào thời kỳ này. Năm năm trước đó,
Allan Sillitoe viết về cuộc sống của giai cấp lao động ở Nottingham, trong
“Saturday Night, Sunday Morning”, đã làm độc giả phát
sốt với những miêu tả những vụ phá thai ở những con phố sau,
những chiều tối trải qua trong những quán rượu, bằng tiền trợ cấp
thất nghiệp. Vào năm 1956, John Osborne viết “Nhìn lại với
Cáu Giận”, “Look Back in Anger”, một vở kịch hiện thực xoay quanh
một anh chàng trẻ tuổi cáu giận, bất mãn. Tiểu thuyết
của le Carré xoay quanh một chuyện khác, và nó
phản chiếu một vết nứt rạn rộng hơn, về thời hậu chiến Anh, và mở
ra 1 đường viết khác về cuộc sống ở xứ sở này.
Chẳng bao lâu sau khi
cuốn tiểu thuyết xb, le Carré nghỉ chơi với sở ngoại giao và
chỉ lo viết. Chừng 20 cuốn tiếp theo, kể cả cuốn mới ra lò, đầu
năm nay, 2013, “Một Sự Thực Thanh Nhã.” Tất cả đều có thứ văn
phong căng thẳng, và xoáy vào chi tiết. Nhưng “Điệp
viên từ Miền Lạnh” kể như bảnh nhất. Gần 30 năm sau khi Bức Tường
Bá Linh sụp đổ, cuốn tiểu thuyết của le Carré vẫn làm
độc giả nhức nhối với Cuộc Chiến Lạnh, sự bất lực và dối trá
của nó. Cuốn tiểu thuyết nhắc nhở chúng ta, 1 giả tưởng, thứ
thật bảnh, có thể tra hỏi, về chuyện, nhà nước làm ăn
ra làm sao.
Prospero
*
Lần kỷ niệm lần thứ 100, năm
sinh của Greene [1904-1991], tác phẩm
của ông được xb toàn bộ [chắc thế], mỗi cuốn kèm
1 bài biết thật bảnh.
Coetzee, trong tập tiểu luận của ông, chọn Brighton Rock [Introduction, ấn bản Penguin, New York,
2004] Theo ông, đây là tác phẩm nghiêm
trọng đầu tiên của Greene, his first serious novel, theo nghĩa, viết
với những ý nghĩ nghiêm trọng.
GG rất mê mấy dòng thơ dưới đây:
Our interest's on the dangerous
edge of things.
The honest thief, the tender murderer,
The superstitious atheist.
[Nỗi quan hoài của chúng ta, là vào
sát na sợi tóc nguy hiểm, ở mép bờ.
Tên trộm lương thiện, tên sát nhân dịu
dàng. kẻ vô thần mê tín].
Robert Browning,
« Bishop Blougram's Apology »
[Lời xin lỗi của Bishop Blougram]
Pamuk, cũng mê, bệ làm
đề từ cho cuốn Tuyết (1)
Thầy của le Carré, là
Greene. Thầy của Greene, là Conrad.
Nếu phải chọn đề từ cho toàn bộ tác phẩm, Greene
chọn câu trên, theo Coetzee.
Thế giới của Greene, 'Greeneland',
là một miền đất trong đó, những con người bất toàn,
imperfect, chia năm xẻ bảy, divided, như bất cứ một vẹn toàn,
integrity, trong khi niềm tin bị thử thách ở mức tới hạn, their
belief tested to the limit, và Thượng Đế, nếu có, thì
đánh bài chuồn, nếu không muốn nói, đi trốn,
ở ẩn, hidden.
*
Coetzee, có thể nói,
là 1 người dẫn GCC vô văn chương thế giới hiện đại, như là
1 phê bình gia, nhà điểm sách, lương tâm
của 1 thời, cùng với những đấng như Steiner. Đọc ông rất
thú, vì thể nào bạn cũng kiếm thấy 1 ý, 1
câu thần sầu của ông, chiếu rọi 1 tác giả.
Thí dụ, khi ông
viết về Walter Benjamin, và nhìn ra hai tác phẩm
khổng lồ về điêu tàn của thế kỷ 20, ngó nhau:
Từ một khoảng cách,
tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn
lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"),
của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng
đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được
dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích dẫn, và
trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình
ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và
đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên
là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu
tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh
giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với
thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào
thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì
con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin,
là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.
Ông viết
về Paul Celan, mà chẳng tuyệt sao:
Celan là
thi sĩ ngọn tháp Âu Châu ở những thập niên giữa
thế kỷ 20, người mà, thay vì chuyển hóa thời của mình
– ông đếch có hứng đó – thì xử sự như một
cây roi điện xả hết luồng điện cực kỳ khủng khiếp chứa chất trong
nó, của thời của mình.
Tuyệt!
Celan is the towering European poet of the middle decades of the
20th century, one who, rather than transcending his times
– he had no wish to transcend them – acted as a lightning rod for their
most terrible discharges.
Đâu có
như phê bình gia Mít. Hoặc dởm, hoặc bịp.
Và đều đếch có tí lương tâm: Bỏ nước
ra đi, tố cáo VC chán, lại mò về, làm như đếch
có chuyện gì xẩy ra!
Nhà văn vào thời
này, Tây hay Đông, nếu đúng là thứ thiệt,
gắn bó với viết lách, nói chung, đều thật rành
cái thế giới của họ, không chỉ như nhà văn, mà
còn như là nhà phê bình, điểm sách.
Coetzee là 1 trong thứ đó. Trong bài giới thiệu tập
tiểu luận thứ nhì của ông Inner Workings, người viết, Dereck
Attridge, đã đặt ra câu hỏi, và trả lời, chúng
ta cần gì đọc phê bình điểm sách của một tiểu
thuyết gia bậc thầy đã đoạt Nobel? Điều gì khiến chúng
ta tò mò muốn đọc thứ đó?
Gấu mê đọc tiểu luận của
Coetzee. Tiểu thuyết, mua gần như đủ cả, và thường là cả
hai, tiếng Anh và tiếng Tẩy, nhưng chỉ đọc "Ô Nhục", tính
đọc thêm cuốn, lấy khung cảnh St Petersburg, để vinh danh sư phụ
của ông, là Dostoiesky: The Master of St Petersburg.
Tiểu thuyết của Coetzee, sự thực,
cũng pha tiểu luận. V/v Văn phong, phải là cái tay trên
Intel, khi chỉ ra, tính hà tiện để chảy máu mắt,
khi viết của Coetzee.
Nhà văn Mít chưa ai hiểu ra được điều này.
Chữ đầy ra đấy, tại sao hà tiện. Họ đâu có biết, viết,
thừa 1 chữ, là hỏng 1 chữ đã được viết ra, vì không
trân quí nó!
THE SAVAGE THRIFT OF J.M. COETZEE
Tính tằn tiện dã
man của J.M. Coetzee
Ghi chú về 1 giọng văn:
Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có
tí mỡ, và đe dọa.
30.4.2012
by David Remnick
Aleksandr Solzhenitsyn, tiểu
thuyết gia chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, mất ngày
3 Tháng Tám 2008, thọ 89 tuổi.
Vài tuần sau khi chôn ông, nhà nước Nga
của Putin làm 1 cú thật đểu cáng, [a sly, even cynical
gesture] đổi tên 1 cái phố lớn nhất của VC Nga, ở Moscow,
thành tên của Solz. Và còn làm 1 tấm
plaque vinh danh những thành tựu văn học của ông, kế ngay
bảng tiệm McDomald, trên cùng con phố!
Bà vợ góa của nhà văn, Natalia Solzhenitsyn
kiên nhẫn ôm những trớ trêu của lịch sử. Tuần lễ vừa
rồi, bà tới Triển Lãm Sách Mẽo, ở trung tâm
Javits Center, vì một dự án tưởng niệm quan trọng hơn nhiều:
Thành lập một kho dự trữ hồ sơ văn học gồm tất cả những gì,
từ tuổi thơ bị đóng đinh thập tự của Solz, tới hàng ngàn
trang bản thảo viết tay của ông, trong có bản thảo Quần Đảo Gulag mà bạn bè
đã chôn giấu từ 20 năm ở vùng quê Estonia, bên
ngoài tầm tay của KGB.
Alexa Ranking, June 4, 2012
Tin Văn: 1,242,390
Gió To: 1,475,097
Da Mùi: 1,874,281
Một mình một ngựa mà
trùm thiên hạ, thế mới ghê chứ!
Hà, hà!
Lâu lâu thì cũng phải cho GCC phởn 1 tí
chứ!
Cứ.... Lò Thiêu
hoài, mệt quá!
TV có nhiều cộng tác
viên “thầm lặng”, chứ 1 mình GCC, sức mấy mà bảnh
như thế!
Tks all.
NQT
Ở Việt Nam, có một điều rất chi thú
vị: tôi nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi,
rất dị ứng, rất nổi da gà da vịt trước những gì không
hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ phải thật là uốn éo
dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn
tên là chứng bạo dâm bệnh lý: một người đọc "trí
thức" ở Việt Nam luôn luôn có xu hướng đè bẹp tác
giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải thấp thấp một tí, ẻo
ẻo một tí, để mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên
ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ cho những người
như Lê Hoàng hay Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này
không giúp gì cho việc tiếp cận, đọc thực sự những người
như Coetzee. Hic, giải thích khó nhỉ, các bác
cứ thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách
nào đó của Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi
muốn nói gì.
Blog
NL
Vẫn chuyện phê bình,
điểm sách, do nhà văn, tiểu thuyết gia viết.
Tờ NYRB, nhân kỷ niệm 50 năm, trình ra những bài
viết cũ, của những tác giả đã từng cộng tác. Số
10.10.2013, trích đoạn bài của Hilary Mantel, viết về Naipaul,
Oct 24, 2002. Tuyệt, nếu vừa đọc vừa nhìn về xứ Mít.
Trích đoạn thôi, đọc, đủ thú rồi. TV sẽ dịch,
như 1 cách đọc xứ Mít, nơi Naipaul gọi là, những
xã hội được làm có 1 nửa, “half-made societies".
GCC đọc Mantel mới đây
thôi, sau khi bà đoạt liền tù tì hai Booker
Prize, hai cuốn tiểu thuyết, cùng đề tài, cùng 1 dạng,
tiểu thuyết lịch sử.
Đọc bài viết về bà, 1 cách nào đó,
là biết khá rành về Naipaul - cái tinh tuý
của ông, phải nói như vậy mới đúng: Cuốn Sách của Thế Giới của Naipaul.
HCM by Karnow
KILLING GOLIATH
When General Vo Nguyen Giap assembled
his army from North Vietnam's poorest villages, Westerners watched with contempt.
But Giap's tactical genius turned the guerrillas into a sharp anti-imperialist
weapon. His mastery of jungle tactics and battlefield psychology terrified
and eventually defeated the French and Americans. Western scorn was replaced
with horror and, as time passed, respect.
France undervalued ... the power
[Ho] wielded. There's no doubt that he aspired ... to become the Gandhi
of Indochina.
JEAN SAINTENY, De Gaulle's special
emissary to Vietnam, 1953
*
"Of course, he was a formidable
adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost,
what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for
human life may make a formidable adversary, but it does not make a military
genius...".
William Childs Westmoreland
Đúng rồi ông ta
là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa
nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC.
Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể
làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên
tài quân sự!
Hà, hà!
The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of
Pity whispered, 'Why?'
Trước khi xẩy ra cú tấn
công
[Điện Biên Phủ]
Tôi luôn cảm
thấy mình có tí ti tội lỗi, khi làm một nhà
du lịch dân sự, ở những vùng thần chết ngự trị: nói
cho cùng, một cái gã còn được gọi là
một người, không nên đi tham quan một thảm họa, ngoại trừ là
nhân viên cứu trợ - một con người cảm thấy mình là
1 nhà “thấu thị”, a “voyeur”, trước bạo lực, như tôi cảm thấy,
trong một cú tấn công [của VC] ở Phát Diệm, hai năm
trước đây. Ở đó, bạo lực đã có mặt rồi: một ngôi
chợ cháy, những căn nhà bị tàn phá, con phố dài
vắng hoe không người qua lại, hay bén mảng, vì sợ bị
bắn xẻ. Nó cũng hiện diện trên con kênh đầy xác
người đến nỗi nước không thể chảy được, với một cái thuyền
lính nhẩy dù ở mép kênh. Nó cũng tới
thăm tận nhà, qua những chuyến hành quân kiểm tra,
khi một bà mẹ và đứa con trai còn nhỏ của bà,
mất mạng, khi bị kẹt giữa hai luồng đạn đối nghịch,
Họ để lại cơn hốt hoảng nào, cho đám dân làng
sống giữa hai lằn đạn như thế?
Tôi đã từng cảm thấy cơn hốt hoảng này, lần
bị lọt vào giữa, một bên Việt Minh, và một bên
là lực lượng Lê Dương. Tôi tự bảo mình,
tôi thù ghét chiến tranh, tuy nhiên, tôi
lại mò tới đây – làm một kẻ 'thấu thị' với những mánh
mung của mình .
Graham
Greene
Còn 1 hồi nhớ khác
nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được,
là 24 tiếng đồng hồ sặc mùi tận thế là đây,
mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng
Giêng 1954. Chín năm sau, tôi được tờ Sunday Times đi 1 đường hỏi thăm, và
đề nghị viết, về 1 “trận đánh quyết định”, tùy tôi
chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.
Mười lăm trận quyết định trên thế giới,
là cái tít thật là cổ điển mà Edward
Creasy đã ban cho cuốn sách của Sir, vào năm 1851.
Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó, có
một, bảnh, “quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào
năm 1954.
Điện Biên Phủ không
chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp,
mà hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng
ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm
sau trận đánh, khi tờ Thời Báo
Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh
thần sầu này.
Võ tướng quân
đọc mà chẳng sướng mê tơi sao? (1)
My Old Saigon
Cao Bồi
The assault
began on 13 March 1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before
the delegates turned at last from the question of Korea to
the question of Indo-China.
But General Giap could
not be confident that the politicians of the West, who showed a certain
guilt towards the defenders of Dien Bien Phu while they were discussing
at such length the problem of Korea, would have continued to talk long enough
to give him time to reduce Dien Bien Phu by artillery alone.
So the battle had to
be fought with the maximum of human suffering and loss. M. Mendes-France,
who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for surrendering the north
of Vietnam just as General Giap needed his spectacular victory by frontal
assault before the forum of the Powers to commit Britain and America to
a division of the country.
The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of
Pity whispered, 'Why?'
Cuộc tấn công bắt đầu này
13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng
Năm, trước khi các phái đoàn, sau cùng rời vấn
đề Korea qua số phận Đông Dương.
Nhưng Tướng Giáp không thể yên trí, chính
trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí tội đối với
những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu
về Korea - bi giờ kéo dài cuộc cò cưa, đủ thời giờ
cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình
địa lòng chảo DBP.
Và thế là trận DBP đi vào cuộc nướng người.... Thủ Tướng Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng
VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần chiến thắng huy hoàng,
trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh
vô bàn hội, để xẻ thịt xứ Mít.
Con ma nham hiểm Bắc Kít,
Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế thôi!
Và Linh Hồn Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì
thầm, Tại sao?
Graham Greene: Ways
of Escape
Trong Đất Trời Nhau....
Trong đất trời nhau mình vẫn
gần.
Mai Thảo
Khu lều bạt Thăng Long, nơi tạm trú
sinh viên Hà Nội di cư, nằm ngay trung tâm thành
phố trên đất Khám Lớn Sài Gòn cũ, tháo
dẹp. Sinh viên chuyển vào Đại Học Xá Minh Mạng, dù
công trình xấy cất chưa hoàn tất. Đặc san Lửa Việt
của Hội Sinh Viên Đại Học Hà Nội, do anh Trần Thanh Hiệp làm
chủ nhiệm, anh Nguyễn Sỹ Tế làm chủ bút, sau số Xuân
Chuyển Hướng, cũng ngưng xuất bản.
Bấy giờ là năm 1955. Di cư đã đến hồi vãn
cuộc. Hà Nội khuất biệt từ tháng Mười năm trước. Sài
Gòn vẫn còn xô bồ những mới mẻ, những hứa hẹn trong
con mắt người di cư.
Chúng tôi - các anh Trần Thanh Hiệp, Nguyễn
Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, và tôi - gặp nhau, cùng
làm việc, quen dần nhau qua mấy số Lửa Việt - nơi đã in vở
kịch Trắng Chiều của anh Tế viết
khi còn ở Hà Nội, các truyện ngắn Chàng Nhạc Sỹ, Gìn Vàng
Giữ Ngọc của anh Sỹ và một vài bài thơ của
tôi - , đồng ý cần có tờ báo của mình
để viết cho sướng tay,
để may ra đóng
góp được cái gì cho công cuộc chung.
Trong khi chờ anh Hiệp tìm kiếm nguồn tài trợ, chúng
tôi nhận hợp tác với nhật báo Hòa Bình
của anh Vũ Ngọc Các, làm trang Văn Nghệ hàng tuần
cho tờ báo. Tôi được giao phó công việc đầu bếp lo việc sắp xếp bài
vở cho trang báo vì rành thì giờ nhất và
được nết chịu khó đọc.
Nhờ trang báo chúng tôi gặp thêm bạn:
Giao Thanh và Mai Thảo.
*
Giao Thanh, một nhà giáo
bị gọi vào khoá 2 Thủ Đức, chết năm 79 hoặc 80 tại K5, trại
Tân Lập, Vĩnh Phú. Những năm còn ở Sài Gòn,
Sàigòn, Anh và Chị thỉnh thoảng cùng nhau
thả bộ từ nhà ở chung cư Sĩ Quan trên đường Trần Hưng Đạo
gần Đồng Khánh sang nhà tôi chơi ở Bà Chiểu;
năm 70, khi tôi lên Trường Võ Bị Đà Lạt, chúng
tôi gần nhau hơn: anh chỉ ao ước làm sao in được tập truyện
viết từ nhiều năm của anh mà không được.
Nhớ một truyện ngắn của anh gửi đến chúng tôi kể về
một đôi vợ chồng trẻ di cư ở trên một nhà - thuyền,
đêm thao thức, cùng nhau nỉ non tâm sự, cùng
mơ ngày có căn nhà trên đất liền cho con cái
ở; để tả cảnh sông nước Hậu Giang, anh cho nhân vật ra đứng
trên mũi thuyền tiểu tiện xuống sông. Nhớ, sau khi đăng truyện,
gặp anh Vũ Khắc Khoan đã bị trách: "mấy cậu avant-gardiste này
nhảm quá..."
*
Mai Thảo gửi tới chúng tôi
Đêm Giã
Từ Hànội.
Tôi nhận được một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người
gửi, trong đựng xấp bản thảo đánh máy. Bút hiệu
Mai Thảo hoàn toàn xa lạ với tôi.
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài
gửi, tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng
nhìn xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Câu trích đề của truyện đột ngột
khác thường. Nó không trích ra từ một tác
phẩm khác đã có. Nó như tự trên trời
rớt xuống, hay nói như Mai Thảo là câu “bắt được
của trời”. Cái chiều sâu của nó làm chóng
mặt.
Tưởng nên nhắc nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi
biết, cho đến lúc bấy giờ chưa thấy được dùng trong văn
chương Việt Nam. Phải đợi vài năm
sau, khi Phạm Công Thiện xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche,
văn từ “hố thẳm” mới tràn lan và trở thành sáo
ngữ.
Đọc hết truyện thì rõ câu trích đề là
một câu ở trong truyện. Phượng là tên nhân vật.
*
Đây là một truyện không
cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng
nói bắt lắng nghe – theo bước di chuyển của nhân vật giữa
thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm
trong giấc kín bưng triền miên của chúng - , ở sự
dồn đẩy khôn ngưôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao
dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới chốn nhòa
tắt mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã Từ Hànội
là truyện hay tùy bút đều được. Cứ theo ký
ức cùng cảm thức của riêng tôi, trong và sau
khi đọc, thì đó là một bài thơ. Thơ là
thứ tiếng nói tàng ẩn trong quên lãng bất chợt
vẳng dội, đòi được nghe lại (nghĩa là đọc lại, lập lại). Người
ta nghĩ đến một truyện ngắn, một bài tùy bút, một quyển
tiểu thuyết đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng thời nghe và
gặp lại một câu thơ, một bài thơ.
Đêm
Giã Từ Hà Nội là một bài thơ thỉnh
thoảng vẫn vẳng dội trong tôi mà tôi không thể
nhớ toàn vẹn - tỷ như lúc này đang viết đây
tôi không cách nào tìm đọc bài
thơ ấy trừ cách tưởng tượng dựa vào ý ức và
cảm thức còn sót đọng, trừ câu trích đề.
*
Nhớ
trong buổi họp kiểm bài vở trước khi chuyển xuống nhà in,
tôi đã không thể ngăn nổi mình yêu cầu
các anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe tôi đọc Đêm Giã Từ Hànội
đăng trọn trong một kỳ báo, không cần lời giới thiệu. Và
tôi đọc say sưa, hùng
hồn liên hồi. Và các anh chịu khó ngồi nghe trên
căn gác lửng tối chật của tòa báo. Anh Tế kết thúc
buổi họp nói đùa "Anh làm chúng tôi
mất cái thú tự mình khám phá".
Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh
của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài
bằng câu trích đề của Anh, tuyên xưng nó là
câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá
lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi
ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh
không bằng nửa vần thơ của Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về
Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông
xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng
đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm
nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..",
câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ. [Câu
văn là một câu gắn liền trong mạch văn, tách ra khỏi
mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu
thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái
nền thiếu vắng nó gợi nhắc].
*
Đăng bài Anh, tôi viết lời nhắn mời anh đến chơi tòa
soạn. Mai Thảo đến.
Anh đi chiếc xe đạp đầm sơn trắng, đầu còn đội mũ phớt kiểu Hà Thành Công Tử.
Yên xe đạp được nâng lên cao hết cỡ vẫn chưa vừa với
tầm chân của anh. Chúng tôi rủ nhau ra quán
cà phê đầu hẻm gần đấy, ngồi trên ghế thấp trên
lề đường Lê Lai trông sang bờ tường rào của nhà
ga Sàigòn nói chuyện. Hồi ấy anh mới vào
Nam, còn ở chung với gia đình anh Viên trong một căn
phố đường Jacques Duclos, thuộc khu Tân Định (đường này song
song với đường Trần Quang Khải, trong khoảng từ nhà hát
bội đến lối vào Xóm Chùa. Tôi nói bỡn:
“Anh ở trúng vào con đường mang tên một tay tổ Cộng
Sản Pháp”).
Chuyện giữa hai chúng tôi xoay quanh văn chương, thi
ca. Anh đọc và nhớ khá nhiều thơ Việt Nam thời
hiện đại kể cả loại thơ ít người đọc như thơ Nguyễn Xuân
Xanh trong Xuân Thu Nhã
Tập. Anh rất chịu thơ Chế
Lan Viên. Nhân đề cập đến thơ ở Hànội rồi Sàigòn
lúc ấy, tôi nhắc đến một bài thơ gần đây tình
cờ đọc trong một trang Văn Nghệ của một tờ báo mới xuất bản: một
bài thơ mới, lạ, chững chạc, dưới ký tên lạ hoắc chưa
từng thấy: Nhị; một bài thơ lạnh,
tôi rất thích chất lạnh
của thơ,và cách biểu hiện cảm thức
bằng những hình ảnh dở dang, trở đi trở lại dưới những ánh
rọi khác nhau, đồng thời với cái tiết điệu biến hoá
được nối kết lại bằng những câu trùng; tôi đọc những
câu thích nhất, có hơi thơ gần siêu thực:
Lại thấy con đường
như lặng
Những đỉnh cây
xanh
Và những ngón
tay trên phím dương cầm
Đôi guốc mộc
trong căn phòng trừu tượng.
Cúi đầu xuống
cúi đầu xuống.
Anh lặng nghe tôi bình phẩm, đọc thơ, rồi nói:
Nhị là tôi.
Chúng tôi thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ
ấy.
*
Cúi Đầu
Cúi đầu xuống cúi đầu
xuống
Mà đi vào chiều xanh đỉnh cây
Một đẹp lên khối hai đẹp lên hình
Người cúi đầu đi vào chiều mình
Thảm cỏ non cánh cổng thấp
Lớp đá đường rồi thảm cỏ non
Hướng chiều thăm thẳm phố hoang vu
Người tuổi ấy hát chiều sao ấy
Tiếng hát suối trong hàng mi liễu buồn
Mắt tròn im lặng.
Tôi chọn tình yêu
làm biển trời
Cúi đầu xuống cúi đầu
xuống
Mà thương trở lại nhớ nhung về
Hàng hiên xưa, trang sách mở, cánh tay
ngọc
Chiếc dây chuyền và sợi len đỏ
Mái tóc dài của người trong vườn
Cột điện đầu tường lá rụng
Rào rào mái đựng mùa thu
Phố đếm chân đi về mãi mãi
Điếu thuốc lá, chiếc khăn quàng, vành mũ lệch
Đổ xuống bờ vai bóng tối núi rừng
Mưa phùn ngõ nhớ nghiêng lưng
Lối đi là lối dương cầm
Đôi guốc mộc căn phòng trừu tượng
Tôi chọn tình yêu
làm biển trời
Cúi đầu xuống cúi đầu
xuống
Mà dựng tình yêu thành thế giới
Cấy những chùm sao lên nền trời
Hát nghìn năm biển đầy vĩnh viễn
Lại thấy con đường im lặng
Những đỉnh cây xanh
Và những ngón tay trên phím dương cầm
Đôi guốc mộc căn phòng trừu tượng
Cúi đầu xuống cúi đầu
xuống
NHỊ
*
Trong nhiều năm anh viết văn, bằng
lòng làm nhà văn, không làm thơ. Trên
Sáng Tạo chỉ một lần anh đăng hai bài thơ ngắn – Nghe Đất, Ý Thức – cũng ký
tên Nhị. Cả ba bài thơ của thời trẻ này được giữ lại
trong tập Ta Thấy Hình Ta Những
Miếu Đền gồm những bài thơ anh làm sau ngày
anh bắt buộc phải lìa bỏ Sàigòn. Chẳng rõ anh
Khánh có tìm thấy những trang thảo để lại trên
bàn viết của Anh bài thơ nào sót không?
Câu thơ trích làm nhan cho bài viết này
lấy từ một bài thơ anh gửi tôi khi tôi còn ở nhà
sau chuyến đi Bắc.
Ở Người Việt rồi Sáng Tạo, anh viết truyện ngắn,
tùy bút, lý luận… Những bài tùy bút
như Phương Sao, Tiếng Còi Trên
Sông Hồng đánh dấu một bước mới mẻ của câu văn
Việt. Tuy nhiên, đối với tôi, anh lúc nào cũng
là một thi sĩ cho dù anh không làm thơ.
Đầu năm 78, ở Lao Kay lần đầu tiên
nhận được thơ nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: “Bố
nuôi của Thái về quê ngoại sống, không ở Sàigòn
nữa”) tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ. Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào
lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một
thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn
ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có
cả lời thơ của anh.
*
Như mọi thi sĩ của một thời điêu
đứng, anh chạy trốn thơ cho đến lúc không thể trốn được nữa,
bởi anh đã rõ:
Cõi không
là thơ, Không còn gì hết là Thơ. Nơi không
còn gì nữa hết là Thơ. Một xóa bỏ tận cùng.
Từ sự xoá bỏ chính nó. Tôi xoá bỏ xong
tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ.
Và như thế…?
Et le poète reconquiert
son invisibilité.
Jean Cocteau
Good Night, Sweet Prince!
Hamlet – Shakespeare.
Chúc Người An Giấc, Công
Tử của Lòng Ta.
Thanh Tâm Tuyền
2-98
[Lần
đầu đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân 1998
]
Viết mỗi ngày
To
compare the Albanian Writers' Union to a whore seems extremely
vulgar, like so many overused metaphors, particularly the ones that
have become common since the fall of Communism:
So
sánh Hội Nhà Văn Albanie với một em bướm xem ra
quá tầm phào, giống như những ẩn dụ được xào
đi xào lại đến trở thành toang hoác, kể từ khi
chủ nghĩa CS sụp đổ...
Đây chắc là
tự thuật của đích thân tác giả nhà
văn Albanie, Kadaré, người đã từng được một trong
những đất nước tư bản mời tham quan, và khi trở về quê
hương, bị sếp kêu lên bắt làm tự kiểm, vì
chót ghé thăm đám nhà văn lưu vong,
đồi truỵ, bỏ chạy quê hương, và trong khi ông
ta hết sức phân trần, làm gì có chuyện
đó, thì sếp của ông bật cười, làm gì
có chuyện đó, đúng như vậy, nhưng chúng
nó báo cáo mật với tôi, là anh mò
đi thăm khu nhà thổ WJC, ít lắm thì cũng trên
một lần!
*
''You know, there are still a lot of people out
there throwing sand in the gears, and they never give up," I continued.
''You know what I heard today? Some fool who is setting up a condom
factory had the gall to propose the name of our national hero Scanderbeg
for the first Albanian-made condom."
She blushed, not knowing
where to look.
"I don't understand all
this nonsense," she muttered. "How can they profane our national hero? Will
they never learn?"
"That's exactly what I said when I heard about
it. But he justified the name by saying that a condom had to be
strong and resistant, and since there was no better symbol of resistance
than Scanderbeg ... "
“Cô có
biết không, vẫn có cả lố những đứa không chịu
ngưng chống phá cách mạng,” Tôi tiếp tục. “Cô
có biết bữa nay tôi nghe nói, có một tên
khốn tính thành lập một cơ xưởng đầu tiên chuyên
sản xuất áo mưa ở xứ sở CHXHCN của chúng ta? Và
nó tính đặt tên áo mưa là gì,
cô biết không?”
Thấy em bướm nhà
văn ngớ người, tôi nói luôn:
“Võ tướng quân"!
-Ui chao Ngài
là vị anh hùng quốc gia….
-"Nó nói, Ngài chẳng đã
từng làm công tác hạn chế sinh đẻ, 'cầm quần
chúng em' là gì! Vả chăng, áo mưa
cần phải dẻo, dai, và đất nước đâu có biểu tượng
nào dẻo dai như Võ tướng quân đâu? Hom hem
như Ngài mà còn phải xông trận bô
xịt kia kìa!"
https://hoanghannom.com/2016/05/27/why-read-the-classics/
Italo Calvino: Tại sao đọc tác
phẩm kinh điển?
Tribute to Phạm Duy
Trong cuốn dvd
đúp, Ngày Trở
Về, Phạm Duy cho biết, bài Thuyền Viễn Xứ được
sáng tác, trong dòng những bài trước
đó, của Hoàng Quý, của Đặng Thế Phong... ra
đời trước nó 10 năm, tuy nhiên, ông nhấn mạnh,
nếu những bài hát kia mang chất Lãng Mạn, biểu
hiện một thứ tình cảm cá nhân, thì bài
TVX có
tính hiện thực, không biểu hiện một cõi
tôi cá nhân. Thí dụ như câu:
Sóng
Đà giang thuyền qua xứ người.
Theo Gấu, bài
Thuyền Viễn
Xứ là một bản nhạc không mang tính hiện
thực, mà là tính tiên tri. Nó
đã được sáng tác ra, cho những người Việt ở
hải ngoại, mãi sau này, ngay cả khi PD đã trở
về, và họ, không thể trở về, chỉ còn cách
hát bản nhạc của ông, cho đỡ nhớ quê hương:
Chiều nay gửi tới
quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người.
*
Khủng khiếp thật, quyền năng, sức mạnh tiên
tri.
Của, chỉ một bản nhạc!
Nói Thuyền
Viễn Xứ được sáng tác cho những thính
giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn
dặm, thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó
còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong
nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải
tạo, tinh thần thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì
cứ nói đại, cho dù chính tác giả của nó
cũng chẳng thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù
VC đâu, thính giả đích thực của bản nhạc TVX,
là đám tù cải tạo.
Nói, "nó còn nhắm tới", có
lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại
càng không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền năng huyền bí
của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích
dẫn Lévi-Strauss, sự phát minh ra giai điệu là
một "bí mật tối thượng".
Gấu, tên tù cải tạo, vào lúc
không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên 'quê
hương' xuất hiện, không phải như là một 'kinh nghiệm
về thời tiết, kinh nghiệm về khổ đau" (1), mà như một món
quà tặng thật là tuyệt vời. (1)
Kafka viết, có
thứ âm nhạc chỉ để hát ở địa ngục.
Một cách nào đó, với Gấu Cà
Chớn, khi nghe TVX, ở trại tù VC, đúng như Kafka
phán.
Đầu năm lại chúc bác
mạnh khỏe.
Sáng nay đọc blog HH bác giới thiệu.
HH là ai vậy – viết nhiều quá sức, giỏi quá.
Đọc cái này vui ghê..
Tức mình muốn chửi thề
Posted on April 19, 2011 by Bà
Tám
Tôi thỉnh thoảng gửi bài
dịch cho Da Màu. Rất nhiều lần Da Màu nhờ tôi dịch bài này bài kia, tôi vui lòng
nhận lời. Có khi tôi dịch cũng sai vì không hiểu
hết, vì láu táu không kỹ,
không đọc lại. Da Màu chỉnh sửa, edited, thường thường tôi
cũng vui lòng không nói gì. Gần đây tôi
được nhờ dịch truyện của Angie Châu. Dịch xong tôi có
đưa cho ông bố của cô Angie đọc lại. Ông cũng góp
ý sửa chữa tôi làm theo, bản dịch tôi thấy hài
lòng. Không dám nói là hay nhưng nếu đã
được nhờ dịch nhiều lần thì chắc cũng tạm ổn. Ai mà đi nhờ
người dịch mình không vừa ý bao giờ. Lần này
tôi được bảo là Da Màu sẽ đăng bản dịch vào tuần
thứ Hai tháng 4 sau khi soandso xem lại. Hôm nay đi làm
về tôi nhận được e-mail bảo tôi như thế này:
“Chị HH,
Em đã dành rất nhiều thời gian để
edit cho hoàn hảo. Mỗi ngày em làm khoảng
1 tiếng suốt hơn hai tuần lễ đó chị. Em gởi chị bản đã
edit nhé, chị em mình cùng tham khảo nhé.”
Tham khảo cái con mẹ gì.
Nghe mà hết hồn. Làm mình nghĩ dịch gì mà
dở đến độ người ta phải hoàn hảo hóa nó đến mức tốn
thì giờ đến thế. Nghe giống như bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ “nè
mụ kia, mụ xấu quá phải sửa cặp mắt, lỗ mũi, bụng mụ mỡ không
phải cắt lớp mỡ ấy đi, ngực mụ lép quá phải bơm silicon vào,
môi kia phải bơm cho đầy, bàn tay phải bơm cho mất gân,
tôi phải mất thì giờ, năm chục ngày trên bàn
mổ, và 500 ngàn đô la cho mụ trở nên hoàn
hảo trong mắt tôi. Chân mụ ngắn tôi sẽ ghép một
khúc xương, đầu mụ méo tôi sẽ niền kim cô cho nó
tròn."
Xong rồi chễm chệ ký tên
tòa soạn hiệu đính. Chuyện dịch sai sửa cho đúng thì
tôi cám ơn, chứ lấy chữ này thay cho chữ kia vì
nghĩ là nó hay hơn thì không ổn. Chuyện hay dở
là chuyện perception. Cô thấy chữ cô hay nhưng tôi
thích chữ tôi dùng. Tôi thích cái
khiếm khuyết xấu xí của tôi. Nếu chê tôi xấu thì
đừng mời tôi thi hoa hậu. Còn nếu muốn đánh rớt tôi
thì cứ đánh rớt. Tôi muốn giữ cái vẻ tự nhiên
của tôi. Văn mình vợ người. Mình thấy văn mình
hay nhưng người ta không thích thì sao? Nói thật,
tôi chưa lần nào đọc những bài thơ hay bản dịch của cô.
Cô dựa vào đâu mà nghĩ là bài dịch
của cô hay hơn bài dịch của tôi? May mà dịch không
ăn tiền. Chảnh gì mà chảnh dữ a. Từ rày tôi sẽ
không gửi bài dịch cho Da Màu nữa đâu nhé.
Quí vị cứ tha hồ tự biên tự diễn. Hồi đó đến giờ tôi
bị một hai lần như thế. Mình cong lưng dịch, thiên hạ sửa rồi
tự ý thêm vào nhuận sắc và hiệu đính. Mỗi
lần như vậy là tôi phát sùng nhưng nghĩ bụng chuyện
chơi mà hơi sức đâu mà giận, nhưng riết rồi cũng phát
cáu. Thấy dở thì đừng đăng. Cứ đợi người ta làm cực
khổ rồi nhào vô ăn có. Ai cũng biết người đọc sau khi
người ta dịch luôn có lợi thế ở chỗ đánh bóng bản
dịch. Làm văn chương gì mà cướp sức lao động của người
ta trắng trợn thế. Chẳng những ít tốn sức lao động còn được
lên giọng là ta đây giỏi hơn. Nói phét thì
cũng vừa phải thôi. Tôi dịch trung bình nửa giờ một trang,
một đoạn truyện năm sáu trang như thế này tôi chỉ mất
hai ba giờ đồng hồ để dịch, thế mà phải sửa đến 14 giờ, bộ vừa đọc
vừa đánh vần đấy nhỉ? Tôi đánh vần vẫn còn nhanh
hơn thế. Lưu manh!
ĐM!
Xin lỗi độc giả, vì tôi
tức quá nên chửi cho hả giận!
Note: Đầu năm chửi thề có
khi lại hên đấy!
Forward to HH with best regards from both of us,
TV/Reader.
Cái diễn đàn này,
y chang Hậu Vệ, cái tên của nó đã không
nên thân, làm sao mà có thứ văn
chương không biên giới, đây là thuổng
tụi mũi lõ; “phóng viên không biên
giới”, OK, văn chương làm sao mà không biên
giới? Nội viết bằng chữ Mít là lũ mũi lõ chịu
thua rồi!
Rồi Da Màu nữa chứ. Ngay lúc mới
xuất hiện là Gấu đã đề nghị coi lại, đếch chịu "hiệu
đính", chán thế!
Tếu nhất là có lần có ông
ký giả dịch 1 bài Mẽo viết về Bà Aung, “nhà
vô địch”, the champion, đến New York gì gì
đó, dịch là “nhà dấn thân”... Gấu ngứa miệng, dịch gì mà
ngu thế. Sau, đọc lời tòa soạn, chữ “dấn thân” là
của đám ngu chúng tôi, không phải của
ông ký giả họ Đinh!
Nghe giải thích mới hỡi ơi, nhà dấn
thân đến Mẽo thì có thể dùng cho bất
cứ ai, … Gấu Cà
Chớn, thí dụ, cũng nhà... dấn thân vậy!
Nhân đây xin lỗi ông ký
giả họ Đinh.
An Nam có câu làm
tà lọt người khôn còn hơn làm thầy
lũ ngu, là vậy!
NQT
Pleiku - Chút Gì Để Nhớ
Đăng ngày: 18:04 21-05-2011
Tôi nhìn thấy Pleiku lần
đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong.
Tôi ở trong dãy nhà gỗ trải dài trên
đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được
gió lùa vì hai mặt trước sau đều chưa lắp
gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba hay bốn dãy,
lâu quá tôi không còn nhớ. Tôi
ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng trước nhà tôi
nhìn thấy rừng cây cao chớn chở bên trái. Ngóng
cổ một chút, bên phải, tôi nhìn thấy biển mênh
mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa
nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía
sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn thấy dãy
nhà phía dưới.
Phố núi cao phố núi mù sương.
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . . Tiếng nhạc vọng từ dãy
nhà bên dưới, có một người đàn bà
vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói
củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám
trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương.
Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh
năm mùa đông. Nên tóc em ướt. Nên mắt
em ướt. . . Đó là lần đầu tiên tôi nhìn
thấy Pleiku trong bài thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc.
Thật ra tôi nghe bài hát này đã nhiều
lần nhưng không để ý đến Pleiku chỉ để ý đến một
mối tình và hai câu thơ còn một chút
gì, để nhớ để quên. Đầu óc thơ dại của tôi
vào cái tuổi chỉ biết yêu thôi chả hiểu gì
nghĩ thầm ông này nói gì kỳ quá, đáng
lẽ đi đôi với để nhớ phải là để thương chứ sao lại để
quên. Chỉ sau khi lớn lên thêm chút nữa, rời
VN tôi mới nghiệm ra, Sài Gòn là nơi tôi
có nhiều điều muốn quên. Buổi chiều hôm ấy ở trên
đảo Bidong tôi lần đầu hình dung Pleiku, một vùng
cao nguyên, núi non, có sương mù, có
những cô gái má đỏ môi hồng, tiềng khèn
Tây nguyên, đường phố lưa thưa vắng vẻ.
Pulau Bidong, chùm núi mọc giữa biển,
có nét của Pleiku trong óc tưởng tượng của
tôi. Rừng cây cao với những chiều mù sương. Những
buổi chiểu mưa trên biển mây là đà ngay
trên ngọn cây, trời như chùng xuống. Chưa lần nào
được đến thăm Pleiku nhưng tôi mang hình ảnh Pleiku
qua bài thơ Vũ Hữu Định trong lòng từ đó.
Từ San Francisco, tôi đến Mariposa vào
một buổi chiều tháng Tám. San Francisco ban ngày
chỉ có 68 độ F, trong khi ở Mariposa chỉ cách đấy vài
giờ lái xe, buổi trưa lên đến 94 độ F, trời nóng
như thiêu. Mariposa là một thị trấn rất nhỏ nằm trên
đường CA 140, cách khu rừng Yosemite, địa điểm du lịch nổi
tiếng trên thế giới, chừng non 50 kí lô mét.
Thị trấn này nhỏ đến độ lái xe với tốc độ bình
thường 65 dặm một giờ người ta sẽ chạy qua khỏi Mariposa trong vòng
một hai phút, không kịp nhận ra là mình
đã chạy lố. Nằm ngay chân rặng Sierra Nevada, Mariposa là một phố núi
tĩnh lặng. Tôi muốn dành trọn ngày cho Yosemite
nên nghỉ đêm ở Mariposa sáng sớm hôm sau sẽ
lên đường đến Yosemite. Cửa phòng trọ của tôi mở ra
một lan can đầy dây leo có tua loắn xoắn. Trước mắt tôi
là rặng núi Sierra Nevada với những ngọn thông
với tay lên đến trời. Chúng tôi ăn trưa ở tiệm pizza
trên đường Bullion, con đường chính của Mariposa. Cô
gái phục vụ là một người da trắng. Hơi nóng làm
má cô đỏ rực như hai quả táo chín. Cô
có vẻ phốp pháp mũm mĩm của cô nàng rót
sữa trong bức tranh của họa sĩ Johannes Vermeer.
Mariposa, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa
là bướm. Thành phố mang tên Bướm vì
ngày xưa, khi người ta bắt đầu đến đây để khai mỏ, theo
cơn sốt vàng chinh phục miền Viễn Tây, loại bướm chúa
Monarch, ở đầy tràn thung lũng. Hằng năm chúng quay
trở về thung lũng như những người lưu vong, luôn quay về (hay tìm
cách quay về) nơi chôn nhau cắt rốn. Dùng bản đồ
do khách sạn cung cấp tôi đi tham quan thị trấn. Dọc theo
CA 140, một bên đường là núi, còn bên
kia là thị trấn. Ở cực Nam của thị trấn là nghĩa địa
thánh Joseph. Cực Bắc là viện bảo tàng về thợ mỏ
và dụng cụ khai thác mỏ vàng và bạc. Vào
năm 1849 người ta đổ xô về Mariposa để săn vàng. Di tích
còn lại là một số tòa nhà cổ ngày
xưa là tòa soạn báo, nhà in, lữ quán,
và một vài ngôi nhà thờ rất đẹp. Ở góc
đường thứ 5 có một nhà tù bằng đá xây
từ năm 1850 vẫn còn được dùng cho đến năm 1963. Gần cuối
con đường Bullion là Tòa án của Mariposa.
HH
Bài này, của HH
mới thần sầu. GCC khám phá ra nữ “văn sĩ" HH, qua
bài này.
Trong bài viết Pleiku là thành
phố tưởng tượng, vì đã tới đó bao giờ đâu.
Nhưng mấy nơi chốn kia thì có thực, vì đã
từng thăm viếng.
Dùng cái thực để dựng lên cái
ảo, thế mới tuyệt.
"Khói củi ướt nhóm
trong lò bốc lên màu xám trong buổi
chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương"
Thực.
Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây
buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc
em ướt. Nên mắt em ướt. . . Đó là lần
đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong bài
thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc.
Ảo
Được Ông Gấu khen thì
đúng là lên thiên đàng!
HH phán.
Tks again
Take care
NQT
Một thời để yêu, hát, và
chết.
Thư tín:
Chú Trụ,
Re: Mr. Bean.
Mới xem hôm qua. Và
chợt nhận ra rằng, khi Mr Bean không cười khá giống
chú Trụ (qua hình trên trang nhà). Không
chừng, khi chú Trụ cười, lại giống Mr. Bean.
Re: Câu hỏi về bài
thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Vâng, đã đọc.
Chuyện văn thơ của các ngài thi sĩ đó có
thể nói hoài chẳng dứt nhưng cũng có thể chung
qui được một điều: 19 năm văn chương Miền Nam là một điểm
son trong văn chương (toàn cõi) Việt Nam thời cận
đại mà ảnh hưởng của nó vẫn còn đến ngày
nay. Cháu chỉ sống trong thời đó chừng vài ba
năm do sinh sau đẻ muộn. Chỉ biết được những dòng thơ lời hát
đó qua người nhà và khi đi khỏi Việt Nam (cũng
hơn ½ đời người). Nhưng vẫn ấp ủ nó trong lòng
như một hoài niệm về thời hoàng kim nào đó.
Điều thú vị là sau nầy về Việt Nam gặp những đứa em bà
con, những người bạn mới đều sinh sau 75 và đều có chung
một hoài niệm đó.
Re: comments về Nguyễn Ngọc Tư
và vài bài nhận định khác: Cháu nghĩ chú
đem suy nghĩ và hy vọng của chú vào NNT. Theo cháu
nhà văn nầy không có nghĩ đến mức đó đâu.
Lan N
*
Phúc đáp:
Cám ơn rất nhiều.
Thư viết đúng giọng Mr. Bean. Tuyệt vời!
6.2.2013
Best Tết to U
Take Care
NQT
Cái cú Gấu được
nghe, hai bản nhạc, cùng của PD, ở trại tù Đỗ Hòa,
nó cực kỳ thê lương, và sau này, ra
được hải ngoại, gặp lại cô bạn, rồi được sống thêm ra,
rôi ra bao nhiêu năm trời, rồi làm trang TV ròng
rã hơn 20 chục năm, bây giờ nghĩ lại, quả là
có Ông Trời thật, và thằng trời già này,
quả có gì để ý đến tên Gấu Cà Chớn,
hắn hành hạ Gấu khủng khiếp, rồi sau đó, ban cho Gấu
đủ thứ, có nhiều thứ Gấu không thể hiểu nổi, thí
dụ như đọc được thơ, rồi làm thơ, rồi dịch thơ, quái thật.
Viết mỗi ngày
Tướng Âm Binh
Note: Cuốn này, theo 1 vị bằng
hữu FB cho biết, đã được dịch ra tiếng Việt rồi: Viên tướng
của đạo quân đã chết. Tks.
Bìa
sau:
VINTAGE
CLASSICS
www.vintage-classics.info
'Literary
gold dust - haunting, bleakly comedic and ultimately horrific'
The Times
Twenty
years after the end of the Second World War, an Italian general is
dispatched to Albania to recover his country's dead. Once there he meets
a German general on the same sad mission. As they go about their gruesome
business, both helped and hindered by the local population, we glimpse
the lives of the people whose graves they are under orders to disturb.
'The most
innovative of Albanian writers'
New York
Review of Books
Trang đầu:
Look, I
have brought them back.
The going was rough, and the weather
was on our backs all the way.
Bản tiếng
Anh, dịch từ bản tiếng Tây, bản tiếng Tây, từ nguyên
tác tiếng Albania
Như thế,
thì cuộc giao lưu hòa giải giữa hai miền đã được
nhà văn Kadare "tiên tri" ra rồi:
Một tên
Ngụy như Phan Nhật Nam, và 1 tên VC như Bảo Ninh, sau cuộc
chiến Mít bèn cùng nhau làm 1 chuyến đi buồn,
a sad mission, đi lượm xương người chết.
Trích
hai chương ngắn, dịch sau.
Another
Chapter without a Number
ONCE UPON
A time a general and a priest set off on an adventure together. They
were going to collect together all the remains of their soldiers
who had been killed in a big war. They walked and walked, they crossed
lots of mountains and lots of plains, always hunting for those bones
and collecting them up. The country was nasty and rough. But they didn't
turn back, they kept on further and further. They collected as many
bones as they could and then they came back to count them. But they
realized that there were still a lot they hadn't found. So they pulled
on their boots and their raincoats and they set off on their search
again. They walked and they walked, they crossed a lot more mountains
and a lot more plains. They were quite exhausted; they felt they were
being crushed into the ground by their task. Neither the wind nor the
rain would tell them where to look for the soldiers they were seeking.
But they collected as many as they could and came back once again to count
them. Many of the ones they had been looking for still hadn't been found.
So at the end of their tethers, quite tired out, they set out on another
long journey. They walked and they walked, on and on and on. It was winter
and it was snowing.
"What about the bear?"
"Then they met a bear ... "
The story the general told himself every evening, and intended
to tell one of his grand-daughters as soon as he got back,
invariably ended with the question: "What about the bear?", simply
because his grand-daughter always asked that question, sooner or later,
when listening to a story.
Chapter
without a Number
WHAT ELSE
IS there for me to write? What remains but a monotonous chronicle
of recurring details. Rain, mud, lists, reports, a variety of figures
and calculations, a whole dismal technology of exhumation. And besides,
just lately something strange is happening to me. As soon as I see
someone - anyone at all - I automatically begin stripping off his hair,
then his cheeks, then his eyes, as though they were something unnecessary,
something that is merely preventing me from penetrating to his essence;
and I envisage his head as nothing but a skull and teeth - the only details
that endure. Do you understand? I feel that I have crossed over into
a kingdom of bones, of pure calcium.
Subtle dissent of a Balkan bard (1):
Cuộc đời và tác phẩm của Ismail Kadare.
Robert Elsie, TLS số đề ngày 24 Tháng Sáu,
2005.
(1) Đọc giữa hai dòng chữ: Tính ly khai tinh
tế của một nhà thơ vùng Balkan.
Chẳng nghi ngờ chi, Ismail Kadare, người vừa được Intel Man
Booker Prize, là một nhân vật sáng tạo và
uyên nguyên của giới văn học đương thời Albania. Thêm
nữa, ông là nhà văn Albania độc nhất được hưởng
[enjoy] tiếng tăm quốc tế ở bên ngoài xứ sở này. Tài
năng của ông, qua bốn thập niên chẳng hề mất đi một chút
nào sức mạnh của nó, một sức mạnh có tính
"đổi mới" [innovative force]. Sự can đảm của ông, dám tấn
công vào sự tầm thường, rẻ tiền, tồi tệ của văn học, ở bên
trong một chính quyền Cộng Sản, đã đem một luồng gió
mới, mát mẻ cho văn hóa Albania bao năm u ám trong
vòng trói của sự đồng phục do nhà nước đặt để.
Sinh năm 1936 tại thành phố bảo tàng [museum-city]
Gjirokastra, Kadare học Phân khoa Sử học và Ngữ
văn tại Đại học Tirana, và tiếp theo đó, tại Học Viện
Gorky về Văn Chương Thế Giới, tại Moscow tới năm 1960, khi liên
hệ giữa hai nước Albania và Xô Viết trở nên căng thẳng.
Trở về quê hương, ông làm nghề ký giả, trở
thành Tổng Biên Tập của một tờ báo định kỳ văn học
bằng tiếng Pháp, Văn Học Albania [Les Lettres Albanaises], và
còn giữ một số chức vụ chính trị có tính
hình thức [formal political functions], Ba mươi năm tiếp theo, Kadare
sống cuộc đời của ông tại Tirana, thường trực dưới con mắt cú
vọ của Đảng Cộng Sản và nhà độc tài Enver Hoxha [1908-85].
Ông khởi nghiệp như là một thi sĩ nhưng càng ngày
càng thiên về văn xuôi, trong thể loại này,
ông trở thành một bậc thầy không chối cãi,
và một nhà văn phổ thông nhất trong toàn cõi
văn Albania. Những tác phẩm của ông có một tầm ảnh
hưởng hết sức lớn lao vào những năm 1970, tới 1980, và
với rất nhiều độc giả, ông là tia hy vọng độc nhất ở trong
nhà tù ảo não, là Chủ Nghĩa Cộng Sản tại
Albania.
Ông được nhà nước ban cho đặc quyền, nhất là
khi đã trở thành một khuôn mặt nổi tiếng quốc
tế. Thực sự, ông dám đụng vô một số vấn đề, mà
nếu không phải là ông, mà là người
nào khác, thì bèn đi tù.
Nhưng Kadare biết rất rõ, ba thứ đặc ân đặc
quyền như thế, chẳng bền, và chỉ cần một cơn hỉ nộ bất thường
của nhà độc tài, là tiêu táng thoòng.
Vào cuối tháng Muời 1990, chỉ hai tháng nữa là
chế độ độc tài ngủm củ tỏi, Kadare rời Tirana, xin tị nạn chính
trị tại Paris, một hành động cho phép ông, lần đầu
tiên trong đời, hành sử nghề viết lách của mình,
trong hoàn toàn tự do. Những năm sống lưu vong tại Paris
khiến ông viết được nhiều, thành công hơn, được công
nhận hơn. Sau mười hai năm sống tại đây, ông trở
về lại Tirana.
Mặc dù Kadare vẫn được ngưỡng mộ, như là một
thi sĩ tại Albania, danh tiếng quốc tế của ông, là do
văn xuôi mà có, đặc biệt là những tiểu thuyết
lịch sử. Cuốn nổi cộm đầu tiên của ông, Tướng Âm
Binh, nguyên bản tiếng Albania xuất hiện vào năm 1963,
bản tiếng Anh, The General of the Dead Army,1971. Nhìn thời
gian cuốn sách được xb, tác giả khi đó chỉ mới hai
mươi bẩy tuổi, Tướng Âm Binh có thể được coi như là
một tác phẩm về tuổi trẻ, tuy nhiên, đây luôn
là một trong những cuốn tiểu thuyết gây tác động, effective,
nhất, của Kadare. Và được biết đến nhiều nhất.
"Như một con chim kiêu ngạo và cô độc,
bạn sẽ bay trên đỉnh những ngọn núi thầm lặng và
bi thiết kia, kéo những con người trẻ tuổi đáng thương
của chúng ta, ra khỏi chốn bấu víu hiểm nguy, lởm chởm đá
nhọn kia." Đó là viễn tượnng của viên tướng Ý,
trên đường đi cùng một vị tu sĩ buồn bã, cả hai
có nhiệm vụ tới Albania nhặt nhạnh xương cốt của những binh sĩ
của ông ta, đã ngã xuống hai mươi năm trước. Ông
ta bắt đầu thực hiện những bổn phận, theo một nghĩa rất ư là lớn lao,
rất ư là hiển hách, và cho rằng, chỉ những trách
nhiệm cao cả như thế đó mới xứng đáng với cương vị một viên
tướng. "Trách nhiệm mà ông đang thực hiện, thì
có đâu thua gì sự cao cả của những người Hy Lạp, những
cư dân thành Troy, sự trang nghiêm của những nghi lễ
cúng tế, an táng thời Homer." Vị tướng thấy mình ở
trong một xứ sở u ám, mưa liên miên, dân chúng
thì u sầu ủ rột, như lúc nào cũng ăn năn, sám
hối một điều gì, và trong một không khí như
thế, ông ta bắt đầu thực hiện cái trách nhiệm cao cả
của mình, là thu gom những tro than, những xương tàn
của một đội quân đã nằm xuống trong tan hoang rã rời.
Dần dà, và không thể tránh được, ông thấy
mình đối đầu với những thực tại điêu đứng của quá khứ,
và bị ám ảnh bởi tính phù phiếm, vô vị,
chẳng ra cái thống chế gì, chính là nhiệm vụ
cao cả của mình. Bao nhiêu dự tính, bao nhiêu
mộng đẹp, cao cả mà ông vẽ ra từ những thuở nào, nay
trở thành cơn ác mộng cá nhân, của riêng
ông, khi, mớ xương cốt của viên đại tá ghê tởm,
Colonel Z, được một bà già điên khùng ném,
ngay dưới chân ông.
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ.
Mưa xối xả trên kính trước chiếc xe díp
nhà binh được dành riêng cho vị tướng là
một ẩn dụ bình dị trong văn Kadare. Vào lúc Tướng
Âm Binh được xuất bản, cơn mưa xối xả thường hằng [constant], và
nhiều cảnh khác ở trong truyện cứ thế lừng lững đi thẳng vào
văn học Albania. Những đám mây bão xám xịt,
bùn, và thực tại ủ rột, đơn điệu của một ngày như
mọi ngày,chúng đối chọi thật sắc bén với phương
đông hồng sáng chói không thể nào khác
được, cùng cả trăm ngàn những vinh quang, những chiến
thắng của Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội. Cũng thế, là viên
tướng Ý. Ở đây, chúng ta thấy một thủ thuật đắc
ý nhất, của nhà văn, hơn bất cứ thủ thuật nào khác,
nhằm đạt được tham vọng, kéo văn học của xứ sở của mình
thoát ra khỏi sự dửng dưng, cả về văn phong lẫn đề tài của
nó, thoát ra khỏi cái nhìn Albania xa vời
và bị ám ảnh bởi quá khứ, dưới mắt ngây thơ
và không thể nào hiểu nổi của người ngoại quốc. Ao
ước của nhà văn, hay viễn tượng của ông, là làm
sao tạo được hình dáng cho một xứ sở Âu Châu,
đã trở nên tách biệt hẳn ra khỏi Tây Phương,
còn hơn cả Tây Tạng, và còn giúp cho
những người dân Albania, chính họ, nhìn rõ mảnh
đất quê hương, như là những người khác sẽ nhìn
nó như vậy.
Sau lần xuất bản đầu, 1963, và lần sau, có
sửa chữa lại, 1967, chính bản dịch tiếng Pháp của tác
phẩm, Tướng Âm Binh, Le Genéral de l’armée
morte, 1970, đã đạt cơ sở cho sự nổi tiếng quốc tế của Kadare.
Bản tiếng Anh, xuất hiện liền sau đó, đã được tái
bản ít nhất là sáu lần.
Cái gì đã khiến cho Kadare, sống trong
một chế độ Stalin tàn bạo nhất, không thể tưởng tượng
được, có đủ can đảm để viết rồi xuất bản một cuốn tiểu thuyết với
những nhân vật chính là một viên tướng Phát
xít và một tu sĩ người Ý? Bởi vì can đảm
là cần thiết, ở đây
[còn tiếp]
Note:
Kadare đã từng đề nghị nhà nước Albania dùng
tên Võ Tướng Quân cho 1 thứ áo mưa ở nước
ông.
Nhưng Võ Tướng Quân quả thua Tướng Âm
Binh, người đã từng, 42 năm sau, khi cuộc chiến Mít
chấm dứt, vẫn loay hoay hì hục nhặt nhạnh từng đốt xương của
bộ đội Cụ Hồ, "cái gì gì" Xương Trắng Trường
Sơn, Đường Đi Không Tới….
Bài đó, gốc ở đây
https://www.newyorker.com/magazine/2005/12/26/the-albanian-writers-union-as-mirrored-by-a-woman
Hội Nhà Thổ VC như được nhìn qua gương bởi 1 bướm Hà
Lội!
Hà, hà, nhảm quá!
To compare the
Albanian Writers’ Union to a whore seems extremely vulgar, like so many
overused metaphors, particularly the ones that have become common since
the fall of Communism. Yet my plan to put together an accurate history
of the Union (or, at least, its history from 1962 to 1967) has always awakened
in me the vision of a certain woman named Marguerite. I am unable to dissociate
one from the other; they are bound together like a fragrance to an almost
forgotten memory.
Marguerite was a prostitute. She lived
in a little alley off Dibra Street, more or less opposite the alley at
the end of which the Writers’ Union was situated in those years.
So sánh
Hội Nhà Thổ VC với 1 bướm Hà Lội có vẻ quá
dung tục...
Nhưng chính đại phê bình gia Walter Benjamin cũng
nhận ra bướm và nhà văn là "ruột thịt"
Gấu đang sinh hoạt vhnt,
lé, lác xệch, trợn ngược cả mắt lên, vì
nền vhnt hải ngoại!
To be a litterateur is to live under the sign of mere intellect, just
as prostitution is to live under the sign of mere sex. [W. Benjamin: Schriften
II, 179]. Just as a prostitute betrays love, a litterateur betrays the
mind.
Hannah Arendt: Tựa, cho cuốn Illuminations của Walter Benjamin.
[Nhà văn sống với chữ, thì cũng giống như bướm sống với
cái số ta. Và nếu như thế, bướm phản bội tình yêu,
cũng như nhà văn phản bội cái đầu của mình].
http://www.tanvien.net/Souvenir/hnv_vs_hnt.html
To
compare the Albanian Writers' Union to a whore seems extremely vulgar,
like so many overused metaphors, particularly the ones that have become
common since the fall of Communism:
So
sánh Hội Nhà Văn Albanie với một em bướm xem ra quá
tầm phào, giống như những ẩn dụ được xào đi xào lại
đến trở thành toang hoác, kể từ khi chủ nghĩa CS sụp đổ...
Đây chắc là
tự thuật của đích thân tác giả nhà văn Albanie,
Kadaré, người đã từng được một trong những đất nước tư bản
mời tham quan, và khi trở về quê hương, bị sếp kêu lên
bắt làm tự kiểm, vì chót ghé thăm đám
nhà văn lưu vong, đồi truỵ, bỏ chạy quê hương, và trong
khi ông ta hết sức phân trần, làm gì có
chuyện đó, thì sếp của ông bật cười, làm gì
có chuyện đó, đúng như vậy, nhưng chúng nó
báo cáo mật với tôi, là anh mò đi thăm khu
nhà thổ WJC, ít lắm thì cũng trên một lần!
*
''You know, there are still a lot of people out there throwing sand
in the gears, and they never give up," I continued. ''You know what I heard
today? Some fool who is setting up a condom factory had the gall to propose
the name of our national hero Scanderbeg for the first Albanian-made condom."
She blushed, not knowing
where to look.
"I don't understand
all this nonsense," she muttered. "How can they profane our national hero?
Will they never learn?"
"That's exactly what I said when I heard about it. But he justified
the name by saying that a condom had to be strong and resistant, and since
there was no better symbol of resistance than Scanderbeg ... "
“Cô có
biết không, vẫn có cả lố những đứa không chịu ngưng
chống phá cách mạng,” Tôi tiếp tục. “Cô có
biết bữa nay tôi nghe nói, có một tên khốn tính
thành lập một cơ xưởng đầu tiên chuyên sản xuất áo
mưa ở xứ sở CHXHCN của chúng ta? Và nó tính
đặt tên áo mưa là gì, cô biết không?”
Thấy em bướm nhà
văn ngớ người, tôi nói luôn:
“Võ tướng quân"!
-Ui chao Ngài
là vị anh hùng quốc gia….
-"Nó nói, Ngài chẳng đã từng làm
công tác hạn chế sinh đẻ, 'cầm quần chúng em' là
gì! Vả chăng, áo mưa cần phải dẻo, dai, và đất nước
đâu có biểu tượng nào dẻo dai như Võ tướng quân
đâu? Hom hem như Ngài mà còn phải xông trận
bô xịt kia kìa!"
Viết
mỗi ngày
Fallen Idol:
Thần tượng té nhào
Cái
gì làm 1 vị như vị này té nhào?
Trường hợp vị này làm Gấu nhớ tới Xứ
Mít, thời kỳ cả thế giới nhìn về nó, mơ màng,
đêm ngủ, sáng biến thành Mít.
Bài trên Người Nữu Ước số 2 Tháng
10, 2017, với tít: Nỗi tủi hổ của vị nữ lưu Miến Điện,
The Shame of Myanmar's Heroine, tác giả, Hannah Beech,
viết về "cái nhìn mắt mù trước thảm họa nhân
quyền", Tin Văn sẽ chuyển dịch qua tiếng Mít, theo kiểu ra
đòn Kim Dung, Cách Sơn Đả Vẹm.
Bùi Ngọc Tấn, thay vì
Phan Nhật Nam,
trả lời Nguyễn Hữu Thỉnh
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hải phòng ngày 12-10-2001
Kính gửi Ông Hữu Thỉnh,
Tổng thư ký Hội nhà văn Việt nam
Thưa Ông,
Tôi là
Bùi Ngọc Tấn, hội viên Hội Nhà Văn Việt nam
viết thư này gửi tới ông bởi có quá nhiều
tin đồn thất thiệt xung quanh việc tôi nhận giải thưởng của
Hội quan sát nhân quyền (HRW) và chuyến đi Trung
quốc vừa qua của tôi
Người nói tôi
đã nhận giải, nhận tiền, người nói tôi đã từ
chối giải, người nói tôi đã “ẵm gọn” 50 triệu đồng của
thành phố Hải phòng, thậm chí một ông vụ trưởng
còn nói tôi đã làm đơn tự nguyện không
nhận giải mà xin đi Trung quốc như đòi một sự đền bù,
“kỳ này chúng tôi cho đi, tiền tiêu thoải mái.”
Tôi xin phép
được trình bày lại toàn bộ vấn đề để đính
chính trước dư luận những sai lệch trên:
1. Về giải thưởng:
a. Khoảng tháng
3-2001 tôi có nhận được tin từ nước ngoài
báo về tôi được trao giải thưởng văn học Chân
Thiện Mỹ cho bộ tiểu thuyết của tôi. Tiền thưởng kèm
theo giải là 3000 USD. Tôi đã tìm hiểu
về tổ chức đứng ra tặng giải, và khi biết đó là
tổ chức Việt nam phục quốc, tôi đã từ chối nhận giải.
b. Khoảng cuối tháng
4-2001, tôi lại nhận được tin từ nước ngoài báo
về: tôi được trao giải nhân quyền Hellman-Hammett của
HRW. Sau khi tìm hiểu tổ chức này, tôi đã
quyết định nhận giải.
Trong nửa tháng
7 và đầu tháng 8 200l, các ông Hữu
Thỉnh, Tổng Thư ký Hội Nhà văn (HNV), Nguyễn Trí
Huân phó Tổng Thư ký HNV, Đỗ Kim Cuông
vụ phó vụ Văn nghệ Ban Tư tưởng Văn hoá Trung Ương,
Vũ Thiệu Loan, Hồ Anh Tuấn, chủ tịch, phó chủ tịch Hội Văn
nghệ Hải phòng, Nguyễn Viết Lãm, nhà thơ đã
đến nhà tôi khuyên tôi đừng nhận giải.
Với tất cả các
ông trên tôi đã trả lời như sau: Tôi
nhận giải thưởng vì:
1 Nhân quyển
là một vấn đề có mặt ở mọi nơi, mọi quốc gia, mãi
mãi song hành cùng với nhân loại. Không
một quốc gia nào trên thế giới có thể nói
là mình đã giải quyết hoàn hảo vấn
đề nhân quyền.
2~ Đó cũng
là mục tiêu mà Đảng, Chính Phủ, Quốc
Hội nước ta hết sức quan tâm để thực thi ngày một tốt
hơn. Trong các nghị quyết của Đảng, Chính Phủ luôn
luôn có vấn đề dân chủ hoá đời sống xã
hội, chìa khoá đưa đất nước tiến lên.Tình
trạng mất dân chủ hiện nay là rất nghiêm trọng
dẫn tới những hậu quả khôn lường, làm suy giảm lòng
tin của nhân dăn, cản trở sự phát triển của đất nước.
3- Giải thưởng là
do những Đảng viên Đảng Cộng Sản Mỹ góp tài
sản sáng lập.
4- Tôi được
tặng giải là do tập tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của tôi,
trong đó tôi thuật lại trung thực cuộc đời tù
tội oan ức của tôi với một thái độ chân thành
và xây dựng (tôi đảm bảo với ông rằng,
4 nhân vật: ông Trần, ông Hoàng và
vợ chồng người tù không án là thực đến
từng chi tiết), một bộ sách được độc giả rất hoan nghênh
nhưng lại bị thu hồi tiêu huỷ mà tôi luôn
nghĩ đó là việc làm chưa được cân nhắc kỹ.
Nếu đó là quyển sách phản động, chắc chắn tôi
không nhận giải.
5- Người ta tặng giải
cho tôi không kèm theo bất cứ điều kiện nào.
6- Tôi đã
tuyên bố nhận giải, giờ đây tôi không
thể phủ nhận.
II. Về tiền thưởng
kèm theo giải:
1. Khoảng cuối tháng
6 đầu tháng 7- 2001, tiền thưởng đã hai lần được
chuyển từ nước ngoài về tài tài khoản của tôi,
nhưng tôi không nhận được. (người ta gọi điện về tôi
mới biết) Và họ đã đề nghị gửi ít một theo
đường bưu điện nhưng tôi gạt đi vì quá phiền
phức hơn nữa cũng rất khó đến tay tôi.
2- Trong khi gặp tôi,
các ông Hữu Thỉnh, Nguyễn Trí Huân, Đỗ Kim Cuông,
Vũ Thiệu Loan, Nguyễn Viết Lãm đều khẳng định với tôi rằng
tiền thưởng là của CIA. Trước những thông tin từ hai chiều
trái ngược nhau, tôi tự thấy cần phải có thời gian xác
minh, kết luận, không thể vội vàng hấp lấp.
Vì những lý
do trên, tôi đã điện ra nước ngoài
đề nghị tạm hoãn việc chuyển tiền.
Thưa Ông,
Đó là
tất cả những gì xầy ra xung quanh việc tôi nhận
giải thưởng của HRW.
Cho đến bây
giờ tôi vẫn giữ nguyên nhận thức trên. Hơn nữa
cho đến nay việc nhận giải của tôi đã được nửa năm, đã
là chuyện đã qua, không ai nhắc đến nữa. Việc
tôi từ chối nhận giải bây giờ không chỉ làm
tổn hại đến danh dự của tôi mà chắc chắn nó còn
gây phương hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và
Nhà Nước. Và đấy mới là điều tôi say nghĩ
hơn cả.
3- Về số tiền 50 triệu
của thành phố Hải Phòng:
Tôi cũng có
nghe nói thành phố Hải Phòng quan tâm
đến tôi, có thể sẽ giúp đỡ tôi số tiền
khoảng 50 triệu đồng. Khi nghe tin này tôi đã
phát biểu: "Nếu tôi được phép xin chính
quyền làm điều gì đó thì đó không
phải là tiền mà là xin chính quyền xét
lại vụ án rõ ràng là oan sai của tôi."
Cho đến nay tôi
chưa hề nhận số tiền đó.
III. Về chuyến đi
thăm và làm việc tại Trung quốc tháng 9-2001
vừa qua:
Trtong công
văn Hội Nhà Văn VN gửi Thành Uỷ, Uỷ ban Nhân
dân, Hội Văn Nghệ thành phố Hải Phòng (mà
tôi có nhận được bản sao lục) đề nghị ra quyết định
và làm thủ tục xuất cảnh cho tôi, có đoạn
viết: "Việc tác giả Bùi Ngọc Tấn tham gia đoàn
nhà văn đi công tác nước ngoài có
thể góp phần xua tan dư luận phương Tây vẫn cho rằng: tác
giả hiện vẫn bị phân biệt đối xử và bị ngược đãi về
chính trị.”
Rõ ràng
tôi đi Trung quốc vì cái chung chứ không
phải tôi đòi hỏi một sự đền bù nào đó
cho mình. Hẳn ông cũng biết năm 1998, tôi đã
không nhận lời mời của một tổ chức nhà văn quốc tế
mời tôi sang Châu Âu hoặc Châu Mỹ nghỉ một
năm. Tôi luôn nghĩ rằng đối với một nhà văn, điều
quan trọng nhất không phải là một chuyến đi ra nước ngoài.
Trong chuyến đi thăm
Trung quốc vừa qua mà ông làm trưởng đoàn,
thu hoạch sâu sắc nhất của lôi là về trường
hợp ông Trương Hiền Lượng, nhà văn Trung quốc. Ông
Trương Hiền Lượng bị tù oan 20 năm. Ông đã được
sửa sai. Ông chuyên viết về nhà tù, thuật
lại trung thực những gì ông đã trải. Tới nay ông
đã viết và in cả chục tập sách. Nước ta đã
dịch in 3 tập của ông và sẽ in 9 tập của ông. Ông
được coi là một trong những nhà văn hàng đầu của
Trung Quốc, “một nhà văn của bốn bức tường, nghia là nhà
văn của nhà tù." Sách của ông được nhiều
nước phương Tây dịch. Ông chưa bao giờ bị phương tây
nêu tên như một tồn tại về nhân quyền.
Tôi khao khát
số phận đó của Trương Hiền Lượng và hy vọng rằng
chuyến tôi đi thăm và làm việc tại Trung quốc
vừa qua là mở đầu cho một giai đoạn mới của đời tôi.
Tôi xin gửi
kèm theo đây xác nhận của Công an Hải
Phòng về việc bắt tôi tù 5 năm để ông
thấy rằng tôi hoàn toàn vô tội, và
bản sao bức thư tôi đã gửi ông hồi tháng
7 trả lời ông về việc tôi nhận giải thưởng của HRW.
Trân trọng,
(ký tên)
(Bùi Ngọc Tấn)
Nơi gửi:
- Như trên
- Các ông: Nguyễn Trí
Huân,
Đỗ Kim Cuông, Vũ Thiệu Loan,
Hồ Anh Tuấn, Nguyễn Viết Lãm
Đình Kính (để biết)
o0o Note:
Cái thư của Phan Nhật Nam, dở, theo GCC. Đúng
như chính anh tự nhận về mình, 1 người lính hơn
là 1 nhà văn, và khi là nhà văn,
anh ưa đôi co với VC, đúng như "tên số 2" chê
anh, trong 1 bài viết, đăng trên Người Vịt, để check sau.
Cái thư của BNT mới có nhiều điều để lèm
bèm, theo GCC.
[Đặt cục gạch]
https://www.voatiengviet.com/a/trinh-xuan-thanh-hoang-xuan-phu-trong-lu/4004097.html
Vả lại nhận [lại] Trịnh Xuân Thanh, phía
Đức chỉ vớ được thêm một nhân
vật cồng kềnh khó xử.
Bùi Tín, nhận định về vụ TXT
Khi bắt cóc TXT bất
cứ 1 tên Vẹm nào thì cũng nghĩ
như thế.
Các
nhà Phê bình văn học danh tiếng như Đặng
Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc…đều
đã thử bút với thơ Tô Thùy Yên.
Và, dường
như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau
cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê
bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô
Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi vì
Thơ Tô Thùy Yên là kho báu
của thơ Việt, bởi vì Tô Thùy Yên là” một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du
Tử Lê ). Chính xác hơn, Tô
Thùy Yên là nhà thơ lớn
của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Note: Không
để GCC vào với những đấng kể trên, thực sự, với
riêng GCC, là điều rất tế nhị.
Được, được!
[nhại MT]
Và, dường
như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời
sau cùng về ông.
YN
Câu
này, phải tay GCC, viết khác.
Chính xác
hơn, Tô Thùy Yên là
nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Viết như thế, thì ai cũng có
thể viết.
Bài viết có những chi tiết quí,
hiếm, chưa ai biết về TTY, nhưng như vậy, chưa đủ.
Với TTT, đi tù Vẹm, ông làm
lại được thơ, khám phá ra chất “ẩn mật” trong
thơ của ông. Với TYT, cái Hoang Vu Lớn của thơ ông,
đụng với cái Điêu Tàn Lớn của đất nước, và
thơ ông sau khi đi tù về, là nén nhang
tưởng niệm, mà thơ Việt đương thời thiếu.
Cái gì gì, “lấy cây
nhang thật quí, thắp lên thương tiếc chàng”!
Lẽ tất nhiên, mấy tên như Lang Băm,
thì sẽ phán, mi đâu phải phê bình
gia, mi đâu có bằng tiến sĩ, hay như Thầy Đạo, mi
đâu phải dân khoa bảng.
Nhưng, cái đám khoa bảng Mít,
sở dĩ không viết được cái gì cho ra hồn,
đúng là do cái bằng của họ.
Học cố để lấy được cái bằng, để được
hoãn dịch, hay được đi du học, rớt Tú Tài
anh đi trung sĩ, em ở nhà lấy Mỹ nuôi con… Cái
hậu quả tức thời, thì quá rõ, nhưng cái
hậu quả, ngầm, về lâu về dài, thì mới đáng
sợ. Trong bài viết, tưởng niệm Brodsky, (1), Gấu có
phán, về những đấng bỏ chạy nhờ chính sách du
học của Miền Nam:
Tên nào cũng bị bịnh kín, hay
nói 1 cách lịch sự, "chết trong tâm hồn" -
chôm của Sartre- đếch làm sao viết lách được
cái con khỉ gì nữa.
Ngoài bịnh kín ra, còn điều
này:
Không tên nào quên được
cours của Thầy. Viết cái chó gì, là
đều biến thành 1 bài trả bài!
Mít chưa có phê bình
gia.
Viết như thế, là GCC nghĩ đến Thầy của
Gấu, là Steiner, khi ông viết về Lukacs: Làm
phê bình gia vào thế kỷ 20 thật khó
http://www.tanvien.net/Tap/phe_3.html
GEORG LUKACS
AND HIS DEVIL'S PACT
In the twentieth century it is not easy for
an honest man to be a literary critic. There are so many more
urgent things to be done. Criticism is an adjunct....
.... Lukacs has always held himself responsible
to history. This has enabled him to produce a body of critical
and philosophic work intensely expressive of the cruel and serious
spirit of the age. Whether
or not we share his beliefs, there can be no doubt that he has
given to the minor Muse of criticism a notable dignity. His late
years of solitude and recurrent danger only emphasize what I observed
the outset: in the twentieth century it is not easy for an honest man
be a literary critic.
But then, it never was.
G. Steiner: Georg Lukacs và tờ hợp
đồng với quỉ của ông
Vào thế kỷ 20 thật khó mà
là một phê bình gia.
Và, quả như thế thực!
But then, it never was.
Lấy cây nhang thật quí, thắp lên
thương tiếc chàng.
Cả 1 nước Đức, không làm được điều
này.
Lũ Mít thì cũng rứa!
(1)
Thứ Sáu, ngày 8 tháng
3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm
thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng
Giêng 28, 1996), Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ
St. John the Divine, New York, có lẽ đã đúng
như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ,
những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn,
the achievements, ngôn ngữ - the language - của người quá
cố:
Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's
approach
like any woman's face
[Tĩnh vật, trong Phần Lời, Part of
Speech]
(Chết sẽ tới và
sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ
sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của bất cứ một người
đàn bà nào).
Tuy sống lưu vong
gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của
cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa
là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng
vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái
chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự
trống rỗng.
Ông sang Mỹ,
nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận
bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là một xứ đáo để
(Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của
mi...): Anh càng rẫy ra, nó càng bám
chặt lấy anh cho tới hơi thở chót.
-Bao giờ ông
về?.
-Có thể, tôi không
biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi
nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có
ai cần tôi ở đó.
-Đừng nói bậy, họ sẽ không
để ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh
ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới Petersburg...
Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều khiến tôi
không muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó.
*
Theo Tatyana Tolstaya,
nhà văn nữ người Nga hiện đang giảng dạy môn văn
chương Nga và viết văn, creative writing, tại Skidmore College,
thoạt đầu, ông rất muốn về, ít nhất cũng như vậy. Ông
đã từng nổi giận về những lời trách cứ. "Họ không
cho phép tôi về dự đám tang ông già.
Bà già chết không có tôi ở bên.
Tôi hỏi xin nhưng họ từ chối". Cho dù vậy, lý
do, theo Tolstaya, là ông không thể về. Ông
sợ quá khứ, kỷ niệm, hồi nhớ, những ngôi mộ bị đào
bới. Sợ sự yếu đuối của ông. Sợ hủy diệt những gì
ông đã làm được, với quá khứ của ông,
trong thi ca của ông. Ông sợ mất nó như Orpheus đã
từng vĩnh viễn mất Eurydice, khi ngoái cổ nhìn lại.
Mỗi lần từ Nga trở
về, hành trang của Tolstaya chật cứng những bản thảo
của những thi sĩ, văn sĩ trẻ. "Cũng không nặng gì
lắm đâu. Xin trao tận tay thi sĩ. Nói ông ta
đọc. Tôi chỉ cần ông ta đọc". Ông đã đọc,
đã nhớ và đã nói, thơ của họ tốt...
Và ca ngợi điều may mắn. Và những nhà thơ trẻ
của chúng ta đã hất hất cái đầu, ra vẻ: "Thực
sự, chỉ có hai nhà thơ thứ thiệt tại Nga, Brodsky và
chính tôi". Ông tạo nên một cảm tưởng giả,
ông là một thứ ‘Bố già văn nghệ’. Nhưng chỉ một
số ít ỏi thi sĩ trẻ đã từng nghe ông rên rỉ:
Sau cái thứ này, tôi biết anh ta vẫn tiếp tục viết,
nhưng làm sao anh ta tiếp tục sống!
Ông không tới với nước
Nga, nhưng nước Nga đến với ông. Nhà thơ Nga kỳ cục không
muốn bám rễ vào đất Nga.
Kỳ cục thật, bởi vì đã
từ lâu, thế hệ lạc loài được Hemingway mô
tả trong Mặt Trời Vẫn Mọc, The Sun Also Rises vẫn luôn luôn
là một ám ảnh đối với những kẻ bị bứng ra khỏi đất.
Nếu không trở nên điên điên, khùng
khùng thì cũng bị thương tật, (bất lực như nhân
vật chính trong Mặt Trời Vẫn Mọc), bị bệnh kín (La Mort
dans l'Âme: Chết trong Tâm hồn), và chỉ là
những kẻ thất bại. Đám Cộng sản trong nước chẳng vẫn thường
dè bỉu một nền văn chương hải ngoại?
Nhưng Brodsky là
một ngoại lệ. Nước Nga đã đến với ông. Thơ ông
được xuất bản, đăng tải trên hầu hết các báo
chí tại Nga. Trong một cuộc thăm dò dư luận tại đường
phố Moscow: "Ông có mong ước, hy vọng gì liên
quan đến cuộc bầu cử?", một người thợ mộc đã trả lời: "Tôi
chỉ mong sống một cuộc đời riêng tư. Như Joseph Brodsky".
-Ai chỉ định anh là
thi sĩ?
Đám Cộng sản
Liên-xô đã từng hét vào mặt
ông như vậy tại phiên tòa. Họ chẳng thèm
để ý đến những tài liệu, giấy tờ chứng minh từng
đồng kopech ông có được qua việc sáng tác,
dịch thuật thi ca.
-Tôi nghĩ có lẽ ông
Trời.
Được thôi. Và tù
đầy, lưu vong.
Neither country nor
churchyard will I choose
I'll come to Vasilevsky Island to die
(Xứ sở làm chi, phần mộ làm
gì
Ta sẽ tới đảo kia để chết)
In the dark I won't
find your deep blue facade
I'll fall on the asphalt between the
crossed lines.
(Trong đêm tối thấy đâu,
gương mặt em thăm thẳm xanh, xưa
Ta gục xuống nhựa đường đen, giữa những
lằn đan chéo).
Những lằn đan chéo, the crossed
lines, hay rõ hơn, bờ ranh Nga Mỹ phân biệt số
phận hai mặt của một kẻ ăn đậu ở nhờ.
*
-Này thi sĩ,
nếu ông muốn về không ngựa trắng mà cũng
chẳng cần đám đông reo hò, ngưỡng mộ, tại
sao ông không về theo kiểu giấu mặt?
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận,
và cũng bỏ lối nói chuyện khôi hài.
Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên
một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái
như vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào.
Và rồi ông sẽ dạo chơi giữa phố, giữa người, thảnh
thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú,
ông có thể gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm
công cộng, như thể ông từ Mỹ gọi về. Hoặc gõ cửa
nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"
Giấu mặt, tuyệt vời thật!
****
Joseph
Huỳnh Văn là một thi sĩ. Chúng tôi quen
nhau những ngày làm Tập san Văn chương. Có
Nguyễn Tử Lộc, đã chết vì bệnh tại Sài-gòn
ít lâu sau 75. Phạm Hoán, Phạm Kiều Tùng,
Nguyễn Đạt, Nguyễn Tường Giang... Huỳnh Văn là Thư ký
Tòa soạn. Không có Phạm Kiều Tùng, tập
san không có một ấn loát tuyệt hảo. Nguyễn Đông
Ngạc khi còn sống vẫn tự hào về cuốn Những Truyện Ngắn
Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta (Hai Mươi Năm Văn Học Miền
Nam) do anh xuất bản, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán lo in
ấn, trình bày. Bạn lấy đầu một cây kim chấm một
đầu trang. Dấu chấm đó sẽ xuyên suốt mọi đầu trang thường
của cuốn sách. Không có Nguyễn Tường Giang thì
không đào đâu ra tiền và mối thiện cảm, độc
giả, thân hữu quảng cáo dành cho tập san. Những bài
khảo luận của Nguyễn Tử Lộc và sở học của anh chiết ra từ những
dòng thác ngầm của nhân loại - dòng văn chương
Anglo-Saxon - làm ngỡ ngàng đám chúng tôi,
những đứa chỉ mê đọc sách Tây, một căn bệnh ấu trĩ
nhằm tỏ sự khó chịu vì sự có mặt của những quân
nhân Hoa-kỳ tại Miền Nam.
Huỳnh Văn với lối
nói mi mi tau tau là chất keo mà một người Thư ký
Tòa soạn cần để kết hợp anh em. Bây giờ nghĩ lại chính
thơ anh mới là tinh thần Tập San Văn Chương. Đó là nơi
xuất hiện Cầm Dương Xanh , những bài thơ đầu mà có lẽ
cũng là cuối của anh. Bởi vì sau đó, anh không
đăng thơ nữa, tuy chắc chắn vẫn làm thơ, hoặc tìm thấy thơ
trên những vân gỗ, khi anh làm nghề thợ mộc, những ngày
sau 75, thay cho nghề bán cháo phổi, những ngày trước
đó.
"Mỗi thời đại, con
người tự chọn mình khi đứng trước tha nhân, tình
yêu, và cái chết." (Sartre, Situations).
Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tha nhân là những người
ở bên kia bờ địa ngục, và chiến tranh chỉ là
một cuộc rong chơi. Nguyễn Đức Sơn tìm thấy Cửa Thiền ở một
nơi khác, ở Đêm Nguyệt Động chẳng hạn. Thanh Tâm
Tuyền muốn trút cơn đau của thơ vào thiên nhiên:
Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa...
Còn Huỳnh Văn,
có vẻ như anh chẳng màng chi đến cuộc chiến, hoặc
cuộc chiến tránh né anh. Tinh thần mắt bão
của thiên nhiên thời tiết, hay tinh thần mắt nghe,
l'oeil qui écoute, của Maurice Blanchot?
Ôi khúc
Cầm Dương sầu quí phái
Đàn ai xanh ngát Trời
Tây Phương.
Thơ anh là một ngạc nhiên,
hồi đó.
Và tôi vẫn còn
ngạc nhiên, bây giờ, khi được tin anh mất. (1)
Khi liên tưởng đến câu
thơ của một người bạn:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn
Phương Tây
(thơ TKA)
Tôi không biết có
phải Trời Tây Phương của anh lấy từ ý thơ cổ:
Vọng Mỹ Nhân hề, thiên
nhất phương
(Có thể mượn ý niệm "con
người hoàn toàn" (l'homme total), hay giấc đại
mộng của Marx, làm nhịp cầu liên tưởng, để thấy rằng
những Mỹ Nhân, Đấng Quân Vương, Thánh Chúa...
trong thi ca Đông Phương không hẳn chỉ là những
giấc mộng điên cuồng của thi sĩ):
Vọng Mỹ nhân
hề, thiên nhất phương
Vọng Mỹ nhân hề, vị lai
Đọc trong nước, có
vẻ như Thơ đang trên đường đi tìm một Mỹ nhân
cho cả ngôn ngữ lẫn cuộc đời.
Và Buồn Phương
Tây, có thể từ ý thơ Quang Dũng:
Mắt em dìu dịu buồn Tây
Phương
(Tây Phương trong thơ Quang Dũng
là Tây Phương Cực Lạc của một cõi Chùa
Thầy, Sơn Tây, và cũng còn là vẻ đẹp
của các cô thiếu nữ vùng này).
Hay Tây Phương
là cõi lưu đầy của lũ chúng tôi mà
Joseph Huỳnh Văn đã nhìn thấy từ bao năm trước:
Khuya nức nở những
cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người
đi.
*
-Tau đây này.
Nhớ mi quá!
Nguyễn Quốc Trụ
(1) Joseph Huỳnh Văn
Hiến mất ngày 20/2/1995 tại Sài Gòn.
Những gì
ồn ào xoay quanh Trịnh Xuân Thanh, và cả con người
ông ta chưa bao giờ khiến mình mảy may quan tâm,
khi nhìn vào hiện trạng đất nước quả tình còn
rất nhiều hơn vấn đề cấp thiết. Xem video, mình thấy cần cải
chính hai điều. Thứ nhất, tin tức do cả phóng viên
của tờ Thời báo nêu việc Trịnh Xuân Thanh,
theo đó trước khi bị bắt sắp được cấp giấy tờ lưu
trú của Đức là vớ vẩn, và ngô nghê nữa.
Mình cho rằng ông Trịnh Xuân Thanh, kể cả có
sự hỗ trợ của Luật sư, có chăng sắp buông bỏ cuộc sống chui lủi để xuất
đầu lộ diện đệ đơn xin xét tỵ nạn, cho nên ông
ấy chỉ nhận được giấy tạm trú /tạm dung (Aufenthaltsgestattung/Duldung)
là cùng. Và đơn tỵ nạn sẽ bị bác bỏ trong
thời gian rất ngắn. Vì sao? Bởi vì TXT không có
lý do chứng tỏ mình là người bị đe dọa đến tính
mạng vì chính trị (bất đồng chính kiến), giới
tính (đồng tính luyến ái) hoặc tín ngưỡng
(bị đàn áp vì tôn giáo). Ông
TXT chưa bao giờ bày tỏ một ý kiến phê phán
hay một bất đồng chính kiến, nên nếu ông có định
nghiên cứu hay tham gia vào một tổ chức chính trị
nào đối lập cũng là sự tột cùng kệch cỡm. Chưa kể
ông ta sau cú ngã ngựa luân chuyển về làm
Phó bí thư Hậu Giang, chức vụ cuối cùng, đều là
thang bậc ông ta sẵn lòng bấu víu để thăng tiến.
Cho nên nghi vấn theo đuôi bám vào hệ thống
chính trị để trục lợi, đục khoét và tham nhũng, dù
chưa qua xét xử kiểu nào chăng nữa, vẫn chưa được gỡ bỏ, vẫn
thường trực. Trịnh Xuân Thanh chỉ là con cá nhỏ nơi
mắt xích hạng trung của một tầng lớp tham nhũng trong cơ chế độc
quyền độc đảng, ở đó không xuất hiện và cấu kết bao
che nhau đến thượng tầng mới là lạ.
Người Việt Nam được công nhận tỵ nạn ở Đức sau 1990
có thể đếm trên đầu ngón tay.
Điểm thứ hai nữa, việc bắt cóc người trên
đất Đức, nếu đúng xảy ra như vậy là hành vi phạm
pháp thô bạo xâm phạm chủ quyền nước Đức. Vì
những động cơ chính trị, nhà nước của tổng thống Erdogan
đã gửi mật vụ sang bắt bớ, xử lý hoặc thanh toán
những nhân vật bất đồng chính kiến tại Đức. Những hành
vì này gây ra mối bất đồng nghiêm trọng, khiến
Thổ Nhĩ Kỳ bị Liên minh châu Âu hắt hủi, và tạm
gạt bỏ nước này khỏi viễn cảnh gia nhập cộng đồng. Với trường hợp
Trịnh Xuân Thanh, vì lý do chính trị cũng chẳng
hề có nữa, nên việc bắt cóc ông này, trên
bình diện quan hệ quốc tế lợi bất cập hại cho nhà nước Việt
Nam, vì hành vi đó chỉ được nhìn nhận đơn
thuần như động thái phi pháp của côn đồ, và
sự thanh toán giữa các băng đảng.
PKĐ
Note: Bài viết này, theo
GCC, không nhìn [ra] trường hợp TXT, từ phía Đức.
Với lũ mũi lõ, ở đây, là Âu Châu, mạng
người rất quan trọng, khác hẳn, lũ mũi tẹt, Á Châu,
và có thể từ đó suy ra, Cái Ác Á
Châu vô phương cứu chữa.
Hồi Gấu còn ở trại tị nạn Thái
Lan, đám sĩ quan Ngụy rớt thanh lọc, chửi Cao Uỷ khi cho mấy
tên Vẹm bỏ chạy đồng bọn đậu thanh lọc, tại sao nó đậu,
mà tao không.
Mấy đấng này rớt, là do, sau khi được
Vẹm thả, bèn mở quán cà phê, sống lai rai, sống
cũng đường được, còn tên Vẹm kia, ở lại, là bị đồng bọn
làm thịt, y chang TXT.
[Chắc chắn TXT, khi điền đơn xin tị nạn, và được nhận đơn, nghĩa là không
bị vứt vô thùng rác, là vì lý do,
ở lại xứ Mít là được đồng bọn bỏ vô lò...
của tên bò sát Trọng Lú - tên bò sát,
là nick của tờ Người Kinh Tế]
Westmoreland phải cúi đầu bái
phục Võ Tướng Quân là cũng lý do đó:
Võ phán, đánh trăm năm vẫn đánh, chết
trăm triệu, chuyện nhỏ!
Hơn nữa, còn vấn đề Lò Thiêu. Đức làm
sao quên được nỗi đau nỗi nhục này cho được!
Vẹm chưa từng tưởng niệm cuộc chiến
Mít. Chúng chưa từng “lấy cây nhang thật quí,
thắp lên thương tiếc chàng”, đối với "bộ đội, lính
Bắc Việt", đó
là sự thực.
Ngụy, chúng, cho đến bây giờ vẫn còn
đau vì người thân chết mất xác trong tù,
ngoài biển cả, chưa kể chết trận, chết Mậu Thân…
Đó cũng là sự thực.
Tên già NN phán, Việt Nam cần nhìn
lại cuộc chiến, VN, với hắn, là lũ Vẹm. Hắn cởi mặt nạ để
nhìn 1 tên cựu binh Mỹ.
Tên già này, tay đầy máu Ngụy,
nhưng với hắn, Ngụy đâu có... hiện hữu?
Lạ, là lũ Mít lưu vong, tên nào
tên đó, được tên già đăng bài trên
Văn Vịt, là sướng như điên, bửn thế! NQT
Đâu phải chỉ có
tay TNS Mẽo nói về tài nướng quân của Giáp,
mà tướng Mẽo, Westmoreland cũng cúi chào địch
thủ:
"Of course, he was a formidable
adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had
lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard
for human life may make a formidable adversary, but it does not make
a military genius..."
William Childs Westmoreland
Đúng rồi ông ta
là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta
thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên
VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có
thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải
1 thiên tài quân sự!
Hà, hà!
Trong “Về những nhà thơ
và những người khác”, “On poets and Others”, Paz dành
hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài
“Gulag”, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước.
Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê
cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz
phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền
lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict,
và như thế, Solz không nhìn ra, đây là
cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào
chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế.
NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm,
[Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.
Note: Không hiểu, giả
như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có
còn chê Solz?
GCC sợ rằng, Solz phán
quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa,
không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà
còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì cái
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có
cú… ăn cướp? Toàn
đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú
lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp,
hà, hà!
Cũng chính Solzhenitsyn, ngày từ những ngày
1975, khi Miền Nam còn “thoi thóp”, ông đã
tiên đoán, Miền Bắc sẽ thôn tính nó,
và coi nó như là chiến lợi phẩm, theo nghĩa, tao
là ông chủ, mày là nô lệ. Trên TV
có post đoạn đó, khi ông lên TV Tẩy, phán,
ta sẽ về nước, khi nhà nước Liên Xô sụp đổ, đếch phải
chết nơi xứ người!
HCM by Karnow
Ông đã gả cô
dâu là chủ nghĩa quốc gia cho chú rể chủ nghĩa
cộng sản và hoàn thiện tới mức tối hảo nghệ thuật giết
người, là chiến tranh du kích.
Thời Báo, Time, số đặc biệt Những nhà lãnh đạo & Những
nhà cách mạng, Tháng Tư1998
Vào năm 1946, ông
Hồ cảnh cáo người Pháp, khi ló mòi cuộc
chiến: "Các ông có thể giết 10 người của tôi,
so với 1 người của các ông. Nhưng chênh lệch như
thế, chúng tôi vẫn thắng".
Người Mẽo có vẻ như tin
rằng, khí giới ghê gớm của họ sẽ bẻ gẫy ý chí
của kẻ thù.
Nhưng, như Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã từng nói với tôi
[Karnow], vào năm 1990 tại Hà Nội, điều quan tâm
chính của ông ta, là chiến thắng. Khi tôi
hỏi, bao lâu, "Hai chục năm, có thể 100 năm - lâu
cỡ nào cũng được, chết bao nhiêu cũng được", ["Twenty
years, maybe 100 years - as long as it took to win - regardless of cost"].
Con số người chết thật là
khủng khiếp. Chừng ba triệu người hai miền, cả binh sĩ và
thường dân.
Thời gian ở Paris, ông
Hồ làm nghề thợ rửa hình [photo retoucher]. Tuy khách
sạn sang trọng quá sức ông, nhưng ông vẫn tự ban
cho mình một thói quen trưởng giả, là những bao
thuốc lá Mẽo, Camel hay Lucky Strikes. Lâu lâu, có
dịp là ông chui vô một thính phòng,
nghe Maurice Chevalier, một ca sĩ Tây mà ông chẳng
bao giờ quên những bài hát đáng yêu
của ông ta. (a)
http://www.tanvien.net/tribute/30.4.09_3.html
Nhân
nói về độ lùi cần thiết để có cái nhìn
toàn diện về một cuộc chiến, tôi lại nhớ tới câu
chuyện nhà văn Bùi Bình Thi kể trên báo
Văn nghệ: Lần ấy, Tổng Bí thư Lê Duẩn ghé thăm các
nhà văn ở một trại sáng tác. Khi Tổng Bí
thư hỏi một nhà văn quân đội đang viết gì, nhà
văn quân đội trả lời rằng ông đang viết về Huế những ngày
máu lửa Xuân Mậu Thân 1968. Trong câu chuyện,
ông không quên buông câu cảm thán,
đại ý, năm đó ta tổn thất nặng quá. Nghe nhà
văn nói tới đó, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã
hết sức ngạc nhiên. Tổng Bí thư nói: “Mỹ nó mạnh
thế, nếu ta không chịu tổn thất làm sao đánh thắng được”.
Có thể nói, đây là một quan điểm
rất biện chứng, đáng để các nhà văn trăn trở với
đề tài này phải suy ngẫm.
Nguồn
Note: TBT Lê Duẩn máu chẳng thua gì Võ
tướng quân!
[General Vo Nguyen Giap, told me in Hanoi in 1990, his principal concern had
been victory. When I asked him how long he would have resisted the
U.S.
onslaught, he thundered, "Twenty years, maybe 100 years-as long as it
took to win, regardless of cost." The human toll was horrendous. An
estimated 3 million North and South Vietnamese soldiers and civilians
died.]
Cuối thế kỷ, tờ Time ra số đặc biệt về những nhà lãnh
đạo, cách mạng. Chọn người viết về những nhân vật như vậy,
chắc cũng nhức đầu. Lênin 'về tay' David Remnick, ký giả
Mỹ, tác giả Ngôi Mộ Lênin, (Pulitzer 1994). Remnick
cho thấy, quan niệm về một Lênin-ông thiện, và Stalin-ông
ác đã trở thành chuyện tiếu lâm: Gần như mọi
chính sách của Stalin đều bắt rễ từ chủ nghĩa Lênin.
Những trại tù đầu tiên, nguỵ tạo nạn đói, và
dùng nó như là một vũ khí chính trị;
phát động cuộc chiến chống lại tầng lớp trí thức, những tín
đồ tôn giáo... là của ông. Trên tất cả,
là sự độc ác, như trong một lá thư gửi cho lãnh
đạo địa phương: Các đồng chí!
Phải treo cổ (không được để hụt một thằng nào,
để cho tất cả mọi người thấy, run sợ), ít nhất là vài
trăm mạng... Bertrand Russell, trong lần đầu gặp gỡ Lênin, May 19,
1920, đã ghi lại cảm tưởng: ông ta hay cười... nụ cười có
vẻ thân thiện & vui nhộn, nhưng dần dần người ta nhận ra nét
nghiêm khắc, vẻ tàn nhẫn.
Quả là Bắc Kít chưa từng
khóc, chỉ 1 tên bộ đội Cụ Hồ của nó.
Văn thơ của Vẹm đếch có tiếng khóc!
Khủng khiếp thật!
Tại làm sao lại có sự quái đản như thế
Theo GCC, đó là do đồng bằng Sông Hồng,
nhỏ bằng 1 xẻo đất xéo - An Nam nhất thốn thổ - mà người
cày thì nhiều quá, đất cằn cỗi mãi đi.
Con đê Sông Hồng chống lũ, thế là chống luôn
sự mầu mỡ của 1 miền đất.... Chính vì thế mà có
1 nhà văn Miền Bắc nhận ra, cái chất Mít thứ thiệt
thật “nhân hậu và cảm động”, thì lại chỉ có
ở những kẻ dám bỏ xứ Bắc Kít mà đi.
Làng xóm Bắc Kít, sở dĩ có, là
để chống Tẫu, sau thành nhà tù của đám
dân đen, đọc Quê Người của Tô Hoài thì
biết.
Sở dĩ PXA bán xứ Nam Kỳ cho Bắc Kít, là
vì trong ông không còn 1 tí Bắc Kít,
nhưng ông vẫn nhớ nó, như 1 thiên đường đã
mất, tếu thế!
PXA vs Graham Greene
PXA gia nhập CS, như 1 anh Mít
ái quốc, với giấc mộng đuổi Pháp ra khỏi xứ Mít,
giản dị chỉ có vậy. Làm sao thành nhân vật
tiểu thuyết bảnh cho được.
Cú ngửa
tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối
tối độc, bởi vì, với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất
cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng
hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô
phương!], biến cả thế giới thành bãi đánh hàng
nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh
bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có
cờ rồi, chúng không có lý do nào để trở
lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện của PXA, có thể tình
hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con
cú từ trên cao nhìn xuống, ông quá
rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm
khểnh trong lều tranh, mà biết thiên hạ sẽ phân ba.
PXA biết, nhưng không biết, cái không thể
nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu quá, đã
mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời
rồi, trong cứt không còn một tí Bắc Kít nào
hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là
Bắt Kít, một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là
cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến
cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như
không còn [không có, đúng hơn].
Vào những
giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là
vì những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (a)
https://www.voatiengviet.com/a/trinh-xuan-thanh-hoang-xuan-phu-trong-lu/4004097.html
Vả lại nhận [lại] Trịnh
Xuân Thanh, phía Đức chỉ vớ được thêm
một nhân vật cồng kềnh khó xử.
Bùi Tín, nhận định
về vụ TXT
Khi bắt cóc TXT bất cứ 1 tên Vẹm nào
thì cũng nghĩ như thế.
Do you really think that hundreds
of thousands leave their home and embark on this difficult journey
only because of a selfie with the chancellor?" she asked Anne
Will, a television talk-show host, on October 7th. Since then, however,
Mrs Merkel has turned defiant and bold, as though inspired by a
clear moral purpose.
Không lẽ hàng trăm ngàn
người bỏ nhà bỏ cửa lao vào cuộc hành trình
đầy gian nan, để chơi 1 cú "xeo phi" với... tui?
Note: Nhân Bà VC Đông Đức tái đắc
cử Trùm nước Đức, và nhân đọc Sến đi 1 đường hoài
cảm về Bà. GCC nhớ, có đọc 1 bài về Bà,
trên tờ NY, thật là thú vị, để coi lại.
https://www.newyorker.com/magazine/2014/12/01/quiet-german
Cứ 7
người Đức thì có 1 người nhớ Bức Màn Sắt, và
thèm cuộc sống tươi đẹp ngày nào.
Làm sao so với Mít miệt vườn được. Trừ mấy
anh VC nằm vùng ra, ai cũng thèm quê hương khi
chưa lớn nổi thành người!
Nói
rõ hơn, quê hương khi chưa có bài Quê Hương của nhà thơ DTQ!
http://www.tanvien.net/Al_1/Berlin_Wall.html
Publié le 19 septembre 2009
à 10h41 |
Mis à jour à 10h48
Merkel fait des confessions sur
son passé en RDA
Vingt ans après la chute
du Mur de Berlin, la chancelière allemande Angela Merkel évoque
pour la première fois son passé en RDA lors de sa campagne
pour un second mandat, dans un pays où le fossé Ouest/Est
reste tangible.
La RDA était certes un Etat
«bâti sur le non-droit et l'absence de liberté»,
a souligné la dirigeante conservatrice dans le quotidien Bild
jeudi. «Mais il est faux de dire que toute la vie était
mauvaise en RDA (...) Nous avions nos familles, nous nous sommes amusés
avec nos amis».
Elle qui protégeait à l'extrême sa vie
privée n'hésite plus à livrer des anecdotes sur
son quotidien pendant 35 ans sous la dictature communiste.
«Devant les magasins, je guettais pour savoir ce que
les gens avaient dans leur panier et pouvoir éventuellement
acheter la même chose», a-t-elle par exemple raconté.
«Dans les restaurants, nous tapions souvent sur la
lampe au-dessus de la table en disant, au cas où un micro y
serait caché: +allez-y, écoutez maintenant!+».
Durant la campagne électorale de 2005, cette fille
de pasteur née à Hambourg (nord) en 1954 mais qui est
arrivée bébé en RDA refusait de mettre en avant
ses origines pour s'attirer les sympathies de l'électorat réputé
volatile de l'Est.
Elle n'a jamais non plus cherché à se présenter
comme une opposante au régime et reconnaît avoir été
inscrite dans les Jeunesses communistes (FDJ), comme l'écrasante
majorité des adolescents est-allemands.
«Avant qu'elle ne devienne chancelière, elle
était considérée par les Allemands de l'Ouest
comme une Allemande de l'Est. Mais pour les Allemands de l'Est, elle
était celle
qui s'était muée en une Allemande de l'Ouest»
en entamant sa carrière politique aux côtés de
l'ancien chancelier Helmut Kohl, explique à l'AFP son biographe,
Gerd Langguth.
«Aujourd'hui la question Est/Ouest ne joue plus de
rôle décisif dans son cas et elle peut donc se permettre
de convoquer son passé sur la place publique», selon le
politologue.
Les thèmes de la RDA et du Mur n'ont jamais été
aussi présents dans le débat que ces derniers mois, alors
que l'Allemagne réunifiée s'apprête à célébrer
les 20 ans de l'ouverture du Mur
le 9 novembre.
Près de la moitié des Allemands de l'Est se
disent déçus par la Réunification et se sentent
encore des citoyens de «seconde zone». A l'Ouest perdurent
de solides préjugés sur les Allemands de l'Est, victimes
du chômage et considérés parfois comme des «assistés».
Déjà durant la campagne pour les Européennes
de juin, la chancelière, physicienne de formation, avait révélé
avoir étudié les sciences car au moins là, «deux
fois deux faisaient toujours quatre».
En mai, Angela Merkel fut la première chef de gouvernement
allemand à visiter l'ancienne prison de la Stasi, la police
secrète, l'un des symboles les plus manifestes de la dictature.
Elle avait alors raconté pour la première
fois comment la Stasi avait tenté de la recruter alors qu'elle
venait de passer un entretien d'embauche.
«J'ai répondu comme nous l'avions convenu dans
ma famille que je ne savais pas tenir ma langue», a-t-elle expliqué.
La chancelière, qui malgré une indéniable
popularité demeure mystérieuse pour beaucoup d'Allemands,
cherche également à «se donner une image plus humaine»
par ce biais, estime Gerd Langguth.
«C'est un être très fermé qui
a appris sous le régime de RDA à ne jamais exprimer
ce qu'elle pense», souligne-t-il. «C'est un sphinx et elle
aimerait maintenant apparaître plus humaine».
*
Nữ thủ tướng Đức ‘thú tội
trước bàn thờ’ về quá khứ của bà tại Đông Đức
ngày nào.
Hai mươi năm sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ, lần
đầu tiên bà Merkel hé lộ quá khứ Đông
Đức của bà, trong chiến dịch tái tranh cử tại một xứ
sở mà cái hố Đông/Tây vẫn chưa làm
sao lấp cho đầy.
“Đông Đức quả là một nhà nước vô
luật, vắng tự do….”, người lãnh đạo bảo thủ phán, trên
tờ Bild hôm thứ năm. “Nhưng thật sai lầm khi nói tất cả
cuộc sống ở đó thì xấu xa… chúng tôi có
gia đình của chúng tôi, chúng tôi vui
với bạn bè của chúng tôi.”
Bà, người bảo vệ tối đa cuộc sống riêng tư
của mình, đã không ngần ngại xì ra vài
giai thoại, về cuộc sống thường nhật trong 35 năm sống dưới chế độ
độc tài CS.
Đứng trước cửa hàng, tôi dòm chừng giỏ
xách của người đi mua hàng xem họ mua gì để có
thể mua theo.
Trong tiệm ăn, chúng tôi thường hay đập vào
cái đèn treo trên bàn và nói,
trong trường hợp có máy vi âm gắn ở đó
: Nghe đi, bây giờ nghe được rồi đó!
Người Tây Đức thì cho bà là người
Đông Đức; người Đông Đức thì cho bà là
người Tây Đức.
1/2 người Đông Đức thất vọng vì Thống Nhất,
họ cảm thấy mình là « công dân hạng
hai ». Người Tây Đức thì có thành kiến
với người Đông Đức, nạn nhân của thất nghiệp và
đôi khi xem họ như những người được lãnh trợ cấp xã
hội.
Ba chọn ngành khoa học vì ít nhất trong
lãnh vực này, 2 cộng 2 luôn luôn là
4.
Nguồn
Cái vụ gõ gõ cái đèn
treo trên bàn của bà thủ tướng Đức làm
Gấu nhớ tới anh hề Bobe Hope, lần đi trình diễn tại Moscow,
cũng gõ gõ mấy bức tường khách sạn, “một, hai,
ba, thử máy, tôi nói đồng bào nghe rõ
không?”!
Đểu thật! Chôm ngay câu của Bác Hồ!
Bà chọn ngành khoa
học... , một luật sư ở trong nước cũng viết xêm xêm:
"Thú thật, lâu nay tôi gần như không
đọc báo giấy, chỉ yêu thích mỗi tờ Bóng
Đá. Sở dĩ như vậy là vì tôi thích
môn bóng đá và biết chắc rằng họ đưa tin
chính xác và đúng sự thật. Ví dụ
như nếu Braxin thắng Achentina 3-1 thì họ không thể đưa
tin ngược lại là Achentina thắng 3-1 được.
*
Bà thủ tướng, mặc dù nổi tiếng là một
người được dân chúng mến mộ, nhưng luôn luôn
bí hiểm, đối với đa số người dân Đức, đang "cố gắng tự
trình bầy mình ra, dưới một hình ảnh rất ư là
con người", qua những giai thoại mà bà vừa mới hé
lộ ra về mình.
"Đây là một con người rất khép kín,
vì đã được dậy dỗ, khi còn Đông Đức, là
đừng bao giờ nói ra điều mà mình đang nghĩ"...
"Đây là một con nhân sư và nó đang
thích xuất hiện dưới cái vẻ người của nó."
Sến viết về Merkel.
https://kimdunghn.wordpress.com/2017/09/28/noi-kho-xa-xi-cua-nguoi-duc/
Khi tôi trở lại châu Âu
đầu những năm 90, giới trí thức cánh tả phương Tây
đã bỏ xa thời vàng son sau lưng. Đọc lại những lời ông
trùm cánh tả Jean-Paul
Sartre viết về tiểu thuyết Tuyệt vọng của Nabokov, có cảm
giác như tuyên giáo Hà Nội đã được
một đại trí thức Pháp có tầm ảnh hưởng toàn
thế giới hướng dẫn từ nửa thế kỷ trước về cách phê phán
các nhà văn Việt Nam lưu vong mất gốc. Song lần đầu tiên
đi bỏ phiếu mười hai năm trước, 2005, như theo một quán tính
được mệnh danh bay bướm là “trái tim luôn đập ở
bên trái”, tất nhiên tôi đã bầu cho
Đảng Dân chủ Xã hội, phe tả. Kết quả là liên
minh phe hữu CDU/CSU năm ấy thắng cử, tuy chỉ hơn vỏn vẹn 4 ghế Quốc
hội trong một cuộc đua sát nút. Tôi đã không
thể tin nổi là người phụ nữ của phe bảo thủ ấy sắp lãnh đạo
nước Đức, với hai khóe miệng trễ xuống tận Nam cực, mái tóc
không biết nên dính vào đâu cho đỡ mỏng,
thân hình thô kệch trong những bộ quần áo chán
ngắt, gương mặt không nói lên điều gì hết và
diễn thuyết nhạt thếch bằng giọng hụt lưỡi. Tôi đã tự nhủ,
tinh hoa chính trị mà thế thì nước Đức mạt vận.
Gấu thực sự chưa từng đọc Sartre
viết về Nabokov, bèn tò mò đọc thử.
La Méprise không phải là Tuyệt vọng, mà
là Sự Khinh Bỉ. (1) Bài viết, trích từ Nhận Định,
Situations I. essais critiques, Gallimard, 1947.
GCC có cuốn này, nhưng không đọc bài
này, và, đọc loáng thoáng, thì không
thấy Sartre dậy dỗ lũ Mít, mà so sánh Nabokov với
Dos...
Gấu cứ nghĩ 1 người như Sến mà viết về Merkel, thì phải
là về tại sao 1 con mụ Đông Đức lại được lòng Tây
Đức. Ít nhất phải như thế. Tờ Người Kinh Tế viết bảnh hơn nhiều,
thì lẽ tất nhiên:
https://www.economist.com/news/leaders/21729743-dynamic-emmanuel-macron-and-diminished-angela-merkel-point-new-order-europe
A dynamic Emmanuel Macron and a diminished Angela Merkel point to a
new order in Europe
(1) Méprise, tiếng Tây, tiếng Anh dịch là
Despair, quả có nghĩa tuyệt vọng!
Gốc tiếng Nga,
Отчаяние, https://fr.wikipedia.org/wiki/La_M%C3%A9prise_(roman)
Nabokov viết bằng tiếng Nga, tự mình dịch qua tiếng Anh.
Bài điểm sách của Sartre chẳng mắc mớ gì tới
lũ Mít cả. Lưu vong mất gốc, không, Vẹm, cũng không!
Ông chê Nabokov, nhà văn gối đầu giường của Sến, quá
nặng, khi so sánh với Dos.
Chẳng thua gì Sến phán về Merkel, nhưng về tài
năng, không phải về nhan sắc!
"Hai khoé miệng trễ xuống tận Nam Cực"!
Viết như thế thì rõ ra là đố kỵ, vì
Sến cũng từ 1 xứ CS qua!
Đàn bà Bắc cực kỳ tế nhị, Trung, cực kỳ cao sang,
Nam cực kỳ xuề xòa.
Đọc thơ văn của họ, là biết.
Ví dầu tình bậu muốn thôi… thì cho thiếp
gọi đò ngang thiếp dzề.
Khi về tay nhỏ che trời rét, nghe giá băng mòn
hết tuổi thơ.
Tại làm sao mà Bắc Kít sau này, lại
biến thái đến như là 1 trường hợp Sến, hỏi cũng là
trả lời vậy!
Thua xa cái em mắng Gấu, mi là thằng Nam Kít,
bày đặt học tiếng Bắc, hay ho gì cái thứ tiếng
nói đó?
Hay BHD, khi nghe em nói, mi đi chỗ khác chơi, ta
bây giờ hết lãng mạn rồi, Gấu phát điên lên,
tính bợp cho em vài phát, phải đến khi em đi xa thật
xa, Gấu mới đọc ra thông điệp, ông ta sinh ra ta, 1 mình
ta gọi ông ta là bố, là đủ rồi, ta không muốn
mi chịu cái nhục đó…
Ôi choa, còn nhiều cas nữa, sao lại có cas
Sến?
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng, [Tôn Phu
Nhân quy Thục].
Đâu có thứ con dâu mắng mẹ chồng xơi xơi như...
Sến?
Cả hai đều là thượng khách, vậy mà 1 tên
giở thói bất lương, đang đêm mò dậy, bắt cóc
tên kia, lén lút đưa về Xứ Mít, hê lên,
nó đầu thú, vậy mà cả 1 xứ Mít vẫn lấy làm
hãnh diện, đúng là phi ní lô đia, hết
nước nói, “fini l’eau dire”!
Waiting for an Echo:
On Reading Richard Outram
Writing a book of poetry is like dropping
a rose petal down the Grand Canyon and waiting for an echo.
DON MARQUIS
Tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn bà,
sau khi làm hết bổn phận với chồng với con, với cuộc
đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người
thân yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa
xuống lòng giếng sâu là hồn mình,
rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ tiếng vọng của một thời nào
đã xưa, đã cũ…(1)
Câu văn, mãi
sau này, Gấu tìm ra nguồn của nó, là
của một nhà văn nước ngoài, nói về chuyện
in thơ ở Mẽo, cứ như thả một cánh hoa xuống Grand Canyon,
rồi đợi tiếng vọng của nó, đại khái như vậy.
Thú thực, không
hiểu, Gấu viết câu của Gấu, rồi mới đọc câu
của người, hay ngược lại.
Tuy nhiên, đọc
kỹ, thấy mùi vị hiện sinh, Camus, trong Người
đàn bà ngoại tình. Truyện ngắn này,
hay đúng hơn, toàn cõi văn của Camus
là đều chỉ để nói về Lưu đầy và Quê
nhà: Quê nhà là cõi đã
mất kia.
Coetzee đọc The
Pickkup của Gordimer, coi như
được mặc khải từ Người
đàn bà ngoại tình của Camus: Câu chuyện
một người đàn bà Algeria gốc Pháp,
steals
away from her husband in the night in order to expose
herself to the desert and experience the mystical ecstasy,
physical as much as spiritual, that it induces. [Coetzee:
Nadine
Gordimer]
NQT
Trong "Into the Looking-Glass
Wood", Manguel đi hẳn
1 bài về cú hồi hộp âu lo, chờ đợi của
cô bạn ngày nào của vợ chồng GCC.
Cô phù dâu,
mà do mắt lé, Gấu nhìn thành
Gấu Cái.
Manguel có vẻ cũng
rất mê Bruno Schulz.
Ông đi 1 đường về S, khi đọc
Cynthia Ozick, tuyệt lắm. Từ từ tính.
Viết mỗi ngày
Đọc, cái tít, thì Gấu bèn
nhớ tới Borges.
http://www.tanvien.net/Notes_New/Ehics_Culture.html
FERRARI. Now, in the month of your 85th year ...
BORGES. Don't remind me of such sad things. I have
let myself live- I am idle and a daydreamer and 85 years have passed.
When I was young I thought about suicide, but not now-it's too late.
At any moment ... history will decide it.
Và nhớ cú vuốt râu hùm
Trùm Cớm Văn Học Hải Ngoại
On Poetry
GCC vs HN
Anh Trụ còn nhắc chuyện
xưa rồi làm chi rứa ? Quên bớt đi cho đời vui .
Sorry đã chọn bài “Nói chuyện
thơ” để đề tài cũ có dịp chổi lên lại . Lần
sau K sẽ cẩn thận hơn .
K
Không phải vậy. Bài
“Nói Chuyện Thơ” cần phải dịch lại, GCC coi lại rồi. Có
thể đó mới là nguyên nhân sâu xa,
thần bí mà chỉ Borges mới giải ra được!
Vả chăng, O. bạn của K cứ cằn nhằn hoài,
TV sao ưa chửi lộn như thế.
Nói 1 lần cho rõ ra rồi thôi.
Dịch thơ thú hơn nhiều, dù đôi khi THNM!
Take care both of U
NQT
Trở lại với bài viết của Thầy Thục.
Ý của Gấu, nhân đọc Borges, mà
có, là, cái gọi là “chênh vênh
siêu hình/hiện thực”, chỉ là “đời kép”
của bất cứ một nhà văn nhà thơ, 1 tên mơ ngày,
không riêng gì TTY.
Trong MCNK, bà vợ Kiệt, khi khám phá
ra sự thực, nó sống với mình, mà lúc
nào cũng ở trong "cõi riêng", bèn quá
đau lòng, là vậy, và đây là nỗi
đau của bất cứ 1 bà nào lấy phải 1 thằng chồng nhà
văn nhà thơ.
Người phán đúng nhất về TTY, theo
GCC, là phu nhân của ông, Thụy Vũ, khi trả
lời báo chí, lấy 1 ông chồng như thế là
biết hết cả 1 cõi đàn ông/nhà văn/nhà
thơ, nhớ đại khái.
Theo GCC viết về nhà văn nhà thơ Ngụy,
cỡ Đồng Nai Tam Kiệt - TTY, TTT, Bùi Giáng - là
phải nhớ tới câu của Adorno, tức là phải làm
sao tìm ra sự khác biệt của thơ văn của họ, trước
và sau trại tù, và phải lọc ra được 1, hoặc
quá nữa, 2 ẩn dụ [chỉ cần vậy, như Borges phán, không
nhiều] chẳng cần đến cả 1 cõi siêu hình làm
khỉ gì.
Với TTY, cơn mơ ngày, thực tại khác,
là Hoang Vu Lớn. Nó đi theo ông suốt cả 1 cõi
thơ của ông, và sau trại tù, hiển hiện lồng
lộng trong Ta Về, Bóng Ma Hờn Tủi, trong Ải Tây...
Tô
Thùy Yên tên thật là Đinh Thành
Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định,
học qua Petrus Ký và Đại Học Văn
Khoa Sài Gòn, cấp bậc Thiếu Tá trong quân
đội Miền Nam trước 1975. Sau 1975 ông đã bị giam giữ
cải tạo hơn mười năm. Hiện ông sống tại Houston (Mỹ).
Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh
Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc
Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng
Tạo. Một nhóm sáng tác đã từng được
biết đến với phong trào khai sinh
"Thơ Tự Do" trên văn đàn Miền
Nam
vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển Tập Thơ Thùy
Yên (1995) và Thắp Tạ (2004) đều được xuất bản ở Mỹ
sau khi ông đến định cư ở quốc gia này vào năm 1993.
Bài thơ Trường Sa hành Tô
Thùy Yên viết tháng 3/1974, chắc là sau
một chuyến hành quân công vụ của ông ra vùng
đảo này. Xin nhớ là, hai tháng trước thời điểm
bài thơ ra đời, Trung Quốc đã cho quân đánh
chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974). Chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa khi đó đã điều quân đội ra đánh
trả. Máu binh lính Việt
Nam đã
đổ xuống trên vùng biển vùng đảo của tổ quốc để
quyết giữ trọn vẹn giang sơn bờ cõi Việt Nam.
Trường
Sa hành
Toujours il y eut cette
clameur
toujours il y
eut cette fureur... (1)
Saint-John Perse: Exil
Trường
Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng
nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Mùa
đông bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo
hoang, vắng cả hồn ma quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi
đứng yên.
Bốn
trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Sóng
thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc
trắng trời.
Mùa
gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây
bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong
làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt
trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần,
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Ta ngồi
bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng
mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng
điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú
em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét
trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói
với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất
liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu
trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Ngày.
Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa
điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.
Ôi!
Lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San
hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3. 1974
(Tạp chí Văn, Sài Gòn)
[Blog Phạm Xuân Nguyên]
(1)
Luôn
luôn tiếng la ó đó
Luôn luôn, cơn giận dữ đó
Saint-John Perse: Lưu Vong
When Saint-John Perse named
one of his poems Exile, Blanchot says, "he named the poetic
condition as well... The poem is exile and the poet who belongs to
it belongs to the dissatisfaction of exile. He is always lost to himself,
[hors de lui-même], outside, far from home [hors de son lieu
natal]; he belongs to the foreign, the outside which knows no intimacy
or limit, and to the separation which Holderlin names when in his
madness he sees rythm's infinite space.
Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những
bài thơ của ông, là Lưu Vong, Blanchot
giải thích, đó là ông còn đặt
tên cho số phận thơ… Thơ là lưu vong và thi
sĩ thuộc về sự bất bình lưu vong. Anh ta luôn luôn
ở ngoài anh ta, ở ngoài nơi sinh, thuộc cõi lạ,
cõi ngoài, một cõi không thân quen
hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa, phân ly, Hiu Quạnh
Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn điên, nhà
thơ nhìn thấy cõi vô cùng của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ,
chỉ có vậy… Gõ Google, ra trang
này]
Có vẻ như những dòng trên,
viết về Thơ Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang Thang
Thi Sĩ, Đêm Khác, Other Night, là, để 'giải
thích' bài thơ của TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri
ra được nỗi tù đầy, và lưu vong sau đó, khi
đứng trước cơn la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn,
còn là của ông?
Kẻ mơ mộng tỉnh thức: Từ này,
nguyên của Borges.
Trong "Chuyện Nghề" (The
Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề văn, nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton
có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi điều."
Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không
chỉ có nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó.
Thí dụ, một nhà văn cần sự cô đơn, và anh
ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình yêu,
anh ta được chia, tình yêu, và luôn cả, tình
yêu không được chia.
Theo một nghĩa nào đó, nhà văn
là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một kẻ sống cuộc
đời kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những
nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách
nhà văn trở thành chính mình, bằng cách
làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc
sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng
lúc, trong thực tại khác - thực tại mà anh ta sáng
tạo ra, thực tại "của những giấc mơ".Một cuộc sống kép, sống
hết mình trong thực tại này, và cùng
lúc, trong một thực tại khác... Một kẻ mơ ngày....
Murakami có lẽ cũng nghĩ như vậy, khi ông cho rằng, viết,
là một cách mơ mộng, nhưng mà trong tình
trạng tỉnh thức, “écrire, c’est comme rêver éveillé”
(1)
“The Writer's Apprenticeship"
by Jorge Luis Borges
The poet's trade, the writer's
trade, is a strange one. Chesterton said: "Only one thing is needful-everything."
To a writer this everything is more than an encompassing word; it
is literal. It stands for the chief, for the essential, human experiences.
For example, a writer needs loneliness, and he gets his share of
it. He needs love, and he gets shared and also unshared love. He needs
friendship. In fact, he needs the universe. To be a writer is, in a
sense, to be a day-dreamer-to be living a kind of double life.
I published my first book, Fervor
de Buenos Aires, way back in 1923. This book was not in praise of
Buenos Aires; rather, I tried to express the way I felt about my
city. I know that I then stood in need of many things, for though
at home I literary atmosphere-my father was a man of letter was not
enough. I needed something more, which I found in friendships and
in literary conversation.
What a great university should give
a young writer is precisely that: conversation, discussion, the
art of agreeing, and, is perhaps most important, the art of disagreeing.
Out of all this, the moment may come when the young writer feels
he can make his emotions into poetry. He should begin, of course,
by imitating the writers he likes. This is the way the writer becomes
him through losing himself-that strange way of double living, of living
in reality as much as one can and at the same time of living in that
other reality, the one he has to create, the reality of his dreams.
This is the essential aim of the
writing program at Columbia University's School of the Arts. I am
speaking in behalf of the many young men and women at Columbia who are
striving to be writers, who have not yet discovered the sound of their
own voices. I have recently spent two weeks here, lecturing before eager
student writers. I can see what these workshops mean to them; I call see
how important they are for the advancement of literature. In my own
land, no such opportunities are given young people.
Let us think of the still nameless
poets, still nameless writers, who should be brought together and
kept together. I am sure it is our duty to help these future benefactors
to attain that final discovery of themselves which makes for great literature.
Literature is not a mere juggling of words; what matters is what is left
unsaid, or what may be read between the lines. Were it not for this deep
inner feeling, literature would be no more than a game, and we all know
that it can be much more than that.
We all have the pleasures of the
reader, but the writer has also the pleasure and the task of writing.
This is not only a strange but a rewarding experience. We owe all
young writers the opportunity of getting together, of agreeing or
disagreeing, and finally of achieving the craft of writing.
Nhân nhắc tới thế
"chênh vênh siêu hình/hiện thực"
http://www.tanvien.net/TG_TP/Pessoa.html
“Cuốn sách của sự đếch
làm sao mà trầm lắng được”: Nỗi buồn siêu hình
Đời thực, Pessoa biểu chúng
ta, không phải cuộc đời mỗi đứa còng lưng ra mà
cõng, nhưng mà là cuộc đời mỗi “Anh Cu Gấu”
phịa ra, nhờ tưởng tượng!
Virginia Woolf et le métier
d'écrire: V.W. và nghề viết
Cuốn sách vịn chân nó
để đứng
LES LIVRES TIENNENT TOUT SEULS SUR LEURS
PIEDS,
Virginia Woolf, traduit
de l'anglais par Micha Venaille, éd. Les Belles Lettres,
220 p., 15 E.
Note: Đây là
cái truyện ngắn đầu tiên của Borges, mà
Gấu được đọc, khi ra được hải ngoại, và khi đầu quân
cho tờ Văn Học, làm tên viết mướn – nên
nhớ trong số những người cộng tác cho tờ báo,
Gấu là 1 người được trả tiền, những người khác,
sợ không được trả tiền mà còn phải đóng
tiền để nuôi tờ báo - Gấu bèn dịch liền tù
tì, và còn đi 1 đường vinh danh ông
anh nhà thơ của mình:
Vào một buổi sáng
tháng Tư, có một người, khi nhìn
những đoàn quân tiến vào thành
phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là
ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một
người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng
của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng
nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai
đã từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí
ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT
Nền văn học hải ngoại, của lũ Ngụy,
chẳng đã thoát thai từ cái khoảnh
khắc tên trưởng toán hành quyết
VC ra lệnh bắn, và 1 năm qua đi, giữa cánh
tay giơ lên và tên nhà văn Ngụy té
xuống, trong Phép Lạ Bí Ần, của Borges, và
không chỉ 1 năm qua đi mà "hoài hoài
còn hoài", khi VC, Cái Ác Bắc Kít
vẫn hoành hành ở nơi xứ Mít.
Trong Phỏng vấn chót,
The Last Interview, khi được hỏi về truyện ngắn Phép
Lạ Bí Ẩn, Borges cho biết, ông viết thời gian
Đệ Nhị Thế Chiến, và [khi viết nó] ông quan
tâm chủ yếu là tới hai điều. Thứ nhất, thứ phép
lạ “dưng không”, [tạm dịch từ “unassuming”, trong câu
của Borges, “First, in an unassuming miracle”, và
trong ý của TTT, khi ông viết, “dưng không
trồi lên sự thực. Và điều thứ nhì, là
1 ý tưởng về tôn giáo - về 1 con người tự
xác minh mình với Thượng Đế, về 1 điều gì
chỉ Thượng Đế biết. Thượng Đế cho anh ta cái cơ hội đó.
BORGES: Yes; I think I wrote
that during the Second World War. What chiefly interested
me-or rather, I was interested in two things. First, in an
unassuming miracle, no? For the miracle is wrought for one
man only. And then in the idea- this is, I suppose, a religious
idea-of a man justifying himself to God by something known
only to God, no? God giving him his chance.
BURGIN: A very personal pact
between the two.
BORGES: Yes. A personal pact
between God and the man, And also, of course, the idea
of, well, this is a common idea among the mystics, the idea
of something lasting a very short while on earth and a long
time in heaven, or in a man's mind, no? I suppose those ideas
were behind the tale. Now maybe there are others. And then, as
I had also thought out the idea of drama in two acts, and in the
first act you would have something very noble and rather pompous,
and then in the second act you would find that the real thing was rather
tawdry, I thought, "Well, I'll never write that play, but I'll work
that idea of the play into a tale of mine." Of course, I couldn't say
that Hladik had thought out a drama or a work of art' and say nothing
whatever about it. Because then, of course, that would fall flat,
I had to make it convincing. So, I wove. I interwove those two ideas
... Now that story has been one of my lucky ones. I'm not especially
fond of it, but many people are. And it has even been published in
popular magazines in Buenos Aires.
BURGIN: Maybe they think of
it as a more optimistic story of yours, in a way ...
It ties in with your ideas on time, your "New Refutation
of Time."
BORGES: Yes, yes, and the
idea of different times, no? Of different time schemes.
Psychological time.
Và điều thứ nhì, là
1 ý tưởng về tôn giáo - về 1 con
người tự xác minh mình với Thượng Đế, về 1
điều gì chỉ Thượng Đế biết. Thượng Đế cho hắn ta cơ
hội đó.
Đúng như thế. Thượng
Đế, sau khi thử thách GCC bằng đủ thứ địa ngục,
và, khi GCC đã qua được cái Test của
Kafka, “anh Trời già” bèn cho Gấu cái
cơ hội làm trang Tin Văn!
Chúc
vui, khỏe, và thanh thản trong mùa lễ
cuối năm . (1)
Và gởi bài
thơ cho GNV :
Đọc giữa
hai hàng chữ
Hình
như lúc em được tượng hình
Thượng Đế đang ngồi nhìn
mông mênh
Lỡ tay đánh vỡ đôi
mắt ngọc
Đành nhặt sương đôi
hạt rơi quanh
Mắt em từ
đó chẳng bao giờ
Nhìn cho thật rõ
với người ta
Trần gian bỗng trở thành
thi vị
Những hình, những
bóng nhẹ nhàng qua
Thuở bé
mẹ dắt tay cổ tích
Trong vườn đâu thấy
những gai đâm
Đâu thấy sâu
nằm trong tơ kén
Chỉ thấy hoa và bướm
bâng khuâng
Anh cứ viết
mực màu đen mướt
Chữ kẽm gai trên giấy
đỏ tươi
Cứ việc nhắc những ngày
lạnh buốt
Qua mắt em chỉ thấy mặt trời.
K
Tks. NQT
(1)
Note: Giáng
Sinh 2011
Bác
«lãng mạn» quá, cứ mong chờ
có một cú ngoạn mục của các nhân
tài.
O.
Cú
ngoạn mục đó, a very personal pact between the two, chính
là cái cơ may của con người, để tự xác minh, chính
nó, vói Thượng Đế, về 1 điều, chỉ nó và Thượng
Đế biết.
Nhân vụ Đức đuổi thêm
1 tên Vẹm về xứ Mít.
Lời cảm tạ khi được vô Hàn
Lâm Viện Đức
W.G. Sebald
[1944-2001]
Tôi ra đời vào
năm 1944, tại Allgau, thành thử có
lúc tôi đã không cảm nhận,
hoặc hiểu được thế nào là huỷ diệt, vào
lúc bắt đầu cuộc đời của mình. Lúc
này, lúc nọ, khi còn là
một đứa trẻ, tôi nghe người lớn nói tới một cú,
a coup, tôi chẳng có bất cứ một ý
nghĩ, cú là cái gì. Lần đầu tiên,
như ánh lửa ma trơi, cái quá khứ của
chúng tôi đó bất chợt tóm lấy tôi,
theo tôi nghĩ, đó là vào một đêm,
vào cuối thập niên 1960, khi nhà máy
cưa ở Platt cháy rụi, mọi người ở ven thành phố
đều túa ra khỏi nhà để nhìn bó
lửa cuồn cuộn tuá lên nền trời đêm. Sau đó,
khi đi học, phần lớn huỷ diệt mà chúng tôi được
biết, là từ những cuộc viễn chinh của Alexander Đại Đế và
Nã Phá Luân, chứ chẳng phải từ, vỏn vẹn chỉ,
muời lăm năm quá khứ của chúng tôi đó.
Ngay cả ở đại học, tôi hầu như chẳng học được gì, về lịch
sử vừa mới qua của Đức. Những nghiên cứu Đức vào những
năm đó, là một ngành học - mù lòa
như dã được dự tính, chỉ đạo từ trước, và, như
Hebel sẽ nói - cưỡi một con ngựa nhợt nhạt (1). Trọn một khoá
học mùa đông, chúng tôi trải qua bằng
cách mân mê Cái Bô Vàng [The
Golden Pot] (1), mà chẳng hề một lần băn khoăn, về sự liên
hệ ở trong đó, rằng, tại làm sao mà một câu
chuyện lạ thường như vậy lại có thể được viết ra, với tất cả
những cấu trúc dàn dựng của nó như thế, liền
ngay sau một thời kỳ mà xác chết còn ngập những
cánh đồng bên ngoài Dresden, và trong thành
phố ở bên con sông Elbe đó thì đang xẩy
ra nạn đói, và bệnh dịch. Chỉ tới khi tới Thụy Sĩ, vào
năm 1965, và một năm sau, tới Anh, những ý nghĩa của
tôi về quê nhà mới bắt đầu được nhen nhúm,
từ một khoảng cách xa, ở trong đầu của tôi, và
những ý nghĩ này, trong vòng 30 năm hơn, ngày
một lớn rộng, nẩy nở mãi ra. Với tôi trọn một thể chế
Cộng Hoà có một điều không thực, kỳ cục chi chi
về nó, như thể một cái gì biết rồi chẳng hề chấm
dứt, a never-ending déjà vu. Chỉ là một người
khách ở đất nước Anh Cát Lợi, và ở đó
thì cũng vậy, tôi như luôn luôn cảm thấy mình
lơ lửng, giữa những ý nghĩ, những tình cảm của sự quen
thuộc và của dời đổi, bật rễ, không bám trụ được
vào đâu. Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel,
tôi có giấc mơ của mình ở trong thành phố
Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là
một tên phản bội quê nhà, và một tên
lừa đảo. Đặc biệt là, chính vì những nghi hoặc
như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn
Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có
vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng
hy vọng.
W.G. Sebald
Nguyễn Quốc Trụ
dịch [từ bản tiếng Anh, của Anthea Bell, trong Campo
Santo, do Sven Meyer biên tập, nhà xb Hamish
Hamilton, Penguin Books, 2005]
(1) Pale Rider:
Kỵ sĩ Nhợt Nhạt, Ám chỉ Thần Chết
(2) Tác
phẩm của E.T.A Hoffmann (1814)
Vụ TXT làm
nhớ tới Sebald.
Ông chửi nước Đức của ông, vờ cái
vụ máy bay Đồng Minh tàn phá
những thành phố Đức, và tự hỏi tại sao,
và bèn tự trả lời, người Đức coi đây
là nỗi nhục nhã trong gia đình,
đừng mang ra khoe với thiên hạ, y chang cái
vụ Bắc Kít mời Tẫu vô giường, nhường vợ cho
chúng, đổi lấy súng đạn làm thịt
thằng em Nam Bộ!
Làm sao Đức bỏ qua cho Vẹm cho được!
Sở dĩ không có 1 tên Bắc Kít
nào dám nhỏ 1 giọt nưóc mắt cá
sấu cho lũ Ngụy, có thể là do chúng
vẫn còn đau cái nỗi đau nhường giường
cho Tẫu, trong khi xẻ dọc Trường Sơn!
But barbarism doesn't
care if we are cultivated or not.
Lũ Vẹm đếch
"care", chúng ta có học hay không
có học.
Quả thế. Cho
đến thời điểm này, chúng vẫn không
làm sao hiểu được, tại làm sao mà
Đức lại quá quan tâm đến 1 tên
mafia đỏ, bị đồng bọn hăm he làm thịt, bỏ chạy
Nhưng, nhìn
1 cách nào đó, trường hợp
TXT là cơ may độc nhất, có thể nói
như vậy, cho tới nay, để cho người Đức, thắp lên
nén hương tưởng niệm nạn nhân Lò Thiêu.
Sebald chẳng
đã từng than, "không làm sao
tưởng niệm, nỗi nhục trong gia đình…. "...
Đọc bài
của Sến, trên net, viết về cas TXT, thì
thấy rõ, cái đọc, cái độc, cái
ác của Bắc Kít.
Chúng chỉ có thể
sản xuất ra 1 thứ văn chương làm nhục thêm
cho Mít.
Cái nén
hương mà Đức thắp lên cho Lò
Thiêu, lũ Ngụy cũng được ngửi ké, theo cái
kiểu suy nghĩ của Sến, ngửi khói bếp hàng
xóm cũng đủ no.
Cũng trên
tờ báo Trẻ [hải ngoại, đọc trên net]
có bài của Sến, còn có bài,
Đức đâu cần TXT.
Cần quá
chứ làm sao nói không cần?
Chính
lũ Vẹm cho Đức cơ hội để nhìn lại vụ Lò
Thiêu, và quá đó, lũ Ngụy,
nhìn lại Trại Tù Cải Tạo.
Nghe có vẻ lớn lối nhưng quả đúng
như thế, nếu đọc Sebald viết về 1 nước Đức thời hậu
chiến, cái thành quả kinh tế hậu chiến,
vẫn có mùi tủi nhục, từ Lò Thiêu.
Chúng chỉ có thể
sản xuất ra 1 thứ văn chương làm nhục thêm
cho Mít.
Về vụ TXT, có mấy chi tiết cực kỳ lý
thú: Đức đã từng vờ, cho “VC Đông Đức” qua
“Ngụy Tây Đức”, bắt cóc người!
Thú vị hơn nữa, là Ông Hoàng,
giám đốc sở tình báo Ngụy, sếp của Z28, bèn
chôm liền, và phái điệp viên số 1 của Ngụy
ra Hà Nội, để kíu 1 tên “Người của chúng
ta ở Bắc Bộ Phủ”.
Không phải tự nhiên mà cái
tay ngoại giao Đức nhắc tới chiến tranh lạnh, trong vụ Vẹm bắt cóc
TXT:
Đằng sau vụ TXT là tội ác Lò
Thiêu!
Cái vụ Tây Đức vờ cho Đông Đức
bắt công dân của nó, cực kỳ thê thảm,
cho dù chỉ xẩy ra ở trong giả tưởng, ở trong cuốn Gián
Điệp Về Từ Vùng Đất Lạnh, và có thể đây
cũng là 1 trong những lý do khiến cuốn sách cực
kỳ ăn khách, đưa le Carré lên đài danh vọng:
Mật vụ Đức biết hết, từ khởi thuỷ của câu chuyện, kể cả cuối câu
chuyện, khi họ gật đầu cho lính gác Bức Tường phiá
Đông Đức bắn chết cô gái, và anh điệp viên
Tây Đức, quá tởm đất nước của mình, bèn
đếch thèm trở về, đến bên xác cô gái,
cùng chết.
Đoạn này cực kỳ bi hùng tráng,
đúng y chang 1 thứ bi hùng kịch Hy Lạp loại tổ bố!
John le Carré là
bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm
Bộ Ngoại giao (công tác gián điệp), do vậy,
không được dùng tên thực. Cuốn The Spy Who Came
in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài
danh vọng. Đã được quay thành phim, với tài tử
Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú
vị nhất, đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh
thám nổi tiếng, Người Thứ Tám, phóng tác,
với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí
số Z.28. Nội ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu
Lâm vào hàng thượng thừa, Văn Bình được Ông
Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra
Bắc (Hà Nội), để cứu một điệp viên Miền Nam nằm vùng,
một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ tài liệu:
nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách
mạng" ở một ngân hàng Thụy Sĩ; ngày giờ, địa điểm
những lần nhận tiền…
Trong
nguyên tác của Le Carré, câu chuyện
xẩy ra tại nước Đức, bên này và bên kia
Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc ăn, ông đã
để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản
gián cho về vườn, sau khi thất bại trong một điệp vụ, thân
tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái
thương tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và
sau đó được móc nối với "cách mạng" (Đông
Đức).
Mọi
việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn,
Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức
bắt cóc cô gái, người yêu của anh chàng
điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
Bí
mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo
đều là dởm. Người mà anh điệp viên tin là
phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ địch này là
một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng
Sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"! Còn cái người mà
anh điệp viên "tởm" nhất, và tin rằng là kẻ địch,
lại chính là phe ta!
1
Checkpoint
The American handed Leamas another
cup of coffee and said, "Why don't you go back and sleep? We can
ring you if he shows up."
Leamas said nothing, just stared through the window
of the checkpoint, along the empty street.
"You can't wait forever, sir. Maybe he'll come some
other time. We can have the Polizei
contact the Agency: you can be back here in twenty minutes."
"No," said Leamas, "it's nearly dark now."
"But you can't wait forever; he's nine hours over
schedule. "
"If you want to go, go. You've been very good," Leamas
added. "I'll tell Kramer you've been damn good."
"But how long will you wait?"
"Until he comes." Leamas walked to the observation
window and stood between the two motionless policemen. Their binoculars
were trained on the Eastern checkpoint.
"He's waiting for the dark," Leamas muttered, "I
know he is."
"This morning you said he'd come across with the
workmen."
Leamas turned on him.
"Agents aren't airplanes. They don't have schedules.
He's blown, he's on the run, he's frightened. Mundt's....
[Trang đầu cuốn The Spy]
Giới tuyến
Anh chàng người Mỹ đưa
cho Leamas một tách cà phê và nói:
- Sao ông không về ngủ đi? Chúng
tôi có thể điện thoại cho ông biết nếu thấy
hắn xuất hiện.
Leamas không nói gì cả, chỉ nhìn
chăm chăm qua khung cửa sổ của trạm gác, dọc theo con đường
vắng tanh.
- Ông không thể đợi mãi. Có
thể hắn sẽ tới vào một lúc khác. Chúng
tôi có thể cho Poliezei liên lạc với cơ quan và
ông có thể trở lại đây trong vòng hai mươi
phút.
Leamas trả lời
- Không, gần tối rồi
- Nhưng ông không thể đợi mãi,
hắn đã trễ hẹn chín tiếng đồng hồ rồi.
- Nếu anh muố đi, thì cứ đi. Anh đã
làm việc chu tất.
Leamas nói thêm :
- Tôi sẽ cho Kramer biết là anh đã
tỏ ra rất giỏi
- Nhưng ông sẽ đợi bao lâu?
- Đến khi hắn tới.
Leamas bước đến cửa sổ và đứng giữa hai viên
cảnh sát bất động. Ống nhòm của họ đang hướng về phía
nút chặn phía Đông
Leamas khẽ bảo :
- Anh ta đang đợi trời tối. Tôi biết thế.
- Sáng nay ông nói với anh ta
sẽ tới với bọn thợ.
Leamas quay lại:
- Điệp viên không phải là máy
bay. Họ không có thời biểu. Anh ta bị lộ, đang chạy
trốn, đang sợ hãi. Mundt đang bám theo anh ta, ngay
lúc này. Anh ta chỉ có một cơ hội. Hãy
để anh ta chọn lựa giờ giấc. (a)
Đoạn trên Bồ Giang dịch,
post trên VN thư quán. “Checkpoint” ở đây
là “Charlie Checkpoint”,
giữa Đông Bá Linh và Tây Bá Linh,
nổi tiếng 1 thời. NQT
Cám
ơn ông Quoc Tru Nguyen, đọc ông
để phải tìm đọc lại "Điệp viên về từ vùng đất
lạnh”, và trên Tin Văn thấy được câu phán
của ông về vụ Trịnh Xuân Thanh :
“Chính
lũ Vẹm cho Đức cơ hội để nhìn lại vụ Lò Thiêu,
và qua đó, lũ Ngụy, nhìn lại Trại Tù Cải
Tạo”.
Thật là
thần sầu. Không, phải gọi là thiên tài.
...Continue Reading
Note: Tks
Đúng, không phải tự nhiên mà một
viên chức ngoại giao Đức nhắc đến “Chiến tranh Lạnh” khi nói
về vụ TXT. Thật ra, nếu dũng cảm thêm chút nữa ông
phải nhắc đến Lò Thiêu (Auschwitz).
NND
Vị này không thể nhắc tới Lò Thiêu,
cũng như Bắc Kít không thể nhắc tới Trại Tù Cải
Tạo.
Nhưng nhắc tới Chiến Tranh Lạnh, là nhắc tới Lò
Thiêu.
Bởi là vì Chiến Tranh Lạnh bắt đầu, khi Lò
Thiêu chấm dứt.
Đây là noblesse/faiblesse oblige, như Tẩy nói.
Trường hợp Mối Chúa.
Cái nick của Tạ Duy Anh, cho
cuốn này, là "Đãng Khấu".
GCC tự hỏi, hay là, Đảng Khấu?
Tiếng Mít ở trong nước bây giờ lạ lắm.
Đảng Khấu thì còn có
nghĩa. Và còn mắc mớ tới Thuỷ Hử.
Đọc ba cái lăng nhăng trên
net, về nó, thì bỗng dưng GCC liên tưởng
tới "Ngôi Mộ Boris" của Kis.
Danilo Kis
Introduction
At first glance
A Tomb for Boris Davidovich may indeed
seem like a spin-off from The First Circle, The
Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia),
Nadezhda Mandelstarn's Hope against
Hope, and the Medvedev brothers' various
writings. The point is that the bulk of the novel has to
do with the fate of several people who perished during
the Great Terror of the late 1930s. For an account of that
the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty
million dead in the civil war, collectivization, the Great
Terror, and things in between, Russia in this century has
produced enough history to keep the literati all over the world
busy for several generations. The aforesaid authors already
belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's,
and several chapters of the Kis book bear a general resemblance
to Darkness at Noon, although surpassing
it in both horrifying detail and narrative skill.
Thoáng nhìn, Ngôi Mộ có
vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác
phẩm như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag
[chưa được xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda
Mandelstarn và những cái viết của anh em nhà
Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy vào
số phận một vài người bị tiêu trầm trong
cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên
1930. Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với
60 triệu con người chết, trong cuộc nội chiến, tập thể
hóa, Đại Khủng Bố, Nga xô, trong thế kỷ này,
đã sản xuất đủ lịch sử để làm cho văn chương toàn
thế giới bận rộn trong vài thế hệ.
Những tác giả được nói tới ở trên
thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ có cái
giông giống Đêm
Giữa Ban Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều,
nếu nói về ghê rợn về chi tiết, và về
kỹ năng tự sự.
Ui chao Joseph Brodsky, như
thế, là đã tiên tri ra được
"Đêm Giữa Ban Ngày" của nhà
văn người tù lương tâm Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!
Perhaps the only service
a real tragedy renders in leaving its survivors
as speechless as its victims is that of furthering
its commentators' language. The least that can be said
about A Tomb for Boris Davidovich is that it achieves
aesthetic comprehension where ethics fail. Of course,
the mastery of language can hardly pass for a safeguard
in our enterprising century; but at least it creates
a possibility of response, without which people are bound
to remain slaves of their experience. By having written this
book, Danilo Kis simply suggests that literature is the only
available tool for the cognition of phenomena whose
size otherwise numbs your senses and eludes human grasp.
Có
lẽ cú phục vụ độc nhất mà 1 bi kịch thực,
đem tới, khi để cho kẻ sống sót cũng câm bặt
như những nạn nhân, là, cái trò
lèm bèm về ngôn ngữ của nó, sau
đó. Nếu như thế, thì ít nhất, chúng
ta có thể phán về “ Ngôi mộ”, nó
hoàn tất cảm thông mỹ học, một khi/ở nơi mà
đạo hạnh thất bại.
Lẽ dĩ nhiên,
khó mà coi đây là cái
phao cứu nạn, trong thế kỷ “enterprising” của chúng
ta, nhưng ít nhất, nó tạo 1 khả thể đáp
ứng, không có nó, con người bị buộc
là nô lệ của kinh nghiệm của nó.
Viết “Ngôi
mộ”, Kis giản dị đề xuất rằng, văn chương là
dụng cụ khả hữu độc nhất, nhìn nhận hiện tượng,
một khi tầm vóc của nó làm tê
liệt cảm quan của bạn, và tuột ra khỏi cái
nắm, víu của nhân loại
A Tomb for Boris Dauidooicb
is a very dark book, and its only happy
end is that it was published and now so splendidly
translated into English by Duska Mikic-Mitchell.
It is surely a strange realm for an English
reader to enter, but so it was for the millions
and millions who found themselves inside it. Unlike
them, an English reader can leave it whenever he likes
by closing this book, finished or unfinished. Only
the names here are fictitious. The story, unfortunately,
is absolutely true; one would wish it were the
other way around.
“Ngôi
mộ” là 1 cuốn sách quá u tối,
và cái hy vọng độc nhất của nó, được
xb, và bây giờ, được dịch thật là
tuyệt vời qua tiếng Anh. Chắc chắn cái cõi
này thì thật là lạ lẫm đối với độc giả
người Anh, khi bước vô, nhưng có hàng
triệu triệu con người cảm thấy họ ở trong đó. Không
như họ, một độc giả tiếng Anh có thể ngưng đọc ở bất cứ
khúc nào, bất cứ khi nào, anh ta muốn, bằng
cách đóng nó lại.
Chỉ có
những cái tên là dởm. Câu
chuyện, than ôi, bất hạnh thay, thực.
Tuyệt đối thực
Nếu như thế, thì mục đích
của Mối Chúa, là được in ra, để được thu
hồi, liền sau đó?
ĐÌNH
CHỈ, THU HỒI SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN: NGHỊCH LÝ HAY "TIẾN
THOÁI LƯỠNG NAN" CỦA CỤC XUẤT BẢN
Nhân
vụ Cục XB lệnh "đình chỉ" tiểu thuyết "Mối chúa"
của Đãng Khấu (tức Tạ Duy Anh), nhớ lại 2 việc:
1. Năm
2007, khi Cục XB ra lệnh cho NXB Hội Nhà văn "tự thu
hồi" tiểu thuyết "Cọng rêu dưới đáy ao" của Võ
Văn Trực, tôi đã viết trên talawas về nghịch
lý hay thế "tiến thoái lường nan" này:
"Có điều, tôi thực sự không
hiểu chiêu thức trên có lợi gì cho
“định hướng xã hội chủ nghĩa” một khi lệnh thu hồi chẳng
bao giờ khả thi mà chỉ giúp cho các cuốn
sách bị thu hồi được săn tìm và một số người
in sách lậu vớ bở, còn nhà nước tiếp tục
mang tiếng là hẹp hòi, thiếu dân chủ trong lĩnh
vực văn hoá? Nó có gì
khá giống cái dòng… (toà báo tự
ý đục bỏ) nhan nhản trong báo chí chế độ Sài
Gòn một thời tồn tại Nha Kiểm duyệt.
Còm:
Đấng này, rành Ngụy hơn
cả Gấu Cà Chớn!
Lũ Ngụy, chúng ngu lắm. Nhớ, báo
chí hồi đó, đen ngòm những hố đen, đúng
như đấng này phán.
Để giải thích chuyện này,
đành phải lôi "người Đức tốt", Sebald ra.
Nguyễn Quốc Trụ
Thư góp ý cùng độc
giả Nguyễn Việt Kiều (talawas)
Cái mánh loại trừ là
bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s
defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
Vụ da cam đang nóng, nóng
dây chuyền tới những vụ khác, như thảm sát
Mậu Thân, mà những tài liệu từ một diễn
đàn trên lưới cho thấy, không phải VC mà
là CH [Cộng Hoà] gây nên. Rồi ngày
nào, là vụ pháo kích vô một
trường học ở Cai Lậy, cũng pháo CH, không phải hoả
tiễn VC.
Nếu có chăng, là độc nhất
một tấm hình, chụp một ông xã trưởng
bị VC chặt đầu, rồi dùng chính cái sọ dừa,
dằn bản án lên bụng tử thi, trên bìa
tờ Time của Mẽo ngày nào, mà độc nhất Gấu tui
còn nhớ.
Ngoài ra là… chấm hết!
Cả cuộc chiến, VC không gây
một tội ác nào khác. Nếu có,
là phải đợi tới sau 1975.
Chúng ta tự hỏi, liệu sau này,
lịch sử sẽ phải giải thích như thế nào, về trường
hợp quái dị trên đây?
Cả một dân tộc chạy ra biển cả để
trốn VC, mà VC thì tốt như thế, không
hề gây ra tới… “hai” tội ác.
Để giải thích trường hợp quái
dị trên đây, Gấu tui đành mượn một câu,
nhà văn Đức Sebald trích dẫn, trong cuốn Về lịch
sử tự nhiên của huỷ diệt (On The Natural History Of Destruction)
của ông:
Cái mánh loại trừ là
bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s
defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
Nói rõ hơn, mấy ông
VC rất rành về chuyện chùi mép - nghĩa
là loại trừ mọi rủi ro, bị phanh phui, bị bật mí
- này.
Chỉ tội ông tướng Loan, nghe nói,
đã từng mời báo chí Mẽo tới chứng kiến
ông xử một anh VC ngay tại trận tiền, những ngày
Mậu Thân.
Độc giả Tin Văn [tanvien.net] đã
biết về Sebald, qua bài tưởng niệm ông, khi
ông qua đời sau một vụ đụng xe. Cuốn Lịch sử tự nhiên
về huỷ diệt, cũng là do một sự ngạc nhiên quái
dị liên quan tới Đồng Minh uýnh nhau với Nazi: Trong
thời Đệ Nhị Chiến, 131 thành phố và đô thị là
mục tiêu ăn bom của Đồng Minh, nhiều nơi biến thành
bình địa. Sáu trăm ngàn thường dân
bị chết, gấp đôi con số thương vong của Mẽo. Bẩy triệu rưởi
thường dân Đức không còn nhà ở. Sebald
ngạc nhiên tự hỏi, tại làm sao mà lịch sử lại
vờ đi một sự kiện như thế, nhất là ở nơi ký ức văn hoá
của chính nước Đức?
Trong những lời ca ngợi cuốn sách
lạ kỳ của ông, có:
Hầu hết mấy ông nhà văn,
ngay cả thứ ngon cơm, viết cái điều có thể viết...
Thứ quá sá ngon cơm, nghĩa là thứ đại hảo
hạng, viết cái không thể viết... Tôi nghĩ đến
nữ thi sĩ Nga, Akhmatova, và nhà văn Ý gốc Do Thái,
Primo Lévi. Nay có thêm W.G. Sebald.
(Nữu Ước Thời Báo)
Bí mật của nỗi ngạc nhiên
đến phải cầm viết viết, và lên tiếng, của Sebald,
là, ông tự thấy mình cổ lỗ sĩ, khi chọn cho
mình thứ tiếng nói của lương tâm mà
hầu như chẳng còn ai nhớ. Đó là thứ lương tâm
của một người nào đó, và người này nhớ đến
sự bất công, và nói thay cho những người không
còn có thể nói được.
(Điểm Sách Nữu Ước)
Trong bài viết Không chiến
và văn chương (Air War and Literature) ông có
giải thích về cái sự im hơi bặt tiếng, của hồi
ức văn hoá Đức: Họ coi đây là một điều cấm kỵ,
một vết thương, vết nhục ở trong gia đình, [a kind of taboo
like a shameful family secret].
Người Việt thường tự hào về một
Điện Biên Phủ trên không. Chưa thấy ai nói
tới cái tủi nhục như là niềm bí ẩn trong
gia đình, về con số thương vong, thí dụ như trong
những ngày Mậu Thân, chỉ ở Sài Gòn
không thôi, bởi những trái hoả tiễn của VC?
Đọc, loáng thoáng, mấy bài viết của
mấy tên Vẹm, về cuộc chiến Mít, nhân cái
phim VNWar mới ra lò, hay về vụ Phan Nhật Nam dậy dỗ tên
Trùm Hội Nhà Thổ mới hỡi ơi.
Não của lũ này quả mất 1 mẩu!
Thua xa bà Dương Thư Hương: Vào ngày
30 Tháng Tư, Bà đã nhận ra Mọi Rợ thắng Văn Minh.
Đã là mọi rợ, thì làm sao mà
hòa giải, hòa hợp, nhìn lại….. ?
Cả hai cuộc chiến, đều là tự diệt, huỷ diệt cái
giống dân, cái xứ sở gọi là xứ Mít.
Bởi thế Gấu mới biểu tên già tay đầy máu
Ngụy NN, hãy cởi trần cởi truồng bò ra Mả Ngụy sám
hối, bởi vì phải có 1 tên làm được 1 việc
như như thế, như là bước đầu tiên, để mà tạ tội
với những người đã chết, thì may ra Thượng Đế mới mở lòng,
nhìn lại cho cái giống Mít.
Thượng Đế mở lòng nhìn lại, chứ không
phải loài người!
Cả 1 cái lịch sử của Vẹm, từ khi chúng khởi
nghiệp, 1945, là chỉ giết, và giết.
Chúng chưa từng làm 1 hành động nhân
đức, nhân bản, nhân văn... cái con mẹ gì
hết.
Làm sao hoà giải?
Viết
mỗi ngày
Hehe, lại
tự PR gây sức ép với người ở cùng, hy vọng về nhởn
được với mùa thu Hà Nội.
Trả lời
trong cuộc phỏng vấn do nhà thơ Thế Dũng thực hiện cho một
chương trình phát thanh tiếng Việt ở Berlin, nhà
văn Y Ban từng nhận xét đại ý rằng Lê Minh Hà
viết chỉ như các em học sinh đang tập viết tác phẩm
tuổi xanh. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ còn cho một nhận xét
thảm hại nữa: Lê Minh Hà chưa biết viết. Căn cứ để nhận
xét là truyện này đây: TIẾNG TRĂNG, hay
còn gọi là TRƯƠNG CHI.
Vậy mà...
Continue Reading
Note: Theo GCC, hai nhận xét của Y Ban và
Nguyễn Văn Thọ, đều đúng, và rất dễ nhận ra, khi đọc
họ. Cả hai quen viết thứ chuyện có chuyện, đầy những sự kiện.
Truyện ngắn của LMH không phải thứ đó.
Có 1 câu của mũi lõ, rất đúng,
nếu áp dụng vào truyện của LMH: Chi tiết là
Thượng Đế ở trong văn chương.
Còn với Nguyễn Huy Thiệp, thì lại khác
nữa, đưa vào bài viết, không đúng, và
còn làm hiểu sai cả bài viết, luôn cả
cõi văn của LMH. Nguyễn Huy Thiệp tạo ra những nhân vật
để trở thành truyền thuyết, như 1 tướng về hưu, thí dụ.
Đúng ra, đừng nhắc tới cả ba.
NQT
Vẫn theo GCC, cõi văn của LMH, đúng ra,
còn có thể hay hơn nhiều, nhưng sau này khựng
lại, do sao, thì chắc cũng dễ hiểu. Không gia nhập vào
được dòng chính của đương đại, quay về với dĩ vãng
của 1 miền đất... Viết như thế, thì có thể viết mãi,
nhưng khó mà gây sức ép lên độc giả.
Phải nhập cuộc, bắt buộc phải như vậy, với bất cứ 1
nhà văn, nam hay nữ.
Sách
& Báo
Mới
1942: Auschwitz
BLIND FIERCE
ACHE OF LIFE
A great
city opened out before the travelers. Its western outskirts were lost
in the mist. The dark smoke from the distant factory chimneys blended
with the damp to form a low haze over the checkered pattern of the barrack
huts; there was something surprising in the contrast between the mist and
the angular geometry of the streets of barracks.
To the northeast there was a dark red glow in
the sky; it was as though the damp autumn sky had somehow become
red-hot. Sometimes a slow, creeping flame escaped from this damp
glow.
Songs have
immunity from death.
-Ovid, c. 10BC
The travelers
emerged into a spacious square. In the middle of this square
were several dozen people on a wooden bandstand like in a public
park. They were the members of a band, each of them as different
from one another as their instruments. Some of them looked around
at the approaching column. Then a gray-haired man in a colorful cloak
called out, and they reached for their instruments. There was a burst
of something like cheeky, timid birdsong and the air-air that had been
torn apart by the barbed wire and the howl of sirens, that stank of oily
fumes and garbage-was filled with music. It was like a warm summer cloudburst
ignited by the sun, flashing as it crashed down to earth.
People in camps, people in prisons, people who
have escaped from prison, people going to their death, know the
extraordinary power of music. No one else can experience music
in quite the same way.
What music resurrects in the soul of a man about
to die is neither hope nor thought but simply the blind, heartbreaking
miracle of life itself. A sob passed down the column. Everything
seemed transformed, everything together; everything scattered and
fragmented-home, peace, the journey, the rumble of wheels, thirst, terror,
the city rising out of the mist, the wan red dawn-fused together, not
into a memory or a picture but into the blind, fierce ache of life itself.
Here, in the glow of the gas ovens, people knew that life was more than
happiness-it was also grief. And freedom was both painful and difficult;
it was life itself. Music had the power to express the last turmoil of
a soul in whose blind depths every experience, every moment of joy and
grief, had fused with this misty morning, this glow hanging over their
heads. Or perhaps it wasn't like that at all. Perhaps music was just
the key to a man's feelings, not what filled him at this terrible moment,
but the key that unlocked his innermost core.
In the same way, a child's song can appear to
make an old man cry. But it isn't the song itself he cries over;
the song is simply a key to something in his soul.
As the column slowly formed into a half circle
around the square, a cream-colored car drove through the camp
gates. An SS officer in spectacles and a fur-collared greatcoat
got out
and made an impatient gesture; the conductor,
who had been watching him, let his hands fall with what seemed
like a gesture of despair, and the music broke off. A number of
voices shouted, "Halt." The officer walked down the ranks; sometimes
he pointed at people, and the guard called them out. He looked them
over casually while the guard asked in a quiet voice-so as not to disturb
his thoughts: "Age? Occupation?"
Thirty people altogether were picked out.
Then there was another command: "Doctors, surgeons!"
No one responded.
"Doctors, surgeons, come forward!"
Again-silence.
The officer walked back to his car. He had lost
interest in the thousands of people in the square.
The chosen were formed up into ranks of five
and wheeled around toward the banner on the camp gates: ARBEIT
MACHT FREI. A child in the main column screamed, then some women;
their cries were wild and shrill. The chosen stood there in silence,
hanging their heads.
How can one convey the feelings of a man pressing
his wife's hand for the last time? How can one describe that last
quick look at a beloved face? Yes, and how can a man live with
the merciless memory of how, during the silence of parting, he
blinked for a moment to hide the crude joy he felt at having managed
to save his life? How can he ever bury the memory of his wife handing
him a packet containing her wedding ring, a rusk, and some sugar lumps?
How can he continue to exist, seeing the glow in the sky flaring up
with renewed strength? Now the hands he had kissed must be burning, now
the eyes that had admired him, now the hair whose smell he could recognize
in the darkness, now his children, his wife, his mother. How can he ask
for a place in the barracks nearer the stove? How can he hold out his bowl
for a liter of gray swill? How can he repair the torn sole of his boot?
How can he wield a crowbar? How can he drink? How can he breathe? With the
screams of his mother and children in his ears?
Those who were to remain alive were taken toward
the camp gates. They could hear the other people shouting and
they were shouting themselves, tearing at the shirts on their
breasts as they walked toward their new life: electric fences, reinforced
concrete towers with machine guns, barrack huts, pale-faced women
and girls looking at them from behind the wire, columns of people
marching to work with scraps of red, yellow, and blue sewn to their
chests.
Once again the orchestra struck up. The people
chosen to work entered the town built on the marshes.
Dark water forced its way sullenly and mutely
between heavy blocks of stone and slabs of concrete. It was a
rusty black and it smelled of decay; it was covered in green chemical
foam, filthy shreds of rag, bloodstained clothes discarded by the
camp operating theaters. It disappeared underground, came back to
the surface, disappeared once more. Nevertheless, it forced its
way through-the waves of the sea and the morning dew were still present,
still alive in the dark water of the camp.
Meanwhile, the condemned went to their death.
Vastly Grossman,
from Life and Fate.
A Red Army
correspondent during World War II, Grossman was present for the
Soviet march westward after the Battle of Stalingrad and saw several
Nazi concentration camps firsthand; in 1944 his article "The Hell
of Treblinka" became one of the first published about a camp.
The manuscript for Life and Fate was confiscated
by the KGB in 1961, three years before Grossman's death, but a
microfilm copy was smuggled out of the Soviet Union and a Russian-language
edition was published in Switzerland in 1980.
Note: Kinh
nghiệm nghe nhạc ở Lò Thiêu này, GCC đã
từng trải qua, khi nghe nhạc sến ở Trại Tù Đỗ Hoà,
Nhà Bè.
Tất nhiên,
có khác, nhưng chúng cùng nói
lên, điều mà Milosz đã từng nói, khi viết
về Brodsky, và nhân đó, nhắc tới Osip Mandelstam.
Khi nhà thơ Nga, đói quá,
lục bới đống rác, thì đó là những
giây phút tố cáo cái ác, cái
phi nhân, nhưng khi ông đọc thơ cho bạn tù nghe,
thì đó những giây phút thăng hoa của "cái
gọi là" giống người.
NQT
Notes About Brodsky
Trong một tiểu luận,
Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa.
Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa,
và hẳn là vì lý do này, ông
tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế
kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người,
khám phá ra quá khứ như là một mê
cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê
cung, chúng ta khám phá ra cái gì
sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý
phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag,
điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao
lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài
bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết
án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù
là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.
Note: GCC
đã từng chứng kiến cảnh Bùi Giáng lục lọi đống rác
trên đường phố Sài Gòn.
Đọc
mấy anh VC nằm vùng, hay đám viết lách
nhảm nhí viết về lòng hận thù Nam Bắc, thời
gian còn chiến tranh, hay Mỹ Ngụy dày xéo
Miền Nam, lính Ngụy cực kỳ độc ác… bây giờ, sau
40 năm Bắc Kít cai trị, chúng còn độc ác
cỡ nào, với chính dân của chúng?
Điều này, tay viết bài trên
Người Kinh Tế, cũng nhận ra, thú thế!
Do hết credit đọc free, Tin Văn sẽ scan bản tiếng
Anh 1 phát, rồi dịch tiếng Mít sau.
Nhiều người thận trọng nhìn
lại suốt hơn 30 năm, giật mình với cảm giác
bên được giải phóng hóa ra lại là
miền Bắc...” - Huy Đức (Osin) (1)
Cái từ "thận trọng",
khó hiểu quá.
NQT
Cái ý của
Osin, "... bên được giải phóng hóa ra lại
là miền Bắc", chôm của… Gấu và của bạn Gấu,
là Thảo Trường.
Chứng cớ:
Khi còn ở Trại
Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng,
bị anh em đồng chí tính cho đi mò tôm,
nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh
lọc, rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa
một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra
một điều: tại sao các anh không giải phóng
chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh
cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể
nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn
đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính
mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền
Nam chỉ có công: Thất trận. (3)
Cho đến năm 1975, tội
lớn nhất của cộng sản là đã thắng trận, và,
chiến công lớn nhất của cộng hòa là thua trận
(4)
Sự thực, nguồn của cái
ý tưởng “thận trọng” này, là từ Borges:
Trong 1 bài viết,
TV sẽ post bản tiếng Anh, sau, Borges kể là ngày
14 June 1940, một tay nói tiếng Đức mà tên
của người này, ông không muốn nói ra,
tới nhà ông. Đứng tại cửa, anh ta báo tin động
trời: Quân đội Nazi đã chiếm đóng Paris.
Tôi [Borges] thấy trong tôi
lẫn lộn một mớ cảm xúc, buồn, chán, bịnh.
Thế rồi Borges bỗng để ý tới 1 điều
thật lạ, là, trong cái giọng bề ngoài tỏ
ra vui mừng khi báo tin [30 Tháng Tư, nói
tiếng Bắc Kít, mà không mừng sao, khi Nazi/VC
chiếm đóng Paris/Sài Gòn!], sao nghe ra, lại có
vẻ như rất ư là khiếp sợ, hoảng hốt?
Hà, hà!
Thế rồi anh ta phán
tiếp, Nazi/VC sẽ không tha London. Và không
có gì ngăn cản bước chân của Kẻ Thù
Nào Cũng Đánh Thắng!
Và tới lúc
đó, thì Borges hiểu, chính anh ta cũng
quá khiếp sợ!
Cũng tới lúc đó, Borges hiểu
ra "chân lý": Hitler muốn thua trận: Hitler
wants to be defeated.
Đọc tới đó, thì
Gấu nhớ ra cái bà già nhà quê
Bắc Kít đã từng lén VC cho bạn của Gấu,
sĩ quan cải tạo 13 niên, tí ti đồ ăn, trong 1 lần
chuyển trại tù. Bà lầm bầm, khi nhìn bạn của
Gấu nuốt vội tí cơm, các cháu đánh
đấm ra làm sao mà để thua giặc dữ.
Già này ngày đêm
cầu khẩn các cháu ra giải phóng Đất Bắc
Kít! (5)
Note: Nhân đọc trên
net, FB, thấy tên tà lọt này khoe Bên Thắng
Nhục của hắn. Cuốn này, và cuốn Bóng Đen
Giữa Ban Ngày, đều được tác giả của chúng
coi là hồi ký, tức không-giả tưởng, đều có
mùi ăn cắp, trên Tin Văn đã từng nêu ra.
Nhưng đó là chuyện nhỏ. Cả hai thiếu, cái phần
giả tưởng rất cần của cõi văn Mít. Chỉ nhờ giả tưởng,
thứ ròng, Mít mới tới được sự thực của cuộc chiến, theo
GCC. Chứng cớ: Trong những tác phẩm sau đây, thí
dụ, mỗi cuốn có tí sự thực, thứ tinh ròng, về
xứ Mít hiện đại: Bếp Lửa, Nỗi Buồn Chiến Tranh, Ba Người Khác,
MCNK, Đi Tìm Cái Tôi, Thời Gian Của Người…. Trong
bài Intro cho cuốn Ngôi Mộ, Brodsky cũng tin như vậy,
khi đọc Kis.
Sở dĩ đa số nhà văn Mít không
đạt tới thứ giả tưởng thật bảnh, là do đạo hạnh của
chúng quá tệ, theo GCC. Đây cũng là
ý của Brodsky, Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh
V/v Tận thế là
đây:
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý
hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản
của hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng
(réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào
trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những
nghệ sĩ và của những nhà tiên tri: Ghê
sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với
những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình
yêu."
Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng
bao giờ người ta lại được đọc những trang sách tuyệt
vời, về Hà-nội.
Có thể là do một câu
thơ và viễn ảnh khủng khiếp nó gây ra
ở nơi tôi.
"Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ"
(Trần Dần), câu thơ như một "Apocalypse Now" (Tận
Thế Là Đây), không phải chỉ riêng
cho Hà-nội. Làm sao mà thi sĩ lại nhìn
thấy suốt cuộc chiến sau đó, không phải chiến thắng,
mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng với
nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?
Liệu Mít thoát
“Tận Thế Là Đây”?
Một câu hỏi như thế, vô nghĩa,
mà phải đặt ngược lại:
Chỉ Tận Thế mới cứu nổi Mít!
Đây là 1 essay trên
báo Harperr's, số mới nhất, Sept 2016.
Đọc cái tít 1 phát,
là quơ liền tờ báo, ơ rơ ka,
kiếm thấy nó rồi!
Essay
49-53
PDF
On the politics of nostalgia
By Mark Lilla
Phim về cuộc chiến Mít hay nhất,
với GCC, là Tận Thế Là Đây của Coppola.
Đúng như thế.
Trái tim thúi đen, Cái Ác Bắc Kít
vs Thiện Ý của Mẽo.
Câu phán được nhắc tới nhiều nhất, về phim VNWar,
của Bảo Ninh, thuổng Nguyễn Duy, và câu này “ba
vạ”, bên nào thắng thì nhân dân cũng
bại.
Kít!
Tin Văn tính dịch bài
điểm phim trên Người Kinh Tế, vì có mấy ý
thật OK, khác hẳn lũ Mít và mấy tờ khác,
dù của mũi lõ.
Cái tay điểm sách, điểm phim.. của tờ này,
là dân pro. Câu mở ra bài viết mà chẳng
tuyệt sao?
THE great novels of the Vietnam war,
both in English and in Vietnamese, tend towards surrealism.
Tiểu thuyết lớn về cuộc chiến Mít mò tới chủ
nghĩa siêu thực...
Thú là, Gấu cũng đã từng viết như thế,
khi đọc Bảo Ninh, đoạn bộ đội Cụ Hồ phi cần sa -hồng hoang - trước
khi xung trận.
http://www.tanvien.net/ds/noi_buon_war.html
Câu BN phán, đúng
ra như vầy, lũ Mít ngu, như tên tà lọt Osin [đọc
trên net], đọc không ra, chỉ 1 câu:
Có những người có tài,
không phải kể cho hậu thế, nhưng mà cho những người nghe
người có tài này kể, và nhờ vậy mà
có cái để mà nhớ lại, để mà tưởng niệm. Và
những thế hệ sau, sau nữa... cứ thế mà nhớ lại, mà tưởng
niệm.
Sozhenitsyn: Những người
vô hình
Tôi nghĩ, Nỗi Buồn kể cho
hậu thế, và cùng lúc, cho những người không
trực tiếp tham gia cuộc chiến.
*
Hách xì xằng, bằng những cú trữ tình
và tàn bạo, u uẩn và nên thơ, ngây
thơ và xảo quyệt, Nỗi Buồn Chiến Tranh phán:
Chiến tranh, thằng khốn kiếp nào thắng,
thì cũng khốn khổ khốn nạn, thằng nhân loại.
By turns lyrical and brutal, bleak and poetic, naive and cunning,
The Sorrow of War eloquently confirms that in war whoever wins, the
casualty is humanity.
[Lời giới thiệu bản tiếng Anh].
America and Vietnam
Buried ordnance
A new series digs up the Vietnam War just as American politics
have again become explosive
THE great novels of the Vietnam war,
both in English and in Vietnamese, tend towards surrealism. In Tim O'Brien's
"The Things They Carried", an army medic manages to have his 17-year-old
sweetheart flown in from Ohio for a visit, only to watch her transform
into a bloodthirsty commando sporting a necklace of human tongues. In
Bao Ninh's "The Sorrow of War", ghosts haunt the Jungle of Screaming Souls,
and severed limbs rain from the sky during a B-52 raid. The two writers,
who fought on opposite sides, are among the dozens of interviewees featured
in "The Vietnam War", a ten-part, is-hour history by Ken Burns and Lynne
Novick. Like Mr Burns's earlier work, the new series is encyclopedic and
solemn, but this time there is also an element of psychedelic frenzy. This
is partly because, as with the novels, the material demands it. But it is
partly because the war, a decade-long nightmare that killed 58,000 Americans
and over 2m Vietnamese, remains too contested for a purely elegiac treatment.
Its politics still split both American and Vietnamese society today.
One way America has tried to process the
war is by casting it as an unnecessary tragedy. Like many other historians,
Mr Burns and Ms Novick trace the points at which things might have taken
a different turn, such as the brief alliance between Ho Chi Minh's
Viet Minh guerrillas and the ass (precursor to the CIA) at the end
of the second world war, and America's unwise decision to back France
as it tried to hold on to its colony. Later, as Presidents Kennedy and
Johnson are forced to deploy troops in South Vietnam to protect their client
state from a communist takeover, the filmmakers reveal both men's secret
doubts. In a taped memo, Kennedy blames himself for
approving the military coup that killed South Vietnam's autocratic president,
Ngo Dinh Diem. Johnson tells a senator, "There ain't no daylight in Vietnam,"
even as he sends in the first Marines. Such presidential qualms create a
sense of the road not taken; had Kennedy lived or Johnson been more confident,
they imply, America might have heeded its better impulses.
Yet the uncomfortable truth is that whereas
the war was in one sense an aberration from America's character, it
was also an expression of it. Kennedy's intellectual arrogance and Johnson's
cowboy bravado were two versions of the same typical American overconfidence.
Throughout the series, the Americans' misguided reliance on quantitative
technical approaches to complex problems comes up over and over again,
from the "body count" measure used by the hapless General William Westmoreland
to the computer-processed pacification statistics of Robert McNamara,
the defence secretary. The American belief that massive bombing would
dissuade the North Vietnamese from trying to unify their country betrayed
a crippling inability to understand that others' worldviews might be
different from theirs. Or as James Willbanks, an army strategist, describes
this approach: "When McNamara wants to know what
Ho Chi Minh is thinking, he interviews himself."
The series will be equally wrenching for
Vietnamese viewers. The conflict was a civil war, numerous Vietnamese
interviewees insist-"down to the family level", says Duong Van Mai Elliott,
a Vietnamese-American academic from the South whose sister went north
to join the communists. This might seem blindingly obvious, except that
the government in Hanoi has always resolutely denied it. For Vietnam's
communist rulers, the former South Vietnamese government was a "puppet
regime" controlled by America, and the war was not between two groups of
Vietnamese but between the Vietnamese people and foreign invaders. To admit
otherwise would be to acknowledge that there could be more than one source
of political legitimacy in Vietnam.
Americans, too, long ridiculed South
Vietnam and the Army of the Republic of Vietnam (ARVN) as corrupt and
shambolic. But Mr Burns and Ms Novick, like many historians today,
recognize that some ARVN units were disciplined and patriotic, and that
the country, for all its flaws, was relatively free and had a strong civil
society. Today's Vietnamese government, by failing to pursue a full
rehabilitation of the former officials and soldiers of South Vietnam
and to allow a free debate about rights and wrongs on both sides, continues
to hamper the country's reconciliation.
Part of the force of "The Vietnam War" comes
from its startling primary material. The film-makers interviewed George
Wickes, then in his late 80s, who was with the OSS mission that met
Ho in 1945. They persuade two ageing North Vietnamese Army veterans to
acknowledge the North's massacre of thousands of civilians in Hue after
the Tet offensive in 1968, which the communist government has always denied.
They play recordings from the Oval Office in which Richard Nixon and
Henry Kissinger openly admit that their programme to "Vietnamise" the
war (ie, remove American troops and hand all responsibility to the ARVN)
is doomed, and is intended merely to distance America from the South's
inevitable collapse.
But the power of the series also derives
from its disturbing contemporary echoes. To listen to Nixon's White
House tapes is to feel nostalgia for a time when political lying was coherent
and directed towards rational policy objectives. One cannot watch footage
of construction workers beating anti-war demonstrators in New York
City in 1970 without thinking of Charlottesville; footage of the killing
of four students by the National Guard at Kent State inevitably recalls
today's roiling campuses and police-brutality scandals. (At the time,
a poll showed most Americans thought the dead students had it coming.)
Mr Burns notes that he and Ms Novick finished
the films over a year before Donald Trump's election; the resonances,
he says, stem from history's habit not of repeating, but rhyming.
The series ends with the construction of Maya Lin's Vietnam war memorial
in 1982, the gradual easing of tensions between supporters and opponents
of the war, and the normalization of relations between America and Vietnam
in the 1990S. But today America's mercurial foreign policy is weakening
that new friendship with Vietnam, and the hatred between the country's
right and left has risen to levels not seen for 40 years. A decade ago,
it felt as though the Vietnam war had been put to rest. Today, the rhymes
of history are uncomfortably loud.+
Sách
& Báo
Mới
https://www.newyorker.com/news/news-desk/aung-san-suu-kyi-the-ignoble-laureate
Aung San Suu Kyi, the Ignoble Laureate
By Gavin Jacobson
September 15, 2017
Aung San
Suu Kyi doesn't deserve her Nobel
George Monblot
Silent
on the plight of the Rohingya in Myanmar, the democracy campaigner whose
resilience inspired us all is now complicit in crimes against humanity.
...Continue Reading
Aung San Suu Kyi doesn't deserve
her Nobel
George Monblot
Silent on the plight of the Rohingya
in Myanmar, the democracy campaigner whose resilience inspired us
all is now complicit in crimes against humanity.
Few of us expect much from political
leaders: to do otherwise is to invite despair. But to Aung San Suu Kyi
we entrusted our hopes. To mention her name was to invoke patience and
resilience in the face of suffering, courage and determination in the
unyielding struggle for freedom. She was an inspiration to us all.
Friends of mine devoted their working
lives to the campaign for her release from the many years of detention
imposed by the military dictatorship of Myanmar, and for the restoration
of democracy. We celebrated when she was awarded the Nobel peace prize
in 1991; when she was finally released from house arrest in 2010; and
when she won the general election in 2015.
But it is hard to think of any recent
political leader by whom such high hopes have been so cruelly betrayed.
By any standards, the treatment of the
Rohingya people, a Muslim minority in Myanmar, is repugnant. By the
standards Aung San Suu Kyi came to symbolize, it is grotesque. They
have been described by the UN as "the 'world's most persecuted minority",
a status that has not changed since she took office.
The Convention on the Prevention and Punishment
of Genocide describes five acts, anyone of which, when "committed
with intent to destroy, in whole or in part, a national, ethnical,
racial or religious group", amounts to genocide. Four of them have been
practised more or less continuously by Myanmar's armed forces since
Aung San Suu Kyi became de facto political leader.
I recognize that the armed forces retain
great power in Myanmar, and that Aung San Suu Kyi does not exercise
effective control over them. I recognize that the scope of her actions
is limited. But, as well as a number of practical and legal measures
that she could use directly to restrain these atrocities, she possesses
one power in abundance: the power to speak out. Rather than deploying
it, her response amounts to a mixture of silence, the denial of well-documented
evidence and
the obstruction of humanitarian aid.
I doubt she has read the UN human rights
report on the treatment of the Rohingyas, released in February. The
crimes it revealed were horrific.
It documents the mass rape of women and
girls, some of whom died as a result of the sexual injuries they suffered.
It shows how children and adults had their throats slit in front of their
families.
It reports the summary executions of teachers,
elders and community leaders; helicopter gunships randomly spraying
villages with gunfire: people shut in their homes and burned alive;
a woman in labor beaten by soldiers, her baby stamped to death as it was
born.
It details the deliberate destruction
of crops and the burning of villages to drive entire populations out
of their homes; people trying to flee gunned down in their boats.
In response Aung San Suu Kyi has blamed
these atrocities, in a chillingly remote interview, on insurgents,
and expressed astonishment that anyone would wish to fight the army
when the government has done so much for them. Perhaps this astonishment
comes easily to someone who has never visited northern Rakhine state,
where most of this is happening.
In her Nobel lecture, Aung San Suu
Kyi remarked: "Wherever suffering is ignored, there will be the seeds
of conflict, for suffering degrades and embitters and enrages," The rage
of those Rohingya people who have taken up arms has been used as an excuse
to accelerate an existing programme of ethnic cleansing.
She has not only denied the atrocities,
attempting to shield the armed forces from criticism; she has also
denied the very identity of the people being attacked, asking the US
ambassador not to use the term Rohingya. This is in line with the government's
policy of disavowing their existence as an ethnic group, and classifying
them - though they have lived in Myanmar for centuries - as interlopers.
So far Aung San Suu Kyi has been insulated
by the apologetics of those who refuse to believe she could abandon
the principles to which she once appealed. A list of excuses is proffered:
that she didn't want to jeopardize her prospects of election; that
she doesn't want to offer the armed forces a pretext to tighten their
grip on power; that she has to keep China happy.
None of them stand up. As a great democracy
campaigner once remarked: "It is not power that corrupts, but fear.
Fear of losing power corrupts those who wield it!' Who was this person?
Aung San Suu Kyi. Her regime excludes - and in some cases seeks to silence
- the very activists who helped to ensure that her own rights were recognized.
I believe the Nobel committee should retain
responsibility for the prizes it awards, and withdraw them if its
laureates later violate the principles for which they were recognized.
There are two cases in which this appears to be appropriate. One is
Barack Obama, who, bafflingly, was given the prize before he was tested
in office. His programme of drone strikes, which slaughtered large numbers
of civilians, should disqualify him from this honor.
The other is Aung San Suu Kyi.
Comment & Debate
The Guardian Weekly, 15.9.2017
Không
âm nhạc, đời là 1 lầm lẫn
Without music, life would be a mistake.
F. Nietzsche, 1889.
Bài của Steiner, trong số này, là
bài Tin Văn đã giới thiệu, trích từ cuốn Errata,
1997.
George Steiner,
from Errata: An Examined Life.
Born in
Paris in 1929, Steiner moved to the United States with his family
in 1940. In 1974 he became a professor of literature at the University
of Geneva and taught there for twenty years. "Music seems to me, more
than literature, the great force, the hope of
a transcendent possibility, " he said in a 2016 lecture.
"Nothing frightens me more than the withdrawal of serious
music from the lives of millions of young children, the replacement
of many forms of music by the barbarism of organized noise."
Không
gì đáng sợ hơn là cái sự lấy đi thứ âm
nhạc nghiêm trọng ra khỏi cuộc sống của hàng triệu trẻ
em, và sự thay thế nhiều hình thức âm nhạc bằng
cái man rợ của tiếng ồn được tổ chức
To die for others is difficult
enough.
To live for others is even harder.
G. Steiner: Errata
http://www.tanvien.net/tap_ghi_5/xac_chong.html
Giữa “Đường
ra trận mùa này đẹp lắm” và “Ngày mai
đi nhận xác chồng” là chân lý: Chết vì
người đã khó, sống vì người còn khó
hơn?
*
Tiếng hò khoan của Trương Chi chỉ chịu tan ra, khi
giọt nước mắt Mị Nương nhỏ xuống.
Tiếng hát Orphée ru ngủ được cả ác
thú trấn cửa địa ngục.
Nhưng liệu huyền thoại Trương Chi tiên đoán
sự trở về của anh chàng thuyền chài, trong lớp áo
bộ đội, và câu hát của anh không còn
mê hoặc một người đẹp, nhưng mà là biết bao thế
hệ: Đường ra trận mùa này đẹp lắm?
Huyền thoại Orphée còn mù mờ hơn nhiều:
những “liệu, liệu...” xem ra chừng vô tận, theo George Steiner:
Cuộc đối đầu giữa ấm và lạnh, giữa dâm thần (eros) và
thần chết, cuộc lữ đi xuống tận cùng của bóng đen, rồi
lại trở lại với ánh sáng....
Liệu Orphée đã phổ thơ vào nhạc;
nói rõ hơn, liệu ác thú bị mê hoặc
vì câu thơ, hay là tiếng đàn? Câu
thơ nào? Nhạc nào? Liệu Eurydice, người yêu của
chàng nhạc sĩ, mong muốn trở lại dương thế, liệu nàng
tìm thấy sự ấm cúng, sự tiếp đón ân cần,
ở nơi địa ngục?
*
Và Kafka trả lời: âm nhạc tới nhất, bài
hát đã nhất, là thứ âm nhạc, bài
ca của những kẻ trầm luân, hát ở đáy địa ngục.
Note: Bài
tuyệt nhất, là về âm nhạc ở Lò Thiêu. Tin
Văn sẽ post liền, bản tiếng Anh.
1942:
Auschwitz
Vasily Grossman [from Life and Fate]
Tay này
Tin Văn đã từng giới thiệu. Ký giả Hồng Quân.
https://www.theguardian.com/commentisfree/2014/aug/26/a-book-that-changed-me-linda-grant-vasily-grossman
http://tanvien.net/Al/Female_US_Writers_Interl_Great_Works.html
Đọc
mấy anh VC nằm vùng, hay đám viết lách nhảm
nhí viết về lòng hận thù Nam Bắc, thời gian còn
chiến tranh, hay Mỹ Ngụy dày xéo Miền Nam, lính
Ngụy cực kỳ độc ác… bây giờ, sau 40 năm Bắc Kít
cai trị, chúng còn độc ác cỡ nào, với chính
dân của chúng?
Điều này, tay viết bài trên Người
Kinh Tế, cũng nhận ra, thú thế!
Do hết credit đọc free, Tin Văn sẽ scan bản tiếng Anh
1 phát, rồi dịch tiếng Mít sau.
|
Eighteen
Hours in Vietnam |
|
|
|
|
|
David
Thomson |
|
|
|
|
|
Once, every American knew the outline
and the stock images of this chronicle. Because of largely unhindered
television news coverage and the cameras that soldiers carried
with them, this was the most visible war ever fought. Never again
would the government allow reporters to go wherever daring took them.
|
|
|
|
|
|
Read
more |
|
|
|
Người
nhìn thấu cuộc chiến Mít, và quá nó
nữa, là Graham Greene, trên Tin Văn đã lèm
bèm quá nhiều về điều này rồi. Đối lại với cái
lý tưởng khai hóa, cái chân lý nước
Mít là 1, đem văn minh đồng bằng sông Hồng tới cho đám
mọi rợ Miền Nam hửi, là, cái thiện ý của Mẽo, và
để thực hiện, thì đẻ ra Lực Lượng Thứ Ba, mà người đại diện,
là Trình Minh Thế. Graham Greene, trên chiến thuyền
của Le Roy, trên đường từ Miền Tây về Sài Gòn,
nghe được 1 anh chí nguyện quân, trong Peace Corps của Mẽo,
do say rượu, phọt ra, bèn tóm ngay lấy, và đẻ ra
Người Mỹ Trầm Lặng. Cái bóng của nó, phủ lên
hết mọi cuộc chiến có Mẽo dính vô. Khủng khiếp đến
như thế!
Trong “Đọc GG ở thế ký 21”, Tin Văn đã “khiêm
tốn” viết về nó rồi, hà, hà!
TTT ông anh của Gấu, bằng lòng nhân
hậu, và cái nhìn bao dung của ông, phịa
ra 1 cái kết thúc tuyệt vời của cuộc chiến Mít.
GG, bằng cái nhìn của 1 tiểu thuyết gia bậc
thầy, đệ tử của Conrad, qua cuốn Điệp Viên, đẻ ra Người Mỹ Trầm
Lặng, đem cái độc, cái ác của Mẽo, qua Thiện Ý
của chúng, trải lên mọi cuộc chiến có Mỹ dính
vô.
Trên tất cả, thì là Kafka, với viên
y sĩ đồng quê, nghe lầm báo động hoảng mà đẻ ra
cái xứ Mít mấp mé bờ địa ngục như hiện nay…
AFTERWORD
Reading Graham
Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG ở thế kỷ 21
Monica Ali
Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại,
đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế
nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết
thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt
ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo.
Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh
ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như
thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái
gì hết.
Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít,
sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và
hưởng lợi được, từ cả hai
Người Mẽo trầm lặng của GG, được viết năm 1955, và
đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc
nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc
địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác
tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và
Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những
con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với
những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên
tri của cuốn tiểu thuyết….
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet
American, like many of Greene's books, and have it always with me
in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that if you walk
through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's romantic
triangle playing out in every other hotel. And if you think about Iraq,
Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same story.
Nhưng đó không phải là lý do
tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác
của GG, và luôn có nó cùng với tôi,
như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ rang là,
nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi
đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác
tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác.
Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và
đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng
1 câu chuyện.
Trường hợp
Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí
mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng từ từng mỗi
viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói
tới, về một hệ thống đạo đức được so đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó
làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác phẩm Những Người Âu Châu, nhưng
có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy
ra ở trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có
gì là chắc chắn khi lọt vào một trận địa. Độc
giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy,
bẩn thỉu, tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt
Nam, và rất nhiều cuộc chiến khác, một khi con người vẫn
cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù những
“nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn
tin tưởng vào chúng nữa. Những nhân vật của Greene
làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào
xác định được, của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh,
sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần, một khi con
người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt.
Nhưng, cho dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và
tay phóng viên Fowler đã tìm được nhau, đúng
là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít
ra là đối với Fowler. Đây đúng là một sự
cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm
thì vớ được sợi thừng cứu mạng!
“Tôi là một kẻ
có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã
từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với
tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào
đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi
không thể nào tin vào Thiên Đàng. Mọi người
cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà
làm nữa!”
Ở Lò Luyện Ngục đó
- ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới
anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh
này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được
trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh
ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó
– Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn
Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện
của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một
câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân
mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ
theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây
là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này
lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng.
Chẳng có một câu chuyện nào tin được. Chúng
đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân,
cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ,
những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy sâu con người,
sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những toan tính cá
nhân này được hiện rõ ra, trên cái
nền chính trị, và cùng với nó, là
một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người
đàn bà thực, đang hít thở không khí,
không phải là một ý tưởng về một người đàn
bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.
Gừng càng già
càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc
ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng
nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng
như Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu mong Chúa
làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm
ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên
nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của
anh. Chúng luôn
luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được
một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm
được một tí, về thế thái nhân tình, về con
người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ
Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”
Nhưng theo Zadie Smith [Guardian],
Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm
tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con
người. Sự ngây thơ của anh ta, trên bình diện thế
giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo
[fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên
nỗi sợ của Zadie Simith, về
tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu
có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng
tôi tới với bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà?
Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng
ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn
lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên
già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào
đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu
tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng
quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái
đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng
để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau, vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy,
anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin,
mình đang tựa lưng vô tường, và có một họng
súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu
tính hỏi bạn như vậy”.
Nhưng tác phẩm của Greene
là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người
đọc, một hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát
viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng
ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy.
Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và
những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc
chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói
rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô
ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của
Pyle.
Ruth Franklin trên tờ
Người Nữu Ước,
tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn
với Zadie Smith, trên tờ Guardian,
bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng
bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể, đó cũng là của Greene,
như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người
trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa.
Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu
con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng
bị phí phạm”.
Cầu sao được vậy.
Nó quả đã không bị phí phạm.
NQT
Cuộc
chiến Mít, với những tội ác của nó, con số người
chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương
tâm đạo đức, mất tất cả "cái gọi là Mít",
là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi
từ "ý hướng tốt" của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng
thứ ba, không theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít
đúng là Mít, cho xứ Mít!
Những tài liệu, văn
kiện, sự kiện liên quan tới cuộc chiến giữa anh Tẩy và
Việt Minh, mới nhất, từ phía Tẩy đưa ra, mà Gấu đọc,
thời gian sau này, cho thấy, cuộc chiến đó có thể
tránh được, ít ra là về phía Tẩy, nhưng
Vẹm, không chỉ cố tình và còn mong mỏi, làm
đủ mọi cách cho nó xẩy ra, để làm cỏ sạch những
đảng phái khác, mà chúng gán cho
tội Việt Gian, bán nước, chưa kể những nhà ái quốc
như Phạm Quỳnh, thí dụ. Bởi vì chỉ có cách
đó, mới thu gom mọi quyền lực vào tay chúng.
Cũng thế là cuộc chiến
thứ nhì, với Mẽo, chỉ có cách đó, mới
biến cả 1 miền đất thành thù nghịch.
Cuốn Người
Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý,
của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành
lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì
mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra
Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và
Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được
Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!
Một tuyên ngôn mỹ học.
An Aesthetic Manifesto
G. Steiner
Trong Ngôn ngữ và
Câm Lặng, Steiner "đi" ba bài về Lukacs.
Bài Văn chương
và hậu lịch sử, 1965, đề tặng Lukacs, In
Honor of Georg Lukacs, hình như Tin Văn có
dịch?
Bài Lukacs ký
hợp đồng với Quỉ, Georg Kukacs and His Devil's
Pact, 1960, về già, nhìn lại, THNM, Gấu cứ
nghĩ dến cái hợp đồng của Bắc Kít với con quỉ
ở nơi chuồng lợn, tức Anh Tẫu, mà Oz nhìn ra,
khi đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Bữa nay, bèn
giới thiệu bài viết Tuyên Ngôn
Mỹ Học.
Trong số những trí
thức Tẩy mê Mác Xít, còn
1 tay cũng rất khủng, là Lucien Goldmann. GCC đã
dựa vào tay này, khi điểm cuốn Bếp Lửa của
TTT, 1972.
Lucien Goldmann là
tác giả cuốn sách cực kỳ bảnh, là
Dieu Caché, 1955. Trong bài viết Chủ
Nghĩa Mác và phê bình văn học,
Steiner viết:
Around the hard core
of French Stalinism, a harsh and disciplined cadre
oddly untouched by the "thaw" of 1953-54, there has always
flourished a large and animated world of intellectual
Marxism. Its leading figures, such as Merleau-Ponty and Sartre,
have often inclined toward the vortex of total adherence. But
they draw back in the final moment, seeking to establish an ideological
position which will be outside the Party-but not hostile to it.
From both the dialectical and the practical point of view, such
an attempt is doomed to ambivalence and failure. But the making
of it charges French intellectual life with rare intensity and
gives to abstract argument the strong pertinence of conflict. In
France, even old men are angry.
Tiếp đó, Steiner
viết về Dieu Caché, Thượng
Đế Ần Khuất, của Goldmann.
Có thời, khi
còn trẻ, Gấu quá mê Mác
Xít, thứ chủ nghĩa không tưởng cực kỳ bảnh tỏng,
như Steiner phán về nó...
Chung quanh con bài
ách, tạm dịch từ "hard core" của chủ nghĩa
Xì Tẩy, là cả 1 bộ sậu, lạ làm sao,
không dính trấu cú Băng Tan, 1953-54, và
thế giới trí thức Mác Xít của Tẩy
vẫn xum xuê hoa trái. Hai tay dẫn đầu là
Merleau-Ponty và Sartre vẫn hung hăng con bọ xít,
nhưng có tí lùi lại, vào lúc
chót, cố tìm 1 vị thế ý thức hệ ở ngoài
Đảng, nhưng không thù nghịch Đảng....
Là thường, là
cái chuyện Gấu ưa tậu/đọc những tác
phẩm quá sức của Gấu.
Nhớ, lần qua Cali lần
đầu, là bài dịch Tuyệt Bi của Steiner,
trình ông chủ. Ông lắc đầu, cao quá,
với độc giả Văn Học. Thế là bèn có
ý bye bye tờ Văn Học, ra riêng, mày không
đăng thì tao tự đăng, tự sướng.
Trang Tin Văn ra đời
từ ý nghĩ đó.
Cũng thế, cái
thời mới lớn, đọc Lukacs. Nhớ, lần gặp Trần Phong Giao
với cuốn Lịch Sử và Ý Thức Giai Cấp, nhà
xb Nửa Đêm, với những cuốn sách chẳng ai
dám đọc. Người, mặt khinh khỉnh, hất hàm, cậu
mua cuốn này để nhát ma ư?
Người phán, đúng
như thế. Nhớ hoài. Khi mua, là Gấu đã
biết quá sức của mình, cả về vốn liếng
ăn đong tiếng Tẩy, lẫn tư tưởng Mác Xít. Đại
sư phụ, đại tổ sư Mác Xít. Đâu phải thứ thường.
Mua, chờ khi có
đủ nội lực, là bèn lôi ra tụng!
Ôi chao, đâu
chỉ Trần Phong Giao. Steiner phán về nó,
mà chẳng ghê sao:
III
But in practice, what
are Lukacs' major achievements as a critic and historian
of ideas?
Ironically,
one of his most influential works dates from a period
in which his Communism was tainted with heresy.
History and Class Consciousness (1923) is a rather
legendary affair. It is a "livre maudit," a burnt book, of
which relatively few copies have survived. *
We find in it a fundamental analysis of the ''reification''
of man (Verdinglichung), the degradation of the human person to
a statistical object through industrial and political processes.
The work was condemned by the Party and withdrawn by the author.
But it has led a tenacious underground life and certain writers,
such as Sartre and Thomas Mann, have always regarded it as Lukacs'
masterplece.
[* History and
Class Consciousness is now available in French. It
is also being republished in the West German edition of Lukacs'
collected writings, together with other early works. These
are among his finest philosophic achievements and show him
to be the true predecessor to Walter Benjamin. The cultural authorities
in the East allow such Western publication of heretical but
prestigious Marxist books; a characteristic touch of "Byzantine"
policy.]
Như vậy là Gấu
có cuốn sách đúng thời gian
nó được nhà Minuit xb ở Tẩy.
Tuyệt thật!
Nhưng trong thực hành,
tác phẩm bảnh nhất của Lukacs, như là
nhà phê bình, và nhà
sử học của những tư tưởng, là cuốn nào?
Trớ trêu thay,
tác phẩm có tầm ảnh hưởng nhất của ông,
xuất hiện đúng lúc tư tưởng Mác Xít
dính trấu, và bị coi là dị giáo!
Một tác phẩm “trời đánh”, 1 tác
phẩm đáng “bị đốt bỏ”.
Lukacs được coi như
là sư phụ của Walter Benjamin.
Theo GCC, Steiner cũng
là 1 thứ đệ tử của Lukacs. Ông có
kể lần ông gặp Lukacs, khi ông bị đệ tử giam
tại gia, chờ đem đi làm thịt, và cậu thanh
niên Steiner khóc nức nở. Thầy phán, mi
làm sao hiểu nổi... Cái Ác Mác
Xít, trò làm thịt thầy là chuyện
thường ngày ở huyện!
Sách
& Báo
Mới
Trò chuyện với Kafka
Conversations
about his books were always very brief.
'I have been
reading The Verdict.'
'Did you like it?'
'Like it? The book is horrifying!'
'You are perfectly right.'
'I should like to know how you came to write
it. The dedication, For F., is certainly
not merely formal. Surely you wanted the book to say something
to someone. I should like to know the context.'
Kafka smiled, embarrassed.
'I am being impertinent. Forgive me.'
'You mustn't apologize. One reads in order to
ask questions.
The Verdict is the spectre of a night.'
'What do you mean?'
'It is a spectre: he repeated, with a hard look
into the distance.
'And yet you wrote it.'
'That is merely the verification, and so the
complete exorcism, of the spectre.'
*
My friend Alfred Kampf from Altsattel near Falkenau,
whose acquaintance I had made in lbogen, admired Kafka's story
The Metamorphosis. He described the author
as 'a new, more profound and therefore more significant Edgar Allan
Poe'.
During a walk with Franz Kafka on the Altstadter
Ring I told him about this new admirer of his, but aroused neither
interest nor understanding. On the contrary, Kafka's expression
showed that any discussion of his book was distasteful to him.
I, however, was filled with a zeal for discoveries,
and so I was tactless.
'The hero of the story is called Samsa,' I said.
'It sounds like a cryptogram for Kafka. Five letters in each word.
The S in the word Samsa has the same position as the K in the
word Kafka. The A...'
Kafka interrupted me.
'It is not a cryptogram. Samsa is not merely
Kafka, and nothing else. The Metamorphosis is not a confession,
although it is - in a certain sense - an indiscretion.'
'I know nothing about that.'
'Is it perhaps delicate and discreet to talk
about the bugs in one's own family?'
'It isn't usual in good society.'
'You see what bad manners I have.'
Kafka smiled. He wished to dismiss the subject.
But I did not wish to.
'It seems to me that the distinction between
good and bad manners hardly applies here,' I said. 'The Metamorphosis
is a terrible dream, a terrible conception.'
Kafka stood still.
'The dream reveals the reality, which conception
lags behind.
That is the horror of life - the terror of art.
But now I must go home.'
He took a curt farewell.
Had I driven him away?
I felt ashamed.
*
We did not see each other for a fortnight. I
told him about the books which in the meanwhile I had 'devoured'.
Kafka smiled. 'From life one can extract comparatively so
many books, but from books so little, so very little, life.'
'So literature is a bad preservative?'
He laughed and nodded.
I Franz Kafka and I often laughed long and loud
together, that is to say, if one could ever describe Franz Kafka's
laughter as loud. For me at least what has remained in my memory
is not the sound of his laughter but the physical gestures by
which he expressed his amusement. Depending on how much he was
amused, he threw his head back quickly or slowly, opened his mouth
a little and closed his eyes into narrow slits, as if his face were
turned up to the sun. Or he laid his hand on the desk, raised his shoulders,
drew in his bottom lip and shut his eyes as if someone were going to
shower him with water.
In this kind of mood I once told him a little
Chinese story I had read a short time before - I can't remember
where.
'The heart is a house with two bedrooms. In
one lives Suffering and in the other Joy. One mustn't laugh
too loud, or one will wake the sorrow in the next-door room.'
'And Joy? Isn't she woken by the noise of sorrow?'
'No. Joy is hard of hearing. So she never hears
the suffering in the next room.'
Kafka nodded. 'That's right. That's why one
often only pretends to be enjoying oneself. One stuffs one's
ears up with the wax of pleasure. For instance, me. I simulate
gaiety, in order to vanish behind it. My laughter is a concrete
wall.'
'Against whom?'
'Naturally, against myself.'
'But a wall is turned against the outer world,'
I said. 'It's a defence against what comes from outside.'
But Kafka instantly and decisively repudiated such a view.
'Is it, indeed? Every defence is a retreat,
a withdrawal. A blow at the world is always a blow at oneself.
For that reason, every concrete wall is only an illusion, which
sooner or later crumbles away. For Inner and Outer belong to each
other.
Divided, they become two bewildering aspects
of a mystery which we endure but can never solve.'
GUSTAV JANOUCH: CONVERSATIONS WITH
KAFKA
Note: Mua
xôn, ngay những ngày đầu tới Xứ Lạnh, August 7, 94.
Max Brod phán, tớ đọc và sững
sờ vì sự giầu sang của tài liệu mới mẻ.
Còn Scholem, "a work of highly dubious
authenticity that nevertheless was swallowed uncritically by
a hungry world", rất đáng ngờ vì tính trung
thực, nhưng sẽ được ngấu nghiến bởi những kẻ không rành
về phê bình.
Foreword
Tadeusz Rozewicz is a poet of dark
refusals, hard negations. He is a naked or impure poet ("I crystallize
impure poetry," he writes), an antipoet relentlessly, even ruthlessly
determined to tell the truth, however painful it may be. He
scorns the idea of the poet as prophet and speaks from the margins-a
stubborn outsider. "A poet is one who believes / and one who cannot,"
he declares. He dwells in uncertainties and doubts, in the insecure,
gray areas of life-skeptic...
Note:
Tay thi sĩ này, khủng lắm. Tin Văn sẽ đi bài
Forewod, và luôn bản tiếng Mít.... Mua lâu
rồi, nay mới có dịp giới thiệu.
Độc và Đẹp
Nhớ, lần gửi cái truyện ngắn
đầu tay “Những ngày ở Sài Gòn” cho ông
anh, ông bèn cho đăng liền trên tờ Nghệ Thuật,
và bèn sửa liền,1 câu tiếng Tây, từ
Faulkner, thằng em dịch sai, liên quan tới thời tiết
... khi đọc Faulkner, tôi đã lầm
lẫn hai từ "climatique" (khí hậu) và "climatérique"
(khổ đau). Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời
tiết, con ngưòi tổng số những kinh nghiệm về khổ đau. [Cả
hai câu đều của Faulkner]
Bèn, đi 1 đường về thời tiết, nhân
đọc cuộc trò chuyện giữa hai nhà thơ Charles Simic
& Tomas Salamun, trong Bomb
Một tuyên ngôn mỹ học.
An Aesthetic Manifesto
G. Steiner
Trong Ngôn
ngữ và Câm Lặng, Steiner "đi" ba bài về Lukacs.
Bài Văn chương và hậu lịch sử,
1965, đề tặng Lukacs, In Honor of Georg Lukacs, hình như
Tin Văn có dịch?
Bài Lukacs ký hợp đồng với Quỉ,
Georg Kukacs and His Devil's Pact, 1960, về già, nhìn
lại, THNM, Gấu cứ nghĩ dến cái hợp đồng của Bắc Kít
với con quỉ ở nơi chuồng lợn, tức Anh Tẫu, mà Oz nhìn
ra, khi đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Bữa nay, bèn giới thiệu bài
viết Tuyên Ngôn Mỹ Học.
Trong số những trí thức Tẩy mê
Mác Xít, còn 1 tay cũng rất khủng, là
Lucien Goldmann. GCC đã dựa vào tay này,
khi điểm cuốn Bếp Lửa của TTT, 1972.
Lucien Goldmann là tác giả cuốn
sách cực kỳ bảnh, là Dieu Caché, 1955.
Trong bài viết Chủ Nghĩa Mác và phê
bình văn học, Steiner viết:
Around the hard core of French Stalinism,
a harsh and disciplined cadre oddly untouched by the "thaw"
of 1953-54, there has always flourished a large and animated
world of intellectual Marxism. Its leading figures, such as Merleau-Ponty
and Sartre, have often inclined toward the vortex of total adherence.
But they draw back in the final moment, seeking to establish an ideological
position which will be outside the Party-but not hostile to it. From
both the dialectical and the practical point of view, such an attempt
is doomed to ambivalence and failure. But the making of it charges French
intellectual life with rare intensity and gives to abstract argument
the strong pertinence of conflict. In France, even old men are angry.
Tiếp đó, Steiner viết về Dieu Caché,
Thượng Đế Ần Khuất, của Goldmann.
Có thời, khi còn trẻ, Gấu quá
mê Mác Xít, thứ chủ nghĩa không tưởng
cực kỳ bảnh tỏng, như Steiner phán về nó...
Chung quanh con bài ách, tạm
dịch từ "hard core" của chủ nghĩa Xì Tẩy, là cả
1 bộ sậu, lạ làm sao, không dính trấu cú
Băng Tan, 1953-54, và thế giới trí thức Mác
Xít của Tẩy vẫn xum xuê hoa trái. Hai tay
dẫn đầu là Merleau-Ponty và Sartre vẫn hung hăng con
bọ xít, nhưng có tí lùi lại, vào
lúc chót, cố tìm 1 vị thế ý thức hệ
ở ngoài Đảng, nhưng không thù nghịch Đảng....
Là thường, là cái chuyện
Gấu ưa tậu/đọc những tác phẩm quá sức của Gấu.
Nhớ, lần qua Cali lần đầu, là bài
dịch Tuyệt Bi của Steiner, trình ông chủ. Ông
lắc đầu, cao quá, với độc giả Văn Học. Thế là bèn
có ý bye bye tờ Văn Học, ra riêng, mày
không đăng thì tao tự đăng, tự sướng.
Trang Tin Văn ra đời từ ý nghĩ đó.
Cũng thế, cái thời mới lớn, đọc Lukacs.
Nhớ, lần gặp Trần Phong Giao với cuốn Lịch Sử và Ý
Thức Giai Cấp, nhà xb Nửa Đêm, với những cuốn sách
chẳng ai dám đọc. Người, mặt khinh khỉnh, hất hàm,
cậu mua cuốn này để nhát ma ư?
Người phán, đúng như thế. Nhớ
hoài. Khi mua, là Gấu đã biết quá
sức của mình, cả về vốn liếng ăn đong tiếng Tẩy, lẫn tư
tưởng Mác Xít. Đại sư phụ, đại tổ sư Mác
Xít. Đâu phải thứ thường.
Mua, chờ khi có đủ nội lực, là
bèn lôi ra tụng!
Ôi chao, đâu chỉ Trần Phong Giao.
Steiner phán về nó, mà chẳng ghê
sao:
III
But in practice, what are Lukacs' major achievements
as a critic and historian of ideas?
Ironically, one of his most
influential works dates from a period in which his Communism
was tainted with heresy. History and Class
Consciousness (1923) is a rather legendary affair. It is a "livre
maudit," a burnt book, of which relatively few copies have survived.
* We find in it a fundamental analysis of
the ''reification'' of man (Verdinglichung), the degradation of
the human person to a statistical object through industrial and political
processes. The work was condemned by the Party and withdrawn by
the author. But it has led a tenacious underground life and certain writers,
such as Sartre and Thomas Mann, have always regarded it as Lukacs'
masterplece.
[* History and Class Consciousness is
now available in French. It is also being republished in the
West German edition of Lukacs' collected writings, together with
other early works. These are among his finest philosophic achievements
and show him to be the true predecessor to Walter Benjamin. The cultural
authorities in the East allow such Western publication of heretical
but prestigious Marxist books; a characteristic touch of "Byzantine"
policy.]
Như vậy là Gấu có cuốn sách
đúng thời gian nó được nhà Minuit xb ở
Tẩy.
Tuyệt thật!
Nhưng trong thực hành, tác phẩm
bảnh nhất của Lukacs, như là nhà phê bình,
và nhà sử học của những tư tưởng, là cuốn
nào?
Trớ trêu thay, tác phẩm có
tầm ảnh hưởng nhất của ông, xuất hiện đúng lúc
tư tưởng Mác Xít dính trấu, và bị
coi là dị giáo! Một tác phẩm “trời đánh”,
1 tác phẩm đáng “bị đốt bỏ”.
Lukacs được coi như là sư phụ của Walter
Benjamin.
Theo GCC, Steiner cũng là 1 thứ đệ tử
của Lukacs. Ông có kể lần ông gặp Lukacs,
khi ông bị đệ tử giam tại gia, chờ đem đi làm thịt,
và cậu thanh niên Steiner khóc nức nở. Thầy
phán, mi làm sao hiểu nổi... Cái Ác
Mác Xít, trò làm thịt thầy là
chuyện thường ngày ở huyện!
To understand Britain, read
its spy novels
To understand Britain, read its
spy novels
Để hiểu lũ
Hồng Mao, hãy đọc tiểu thuyết điệp viên của
chúng.
The nature of the establishment,
the agonies of decline, the complicated tug of patriotism:
spy novels explore what makes Britain British.
Bản chất của định chế, những cơn
hấp hối khi suy tàn, lòng ái quốc
đa đoan rắc rối của nó: tiểu thuyết điệp viên
triển khai cái làm nên Anh quốc.
FEW countries have dominated
any industry as Britain has dominated the industry of
producing fictional spies. Britain invented the spy novel
with Rudyard Kipling’s dissection of the Great Game in “Kim”
and John Buchan’s adventure stories. It consolidated its lead
with Somerset Maugham’s Ashenden stories and Graham Greene’s
invention of “Greeneland”. It then produced the world’s two
most famous spooks: James Bond, the dashing womaniser, and George
Smiley, the cerebral cuckold, who reappears this week in a new
book (see page 75).
What accounts for this success?
One reason is the revolving door between the secret establishment
and the literary establishment. Some of the lions of British
literature worked as spies. Maugham was sent to Switzerland
to spy for Britain under cover of pursuing his career as a writer.
Greene worked for the intelligence services. Both Ian Fleming,
the creator of Bond, and John le Carré, the creator of
Smiley, earned their living as spies. Dame Stella Rimington, head
of MI5 in 1992-96, has taken to writing spy novels in retirement.
It is as if the secret services are not so much arms of the state
as creative-writing schools.
Another reason is that British reality
has often been stranger than fiction. The story of the
“Cambridge spies”—Kim Philby, Anthony Blunt, Guy Burgess and
the rest—is as far-fetched as it gets. One Soviet mole at the
top of MI6 (Philby, who also worked for The Economist in Beirut);
another even looking after the queen’s pictures (Blunt); a cover-up;
a dash to the safety of the Soviet Union; larger-than-life characters
such as the compulsively promiscuous and permanently sozzled Burgess.
There is also a more profound
reason for Britain’s success. The spy novel is the quintessential
British fictional form in the same way that the Western
is quintessentially American. Britain’s best spy novelists
are so good precisely because they use the genre to explore what
it is that makes Britain British: the obsession with secrecy, the
nature of the establishment, the agonies of imperial decline and
the complicated tug of patriotism.
Note: Bài này thú
vị thật. Tin Văn sẽ lai rai ba sợi về nó, và
cùng lúc, lèm bèm về cái
thú đọc truyện trinh thám, gián điệp...
JOHN LE CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ CHẾT
CALL FOR THE DEAD
"Điện thoại của người đã chết",
với Gấu, là cuốn bảnh nhất, của le Carré, dù
ông nổi tiếng với “Trở về từ vùng lạnh”. GCC đọc
"Call for the Dead" trước, bản tiếng Tẩy, nhưng lại bỏ qua,
và cuốn sau, mua ở Xuân Thu, cũng bản tiếng Tây,
collection nrf, bìa trắng, chẳng cần minh họa, vừa cầm
lên 1 phát là ra quầy trả tiền:
Cái tít khủng quá,
The Spy Who Came In From The Cold.
Lạnh, 1 phát, là run như
con thằn lằn đứt đuôi rồi.
Trong Call, có cảnh tuyển điệp viên
của Mật Vụ Anh.
Hắn không được giới
thiệu với Ủy ban, nhưng đã biết phân nửa những thành
viên. Có Fielding, chuyên về thời trung cổ ở Pháp
thuộc Đại học Cambridge, Sparke, Trường Ngôn ngữ Dông
phương, và Steed-Asprey, đã có mặt tại bàn
danh dự bữa dạ tiệc của Jebedee mà Smiley là khách
được mời. Hắn phải thú nhận là mình xúc
động, Để Fielding phải chịu rời những căn phòng của ông ta,
khoan nói tới Cambridge, riêng việc đó đã là
một phép lạ. Sau này, Smiley vẫn nghĩ cuộc phỏng vấn giống
như một điệu múa quạt, từng cá nhân bộc lộ những phần
khác nhau của một toàn thể bí mật. Sau cùng
Steed-Asprey, hình như vị Chủ tịch, vén màn cuối,
và sự thực sừng sững trước Smiley với tất cả sự trần trụi chói
lòa của nó. Hắn được đề nghị một chức việc trong cái
mà, vì Steed-Asprey không chọn được một cái
tên tốt đẹp hơn, đã đỏ mặt diễn tả, là Cơ quan mật
vụ.
Steiner cũng có tả cái cảnh
Mẽo nhận ông, y chang mật vụ Anh, khi trả lời tờ The
Paris Review.
https://www.economist.com/news/books-and-arts/21728611-old-masters-john-and-george-puzzle-their-watchers-legacy-spies-john-le-carr-s
George Smiley is back. Really?
https://www.economist.com/news/books-and-arts/21727880-peasant-boy-turned-communist-party-boss-who-liberated-his-people-70-years-lies
The story of a good man
How Mikhail
Gorbachev ended the cold war
The peasant
boy turned Communist Party boss who liberated his
people from 70 years of lies and buried the Soviet Union
Như thế
nào, một tên nhà quê Bắc
Kít, biến thành Trùm Bắc Bộ Phủ,
và
giải phóng xứ Bắc Kít của 4 ngàn
năm dối trá, và chôn vùi
Cái Ác Bắc Kít
[dịch
hoảng]
Câu
chuyện 1 tên Xô Viết tốt: Đời và
thời của Gorbachev.
Bài
này tuyệt quá. Gấu phải mua tờ báo,
vì hết credit đọc free.
Nhớ, có lần đọc trong nước, trên
lưới, tất nhiên, có 1 tay VC than Gorbachev
bị Tây Phương đánh lừa, nếu không,
Liên Xô vưỡn còn.
Trong cuốn
tiểu sử Gorbachev, vấn đề này, cũng được đặt
ra, nhưng có tí khác.
Bài
viết trên Người Kinh Tế mở ra bằng cái
cảnh, hai đấng Gorbachev và Yelsin gặp nhau, vào
ngày 23 Tháng Chạp, để bàn chuyện
chuyển giao quyền lực.
Sau vài
ly vodka, “Góc” cảm thấy không được khoẻ
bèn bỏ vô văn phòng ở phía
sau, còn Yeltin lừng lững dảo bước, “như đang
diễn hành”, như vị bạn thân của Góc nhớ
lại.
Vị này
vô văn phòng và thấy bạn quí
nằm dài trên sô pha, nước mắt ròng
ròng: Bạn thấy tình hình như thế
đấy.
Chàng
vừa mất job, là vị tổng thống Liên Xô,
và xứ sở của chàng, cùng với nó.
Vị này
cố an ủi Góc, nhưng chính ông
cũng thấy sốc. Một người vừa làm thay đổi hẳn diện
mạo thế giới… vậy mà bây giờ là nạn
nhân vô phương cứu chữa của sự độc ác,
và tính đồng bóng của lịch sử.
Và
cái lịch sử đó, tếu thay, do chính
ông ta làm cho nó vận hành.
Kể từ khi
Liên Xô xụm bà chè, cho
tới giờ, câu hỏi “Tại sao” làm phiền thiên
hạ, ở Tây phương, ở Nga xô, ở TQ. Tại làm
sao 1 con người quyền lực trùm thiên hạ
như thế, lại “coi thường” quyền lực của riêng mình?
Liệu ông
giản dị đã thất bại không hiểu được hậu
quả của những hành động của mình, hay
là, ông hành động như thế, là
do can đảm, do tầm nhìn tiên tri?
Như thế nào,
1 anh cu Tý nhà quê Nga xô
trở thành ông trùm ĐCS, và
bèn giải phóng nhân dân của
ông ta ra khỏi 70 năm sống trong dối trá, và
sợ hãi, chấm dứt cuộc chiến lạnh và đào
mồ chôn đế quốc đỏ Liên Xô. Ông ta
là sản phẩm của hệ thống Liên Xô, như chính
ông ta phán, hay là cái lầm lẫn
có tính di truyền, its genetic error, của nó?
Cái
gì làm nên Góc?
VHNT Số 555 February
14, 2003
Tin
Văn
1.
Mỗi trường hợp mỗi khác.
Thus
it is enough for the poet to be the bad conscience
of his age.
Saint-John Perse.
Diễn văn Nobel (1960).
(Là ý
thức tự phán của thời mình, vậy là
quá đủ cho nhà thơ).
Đọc mấy đấng “lề trái”
ở trong nước, như tên vô lại NV, thấy cực
tởm, so với đám lề phải, ấy là vì chúng
nghĩ chúng chọn “phiá của nước mắt”, như ông
Dương Tường phán, thành ra tên nào
tên đó chửi nhà nước dữ lắm, và giọng
văn rất càn dỡ, đểu giả, tinh ròng độc Bắc Kít,
ấy là vì chúng nghĩ, lương tâm chúng
trong sạch.
Ở bên dưới những câu
văn độc địa của NHT, ở những tác phẩm đầu, tinh
ý thì lại nhận ra tấm lòng nhân
hậu của ông, nhận ra cái ý của Kafka,
trong cuộc đấu sinh tử tay đôi, duel, giữa nhà
văn và thế giới, nhà văn chọn thế giới.
Làm sao mà có
chúng ta ở trong thứ văn chương nhơ bẩn của NV được.
Trong bài viết “Con người,
con vật chính trị, L’homme, une bête politique”,
trong số Văn
Học Pháp, Le Magazine Littéraire, 7&8 2007,
đặc biệt về cái ngu đần, một phát kiến hiện đại
(la bêtise, une invention moderne),
tác giả Perrine Simon-Nahum phán, một xã
hội dân chủ vận hành tốt đòi hỏi công
dân của nó một sự phán đoán sáng
sủa, rõ ràng (un jugement éclairé).
Nhất là khi mà những đấng trí thức, tầng lớp
tinh anh, chính chúng, lại là bằng cớ của sự
phạm tội mù quáng (Surtout quand les “intellectuels”
font eux-mêmes preuve d’un coupable aveuglement). Trong phần
“Sự đồi bại trí thức” (“Perversions intellectuelles”), tác
giả bài viết viện dẫn Raymond Aron: Tiếp theo những nghiên
cứu của Élie Halévy về bản chất của những chủ nghĩa toàn
trị và sự yếu hèn của những chế độ dân chủ,
R. Aron bèn tóm lấy đề tài này, ngay
từ năm 1937, trong 1 bài viết trên “Tập san siêu
hình và đạo đức” (Revue de métaphysique et de
morale) nhắm vào chính trị kinh tế của “Front populaire”
(Mặt Trận Bình Dân?).
Áp dụng vào tầng
lớp trí thức, trong 1 bài viết vào năm 1948,
trên tờ Le Figaro, Aron đề ra trước tiên,
những “nghịch lý của chủ nghĩa CS”: "Được coi thuộc giai
đoạn giải phóng con người, một chế độ thành lập
những trại tập trung, những hộ chiếu đi lại trong nước, les passeports
intérieurs, cảnh sát chính trị, une police
politique, siêu việt hơn thứ của những sa hoàng, như
vậy là vượt quá giới hạn của sự ngu đần, cà chớn,
đồi bại mà ngay cả 1 tên trí thức sau cùng
cũng chấp nhận”.
Điều Aron kết án thì
không nhắm vào chuyện, tôi chọn lề phải
hay lề trái (nguyên văn, sự tham dự ý
thức vào một ý thức hệ), mà là sự đồi
bại trí thức.
Chúng
ta gặp đúng trường hợp những những đấng tinh anh Bắc
Kít ở đây, những đấng như Nobel Toán,
Diễn đàn Bô xịt, hay tên vô lại NV.
Và bây giờ, thơ Mít lưu
vong cái con mẹ gì đó!
Cũng 1 thứ đồi bại trí thức!
Nhớ, trong bài tưởng niệm TTT,
Phan Lạc Phúc nhắc tới Aron, và coi ông là
tác giả ảnh hưởng lên TTT. GCC đọc Aron, sau này,
khi ra hải ngoại, trên tờ ML, nhớ đại khái. Thời mới lớn,
Gấu đọc Mác Xít qua những tay đại tổ sư, những nhà
Mác học, là, Lukacs, Henri Lefebvre, Nguyễn Đình Thi,
Trần Văn Toàn, thí dụ. Aron là nhà trí
thức CS, không phải 1 tay Mác học, theo GCC.
Henri Lefebvre nhìn ra ý tưởng praxis-theory,
là nền của chủ nghĩa Mác. Với NDT là ý
niệm tĩnh-động. Trong bài viết tưởng niệm ông, Gấu đã
nhắc tới điều này. Merleau-Ponty thì lại đặt nặng vấn
đề bạo động trong chủ nghĩa Mác, qua những cuốn "Những cuộc phiêu
lưu của biện chứng pháp", hay Nhân Văn và Bạo Động,
Humanisme et Terreur…
Gấu có cái cực may, là vừa lớn 1 phát,
là bèn cày hai job, là bèn có
tiền, mua sách, đọc sách như điên, trong lúc
chờ chết.
Ông anh TTT lâu lâu còn phải bảo
thằng em, mày đưa tao cuốn đó, đọc thử coi…
Acceptance Speech
Diễn Văn Nobel
Members of the Swedish Academy, Your Majesties, ladies
and gentlemen, I was born and grew up on the other shore
of the Baltic, practically on its opposite gray, rustling
page. Sometimes on clear days, especially in autumn, standing
on a beach somewhere in Kellomaki, a friend would point his finger
northwest across the sheet of water and say: See that blue strip
of land? It's Sweden.
He would be joking, of course: because the angle
was wrong, because according to the law of optics, a human
eye can travel only for something like twenty miles in
open space.
The space, however,
wasn't open.
Nonetheless, it pleases me to think, ladies and gentlemen,
that we used to inhale the same air, eat the same fish,
get soaked by the same-at times-radioactive rain, swim
in the same sea, get bored by the same kind of conifers.
Depending on the wind, the clouds I saw in my window were already
seen by you, or vice versa. It pleases me to think that we have
had something in common before we ended up in this room.
And as far as this room is concerned, I think it
was empty just a couple of hours ago, and it will be empty
again a couple of hours hence. Our presence in it, mine
especially, is quite incidental from its walls' point
of view. On the whole, from space's point of view, anyone's
presence is incidental in it, unless one possesses a permanent-and
usually inan- imate-characteristic oflandscape: a moraine,
say, a hilltop, a river bend. And it is the appearance
of something or some- body unpredictable within a space well
used to its contents that creates the sense of occasion.
So being grateful
to you for your decision to award me the Nobel Prize
for literature, I am essentially grateful
for your imparting to my work an aspect of permanence,
like that of a glacier's debris, let's say, in the vast
landscape of literature.
I am fully aware of the danger hidden in this simile:
of coldness, uselessness, eventual or fast erosion.
Yet if that debris contains a single vein of animated ore-as
I, in my vanity, believe it does-then this simile is perhaps
prudent.
And as long as I am on the subject of prudence, I
should like to add that through recorded history the audience
for poetry seldom amounted to more than 1 percent of the
entire population. That's why poets of antiquity or of the
Renaissance gravitated to courts, the seats of power; that's
why nowadays they flock to universities, the seats of knowledge.
Your academy seems to be a cross between the two; and if in the
future-in that time free of ourselves-that 1 percent ratio is sustained,
it will be, not to a small degree, due to your efforts. In case
this strikes you as a dim vision of the future, I hope that the thought
of the population explosion may lift your spirits somewhat. Even
a quarter of that 1 percent would make a lot of readers, even
today.
So my gratitude to you, ladies and gentlemen, is
not entirely egotistical. I am grateful to you for those
whom your decisions make and will make read poetry, today
and to- morrow. I am not so sure that man will prevail, as
the great man and my fellow American once said, standing, I
believe, in this very room; but I am quite positive
that a man who reads poetry is harder to prevail upon than one
who doesn't.
Of course, it's one hell of a way to get from St.
Petersburg to Stockholm; but then, for a man of my occupation,
the notion of a straight line being the shortest distance
between two points lost its attraction a long time ago. So
it pleases me to find out that geography in its own turn is also
capable of poetic justice.
Thank you.
Marriage
________________________________________
Two of them there beside the river,
as if
The river were the conversation between
them.
It was as if the vocables of the river
Could beautifully articulate some
meaning
That the river knew about. They knew
so little
About what it was that the river knew
about,
The meaning they had each of them
always wanted
To impart to the other with the authority
Of knowing who it was each of them
was.
The river went on saying what it was
saying.
—David Ferry
https://www.threepennyreview.com/samples/simic_f16.html
Seeing Things
I came here in
my youth,
A wind toy on a
string.
Saw a street in
hell and one in paradise.
Saw a room with
a light in it so ailing
It could’ve been
leaning on a cane.
Saw an old man
in a tailor shop
Kneel before a
bride with pins between his lips.
Saw the President
swear on the Bible
while snow fell
around him.
Saw a pair of lovers
kiss in an empty church
And a naked man
run out of a building
waving a gun and
sobbing.
Saw kids wearing
Halloween masks
Jump from one roof
to another at sunset.
Saw a van full
of stray dogs look back at me.
Saw a homeless
woman berating God
And a blind man
with a guitar singing:
“Oh Lord remember
me,
When these chains
are broken set my body free.”
—Charles Simic
Note: Bài này, có
trong The Best American Poetry, 2017.
Tin Văn đã giới thiệu &
dịch, chưa kiếm ra bản tiếng Mít.
Nhìn sự vật
Tớ tới đây
hồi trẻ
Cái chong chóng
trên sợi dây
[Cái diều trên
sợi dây]
Nhìn con phố, địa
ngục
Nhìn con khác,
thiên đàng
Nhìn căn phòng
với 1 tia sáng ở trong đó, èo
uột làm sao
Nó có thể tựa
lên 1 cái gậy
Nhìn ông già
trong tiệm may
Khoá môi bằng
đinh ghim
Quì trước cô dâu
Nhìn Tông Tông
thề bồi với cuốn Kinh Thánh
Trong khi tuyết rơi quanh Xừ
Luỷ
Nhìn cặp tình
nhân hôn nhau trong ngôi nhà
thờ rỗng
Và 1 người đàn
ông trần truồng chạy ra khỏi 1 toà biu đing
Tay cầm súng vẩy vẩy,
miệng sụt sùi khóc
Nhìn con nít
đeo mặt nạ Halloween
Nhảy từ mái nhà
này qua mái nhà khác vào
lúc hoàng hôn
Nhìn 1 chiếc xe van
đầy chó hoang ngoái nhìn lại tớ
Nhìn 1 bà không
nhà riếc móc Chúa
Và 1 anh mù với
chiếc đàn ghi ta, và hát:
"Ôi Chúa, hãy
nhớ tới con
Khi những chiếc ghế này
gãy, giải thoát thân thể con"
[Khi những sợi xiềng
này gãy, giải thoát thân thể con]
Erratas: wind toy, ở đây,
là con diều, đi với cái tít là
seeing things.
Câu chót, chains,
những sợi sên, xiềng, không phải những chiếc
ghế.
Tks K. NQT
Viết
mỗi ngày
To understand Britain, read
its spy novels
To understand Britain, read its spy novels
Để hiểu lũ Hồng Mao, hãy
đọc tiểu thuyết điệp viên của chúng.
The nature of the establishment, the agonies of
decline, the complicated tug of patriotism: spy novels explore
what makes Britain British.
Bản chất của định chế, những cơn hấp hối khi suy
tàn, lòng ái quốc đa đoan rắc rối của nó:
tiểu thuyết điệp viên triển khai cái làm nên
Anh quốc.
FEW countries have dominated any industry as Britain
has dominated the industry of producing fictional spies. Britain
invented the spy novel with Rudyard Kipling’s dissection of the
Great Game in “Kim” and John Buchan’s adventure stories. It consolidated
its lead with Somerset Maugham’s Ashenden stories and Graham Greene’s
invention of “Greeneland”. It then produced the world’s two most famous
spooks: James Bond, the dashing womaniser, and George Smiley, the cerebral
cuckold, who reappears this week in a new book (see page 75).
What accounts for this success? One reason is the
revolving door between the secret establishment and the literary
establishment. Some of the lions of British literature worked
as spies. Maugham was sent to Switzerland to spy for Britain under
cover of pursuing his career as a writer. Greene worked for the intelligence
services. Both Ian Fleming, the creator of Bond, and John le Carré,
the creator of Smiley, earned their living as spies. Dame Stella Rimington,
head of MI5 in 1992-96, has taken to writing spy novels in retirement.
It is as if the secret services are not so much arms of the state as
creative-writing schools.
Another reason is that British
reality has often been stranger than fiction. The story of
the “Cambridge spies”—Kim Philby, Anthony Blunt, Guy Burgess and
the rest—is as far-fetched as it gets. One Soviet mole at the top
of MI6 (Philby, who also worked for The Economist in Beirut); another
even looking after the queen’s pictures (Blunt); a cover-up; a dash
to the safety of the Soviet Union; larger-than-life characters such
as the compulsively promiscuous and permanently sozzled Burgess.
There is also a more profound reason for Britain’s
success. The spy novel is the quintessential British fictional
form in the same way that the Western is quintessentially American.
Britain’s best spy novelists are so good precisely because they use
the genre to explore what it is that makes Britain British: the obsession
with secrecy, the nature of the establishment, the agonies of imperial
decline and the complicated tug of patriotism.
Note: Bài này thú vị thật.
Tin Văn sẽ lai rai ba sợi về nó, và cùng
lúc, lèm bèm về cái thú đọc truyện
trinh thám, gián điệp...
JOHN LE CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ CHẾT
CALL FOR THE DEAD
"Điện thoại của người đã chết", với Gấu, là
cuốn bảnh nhất, của le Carré, dù ông nổi tiếng
với “Trở về từ vùng lạnh”. GCC đọc "Call for the Dead" trước,
bản tiếng Tẩy, nhưng lại bỏ qua, và cuốn sau, mua ở Xuân
Thu, cũng bản tiếng Tây, collection nrf, bìa trắng, chẳng
cần minh họa, vừa cầm lên 1 phát là ra quầy trả
tiền:
Cái tít khủng quá, The Spy Who Came In
From The Cold.
Lạnh, 1 phát, là run như con thằn lằn đứt đuôi
rồi.
Trong Call, có cảnh tuyển điệp viên của Mật Vụ
Anh.
Hắn không được giới thiệu
với Ủy ban, nhưng đã biết phân nửa những thành viên.
Có Fielding, chuyên về thời trung cổ ở Pháp thuộc Đại
học Cambridge, Sparke, Trường Ngôn ngữ Dông phương, và
Steed-Asprey, đã có mặt tại bàn danh dự bữa dạ tiệc
của Jebedee mà Smiley là khách được mời. Hắn phải
thú nhận là mình xúc động, Để Fielding phải
chịu rời những căn phòng của ông ta, khoan nói tới Cambridge,
riêng việc đó đã là một phép lạ. Sau này,
Smiley vẫn nghĩ cuộc phỏng vấn giống như một điệu múa quạt, từng cá
nhân bộc lộ những phần khác nhau của một toàn thể bí
mật. Sau cùng Steed-Asprey, hình như vị Chủ tịch, vén
màn cuối, và sự thực sừng sững trước Smiley với tất cả sự
trần trụi chói lòa của nó. Hắn được đề nghị một chức
việc trong cái mà, vì Steed-Asprey không chọn
được một cái tên tốt đẹp hơn, đã đỏ mặt diễn tả, là
Cơ quan mật vụ.
Steiner cũng có tả cái cảnh Mẽo nhận ông,
y chang mật vụ Anh, khi trả lời tờ The Paris Review.
https://www.economist.com/news/books-and-arts/21727880-peasant-boy-turned-communist-party-boss-who-liberated-his-people-70-years-lies
The story of a good man
How Mikhail Gorbachev ended
the cold war
The peasant boy turned Communist
Party boss who liberated his people from 70 years of
lies and buried the Soviet Union
Như thế nào, một
tên nhà quê Bắc Kít, biến
thành Trùm Bắc Bộ Phủ,
và giải phóng
xứ Bắc Kít của 4 ngàn năm dối trá,
và chôn vùi Cái Ác Bắc
Kít
[dịch hoảng]
Câu chuyện 1 tên
Xô Viết tốt: Đời và thời của Gorbachev.
Bài này tuyệt
quá. Gấu phải mua tờ báo, vì
hết credit đọc free.
Nhớ, có lần đọc trong nước, trên
lưới, tất nhiên, có 1 tay VC than Gorbachev bị
Tây Phương đánh lừa, nếu không, Liên
Xô vưỡn còn.
Trong cuốn tiểu sử Gorbachev,
vấn đề này, cũng được đặt ra, nhưng có tí
khác.
Bài viết trên Người
Kinh Tế mở ra bằng cái cảnh, hai đấng Gorbachev
và Yelsin gặp nhau, vào ngày 23 Tháng
Chạp, để bàn chuyện chuyển giao quyền lực.
Sau vài ly vodka, “Góc”
cảm thấy không được khoẻ bèn bỏ vô
văn phòng ở phía sau, còn Yeltin lừng
lững dảo bước, “như đang diễn hành”, như vị bạn thân
của Góc nhớ lại.
Vị này vô văn phòng
và thấy bạn quí nằm dài trên
sô pha, nước mắt ròng ròng: Bạn thấy
tình hình như thế đấy.
Chàng vừa mất job, là
vị tổng thống Liên Xô, và xứ sở của
chàng, cùng với nó.
Vị này cố an ủi Góc,
nhưng chính ông cũng thấy sốc. Một người
vừa làm thay đổi hẳn diện mạo thế giới… vậy mà
bây giờ là nạn nhân vô phương cứu
chữa của sự độc ác, và tính đồng bóng
của lịch sử.
Và cái lịch sử
đó, tếu thay, do chính ông ta làm
cho nó vận hành.
Kể từ khi Liên Xô
xụm bà chè, cho tới giờ, câu hỏi
“Tại sao” làm phiền thiên hạ, ở Tây phương,
ở Nga xô, ở TQ. Tại làm sao 1 con người quyền lực
trùm thiên hạ như thế, lại “coi thường” quyền
lực của riêng mình?
Liệu ông giản dị đã
thất bại không hiểu được hậu quả của những hành
động của mình, hay là, ông hành
động như thế, là do can đảm, do tầm nhìn tiên
tri?
Như thế nào, 1 anh cu
Tý nhà quê Nga xô trở thành
ông trùm ĐCS, và bèn giải phóng
nhân dân của ông ta ra khỏi 70 năm sống
trong dối trá, và sợ hãi, chấm dứt cuộc
chiến lạnh và đào mồ chôn đế quốc đỏ Liên
Xô. Ông ta là sản phẩm của hệ thống Liên
Xô, như chính ông ta phán, hay là
cái lầm lẫn có tính di truyền, its genetic
error, của nó?
Cái gì làm
nên Góc?
Sách
& Báo
Mới
Bản dịch tiếng Anh mới nhất
IN FRONT OF THE LAW
IN FRONT OF the Law stands a doorman.
A man from the country comes to this doorman and asks
to be admitted to the Law, but the doorman says that he can't
allow him to enter. The man reflects on this and then asks if
he can assume that he'll be allowed to enter later. "It's possible,"
says the doorman, "but not now." Since the gate to the Law remains
open and the doorman steps to the side, the man bends down to look
through the gate into the interior. When the doorman notices this,
he laughs and says, "If it tempts you so much, try to get in despite
my warning. But know this: I'm powerful, and I'm only the lowliest
doorman. In every chamber stands another doorman, each more powerful
than the one before. Though powerful myself, the very gaze of the
third is more than I can endure." The man from the country hadn't anticipated
such difficulties; the Law is supposedly accessible to anyone at
any time, he thinks, but now, as he looks at the doorman in his fur
coat more carefully, at his large, pointed nose, the long, thick, black
Cossack beard, he decides to continue waiting until he receives permission
to enter. The doorman gives him a stool and lets him sit down to
the side of the door. There he sits for days and years. He makes many
attempts to be admitted and wears out the doorman with his pleas. The
doorman often subjects him to a series of questions, asks him about his
home and many other things, but they're questions posed in a detached
way, the sort that great lords pose, and in the end he always repeats
that he still can't grant him entry. The man, who had fully equipped himself
for his journey, uses everything he has, no matter how valuable, to bribe
the doorman. The latter accepts everything but says at the same time:
"I'm only accepting this so that you won't think that you've overlooked
something." Over the many years the man watches the doorman almost constantly.
He forgets about the other doormen, and this first one seems to him to
be the only obstacle between him and access to the Law. He curses his bad
luck, in the first years recklessly and loudly; later, as he grows old,
he continues only to grumble to himself quietly. He becomes like a child,
and since in his perennial observations of the doorman he has come to
know even the fleas in the collar of his fur coat, he even asks the fleas
to help him change the doorman's mind. Finally, his vision becomes weak,
and he doesn't know whether it's getting darker around him or his eyes
are only deceiving him. But now he recognizes in the darkness a brilliance
which radiates inextinguishably from the door of the Law. He doesn't have
much longer to live now. As he's near the end, all of his experiences
of the entire time culminate in a question that he hasn't yet asked the
doorman. Since he can no longer raise his stiffening body, he motions
to him. The doorman must bend very low for him since their difference in
height has changed much to the latter's disadvantage. "What do you want
to know now?" asks the doorman. "You're insatiable." "Everyone strives
for the Law," says the man. "How is it that in these many years no one
except me has asked to be admitted?" The doorman realizes that the man
is already near the end, and to reach his failing ears he roars at him:
"No one else could be admitted here because this entrance was for you
alone. I'll now go and close it."
Trước Pháp Luật
Trước Pháp Luật có
tên gác cửa. Một người nhà quê
tới và xin phép vô, nhưng tên
gác nói, ta không thể cho phép
mi vô. Người nhà quê suy nghĩ, rồi hỏi, liệu
lát nữa, có được không. Tên gác
nói, “có thể”, nhưng “lúc này thì
chưa”. Bởi là vì cửa mở, và tên
gác thì đứng né qua 1 bên, cho nên
người nhà quê bèn cúi xuống dòm
vô bên trong. Tên gác bèn cười
và nói, "Nếu mi thèm như thế, thì cần
gì ta, cứ vô đại đi. Nhưng hãy nhớ điều này,
ta có quyền, và ta chỉ là tên gác
cửa thấp nhất. Ở mỗi phòng thì có 1 tên
gác cửa, mỗi tên như thế có quyền hơn tên
trước. Có quyền như ta đây, vậy mà cái nhìn
của tên thứ ba, ta không làm sao chịu nổi.”
Người đàn ông nhà quê chưa từng đụng những
khó khăn như thế; Pháp Luật thì ai cũng có
thể tới được, vào bất cứ lúc nào, anh ta nghĩ, nhưng
bây giờ, nhìn tên gác cửa trong cái
áo khoác bằng lông thú một cách kỹ
luỡng, cái mũi to, nhọn, bộ râu Cossack đen, dài,
dầy, anh bèn quyết định tiếp tục đợi tới khi được phép.
Người gác cửa cho anh ta một cái ghế đẩu, và anh ngồi
xuống kế bên cửa. Anh ta ngồi như thế, những ngày, rồi những
năm. Anh ta bày điều này, kế nọ để mong được cho phép,
và làm tên gác mệt nhoài với những lời
khẩn cầu của mình. Tên gác thì lại trút
lên anh ta hàng lố câu hỏi, nhà cửa, gia đình
ra làm sao, và nhiều điều khác nữa, nhưng theo kiểu,
hỏi cho có, như mấy ông lớn thường làm, và
sau cùng, luôn lập lại, anh ta không thể cho phép.
Người nhà quê, do đã trang bị thật tới chỉ, cho chuyến
đi, bèn sử dụng tất cả những gì mà anh ta có,
dù quí giá tới mức nào, để hối lộ tên
gác. Tên này nhận hết mọi thứ, nhưng vẫn nói,
lần nào cũng vậy: "Ta nhận như thế này là để cho
mi đừng nghĩ, mi bỏ sót một điều gì.” Nhiều năm qua đi,
người nhà quê hầu như lúc nào cũng quan sát
tên gác cửa. Anh ta quên những tên gác
cửa khác, và tên này có vẻ là
trở ngại độc nhất, giữa anh, và cái sự tới với Pháp
Luật. Anh ta trù ẻo vận rủi của mình, những năm đầu thật
táo bạo, thật to tiếng; sau đó, trở nên già,
anh chỉ lặng lẽ tiếp tục gầm gừ với chính mình. Anh trở thành,
như 1 đứa con nít, và kể từ khi kiên trì
săm soi, theo dõi người gác cửa, anh ta cặn kẽ quen thuộc
đến, ngay cả mấy con rận ở cổ chiếc áo choàng lông
thú của người gác cửa, và anh ta bèn năn nỉ
chúng, hãy giúp ta thay đổi ý nghĩ của
ông chủ của tụi mi. Sau cùng, cái nhìn
của anh ta yếu dần, và anh ta không hiểu, trời trở nên
tối dần chung quanh anh ta, hay là, chỉ là do hai con
mắt của anh, đánh lừa anh. Nhưng bây giờ anh nhận ra trong
bóng tối 1 tia sáng sáng ngời không thể nào
tắt lịm, chiếu ra từ cái cửa Pháp Luật. Anh ta chẳng còn
bao nhiều thì giờ để sống nữa. Và khi anh tới tận cùng
của đời mình như thế, tất cả những kinh nghiệm của cả đời của mình
tụ thành 1 câu hỏi anh chưa hề đặt ra với người gác
cửa. Và do anh ta không làm sao cựa quậy, người gác
cửa bèn ghé lại gần anh. Anh ta phải cúi xuống thật
thấp, do chiều cao của mình quả là 1 thất thế đối anh
nhà quê. “Bây giờ anh muốn biết cái gì
nào,” anh ta nói. “Làm sao mà trong bao
nhiêu năm ròng rã như thế, không ai, ngoại
trừ tôi xin được vô?” Người gác của nhận ra thằng
nhà quê sắp đi đời rồi, và bèn ghé
vào tai anh ta la to: “Chẳng có ai có thể được phép
vô, vì cửa này dành chỉ cho anh. Ta bây
giờ bỏ đi, và đóng nó lại.”
Một vị bằng hữu FB phán,
mi bị ám ảnh bởi MCNK.
Quả có thế.
Làm thế nào là
TTT phịa ra được một nhân vật như Kiệt, đã
bỏ chạy thoát cuộc chiến lại bò về, để chết,
không phải chết vì VC, mà vì bị lầm
là VC, bởi 1 tên sĩ quan Nguỵ.
Borges phán,
tớ không viết giả tuởng mà phịa ra sự kiện.
I don’t write fiction. I invent fact. Liệu Mít chúng
ta có thể áp dụng ý này, cho MCNK?
GCC nghĩ, được!
Borges, chọn truyện
ngắn Intruder, là hay nhất của ông, và
quái đản làm sao, truyện ngắn này,
có gì thật giống MCNK - như là 1 đề nghị
kết thúc cuộc chiến. (1)
(1)
Trong bài viết về Borges,
Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker, sau
in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện
ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này
hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.
“The Intruder”, câu chuyện
hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết
cô gái để cho tình anh em lại được trọn
vẹn. Vì chỉ có cách đó mà
hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên
nàng”.
Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí
- cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ
lén vô nhà, The Intruder”, quả là
1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và
cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên net,
Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng
ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít
và em Nam Kít, cùng mê, và 1
thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có
bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang
thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề
Gòn, và thấy Những Ngày Ở Sài
Gòn, nằm trên bàn!
"The Intruder," a very short
story recently translated into English, illustrates Borges's
present ideal. Two brothers share a young woman. One of them
kills her so that their fraternity may again be whole. They now
share a new bond: "the obligation to forget her."
Borges himself compares this
vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight
thing, but flawless and strangely moving. It is as if Borges,
after his rare voyage through languages, cultures, mythologies,
had come home and found the Aleph in the next patio.
Steiner cho rằng cái sự
nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như là
1 sự mất mát riêng tư.
Và theo ông, nó
bắt đầu, cùng với sự kiện, cả hai đấng rất ư được
người đời ít biết đến, và đọc được họ, là
Beckett và Borges, khi hai đấng này chia nhau giải
thưởng Formentor Prize, vào năm 1961.
Năm sau, cuốn Mê Cung và Giả Tưởng của
Borges có bản tiếng Anh.
Vinh danh rớt
xuống, như mưa: Honors rained.
Vào cái tuổi già
chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu
nghi, rằng thì là bi giờ cả thế giới biết tới
mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi
là vì vào năm 1932, cỡ đó, tôi
có cho xb 1 cuốn sách,
và cuối năm, tôi khám phá ra, chỉ
bán được có 37 cuốn!
Beckett thì cũng rứa! Gấu nhớ
là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân
hận.
TTT cũng thế.
May sau đó, nhờ Nguyễn Đình
Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn,
nhờ thế cuốn sách tái sinh, từ tro than, từ bụi
đường!
Khủng nhất, là, ông già
NDV như tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền
văn chương của cả 1 Miền Nam, sau đó, sau 1975!
Gấu là thằng may nhất,
nếu không có cú bán xon của NDT,
Gấu không làm sao được đọc Bếp Lửa!
The Intruder
Note: GCC kiếm thấy The Intruder, trong cuốn Borges A Reader, mua xôn, từ đời
nào. Bèn post ở đây, và sẽ dịch
sau.
Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí
- cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ
lén vô nhà, The Intruder”, quả là
1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và
cảm động một cách lạ thường.
Lần đầu đọc, trên net,
Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của
Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả
hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng
mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để
cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:
Như
thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh,
một bữa trở về Xề Gòn, và thấy "Những Ngày
Ở Sài Gòn", nằm trên bàn!
Nếu có về lại Xề Gòn,
thì phải như thế, chứ làm sao có đường
về "gian nan"?
Về để ăn kít VC, hử, hử?
THE INTRUDER
2 Samuel 1:26
[JLB 98]
They claim (improbably) that
the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen
brothers, at the wake for Cristian, the elder, who died of
natural causes at some point in the 1890s, in the district of
Moron. Someone must certainly have heard it from someone else,
in the course of that long, idle night, between servings of mate,
and passed it on to Santiago Dabove, from whom I learned it. Years
later, they told it to me again in Turdera, where it had all happened.
The second version, considerably more detailed, substantiated Santiago's,
with the usual small variations and departures. I write it down
now because, if I am not wrong, it reflects briefly and tragically
the whole temper of life in those days along the banks of the River
Plate. I shall put it down scrupulously; but already I see myself
yielding to the writer's temptation to heighten or amplify some detail
or other.
In Turdera, they were referred
to as the Nilsens. The parish priest told me that his predecessor
remembered with some astonishment seeing in that house a worn
Bible, bound in black, with Gothic characters; in the end pages,
he glimpsed handwritten names and dates. It was the only book
in the house. The recorded misfortunes of the Nilsens, lost as
all will be lost. The old house, now no longer in existence, was
built of unstuccoed brick; beyond the hallway, one could make out
a patio of colored tile, and another with an earth floor. In any case,
very few ever went there; the Nilsens were jealous of their privacy.
In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their indulgences
were horses, riding gear, short-bladed daggers, a substantial fling on
Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall, with
red hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would never
hear tell of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood
feared them, as they did all red-haired people; nor is it impossible that
they might have been responsible for someone's death. Once, shoulder to
shoulder, they tangled with the police. The younger one was said to have
had an altercation with Juan Iberra in which he did not come off worst;
which, according to what we hear, is indeed something. They were cowboys,
team drivers, rustlers, and, at times, cheats. They had a reputation for
meanness, except when drinking and gambling made them expansive. Of their
ancestry or where they came from, nothing was known. They owned a wagon
and a yoke of oxen.
Physically, they were quite distinct
from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their own bad
name. This, and other things we do not know, helps to explain how close they
were; to cross one of them meant having two enemies.
The Nilsens were roisterers,
but their amorous escapades had until then been confined
to hallways and houses of ill fame. Hence, there was no lack
of local comment when Cristian brought Juliana Burgos to live with
him. True enough, in that way he got himself a servant; but it is
also true that he showered her with gaudy trinkets, and showed her
off at fiestas-the poor tenement fiestas, where the more intimate
figures of the tango were forbidden and where the dancers still kept
a respectable space between them. Juliana was dark-complexioned,
with large
wide eyes; one had only to look at her to make her smile. In a poor
neighborhood, where work and neglect wear out the women, she was not
at all bad looking.
At first, Eduardo went about
with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some
business or other; he brought back home with him a girl he had
picked up along the way. After a few days, he threw her out. He
grew more sullen; he would get drunk alone at the local bar, and would
have nothing to do with anyone. He was in love with Cristian's woman.
The neighborhood, aware of it possibly before he was, looked forward
with malicious glee to then subterranean rivalry between the brothers.
One night, when he came back late from the bar at the corner, Eduardo
saw Cristian's black horse tethered to the fence. In the patio, the elder
brother was waiting for him, all dressed up. The woman came and went,
carrying mate. Cristian said to Eduardo:
"I'm off to a brawl at the Farias'.
There's Juliana for you. If you want her, make use of her."
His tone was half-commanding,
half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did not
know what to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo but
not to Juliana, who was an object to him, mounted, and trotted
off, casually.
From that night on, they shared
her. No one knew the details of that sordid conjunction,
which outraged the proprieties of the poor locality. The arrangement
worked well for some weeks, but it could not last. Between them,
the brothers never uttered the name of Juliana, not even to summon
her, but they sought out and found reasons for disagreeing. They
argued over the sale of some skins, but they were really arguing
about something else. Cristian would habitually raise his voice, while
Eduardo kept quiet. Without realizing it, they were growing jealous.
In that rough settlement, no man ever let on to others, or to himself,
that a woman would matter, except as something desired or possessed,
but the two of them were in love. For them, that in its way was a humiliation.
One afternoon, in the Plaza
de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful
"dish" he had fixed up for himself. It was then, I think,
that Eduardo roughed him up. No one, in his presence, was
going to make fun of Cristiano
The woman waited on the two of
them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference,
unquestionably for the younger one, who, although he had
not rejected the arrangement, had not sought it out.
One day, they told Juliana to
get two chairs from the first patio, and to keep out of the
way, for they had to talk. Expecting a long discussion, she
lay down for her siesta, but soon they summoned her. They had
her pack a bag with all she possessed, not forgetting the glass
rosary and the little crucifix her mother had left her. Without
any explanation, they put her on the wagon, and set out on a wordless
and wearisome journey. It had rained; the roads were heavy going
and it was eleven in the evening when they arrived at Moron. There
they passed her over to the patrona
of the house of prostitution. The deal had already been made; Cristian
picked up the money, and later on he divided it with Eduardo.
In Turdera, the Nilsens, floundering
in the meshes of that outrageous love (which was also something
of a routine), sought to recover their old ways, of men among
men. They went back to their poker games, to fighting, to occasional
binges. At times, perhaps, they felt themselves liberated, but
one or other of them would quite often be away, perhaps genuinely,
perhaps not. A little before the end of the year, the younger one announced
that he had business in Buenos Aires. Cristian went to Moron; in the
yard of the house we already know, he recognized Eduardo's piebald. He
entered; the other was inside, waiting his turn. It seems that Cristian
said to him, "If we go on like this, we'll wear out the horses. It's better
that we do something about her."
He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went
off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred
his horse so as not to see them. They returned to what has already
been told. The cruel solution had failed; both had given in to
the temptation to dissimulate. Cain's mark was there, but the
bond between the Nilsens was strong-who knows what trials and dangers
they had shared-and they preferred to vent their furies on others.
On a stranger, on the dogs, on Juliana, who had brought discord
into their lives.
March was almost over and the
heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom
to retire early), Eduardo, coming back from the corner bar,
saw Cristian yoking up the oxen. Cristian said to him, "Come on.
We have to leave some hides off at the Pardos'. I've already loaded
them. Let us take advantage of the cool."
The Pardo place lay, I think,
to the south of them; they took the Camino de las Tropas,
and then a detour. The landscape was spreading out slowly under
the night. They skirted a clump of dry reeds. Cristian threw away
the cigarette he had lit and said casually, "Now, brother, to work.
Later on, the buzzards will give us a hand. Today I killed her.
Let her stay here with all her finery, and not do us any more harm."
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed
and the obligation to forget her.
https://www.economist.com/news/books-and-arts/21727880-peasant-boy-turned-communist-party-boss-who-liberated-his-people-70-years-lies
The story of a good man
How Mikhail Gorbachev ended the cold war
The peasant boy turned Communist Party boss who liberated
his people from 70 years of lies and buried the Soviet Union
Như thế nào, một tên nhà quê
Bắc Kít, biến thành Trùm Bắc Bộ Phủ,
và giải phóng xứ Bắc Kít của 4 ngàn
năm dối trá, và chôn vùi Cái Ác
Bắc Kít
[dịch hoảng]
Câu chuyện 1 tên Xô Viết tốt: Đời và
thời của Gorbachev.
Bài này tuyệt quá. Gấu phải mua tờ
báo, vì hết credit đọc free.
Tờ NY cũng có 1 bài rất thú, về Pessoa.
Cũng đành phải mua tờ báo!
http://www.newyorker.com/magazine/2017/09/04/fernando-pessoas-disappearing-act
Cái vụ Trịnh
Vĩnh Bình, như được ông trình bày, qua
VOA, và cùng với nó, vụ TXT, làm nhen
nhóm giấc mộng Solz, ở nơi GCC: Chỉ 1 mình ta làm
sụp đổ cả 1 đế quốc ma quỉ!
https://beta.theglobeandmail.com/arts/books-and-media/salman-rushdie-on-donald-trump-and-his-urgent-new-novel-the-golden-house/article36143175/?ref=http://www.theglobeandmail.com&cmpid=rss1&click=dlvr.it
Books
Salman Rushdie on his urgent new novel,
The Golden House, and Donald Trump
Rushdie và cuốn tiểu thuyết khẩn cấp của ông,
và Tông Tông [Khùng] của Mẽo.
Thực sự, cuốn tiểu thuyết mới của tôi là
về con người, ở cái thời điên khùng bịnh hoạn.
R. phán.
"Really," Rushdie said, "the novel is about human beings
in a time of insanity."
Như lính
giữa rừng
Vâng,
cũng những bài xưa cũ đó, buổi tối tại một nhà
hàng, đám chúng tôi ngồi nghe chị NG.
Cô Tơ đã chết rồi, bây giờ những bài hát
không làm sống lại quá khứ nhưng rửa sạch quá
khứ, đem lại công bình cho những người đã chết.
"Như lính giữa rừng yêu lá
thấp mà thôi...".
KT, như GCC được biết,
1 anh binh nhì, không biết có thuộc thành
phần trốn lính bị bắt, hay không, nhưng chắc chắn,
do bằng cấp chẳng có gì, ở 1 nấc thang chót
như thế trong quân đội, bị đám sĩ quan, hạ sĩ quan đì
tới chỉ, là cái chắc. Ra hải ngoại vẫn còn bị
đì, bởi lũ Chống Cộng Điên Cuồng. Anh làm tờ HL
hẳn là trong tâm trạng đó, thay vì 1 lý
tưởng cái con mẹ gì. Nhưng lũ Vẹm ở trong nước, và
đám hải ngoại Miền Nam trốn lính ngày nào,
tức đám du học nhờ bằng cấp, mừng quá, “thằng ngu, thằng
khờ có ích”, đúng như Xì gọi, bèn
sướng điên lên, ca ngợi rối rít.
Tầm nhìn quá hạn hẹp, tình trạng
nước Mít thê thảm như hiện nay, có công
lao của những người như KT. Đó là sự thực.
Thê thảm nhất, với những người
như KT, là họ không có cái tình
yêu sâu thẳm, và cùng với nó, là
lòng biết ơn, của 1 tên Bắc Kít, đối với miền đất
giơ tay rộng mở, chào đón họ. Những tên như tên
Cớm VC nằm vùng ở Paris - nhờ chính sách du học
của Ngụy - khi xuống tầu Yankee mũi lõ, là đã rắp
tâm bán đứng miền đất này, cho Bắc Kít.
Chúng chưa từng nói ra 1 lời về cái
miền đất cưu mang chúng. Thù Ngụy, mê VC, mê
Miền Bắc, làm chúng trở thành những tên
vô ơn!
NQT
NTV mastermind của tờ Trăm Con, cũng chẳng khác.
Đã từng bị mật vụ Diệm tẩn, vì không đứng
dậy chào cờ, trong 1 lần đi coi ciné,
Đệ tử Ông Đạo Dừa do trốn lính. Bị bắt,
bị đúng em trai TTT, là bạn C của GCC, tống đi lao
công chiến trường, khi anh làm ở Nha Quân Pháp.
Một đấng như thế nhìn về xứ Bắc Kít, như là Đất
Hứa, là đúng rồi, đâu có khác gì
1 ông Chánh Tổng An Nam, hay Người Của Chúng
Ta, ở Paris!
Trong khi TTT, thí dụ, ngay từ ngày
đầu cuộc chiến, từ những ngày 1954, qua cuốn Bếp Lửa,
hay qua Tôi không còn cô
độc, đã nhìn ra chân tướng Vẹm. Khi Đại,
anh sinh viên trốn lính mơ lên rừng theo VC, suốt
ngày ôm cuốn Tội Ác và Hình Phạt
của Dos, phán, chúng [chủ nghĩa CS] cho đến giờ này
vẫn còn đúng, Tâm bèn xửng cồ vặc lại, ra
ngoài đó, tức lên rừng phò VC, thì
cũng là 1 thứ đánh đĩ!
Hay, “Chúng nó làm CS, chúng
ta làm tù nhân” [Tôi không còn
cô độc]
Ông nhìn ra rất rõ số phận của
lũ Ngụy, khác hẳn những KT, NTV.
Nói 1 cách rõ ràng
hơn, ngay từ 1954, khi xuống tầu há mồm vô Nam, TTT
đã nhìn ra số phần của mình, là 1 tên
tù VC, trong Trại Cải Tạo!
GCC chẳng hề thích VC, và cũng sợ chết
như bất cứ 1 tên nào khác, nhưng chấp nhận số
phận 1 cá nhân, đi lính, ừ, thì đi lính,
như bất cứ 1 cá nhân bình thường chọn cái
chế độ mà mình theo nó, ngay từ lúc xuống
tầu há mồm.
Đọc Marx, để cố hiểu ra ý nghĩa của cuộc chiến,
nhưng đếch mê, có thể nói như vậy.
Sự chọn lựa của GCC có phần nào giống
Grass, khi ông chọn làm 1 tên vần đá
lên núi của Camus, thay vì Sartre.
Cuốn Bếp Lửa, mà Tin Văn post, là bản
copy, từ cuốn Bếp Lửa của KT, lần qua Cali, lần đầu, 1998, ghé
nhà anh. Anh mua sẵn 1 cái nệm, dành cho vợ
chồng GCC, nhưng Khế Iêm, Trùm tờ Thơ, giáo chủ
Tân Hình Thức, đã tìm được chỗ ở cho tụi
này, là nhà mobile home, của Lê Giang Trần.
Qua đêm đầu ở đó, hôm sau, NMG đón về nhà
anh. Nhờ vậy quen băng Văn Học, với những đấng thật thân tình
như Trúc Chi, Tạ Chí Đại Trường.
Thú nhất, là quen Vũ Huy Quang, cũng
trong lần "một chuyến đi" này.
Anh rất sợ Gấu lân la với đám Chống Cộng,
điên cuồng hay không điên cuồng!
Khi nhìn ra, ngay từ những ngày 1954, số
phần của mình, và đồng đội, sẽ là Trại
Tù VC, và khi viết MCNK, với 1 hình ảnh đẹp tuyệt
vời kết thúc cuộc chiến, liệu TTT tiên đoán, như
cuốn Bếp Lửa của ông - con phượng hoàng tái sinh
lớp bụi đường hè phố Sài Gòn- cũng thế, một Miền
Nam sẽ tái sinh, từ Trại Tù VC?
Gấu tin là ông nhìn ra hình
ảnh này, khi viết MCNK.
Người
con chí hiếu ( Đặng Lệ Khánh
/ Anita Desai)
Note: Vu Lan năm nay, art2all
post truyện này, và, theo GCC, khó
đọc. Post kèm thêm 1 bài viết, lấy trên
net, để cho thấy, không chỉ GCC thấy khó đọc.
Bà cụ Gấu bị cao áp.
[Bịnh này di truyền, Gấu cũng bị cao áp].
Bác sĩ cấm dùng đồ mặn. Những ngày
sau cùng, bà cụ quá thèm nước
mắm, và, câu chuyện cũng tương tự thằng con trai
chí hiếu ở trong truyện.
http://incien.blogspot.ca/2015/01/summary-of-anita-desais-devoted-son.html
Acceptance Speech to the Collegium
of the German Academy
Born as I was
in the Allgau in 1944, I did not for some time perceive or
understand any of the destruction that was present at the beginning
of my life. Now and then, as a child, I heard adults speak of
a coup, but I had no idea what a coup was. The first glimmerings
of our terrible past came to me, I believe, one night at the end of
the 1940s when the sawmill in the Platt burned down, and everyone ran
out of the houses on the edge of town to stare at the sheaf of flames
flaring high into the black night. Later, at school, more was made
of the campaigns of Alexander the Great and Napoleon than of what
then lay only fifteen years in the past. Even at university I learned
almost nothing of recent German history. German studies in those
years were a branch of scholarship stricken with almost premeditated
blindness, and as Hebel would have said, rode a pale horse. For a whole
winter semester we spent a pro seminar stirring
The Golden Pot, * without once discussing
the relation in which that strange story stands to the time immediately
preceding its composition, to the fields of corpses outside Dresden
and the hunger and epidemic disease in the city on the Elbe at that
period. Only when I went to Switzerland in 1965, and a year later to England,
did ideas of my native country begin to form from a distance in my head,
and these ideas, in the thirty years and more that I have now lived abroad,
have grown and multiplied.
To me, the whole Republic has something
curiously unreal about it, rather like a never-ending déjà-vu.
Only a guest in England, I still hover between feelings
of familiarity and dislocation there too. Once I dreamed,
and like Hebel I had my dream in Paris, that I was unmasked as
a traitor to my country and a fraud. Not least because of such misgivings,
my admission to the Academy is very welcome, and an unhoped-for form
of justification.
* This speech was delivered by W.
G. Sebald on the occasion of his being made a member of the
German Academy.
* E. T. A. Hoffmann's Der Goldne
Topf (1814).
Lời cảm tạ khi
được vô Hàn Lâm Viện Đức
W.G. Sebald [1944-2001]
Tôi ra đời vào năm 1944,
tại Allgau, thành thử có lúc tôi
đã không cảm nhận, hoặc hiểu được thế nào
là huỷ diệt, vào lúc bắt đầu cuộc đời
của mình. Lúc này, lúc nọ, khi còn
là một đứa trẻ, tôi nghe người lớn nói tới
một cú, a coup, tôi chẳng có bất cứ một ý
nghĩ, cú là cái gì. Lần đầu tiên,
như ánh lửa ma trơi, cái quá khứ của chúng
tôi đó bất chợt tóm lấy tôi, theo
tôi nghĩ, đó là vào một đêm, vào
cuối thập niên 1960, khi nhà máy cưa ở Platt
cháy rụi, mọi người ở ven thành phố đều túa
ra khỏi nhà để nhìn những ngọn lửa sáng rực
trên nền trời đêm. Sau đó, khi đi học, phần lớn
huỷ diệt mà chúng tôi được biết, là từ
những cuộc viễn chinh của Alexander Đại Đế và Nã Phá
Luân, chứ chẳng phải từ, vỏn vẹn chỉ, muời lăm năm quá khứ
của chúng tôi đó. Ngay cả ở đại học, tôi hầu
như chẳng học được gì, về lịch sử vừa mới qua của Đức. Những nghiên
cứu Đức vào những năm đó, là một ngành học
- mù lòa như dã được dự tính, chỉ đạo từ
trước, và, như Hebel sẽ nói - cưỡi một con ngựa nhợt nhạt.
Trọn một khoá học mùa đông, chúng tôi
trải qua bằng cách mân mê Cái Bô
Vàng [The Golden Pot] (1), mà chẳng hề một lần
băn khoăn, về sự liên hệ ở trong đó, rằng, tại làm
sao mà một câu chuyện lạ thường như vậy lại có
thể được viết ra, với tất cả những cấu trúc dàn dựng
của nó như thế, liền ngay sau một thời kỳ mà xác
chết còn ngập những cánh đồng bên ngoài Dresden,
và trong tnành phố ở bên con sông Elbe đó
thì đang xẩy ra nạn đói, và bệnh dịch. Chỉ tới
khi tới Thụy Sĩ, vào năm 1965, và một năm sau, tới Anh,
những ý nghĩa của tôi về quê nhà mới bắt đầu
được nhen nhúm, từ một khoảng cách xa, ở trong đầu của tôi,
và những ý nghĩ này, trong vòng 30 năm hơn,
ngày một lớn rộng, nẩy nở mãi ra. Với tôi trọn một
thể chế Cộng Hoà có một điều không thực kỳ cục chi
chi về nó, như thể một cái gì biết rồi chẳng hề
chấm dứt, a never-ending déjà vu. Chỉ là một người
khách ở đất nước Anh Cát Lợi, và ở đó
thì cũng vậy, tôi như luôn luôn cảm thấy
mình lơ lửng, giữa những ý nghĩ, những tình cảm
của sự quen thuộc và dời đổi, bật rễ, không bám
trụ được vào đâu. Một lần tôi nằm mơ, và cũng
như Hebel, tôi có giấc mơ của mình ở trong thành
phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra,
là một tên phản bội quê nhà, và một
thứ đồ dởm. Lẽ dĩ nhiên, đối đế mà nói, ba cái
thứ lẩm cẩm như thế đó chẳng hề làm phiền tôi, về
cái hân hạnh mà tôi đang được hưởng, là
được chấp nhận là một thành viên của Hàn
Lâm Viện. Đúng là một niềm vui, và còn
là một hình thức xác nhận, mà tôi chưa
từng dám mong mỏi, hay hy vọng.
W.G. Sebald
Nguyễn Quốc Trụ dịch
[Từ bản tiếng Anh, của Anthea Bell,
trong Campo Santo, do Sven Meyer biên tập, nhà
xb Hamish Hamilton, Penguin Books, 2005]
(1) Tác phẩm của E.T.A Hoffmann
(1814)
Sebald, một người Đức tốt, như
ông thường được gọi, chẳng hề dính dáng
đến tội ác Lò Thiêu, nhưng đâu thoát
được cái mặc cảm “là 1 tên Đức, chẳng dễ
chịu 1 tí nào hết” .
Sống ở Anh, viết văn bằng tiếng
Đức, nhưng 1 thứ tiếng Đức đã bị lệch pha so với
dòng chính.
Và cái giấc mơ của
ông, đúng là cái giấc mơ của
GCC, khi đi giữa thành phố Toronto, và bị lột
mặt nạ, trơ ra là 1 tên Bắc Kít, 1 tên
phản bội, và thảm hơn nữa, 1 tên bịp bợm.
Bạn đọc Tin Văn chắc có
người bật cười, thay vì thương hại, nhưng đúng
là như thế.
O, vị bằng hữu trang TV, chẳng
đã có lần than thở, mi là 1 thằng
Bắc Kỳ, mà sao mi chửi Bắc Kỳ dữ đến như thế, tàn
độc đến như thế, chồng ta là Bắc Kỳ, mà ta đọc
"cũng" thấy đau!
Gấu thực sự không biết, lũ
Đức, như hiện giờ, có tên nào nhìn
ra mắc mớ giữa 1 tên mafia Đỏ, bị đồng bọn Vẹm hăm làm
thịt, phải chạy trốn qua Đức, và cầu mong họ cho 1
nơi chốn nương/dung thân.
Nhưng 1 cách nào
đó, đây là cơ hội của Đức, cho chính
Đức.
Thê lương lắm, không
đơn giản đâu.
Chỉ 1 mình Gấu ôm
nặng gánh nặng Cái Ác Bắc Kít.
(1)
Cũng thế, là những Sebald,
Améry...
https://www.voatiengviet.com/a/trinh-xuan-thanh-hoang-xuan-phu-trong-lu/4004097.html
Vả lại nhận [lại] Trịnh Xuân
Thanh, phía Đức chỉ vớ được thêm một nhân
vật cồng kềnh khó xử.
Bùi Tín, nhận định
về vụ TXT
(1)
Buzzati
and Kafka (3): Drogo hears the news that a battalion of
Tartars may at last be approaching the Fort. Feeling too weak
to fight, he tells himself that the news will prove mistaken.
"He hoped that he might not see anything at all, that the road
would be deserted, that there would be no sign of life. That was what
Drogo hoped for after wasting his entire life waiting for the
enemy."
Drogo
nghe tin mấy chục binh đoàn Rợ Tác Ta ở ngay
bên ngoài thành Xề Gòn. Sẽ có
Biển Máu!
Nhưng chàng quá già,
[tay thì bị gẫy vì mìn VC], thành
ra bèn hi vọng, tin dởm. Làm đếch gì
có chuyện đó!
Đó là điều Drogo
hi vọng, sau khi mất tiêu cả cuộc đời, chờ đợi một
kẻ thù đếch có!
I [Manguel]
loved someone who died. The last time I was with him, death
made him look as if he had woken up in the past, magically
young, as he had once been when he was without experience of the
world, and happy because he knew that everything was still possible.
Tớ yêu
một kẻ đang chết. Lần chót tớ ở bên, cái chết làm
cho kẻ đó như sống lại từ quá khứ, trẻ thơ một cách
thật diệu kỳ, như chưa từng có một tí kinh
nghiệm gì từ thế giới, và hạnh phúc,
vì hắn ta biết, mọi chuyện thì vẫn có
thể.
Bientôt,
je serai tout le monde. Je serai mort. Borges.
Chẳng bao lâu đâu,
ta sẽ là cả thế giới. Ta sẽ ngỏm.
The Palestinian
poet Mahmoud Darwish: "I am myself alone an entire generation."
Ta, chỉ mình ta, là
trọn cả một thế hệ.
Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không
Thể Đảo Ngược: Về Jean
Améry, trong Lịch sử
tự nhiên về huỷ diệt
[Against the Irreversible. On
Jean Améry. On the natural history of destruction,
nhà xb Vintage Canada].
Améry
viết, tra tấn có cái tính quái
dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã
từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu
tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm
tra tấn suốt đời!
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal
du pays, le Hauptwehe, “nỗi nhức nhối số
1", “la douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn
từ của Thomas Mann, thì khác, cực khác về
bản chất, so với những gì tôi viết ở trên,
và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn.
Vào lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ
gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít
đã mất, và bạn cũng không vãi ra những
giọt nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải
là tự an ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était
pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
"Perhaps", writes
Nietzsche in the Genealogie
der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious
in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique.
We burn something into the mind so that it will remain in the
memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có
lẽ không có chi khủng khiếp và bí
ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Nietzsche
viết trong Genealogie
der Moral: Chúng ta đánh dấu trái
tim của chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau
được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss learned
in exile to understand the fate he escaped...... so vital
to him, of whether he himself was on the side of the creditors
or the debtors. He finds the answer to the question in the
course of his own study, as it becomes increasingly clear to
him that rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact
the same species, so that he, the potential victim, must also
range himself with the perpetrators of the crime or at least theirs
accomplices
Chỉ tới khi
lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình,
ở về phía kẻ ăn cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm
thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên
cứu của chính ông, và mọi chuyện càng
ngày càng trở nên rõ ràng,
đối với ông, là, cai trị hay bị trị, bóc lộc
hay bị bóc lột, thì cũng rứa, và, bởi vì
ông ta sinh ra là có tướng bị ăn đòn
rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng cùng
với những kẻ tạo ác, hay chí ít, cũng đồng
phạm.
Sebald
… Weiss to attend the Auschwitz
trial in Frankfurt. He may also have been motivated before
the event by the hope, never quite extinguished, "that every
injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated
for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury."
This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense
of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship
between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work
of Peter Weiss
Weiss tham dự tòa án
xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể
là do ông vẫn còn hy vọng, một niềm hy
vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì
có cái phần tương đương của nó, ở đâu
đó, và có thể thực sự được đền bù,
bù trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông
qua nỗi đau của bất cứ kẻ
nào gây ra sự tổn thương”.
Tư tưởng này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở
của cảm quan của chúng ta về công lý, và
nó, như ông nói, “nằm trong liên hệ có
tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và nó
cũng cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp,
chính nó”
W.G. Sebald:
Sự hối hận của con tim.
… even if it be through the pain of whoever inflicted the injury.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt
quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói
như thế:
Ta mang cái gánh nặng
của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải
lũ Bắc Kít?
Mi sinh ra là đã
có cái tướng bị ăn đòn rồi!
Sách
& Báo
Mới
Origin: Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel,
Crime
and Punishment
From Dante's Inferno,
where hell seems a good deal more interesting than heaven,
to Milton's Paradise Lost,
where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's
Othello, where Iago's
intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers
have learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps
the banality of good. Yet in Fyodor Dostoyevsky's
Crime and Punishment, the author passes
rapidly over his main character's evil deeds-the pointless murders
of an innocent old woman and her half-sister-to explore their psychological
consequences.
Dostoyevsky
understood punishment not as a concept but as bitterly
lived experience. A parlor radical in his youth, he was arrested,
along with dozens of utopian associates who questioned the regime
of Czar Nicholas I, and put through a mind-bending form of
psychological torture: he was convicted of treason, sentenced
to death, blindfolded and put in front of a firing squad-only to be
given a reprieve at the last moment and sentenced to four years of
exile in a Siberian prison camp.
The author's
years in chains deepened and darkened his view of the human
condition and inspired his creation of Raskolnikov, the impoverished
former student whose love of idealistic concepts outpaces
his love for the messy realities of human life and leads him to
justify his murders as an expression of his self-declared superiority
over the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the
chilling trajectory of the sort of evil that begins with grandiose
visions of the superhuman, only to end in the death camps of
Hitler's Germany, the gulag of Stalin's Russia and the horrors of
the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty young man
is the dark prophet of the 20th century's false gods.
Time: The 100 most influential
people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất chưa
hề sống.
Note:
Bài điểm thần sầu. Mít mũi tẹt khó
mà viết nổi những bài như vầy, lý
do là, viết như kít, cả 1 đám băng đảng
xúm lại hít hà rùi!
Hà,
hà!
GCC đọc Tội Ác đúng thời mới lớn,
quen BHD, khi chờ Em, trong 1 quán cà phê
túi của Sài Gòn, cùng những
tác giả của thời mới lớn như Sartre, với Buồn Nôn, Camus với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và
những tác giả Mác xít như Henri Lefebvre, Lukacs..
Cùng với những cuộc phiêu
lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn
trở thành một sân khấu cho tôi đóng
vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố
thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng
nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu
thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc
bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu,
một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm
lại loài người.
*
Từ
Inferno, Hỏa Ngục, của Dante, nơi địa
ngục xem ra thú vị hơn nhiều, một cái “deal”
- tạm dịch từ này, theo 1 nghĩa tiếng Tây, dễ hiểu
hơn so với tiếng Anh, một “áp phe” tốt, so với thiên
đàng, tới Thiên Đàng
Đã Mất của Milton, nơi quỉ Satan có được những
dòng tuyệt cú mèo, tới Othello của
Shakespeare, nơi những mưu đồ của Iago xem ra bảnh [compelling:
ép buộc] hơn so với đạo hạnh của Othello, những nhà
văn đã học được cái bí mật đen thui của giả
tưởng: Cái Ác mới là bố chó xồm, chứ
không phải Cái Tốt! [Cái dáng vẻ của
cái ác, đẹp hơn nhiều, so với bộ dạng tầm phào,
nhà quê, cù lần của…. GCC, ấy chết xin lỗi, của cái tốt của con
người]. Tuy nhiên, trong
Tội Ác và Hình Phạt,
của Dos, tác giả nháng 1 phát, qua hai cú
giết người, mụ già cầm đồ và cô em/chị, của nhân
vật chính, và dành thì giờ triển khai
những hậu quả tâm lý của chúng.
Dos hiểu hình phạt, không
như 1 quan niệm, mà là kinh nghiệm sống
chát chúa. Vừa chập choạng vào đời,
mê tư tưởng cấp tiến, bèn bị mã tà,
lính kín, của nhà nước tóm, cùng
với chừng một tá bạn bè cũng không tưởng
như anh ta, khi cả đám dám tra vấn, hỏi tội chế độ
Nga Hoàng Ni Cô La Đệ Nhất, và trải qua 1 cuộc
tra tấn tâm lý: anh bị kết tội phản bội, bị án tử,
bị buộc vô 1 cái cột, mắt bị bịt kín, chờ 1 viên
đạn kết thúc đời mình từ đội hành quyết, nơi
pháp trường, chỉ tới phút chót thì mới
biết, án chết được đổi thành án lưu đày
bốn năm nơi trại tù Siberia.
Những năm trong xiềng càng
làm sâu tối thêm cái nhìn
của tác giả về phận người, và tạo hứng cho ông
đẻ ra nhân vật Raskolnikov, anh chàng cựu sinh
viên nghèo mà tình yêu những
quan điểm lý tưởng vượt lên khỏi cõi đời thực
làm xàm, bát nháo, dẫn anh ta tới
chuyện biện minh cho hai cú làm thịt người, như là
để trình diễn tính ưu việt của 1 thứ cá nhân
con người như anh ta, so với hạ cấp đồng loại là toàn
thể nhân loại còn lại kia. Qua
nhân vật Raskolnikov, Dostoyevsky vẽ ra quỹ đạo ớn lạnh của
1 thứ ác, bắt đầu bằng những viễn ảnh hoành tráng
về siêu nhân, than ôi, sau cùng bèn
chấm dứt bằng những trại tử thần của 1 nước Đức của Hitler, bằng Gulag
của một nước Nga của Xì Ta Lỉn, bằng những ghê rợn của cuộc
Đại Cách Mạng Văn Hóa của một nước Tẫu của Mao Xếnh Xáng,
bằng Lò Cải Tạo của 1 Bắc Kít của Bác Hát.
Anh chàng trẻ tuổi tội lỗi này đúng là 1
nhà tiên tri u ám của những vị thần dởm của thế
kỷ 20.
Sài Gòn Ngày Nào
Của Gấu
Lần
Gấu “sống sót” hai trái mìn VC
(hai, chứ không phải một), một đồng nghiệp làm
Bưu Điện [Mười Mưu], biểu Gấu, anh như vậy là khó
chết lắm!
Primo
Levi, cũng “bị” 1 ông bạn gật gù, ông
phải “thế nào”, thì mới sống sót Lò
Thiêu. Cáu quá, Primo Levi bèn
tự làm thịt cái mạng mình, hà hà!
Sống
sót hai trái mìn VC ở nhà
hàng nổi Mỹ Cảnh, ở bờ sông Xề Gòn,
chưa ghê bằng sống sót Cô Ba. Gấu Cái
mà còn phải ngạc nhiên, mi bảnh thật, làm
thất vọng đám bạn quí của mi, ta thú quá!
Lần
về lại Xề Gòn, Gấu có ghé thăm
Mười Mưu, nhà ở chung cư Bưu Điện, đường Đinh Tiên
Hoàng, Đa Kao, anh mừng quá, và xin lỗi,
về cái lần gặp Gấu ngồi viết mướn ở Bưu Điện, đúng
lúc đói cơm đen, ngáp lên ngáp
xuống, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng, “lần đó,
thú thực muốn giúi vô tay anh tí tiền
đi làm 1 mũi, nhưng gửi cái điện xin tiền người bà
con ở nước ngoài xong, chẳng còn đồng nào!”
Sài Gòn Ngày Nào
Của Gấu
Những con phố sau của
Hà Nội
Nhà trại thui thủi, chẳng
cần Gấu
Và con chó già
của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi,
hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không
có thể về nhà được nữa.
Gấu thì yêu
đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá
cà chớn này.
Nó thì mới dơ dáy,
bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến
những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày
nào
Và những âm thanh
của con phố làm tim Gấu đau nhói.
Quá nửa đêm,
Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó
cho đỡ khổ
Và cái mà
Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán
rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.
Ồn, dơ, say, và,
xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà
Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho
Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng
khi nghe đọc thơ của Gấu
Tim Gấu đập, mỗi lúc
một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên
say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi,
đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở
về nhà được nữa.”
Nhà trại thui
thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già
của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi,
hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có
thể về nhà được nữa.
THE BACK
STREETS OF MOSCOW
Buzzati
and Kafka (3): Drogo hears the news that a battalion of
Tartars may at last be approaching the Fort. Feeling too weak
to fight, he tells himself that the news will prove mistaken.
"He hoped that he might not see anything at all, that the road
would be deserted, that there would be no sign of life. That was what
Drogo hoped for after wasting his entire life waiting for the
enemy."
Drogo nghe tin mấy chục binh đoàn
Rợ Tác Ta ở ngay bên ngoài thành
Xề Gòn. Sẽ có Biển Máu!
Nhưng chàng quá già,
[tay thì bị gẫy vì mìn VC], thành
ra bèn hi vọng, tin dởm. Làm đếch gì
có chuyện đó!
Đó là điều Drogo
hi vọng, sau khi mất tiêu cả cuộc đời, chờ đợi một
kẻ thù đếch có!
I [Manguel]
loved someone who died. The last time I was with him, death
made him look as if he had woken up in the past, magically
young, as he had once been when he was without experience of the
world, and happy because he knew that everything was still possible.
Tớ yêu
một kẻ đang chết. Lần chót tớ ở bên, cái chết làm
cho kẻ đó như sống lại từ quá khứ, trẻ thơ một cách
thật diệu kỳ, như chưa từng có một tí kinh
nghiệm gì từ thế giới, và hạnh phúc,
vì hắn ta biết, mọi chuyện thì vẫn có thể.
Bientôt,
je serai tout le monde. Je serai mort. Borges.
Chẳng bao lâu đâu,
ta sẽ là cả thế giới. Ta sẽ ngỏm.
The Palestinian
poet Mahmoud Darwish: "I am myself alone an entire generation."
Ta, chỉ mình ta, là
trọn cả một thế hệ.
FB cả tuần này không vô
được. Đành post hình cũ. Tờ Playboy số
mới, có mấy cái hình tuyệt lắm.
Tiệm báo Tẩy đóng
cửa, no more Magazine Littéraire. Số chót,
số mùa hè, số đặc biệt, giới thiệu 30 nhà
văn cổ điển “để suy tư thế giới”, pour penser le monde. Có
Borges, và câu tiên tri khủng khiếp, l’oracle
du big data: Tin Văn – le web, tất nhiên - sẽ
là La Babel của Borges.
Ui chao, 20 năm trước đây,
Gấu đã ngửi ra điều này. Vậy mà
có lũ viết như kít, cứ đổ tội cho net làm
chết văn chương.
Theo GCC, với net, ý
nghĩa của từ “lưu vong” phải đặt lại. Cũng là
điều Gấu nhận ra, khi đề nghị Thảo Trường đưa hết tác
phẩm của anh lên Tin Văn, thay vì tìm cách
xb ở trong nước.
Một khi bạn tìm cách
lạy lục Vẹm in sách, là bạn làm
nhục bao nhiêu con người đã chết. (1)
Bài về Levi-Strauss
cũng quá tuyệt. Tin Văn sẽ đi bài này:
Lévi-Strauss nhìn thấy trong hồi giáo,
islam, một mâu thuẫn trước lịch sử, ý chí,
ao ước tạo dựng một truyền thống, khi dựa vào sự huỷ diệt
của những gì có trước nó.
Bài của Pierre Assouline.
Tay này, nhớ NL có thời mê lắm!
Vô phương vô FB, cả ở PC
lẫn Ipad, Ipod.
Thèm khoe hàng Playboy
quá, hà, hà!
Bữa trước còn đọc được, ở Ipad,
thấy có bài của KT, viết về truyện ngắn Dọc
Đường, của TTT, và Người cho biết, có thời mê
quá, và nó làm Người nhớ tới
Trong Khi Chờ Godot của Beckett.
Theo GCC, DĐ là truyện Làng
Kế Bên của Kafka, được viết cho... Xứ Mít.
Đây là truyện ngắn được
chính TTT chọn, như yêu cầu của nhà xb
Sóng của Nguyễn Đông Ngạc, khi làm cuốn
Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương
Chúng Ta, tức quê hương Ngụy, mà Vẹm
chiếm mất, thay bằng Thiên Đường Xạo Hết Chỗ Nói.
Cuối Đường
Thanh Tâm Tuyền, qua Choé
Tiếp tục chủ đề Năm Mươi Năm Di Cư,
Lưu Vong [1954-2004], bắt đầu từ số trước, số này Khởi
Hành cho đăng một trong những truyện ngắn tiêu biểu
của giai đoạn trên.
Cuối Đường, truyện ngắn Thanh Tâm Tuyền,
đăng lần đầu trên Sáng Tạo số 25, đặc biệt về
Hà Nội, phát hành tại Sài Gòn,
Tháng Mười, 1958, cũng là số đặc biệt kỷ niệm đệ
nhị chu niên của ST.
[Trích Lời Tòa Soạn, báo
Khởi Hành do Viên Linh chủ trương].
Trên Tin Văn, sẽ tiếp tục giới thiệu,
một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Thanh Tâm
Tuyền, do chính tác giả tuyển chọn để đăng trong
Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta [Nhà
xb Sóng, Sài Gòn, do Nguyễn Đông Ngạc
chủ trương,1973] (1): Dọc Đường.
(1) Nhan đề thực sự của cuốn sách, khiêm
tốn hơn nhiều: Hai mươi năm văn học miền nam 1954-1973.
Thanh Tâm Tuyền
Tên thật Dzư Văn Tâm, sinh ngày
13.3. 1936 tại Vinh [Ông quê Hà Đông.
Vinh là nơi ông cụ thân sinh của ông
làm việc. NQT]. Bắt đầu dậy học tại trường Minh Tân,
Hà Đông [1952], và đăng những truyện ngắn đầu
tay trên tuần báo Thanh Niên [Hà Nội].
1954, hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội, cùng
Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ chủ trương nguyệt
san Lửa Việt. 1965, cùng các bạn làm tuần báo
Dân Chủ, tuần báo Người Việt. 1956-1960, cùng
một số bạn thực hiện nguyệt san Sáng Tạo. Nhập ngũ năm 1962,
giải ngũ năm 1966, tái ngũ năm 1968.
Các tác phẩm chính:
Thơ: Tôi không còn cô
độc - Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy.
Kịch: Ba Chị Em.
Truyện ngắn: Khuôn Mặt - Dọc Đường.
Truyện dài: Bếp Lửa - Cát Lầy
- Mù Khơi - Tiếng Động
[Nhà xb Sóng]
Quan niệm về truyện ngắn [Trả lời nhà
xb Sóng]: Truyện ngắn là truyện không thể
nào viết dài.
Dọc Đường
Bạn có thể coi Dọc Đường
là truyện kế tiếp Trước Pháp
Luật, cũng được.
Anh nhà quê tới trước Pháp
Luật, xin vô coi chơi, anh lính gác phán,
lát nữa, tí nữa, và lát nữa, tí
nữa, là cả cuộc đời, và trước khi chết, bèn
thều thào, sao chỉ có mình tao muốn vô
coi chơi, và anh lính gác bèn trả
lời, cửa này, mở cho ngươi, ta đứng đây, cũng chỉ vì
người, bi giờ mi sắp chết rồi, ta bèn đóng cửa lại,
nhiệm vụ của ta xong rồi…
Cả 1 dòng văn học hiện sinh, có
thể nói như thế, mở ra bằng Trước Pháp Luật,
bằng “hoàn cảnh giới hạn”, sinh lão bịnh tử,
và chết vẫn chưa vô được nước Chúa, và
bằng vấn nạn “lưu đày và quê nhà”,
qua “người đàn bà ngoại tình", sống kiếp này,
mơ mòng kiếp khác, cái gì gì,
đêm đêm, khi thằng chồng, đám con cái
đã ngon giấc, thì bèn thả những cánh
hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, và
bèn hồi hộp chờ tiếng vọng của 1 thời đã xưa, đã
cũ, từ cái ngăn kéo đã tưởng đã đóng
lại vĩnh viễn, của 1 thời còn con gái,
‘chú viết như vậy
không được kín đáo’, mi
viết như thế là không được, mi viết như thế làm
chồng ta nghỉ chơi với ta!
Hà, hà!
Nhưng hình ảnh
anh chàng nhà quê tới lầm thiên
đường, "không phải chỗ này, chú ơi", bị tất
cả mọi người, không nơi nào dám chứa, thì
đúng là của 1 anh Mít, vượt biển, tìm
cái sống trong cái chết, không nước nào
dám chứa!
GCC đã từng viết về nó,
và vinh danh nó, bằng câu của Walter
Benjamin, lịch sử rã ra bằng hình ảnh, không
phải bằng tự sự. Những hình ảnh, như anh chàng
nhà quê khư khư với cái bọc quần áo,
in lên nền trời mỗi lần hoả châu rực sáng,
hay mấy nấm mồ nơi trại tị nạn, trấn ngự cả 1 cõi biển
đằng sau nó, là lịch sử xứ Mít, sau cơn mất
nước về tay Vẹm.
Trước khi thấy biển
tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục
ngôi mộ của người tị nạn. Đứng phía sau nhà,
vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn thấy dãy
nhà phía dưới.
May 21, 2011 by Ai Trần
Pleiku – Chút Gì Để Nhớ
Tập truyện
Dọc Đường, nếu Gấu nhớ không lầm, được giải Nobel văn
học của ông Diệm?
Khi chọn nó, cho cuốn sách
của NDN, Những Truyện Ngắn Hay Nhất... không hiểu
ông có "mơ hồ mường tượng", hình ảnh anh
nhà quê sau này, là hình ảnh
1 tên Mít vượt biển, bị thế giới từ chối?
Cũng thế, là hình ảnh anh
chàng Kiệt, trong MCNK, bỏ chạy thoát cuộc chiến,
chỉ để bò về, chỉ để kịp chết, vì nó?
Rồi cái đứa con nít, Bắc
Kít, sống ở Sài Gòn, về lại Hà
Nội, trong Cuối Đường, chỉ để kịp sống, có mặt, trong cuộc
"đi hay ở đều là những chọn lựa nguy hiểm, là chia
lìa, là cái chết", của biến cố 1954? (1)
(1)
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/lhk_ttt.html
Kinh nghiệm văn chương của ông
trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 tới 1975?
Ngoài thơ ra, tôi trải
qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm
văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không
khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là
những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.
Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một
nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân
dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã
hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi
trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn
là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi,
Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là
chấp nhận giữa vô thường và chút hơi ấm của nỗi chết Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra.
Vào năm 1974 một người bạn ở
hải ngoại hỏi tôi: "Tại sao xuống núi ?" (nghĩa
là tại sao phơi đời mình ra giữa những biến động?
), tôi đã trả lời:
... Tôi nhớ là
chẳng nhớ gì
như cây kia trút lá
mùa già
như khúc củi nặng nề trôi theo
giòng nước xuống tới đồng bằng
Khi KT làm tờ Hợp Lưu, là
đúng ý Vẹm. Chúng cần 1 tờ báo
như thế. Cũng như tờ Trăm Con. Nghe nói, Vẹm có góp
vốn cho HL, qua danh sách mua dài hạn, là những
tên ngày nào phản chiến.
Theo GCC, có lẽ KT, còn sống,
nên nói rõ ra, về vụ này. Chết
rồi, chẳng ai rõ thực hư.
Hồi làm công, là tên
viết mướn cho Văn Học, Gấu nghe qua ông chủ, có
vụ này.
Vẫn theo NMG, không chỉ Vẹm góp
vốn, mà còn có cả Xịa nữa!
Lần qua Cali, gặp Lê Bi, có
cả Hoàng Khởi Phong, cùng ngồi ăn phở, Gấu có
hỏi về vụ này, Lê Bi cho biết, làm gì
có!
Làm sao TTT lại tiên tri
ra được 1 anh chàng nhà quê, với bọc quần áo,
đứng thu lu bên cái lu nước, như là anh Mít
vượt biển sau này?
Còn anh chàng Kiệt, được Ngụy
cho đi du học, bò về để chết, do ăn đạn của 1 tên
sĩ quan Ngụy đồng đội, vì tưởng lầm là VC, thì
"làm gì có", nhưng dùng 1 hình
ảnh như thế, để kết thúc cuộc chiến chó đẻ, thì
quá tuyệt vời, sau những Đêm Giữa Ban Ngày,
Bên Thắng Nhục…
Cũng thế, là nhạc sến, trở thành
1 sự trả thù ngọt ngào của một miền đất, như cái
chết của Kiệt.
Cái sự chê bai nhạc sến như đang
xẩy ra, là do nhiều lý do, và 1 trong
đó, là thứ nhạc sến như hiện nay, được Vẹm cho
hát, nhưng thiến bỏ những bản nhạc thần sầu nhất của nó,
trong đó cưu mang giấc mộng thanh bình của Miền Nam, rồi.
Thứ đang được hát, là để dành cho thứ ca sĩ đực
không ra đực, cái chẳng ra cái.
Khác xa thứ nhạc sến mà lũ
Ngụy mang theo, để hát trong nhà tù VC.
Gấu đã có lần lèm
bèm về mấy câu trong bài Rừng Lá Thấp,
của Trần Thiện Thanh.
Trong khói súng xây thành.
Mắt quầng thâm mất ngủ.
Sao không hát cho những bà
mẹ già từng đêm nhớ con xa
Sao không hát cho những người vừa
nằm xuống chiều qua.
Chẳng thua gì Kinh Cầu của Akhmatova:
Không phải tôi cầu nguyện chỉ cho
tôi,
Nhưng còn cho những người đứng trước và
sau tôi
Vào một ngày đông giá
băng
hay một ngày nóng tháng
Bẩy
Trước bức tường Hoả Lò chói chang
làm mù mắt
Not only for myself do I pray,
But for those who stood in front and behind me,
In the bitter cold, on a hot July day
Under the red wall that stared blindly
Kinh Cầu: Lời Cuối
Đâu chỉ Rừng Lá Thấp?
Trong bất cứ 1 bản nhạc sến nào mà không
bàng bạc, hoặc bộc lộ, cái niềm ao ước “rồi mai dứt
chiến tranh, gió dâng khúc nhạc thanh bình”?
Lũ Vẹm làm thịt sạch, chỉ cho hát
thứ nhạc sến nhơ bẩn, mà ngay cả trước 1975, gọi là
nhạc máy nước!
[Ngay cả tên ca sĩ lại cái
Mr. Đàm mà còn nhận ra, thứ nhạc Bolero,
thứ thiệt, tôi và Lệ Quyên không hát
được, nhớ đại khái!]
Nhưng bạn phải đi tù VC, thì
mới hiểu nhạc sến, đúng cái thứ mà chỉ có
nó để mang theo cùng với mình, như Brodsky
viết về thơ của Akhmatova, và nó đúng là
cái hồn của Miền Nam như GCC đã từng vinh danh (1)
(1)
http://www.tanvien.net/Blog_Tin_Van/10.html
Cháu đọc entry của
bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn
là "SG mùa này thì cứ triền miên
buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng
mà quả thực là không biết nói gì
thêm, hihi :D.
Hôm nào cháu viết tặng bác
1 entry nhé, vì cháu rất thích cái
nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền
Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
CM, Yahoo Blog
Nhà thơ Joseph Brodsky đã viết về
Kinh Cầu: "Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ
có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng
cách nhét chặt nó vào một cái
gì mà nhân loại có thể nâng niu,
hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái
đầu chịu thua không thể nắm bắt được. Theo nghĩa đó, cả
thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
Lũ Ngụy, đi tù VC, hành lý
mang theo, chỉ có nhạc sến, là vậy: Chỉ có
nó, để chơi ngang ngửa với thực tại!
Bạn phải sống ở Trại Tù VC, thì mới
hiểu được cái sự "để chơi ngang ngửa với" thực tại - Cái
Ác VC, Cái Ác Bắc Kít - của 1 buổi
chơi nhạc vàng.
Gấu đã từng viết tí tí, theo
kiểu nhỏ giọt về nó, thí dụ như lần được nghe Ngày
Mai Đi Nhận Xác Chồng, hay Thuyền Viễn Xứ ở Trại Tù
Đỗ Hòa....
http://www.tanvien.net/Ghi/nhac_pd_tu_vc.html
Nhạc PD, Tù VC
Kỷ niệm những lần nghe nhạc PD ở
nông trường cải tạo Đỗ Hoà của Gấu thật tuyệt vời, và
sau này, mỗi lần nhớ lại, là Gấu lại càng hiểu ra câu
thơ của Lý Thương Ẩn, nói về cái duyên hạnh ngộ
ở trên đời, và đem áp dụng vào mấy trường hợp
trên mới thật là tuyệt cú mèo:
Gặp nhau đã khó, xa
nhau lại càng khó.
Trước hết, hãy nói về cái chuyện
gặp nhau đã khó. Ứng dụng vô trường hợp
của Gấu: Không dễ gì mà được nghe nhạc Phạm
Duy ở trong tù.
Cái sự sửa soạn để được nghe,
là có "ý trời" ở trong đó!
Lần nghe bản Thuyền Viễn Xứ, do một tay trại
viên độc tấu Tây Ban Cầm, nó nhiêu khê
lắm. Không có ông Trời sắp xếp là trớt
qướt!
Lúc đó là thời gian Gấu đã
mua được cái chức Y Tế Đội, không còn ăn ngủ
tại lán trại viên, mà là được đưa lên…
Đội. Chỉ ở trên Bộ Chỉ Huy của Đội, thì mới có
cây Tây Ban Cầm dành cho những buổi sinh hoạt Đội.
Gấu tuy không biết đàn TBC, nhưng có thể sử dụng
nó như là một cây măng đô lin, bấm nốt tỉ tì
ti, thì dư sức.
Thế là, buổi tối hôm đó, khi
đi từng lán ghi tên trại viên khai bịnh, ngày
mai cho nghỉ lao động đưa qua bệnh xá, xin vài viên
Xuyên Tâm Liên, bèn xách cây
đàn đi theo. Tới một lán, gặp tiệc trà, dựng
cây đàn kế bên, nhập cuộc. Trong đám ngồi
dự tiệc trà, có một tay, trong lúc hứng quá,
bèn cầm cây đàn lên.
*
Nói Thuyền
Viễn Xứ được sáng tác cho những
thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn
dặm, thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó
còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong
nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo,
tinh thần thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì cứ nói
đại, cho dù chính tác giả của nó cũng chẳng
thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù VC đâu,
thính giả đích thực của bản nhạc Thuyền Viễn Xứ,
là đám tù cải tạo.
Nói, "nó còn nhắm tới", có
lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng
không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền năng huyền bí của
âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích
dẫn Lévi-Strauss, sự phát minh ra giai điệu là
một "bí mật tối thượng".
Gấu, tên tù cải tạo, vào lúc
không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên
'quê hương' xuất hiện, không phải như là một
'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về khổ đau" (1), mà
như một món quà tặng thật là tuyệt vời.
"Ở nơi đó, cũng vậy, giữa
những ống khói, trong những quãng ngừng của khổ đau,
có một cái gì giống như là hạnh phúc....
Vâng, đúng là nó đấy, hạnh phúc
ở trại tập trung, điều mà tôi sẽ nói tới sau này,
khi có người hỏi. Thì cứ giả dụ như sẽ có người
hỏi. Thì cứ giả dụ như chẳng bao giờ tôi quên nổi,
hạnh phúc."
Kertesz
(1) Con người là tổng số những kinh nghiệm
về thời tiết.
Con người là tổng số những kinh nghiệm về
khổ đau. W. Faulkner
*
Buổi tối, lần Gấu nghe tay bạn tù cải tạo
chơi ghi ta bản Thuyền Viễn Xứ, và
miệng lẩm bẩm hát theo, thật là tuyệt vời.
Tuyệt vời và Ngỡ ngàng.
Thứ nhất, Gấu không hề nghĩ rằng, tay này
biết chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm
vô cái đàn ghi ta của cấm đó, anh chàng
lại chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi
tận đáy lòng mình, tưởng đã quên
nó rồi, lôi ra và tấu nó lên,
ở giữa khoảng trời đất mênh mông là trại cải tạo
thuộc đặc khu Rừng Sát ngày nào, ngoài kia
là trùng trùng lớp lớp rừng tràm rừng
đước, là trùng trùng lớp lớp mồ hôi, sức
tù đổ xuống, và trên trời kia, là trăng
sáng đang đổ xuống....
Đúng ra phải nói, anh ta moi bản nhạc
từ đáy sông Đà, con sông khốn kiếp ám
ảnh hoài thằng Gấu xứ
Đoài mây trắng lắm, bỏ chạy nó, và bị
nó hành, mỗi khi trái nắng trở trời, mỗi khi
đời sống sang mùa, hệ thống tự bảo vệ của cơ thể oải theo, thế
là con 'vai rớt' Bắc Kỳ làm ngụy!
Sư phụ Faulkner chẳng đã từng phán:
Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
Như lính
giữa rừng
Vâng,
cũng những bài xưa cũ đó, buổi tối tại một nhà
hàng, đám chúng tôi ngồi nghe chị NG. Cô
Tơ đã chết rồi, bây giờ những bài hát
không làm sống lại quá khứ nhưng rửa sạch quá
khứ, đem lại công bình cho những người đã chết.
"Như lính giữa rừng yêu lá thấp
mà thôi...".
KT, như GCC được biết, 1 anh binh nhì,
không biết có thuộc thành phần trốn lính
bị bắt, hay không, nhưng chắc chắn, do bằng cấp chẳng có
gì, ở 1 nấc thang chót như thế trong quân đội, bị
đám sĩ quan, hạ sĩ quan đì tới chỉ, là cái
chắc. Ra hải ngoại vẫn còn bị đì, bởi lũ Chống Cộng Điên
Cuồng. Anh làm tờ HL hẳn là trong tâm trạng đó,
thay vì 1 lý tưởng cái con mẹ gì. Nhưng lũ
Vẹm ở trong nước, và đám hải ngoại Miền Nam trốn lính
ngày nào, tức đám du học nhờ bằng cấp, mừng quá,
“thằng ngu, thằng khờ có ích”, đúng như Xì
gọi, bèn sướng điên lên, ca ngợi rối rít.
Tầm nhìn quá hạn hẹp, tình trạng nước
Mít thê thảm như hiện nay, có công lao
của những người như KT. Đó là sự thực.
Thê thảm nhất, với những người như KT, là
họ không có cái tình yêu sâu
thẳm, và cùng với nó, là lòng biết
ơn, của 1 tên Bắc Kít, được Miền Nam giơ tay rộng mở,
chào đón họ. Chúng chưa từng nói ra 1 lời
về cái miền đất cưu mang chúng. Thù Ngụy, mê
VC, mê Miền Bắc, làm chúng trở thành những
tên vô cảm, vô ơn!
NTV mastermind của tờ Trăm Con, cũng chẳng khác.
Đã từng bị mật vụ Diệm tẩn, vì không đứng dậy
chào cờ, trong 1 lần đi coi ciné,
Đệ tử Ông Đạo Dừa do trốn lính. Bị bắt, bị
đúng em trai TTT, là bạn C của GCC, tống đi lao công
chiến trường, khi anh làm ở Nha Quân Pháp. Một đấng
như thế nhìn về xứ Bắc Kít, như là Đất Hứa, là
đúng rồi, đâu có khác gì 1 ông
Chánh Tổng An Nam, hay Người Của Chúng Ta, ở Paris!
Trong khi TTT, thí dụ, ngay từ ngày đầu cuộc
chiến, từ những ngày 1954, qua cuốn Bếp Lửa, hay qua Tôi
không còn cô độc, đã nhìn ra chân
tướng Vẹm. Khi Đại, anh sinh viên trốn lính mơ lên
rừng theo VC, suốt ngày ôm cuốn Tội Ác và
Hình Phạt của Dos, phán, chúng [chủ nghĩa CS]
cho đến giờ này vẫn còn đúng, Tâm bèn
xửng cồ vặc lại, ra ngoài đó, tức lên
rừng phò VC, thì cũng là 1 thứ đánh
đĩ!
Hay, “Chúng nó làm CS, chúng
ta làm tù nhân” [Tôi không còn
cô độc].
Ông nhìn ra rất rõ số phận của lũ Ngụy,
khác hẳn những KT, NTV.
GCC chẳng hề thích VC, và cũng sợ chết như
bất cứ 1 tên nào khác, nhưng chấp nhận số phận
1 cá nhân, đi lính, ừ, thì đi lính,
như bất cứ 1 cá nhân bình thường chọn cái
chế độ mà mình theo nó, ngay từ lúc xuống
tầu há mồm.
Đọc Marx, để cố hiểu ra ý nghĩa của cuộc chiến,
nhưng đếch mê, có thể nói như vậy.
Sự chọn lựa của GCC có phần nào giống Grass,
khi ông chọn làm 1 tên vần đá lên
núi của Camus, thay vì Sartre.
Cuốn Bếp Lửa, mà Tin Văn post, là bản copy,
từ cuốn Bếp Lửa của KT, lần qua Cali, lần đầu, 1998, ghé nhà
anh. Anh mua sẵn 1 cái nệm, dành cho vợ chồng GCC, nhưng
Khế Iêm, Trùm tờ Thơ, giáo chủ Tân Hình
Thức, đã tìm được chỗ ở cho tụi này, là
nhà mobile home, của Lê Giang Trần. Qua đêm đầu ở
đó, hôm sau, NMG đón về nhà anh. Nhờ vậy quen
băng Văn Học, với những đấng thật thân tình như Trúc
Chi, Tạ Chí Đại Trường.
Thú nhất, là quen Vũ Huy Quang, cũng trong
lần "một chuyến đi" này.
Anh rất sợ Gấu lân la với đám Chống Cộng,
điên cuồng hay không điên cuồng!
Un triste tropisme
pour Lévi-Strauss
Dans Tristes Tropiques, l'ethnologue
formulait sans fard son « antipathie » à
l’égard de la confession musulmane, selon lui fondamentalement
repliée sur elle-même.
Ce passage provocateur mêle
observations inattendues et mauvaise foi.
Par Pierre Assouline
Des textes classiques pour éclairer
notre lecture actuelle de l'islam, il n'en manque pas.
Privilegier le grand livre de Claude Lévi-Strauss
pour en isoler quelques pages, ce n'est pas seulement surprenant
car inattendu : c'est aussi passer pour provocateur, surtout un
demi-siècle après sa publication, à une époque
rongée par le principe de précaution, la bien-pensance
et le politiquement correct. Ces fameux passages ne sont pas inconnus,
mais méconnus. Régulièrement évoqués,
rarement commentés. On sent comme une gêne chez ses
admirateurs. Bien qu'il fut totem, il n'est pas devenu tabou. L'intellectuel
à maintes fois été dénoncé pour
son antihumanisme alors qu'il voulait fonder les droits de l'homme
en ne privilégiant pas l’espèce humaine par rapport aux
autres espèces vivantes, animales, végétales,
Le débat dure encore. Mais ses vues sur l'islam, non, franchement,
passons ... Lisons plutôt (Voir l’extrait pages suivantes.)
Directeur d'études
à l'École pratique des hautes éutdes
à la V(e) section dite des sciences religieuses, il
avait passé quelques mois en 1950 à voyager en
Inde du Nord puis à enquêter au Pakistan pour une mission
de l'Unesco sur l’état des sciences sociales dans le pays.
Il écrivit Tristes Tropiques en 1954 et 1955 à
l'invitation de Jean Malaurie, qui lance alors chez PIon une collection
appelée à devenir fameuse, « Terre humaine
». Un récit rédigé sans precaution
par sauts et gambades, recomposant son experience avec le recul
des ans, mais sans réprimer ses impulsions. Il est le vrai
Levi-Strauss voit dans l'islam
une contradiction face à l'histoire, la volonté
de fonder une tradition en s'appuyant sur la destruction
de ce celle qui l'ont précedée.
qu'il venait d'essuyer deux fois
de suite un cuisant échec à l’élection
au College de France après avoir été
invité à se presenter à la chaire de sociologie
comparée.
Le succès fut immense.
Tristes Tropiques est à ce jour le plus célébre
et le plus traduit de ses livres - et son incipit assuré
de demeurer longtemps dans l'anthologie des meilleures attaques
: « Je hais les voyages et les explorateurs.» À
l'origine, l'ethnologue avait pensé cet ensemble de reflexions
retour du terrain moins comme un texte scientifique que comme
une sorte de roman; l'Academie Goncourt ne s'y était pas
trompee, qui publia un communiqué exprimant le grand enthousiasme
de son jury, notamment Pierre Mac Orlan, qui s'y retrouva (et
pour cause: ses propres livres avaient passionné le jeune
Levi-Strauss), et regrettant de ne pouvoir couronner un texte qui
ne fut pas vraiment une oeuvre de fiction. Inevitablement, le compliment
avait un revers: des portes se fermerent dans la sphère
savante, des maitres et des collègues lui tournerent le dos.
Impressionné par la ferveur
de la prière
Indifférent au sentiment
religieux, à cette inquiétude-là
et à tout rapport avec un Dieu personnel, Lévi-Strauss
n'en a pas moins etudié et enseigné l'histoire
des religions; toute son oeuvre en temoigne tant elle est traversée
par la notion de religieux, notamment, il est vrai, chez les
peuples sans écriture. Son approche du fait religieux
est anthropologique et structurale au sein d'un système
de communication entre groupes et individus. Ce qui le tourmente
et le déconcerte dans l'islam, ce sont ses contradictions
face à l'histoire : sa volonté de fonder une
tradition qui s'appuie sur la destruction de celles qui l'ont précédée.
Au chapitre XV, il se dit impressionné par la manière
dont les musulmans se font leur place dans le cosmos, comment
ils s'inscrivent dans l'espace : un minuscule tapis de priere leur
suffit à s'isoler de la rumeur du monde, à s'en abstraire
pour rejoindre ce qui est plus grand qu'eux, « Pour pouvoir
résister, il faut un lien très fort, très
personnel avec le sumaturel, et c'est là que réside
peut-être un des secrets de l'islam et des autres cultes de
cette région du monde, que chacun se sente constamment en
présence de son Dieu. » Et le voyageur de rapporter son
émotion en observant un vieillard prier seul sur une plage
de l'ocean Indien au coucher du soleil après s'être
fabriqué son univers avec deux chaises de guingois. Pourtant,
vers la fin du livre, dans le fameux chapitre XXXIX qui fait tant problème,
il voit l'islam comme une religion si naturellement collective et
communautaire qu'elle éprouvera toujours des difficultés
à penser la solitude.
Pas le moindre regret
Quand il y reviendra plus tard dans
une lettre à Raymond Aron, il reconnaitra : «
Les brefs contacts que j' ai eus avec le monde arabe m'ont inspire
une indéracinable antipathie. » Dans ses dernières
années, au cours d'un long entretien avec Didier Eribon
(1988), il dira n'avoir pas « accroché » au
cours de ses quelques mois passés dans les pays musulmans,
faisant observer qu'il s'était « confessé »
à ce sujet dans Tristes Tropiques
mais n'exprimant pas le moindre regret. Y revenant avec le même
interlocuteur en 2002, il enfonca le clou: « J'ai dit dans Tristes
Tropiques ce que je pensais de l'islam. Bien que dans une langue
plus chatiée, ce n'était pas tellement eloigné
de ce pour quoi on fait aujourd'hui un procès à Houellebecq.
Un tel procès aurait était inconcevable il y a un
demi-siède: ca ne serait venu à l'esprit de personne.
» Et lorsque Didier Eribon se demande et lui demande ce qui
a bien pu changer, il répond sans hésiter : «
Nous sommes contaminés par l'intolerance
islamique. Il en va de même
avec l'idée actuelle qu'il faudrait introduire l'enseignement
de l'histoire des religions à l'école. J'ai lu que l'on
avait chargé Regis Debray d'une mission sur cette question.
Là encore, cela me semble être une concession faite à
l'islam : à l'idée que la religion doit pénétrer
en dehors de son domaine. Il me semble au contraire que la laicité
pure et dure avait très bien marché jusqu'ici. »
Depuis, lorsque la question revient, il est toujours des voix pour s'étonner
que, tout Levi-Strauss qu'il fut, nul n'ose le taxer d'islamophobie.
Et qu'importe si l'on sait bien que l'ethnologue s'interessait moins
aux hommes qu' aux croyances, coutumes, institutions, structures.
Abdelwahab Meddeb,
qui avait consacré une longue analyse à ces
pages de Tristes Tropiques sous le titre « Divagations
et lucidite » dans la revue Esprit en aout-septembre 2011,
les jugeait sévères: à ses yeux, le grand
ethnologue y faisait preuve d'autant de méconnaissance
que d'aveuglement; néanmoins, l’écrivain tunisien reconnaissait
que l'analyse du blocage de l'islam et de l'inertie historique
qui s'ensuivait, pour être sans concessions, n'en était
pas moins pertinente. De quoi suffire à la rendre actuelle
avec ses attendus, dussent-ils déranger bien des consciences.+
N° 581-582/Juillet-aout 2017. Le
Magazine littéraire - 109
Triết gia Kim Định
từ trần
Năm 1958, khi học Đệ Nhất, ban B
[Toán] tại trường Chu Văn An, tôi được học với thầy Vũ Khắc
Khoan, môn Sử. Một tuần một giờ. Cả thầy lẫn trò
đều biết, sử là môn phụ, chỉ thoáng qua ở kỳ vấn
đáp. Thầy họa hoằn ghé lớp. Và bởi vì
lớp B8 của chúng tôi ở ngay cổng trường, có
khi thầy chỉ đảo một vòng chiếc solex qua cửa lớp, nói
vội một câu, hôm nay nghỉ, rồi tà tà theo
cây vợt cầm sẵn trên tay. Những giờ học thật họa hoằn
thì cũng không phải để học, để bàn, về sử,
mà về kịch, hoặc về một câu mà thầy đang tâm
đắc, thí dụ “Chúng ta đã xuống thuyền” [Pascal,
hình như vậy].
Rồi thi đậu, ghi danh học Đại Học
Khoa Học. Đói, bỏ ngang, thi vô trường Quốc Gia Bưu
Điện vừa mới được thành lập. Ra trường. Làm công
chức Bưu Điện. “Đành” ghi danh học Văn Khoa, theo kiểu
hàm thụ, chứng chỉ Dự Bị Triết, với những ông
thầy như Kim Định, Lê Tôn Nghiêm… Nhờ bạn
bè lấy bài học [cours] giùm. Chẳng bao
giờ tới lớp. Cho đến bây giờ tôi không hề biết
mặt thầy Kim Định. Và như thế, sẽ chẳng bao giờ biết mặt thầy,
có chăng chỉ là tình cờ, trên mặt sách
báo. Những môn đệ như tôi, chắc là cũng
nhiều. Cũng nhiều, là những độc giả của ông. Đủ mọi
tầng lớp, tuổi tác. Còn cả, những hội đoàn chính
trị nữa, coi Việt học như là một vũ khí văn hóa
chống chủ nghĩa Cộng Sản.
Riêng với lớp
học trò như chúng tôi, Thầy đúng là
ý thức đạo đức của một thời, “thời của chúng
tôi”, những đứa trẻ hai mươi tuổi vào những
năm 1960, 1970.
*
Claude-Lévi Strauss phân
chia lịch sử ra những thời kỳ nóng, thời kỳ lạnh.
Vào những thời kỳ lạnh, có khi kéo dài
nhiều thế kỷ, nó chẳng đẻ ra được một ý thức, một
tư tưởng, một ý thức hệ, một triết lý lớn lao
nào.
“Thời của chúng tôi”
nóng. Nóng lắm. Bên trời Tây,
đó là lúc cơ cấu luận đang ở đỉnh cao,
với rất nhiều triết gia, nhiều tác phẩm:
Viết của Lacan, Chữ và Vật,
của Michel Foucault, Phê Bình
và Chân Lý của Roland Barthes,
Lý thuyết Văn chương, của
Todorov… cùng xuất hiện vào năm 1966. Năm sau 1967,
là những cuốn tiếp theo của bộ Huyền Thoại Học của
Claude-Lévi Strauss: Từ
mật ong tới tàn thuốc, Nguồn gốc
của những trò lẩm cẩm muỗng nĩa, dao kéo.. ở
bàn ăn [L’origine des manières de table],1968,
Con người trần trụi, L’Homme nu, 1971.
Nhưng Ấu châu có
ở trong đó ? Chính họ tự hỏi. Và tuổi
trẻ của Tây trả lời, bằng biến cố Tháng Năm
1968: Hãy mạnh dạn đòi hỏi những điều không
thể được, không thể đòi hỏi. Càng làm
tình bao nhiêu, càng cách mạng bấy
nhiêu.
Octavio Paz, Nobel văn chương,
có lần đưa ra một nhận xét thật độc đáo,
về biến cố Tháng Năm 1968: Văn minh Tây Phương
độc đáo ở chỗ, đã biến dục tình thành
một vũ khí chính trị.
Nhưng 1968 cũng là năm
pháo đài bay B.52 vào trận tại cuộc
chiến Việt Nam. Cùng
với 276 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ.
1965: Cuộc Đổ Bộ Normandie Á
Châu, tại bãi biển Đà Nẵng.
1968: Cú Mậu Thân.
Mồ Chôn Tập Thể Huế.
Cần phải xác định thời
của chúng tôi, Chữ Thời, bằng những sự kiện
như thế, mới nhận ra vóc dáng khổng lồ của những
bậc thầy tư tưởng Đông Phương như Kim Định, khi họ cố tìm
cho ra một giải pháp, và cùng với nó,
một thực hành, thí dụ như Cú Tháng
Năm 1968, như của nước Pháp, cho một “thời khốn khổ của chúng
tôi”.
Và nếu đúng như
Claude –Lévi Strauss khẳng định, tất cả văn hóa
đều có thể coi như là một bộ của những hệ
thống biểu tượng, thầy Lê Tôn Nghiêm, thầy
Kim Định, cho thấy, chúng ta cũng có riêng
những bộ hệ thống biểu tượng. Thầy Lê Tôn Nghiêm
đã tìm thấy một “logos của phương Đông”
trong khi đào bới những di chỉ của Khổng giáo. Thầy
Kim Định, trong Việt Lý Tố Nguyên,
Triết Lý Cái Đình.
Tất cả những
ông thầy tư tưởng, Đông hay Tây, đều
tìm một thứ đức hạnh mới. Với Lacan, là một
“đức hạnh của ước muốn” [éthique du désir], với
Foucault: “đức hạnh của sự giải phóng”, với Kinh Định,
đó là một đạo hạnh trong sự cố gắng tìm
kiếm và bảo tồn những di chỉ của một nền văn minh Việt Nam,
mà những đệ tử của ông coi đây là
hàng rào
cuối cùng chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Thầy Kim Định, chúng con
xin vĩnh biệt Thầy.
NQT
Ghi chú
của người dịch.
Kể từ
khi cuốn sách được xb vào năm 1955, nó
trở thành nổi tiếng trên thế giới dưới cái
tít Tây, thành thử - và cũng
theo lời yêu cầu của M. Lévi-Strauss – chúng
tôi giữ nguyên tên của nó. Những “Sad
Tropics”, “The Sadness of the Tropics”, “Tragic Tropics”… đều không
chuyển được ý nghĩa, và hàm ngụ của “Nhiệt
đới buồn thỉu buồn thiu”: “Tristes Tropiques”, vừa đọc lên
là đã thấy tếu tếu và thơ thơ, ironical and poetic,
bởi sự lập đi lập lại của âm đầu, bởi nhịp điệu căng thẳng
(- U U – U), bởi giả dụ về một “Hỡi ơi, Nhiệt đới buồn”, “Alas
for the Tropiques”.
Cuốn này
đã được dịch ra tiếng Việt, “Nhiệt đới buồn”.
Đúng
ra, nên dịch là Nhiệt đới buồn thiu, (1) hay
buồn hiu, thì vẫn giữ được tính tếu tếu, lẫn chất
thi ca, nhưng, có thể vì đã có cụm
từ nổi tiếng của PTH, rồi, cho nên đành bỏ chữ "thiu"
đi chăng?
Xin giới
thiệu, để tham khảo, bài viết của DMT:
Dương vật buồn thiu
Claude Lévi-Strauss,
anthropologist, born 28 November 1908; died 30 October
2009
Tristes Tropiques by Claude
Lévi-Strauss – melancholy anthropology
The Guardian đọc Nhiệt Đới Buồn
Hiu
http://www.theguardian.com/books/booksblog/2015/aug/17/tristes-tropiques-by-claude-levi-strauss-melancholy-anthropology
Theo Guardian, dịch Unhappy Tropiques,
OK
(1)
Cái chuyện THNM của Gấu,
khi đọc Borges, ra Kafka, có lẽ 1 phần là
do cái tật bẩm sinh, mắt lé (lác, như
Bắc Kít gọi).
Câu đầu tiên mà
bà chị ruột của Gấu nói, khi gặp lại đứa
em trai, bây giờ không thấy nó lác
nhiều như hồi còn bé.
Lé, Gấu nhìn Gấu
Cái ra cô phù dâu, thế là
khổ cả đời.
Nhưng, đọc Kafka, 1 độc giả
Mít, 1 tên Bắc Kít, lùn,
lé, suốt cả 1 thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn, vì
mồ côi, vì đói, vì rét,
vì ghẻ lạnh, không làm sao mà không
THNM, vì Cái Ác Bắc Kít.
Cái đoạn cuối Y sĩ đồng
quê, chẳng đúng là tình trạng
1 tên Bắc Kít, lầm tiếng kêu kíu
của 1 con bịnh Miền Nam, bèn xẻ dọc Trường Sơn, và
bèn nhờ con quỉ nơi chuồng heo lo giùm cho cô
người làm, và chuyện giường chiếu trong gia
đình ư:
Never shall I reach home at
this rate; my flourishing practice is done for; my successor
is robbing me, but in vain, for he cannot take my place; in
my house the disgusting groom is raging; Rose is his victim;
I do not want to think about it any more. Naked, exposed to the
frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly
horses, old man that I am, I wander astray: My fur coat is hanging
from the back of the gig, but I cannot reach it, and none of my limber
pack of patients lifts a finger. Betrayed! Betrayed! A false alarm
on the night bell once answered-it cannot be made good, not ever.
Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng Quê
của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê,
và tưởng tượng ra rằng thì là,
đây chính là linh hồn của một miền
đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi
tận miền nam, và, tìm đủ mọi cách để đến
bên giường người bệnh, do không có ngựa, nên
phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và
vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái,
cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và
ngửa mặt lên trời la lớn: "Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là
hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong
giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất,
với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như
tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to
the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle,
unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào
đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất
hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông
tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là,
sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự
đóng góp của mình ở trỏng, viên
tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào
cái chuồng lợn của cô con dâu, được vỗ béo
bằng những thai nhi !
Betrayed!
Betrayed! A false alarm on the night bell once answered-it
cannot be made good, not ever.
Phản bội! Phản bội! Một báo
động hoảng trong đêm, 1 khi trả lời, là
ôi thôi xứ Mít!
Cái truyện ngắn, Làng
Kế Bên, chẳng đúng là 1 cảnh báo:
Kế bên đấy, nhưng cả đời của mi, cũng không
đủ, để mà tới được!
Làng kế bên.
Nội tôi thường nói:
"Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn
lại nó, thấy đời như co rút lại, thành
thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này:
bỏ qua chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi
có thể quyết tâm rong ruổi sang làng kế bên,
mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc
như thế, cũng không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến
đi như vậy."
[My grandfather used to say:
"Life is astoundingly short. To me, looking back over
it, life seems so fore-shorthened that I scarcely understand,
for instance, how a young man can decide to ride over to the
next village without being afraid that – not to mention accidents
– even the span of a normal happy life may fall far short of time
needed for such a journey".]
Thê lương nhất, là
ngụ ngôn Tháp Babel!
Đỉnh cao thời đại của Mít,
chiến thắng 30 Tháng Tư, 1975: Tháp Babel.
Nhưng xây xong rồi, chớ
có trèo lên nhé!
Trèo lên là
bỏ mẹ!
Cái Ác Bắc Kít
xúi chúng trèo. Nhà Ngụy
chúng cướp, Ngụy, tống vô Trại Cải Tạo...
Vẩn chỉ là chuyện THNM,
chuyện hiểu lầm, chuyện báo động hoảng, nhưng vậy
là đủ điêu tàn xứ Mít!
This is a misunderstanding of
some kind; but it will be the ruin of us (1)
Kafka: An Old Manuscript
Note: Bản thảo Cũ, nhìn
1 cách nào đó, cũng là chuyện
30 Tháng Tư 1975. Post sau đây, và dịch
dọt sau:
An Old Manuscript
IT LOOKS
as if much had been neglected in our country's system of defense.
We have not concerned ourselves with it until now and have
gone about our daily work; but things that have been happening
recently begin to trouble us.
I have a
cobbler's workshop in the square that lies before the
Emperor's palace. Scarcely have I taken my shutters down,
at the first glimmer of dawn, when I see armed soldiers already
posted in the mouth of every street opening on the square.
But these soldiers are not ours, they are obviously nomads from
the North. In some way that is incomprehensible to me they have
pushed right into the capital, although it is a long way from
the frontier. At any rate, here they are; it seems that every
morning there are more of them.
As is their
nature, they camp under the open sky, for they abominate
dwelling houses. They busy themselves sharpening swords, whittling
arrows and practicing horsemanship. This peaceful square, which
was always kept so scrupulously clean, they have made literally
into a stable. We do try every now and then to run out of our shops
and clear away at least the worst of the filth, but this happens
less and less often, for the labor is in vain and brings us besides
into danger of falling under the hoofs of the wild horses or of
being crippled with lashes from the whips.
Speech with
the nomads is impossible. They do not know our language;
indeed they hardly have a language of their own. They communicate
with each other much as jackdaws do. A screeching as of jackdaws
is always in our ears. Our way of living and our institutions
they neither understand nor care to understand. And so they
are unwilling to make sense even out of our sign language. You
can gesture at them till you dislocate your jaws and your wrists
and still they will not have understood you and will never understand.
They often make grimaces; then the whites of their eyes turn up and
foam gathers on their lips, but they do not mean anything
by that, not even a threat; they do it because it is their nature
to do it. Whatever they need, they take. You cannot call it taking
by force. They grab at something and you simply stand aside and leave
them to it.
From my stock,
too, they have taken many good articles. But I cannot
complain when I see how the butcher, for instance, suffers
across the street. As soon as he brings in any meat the nomads
snatch it all from him and gobble it up. Even their horses devour
flesh; often enough a horseman and his horse are lying side by side,
both of them gnawing at the same joint, one at either end. The butcher
is nervous and does not dare to stop his deliveries of meat. We understand
that however, and subscribe money to keep him going. 'If the nomads
got no meat, who knows what they might think of doing; who knows anyhow
what they may think of, even though they get meat every day.
Not long
ago the butcher thought he might at least spare himself
the trouble of slaughtering, and so one morning he brought
along a live ox. But he will never dare to do that-again.
I lay for a whole hour flat on the floor at the back of my workshop
with my head muffled in all the clothes and rugs and pillows I had,
simply to keep from hearing the bellowing of that ox, which the
nomads were leaping on from all sides, tearing morsels out of
its living flesh with their teeth. It had been quiet for a long
time before I risked coming out; they were lying overcome round
the remains of the carcass like drunkards round a wine cask.
This was
the occasion when I fancied I actually saw the Emperor
himself at a window of the palace; usually he never enters
these outer rooms but spends all his time in the innermost garden;
yet on this occasion he was standing, or so at least it seemed
to me, at one of the windows, watching with bent head the on goings
before his residence.
"What is
going to happen?" we all ask ourselves. "How long can
we endure this burden and torment? The, Emperor's palace has
drawn the nomads here but does not know how to drive them away
again. The gate stays shut; the guards,' who used to be always
marching out and in with ceremony, keep close behind barred
windows. It is left to us artisans and tradesmen to save our country;
but we are not equal to such a task; nor have we ever claimed to
be capable of it. This is a misunderstanding of some kind; and it
will be the ruin of us."
Lopez Lecube: Borges, ông
tưởng tượng ông ngỏm ra làm sao?
[How do you imagine your
death]?
Borges: Ah, tôi cực
kỳ nóng nẩy đợi nó. Tôi được thông
báo, nó sẽ tới, nhưng tôi cảm thấy
nó đếch chịu tới, but I feel as though it won’t, rằng
tôi đếch chết, that I’m not going to die.
Spinoza phán, tất
cả chúng ta cảm thấy chúng ta bất tử, nhưng
không phải như là những cá nhân,
nhưng theo kiểu phiếm thần, in a pantheist way, theo kiểu thiên
thần, in a divine way.
Khi tôi sợ hãi,
khi sự tình không thuận lợi, tôi
bảo mình, I think to myself, Tại sao mà mình
phải lo lắng, care, cho một nhà văn Nam Mỹ, từ 1 xứ
sở đã mất như Cộng Hòa Á Căn Đình
ở vào cuối thế kỷ 20? …
Thì cũng như khởi
sự 1 chuyến phiêu lưu
Borges: Nó có
thể như thế, nhưng tôi nghĩ, không. Tôi
nghĩ, I hope, nó là tận cùng. Tôi
nghĩ đến 1 câu chuyện về 1 người trải qua trọn đời mình,
đợi chờ 1 cách may mắn, mình chết, và, anh
ta cứ tiếp tục sống, và anh ta cực kỳ thất vọng… Sau cùng,
anh ta trở nên quen với cái đời “di cảo” của mình,
đúng như là anh ta trở nên quen với kiếp
trước của mình, tếu thế!
[Eventually, however, he
gets accustomed to his posthumous life, just as he
got used to the previous one, which is invariably hard]
http://www.newyorker.com/magazine/2017/08/28/donald-trumps-true-allegiances
David Remnick
Donald Trump’s True Allegiances
Who could have predicted the President’s
latest outrage? Barack Obama and anyone, really.
Early last November, just before Election
Day, Barack Obama was driven through the crisp late-night gloom
of the outskirts of Charlotte, as he barnstormed North Carolina
on behalf of Hillary Clinton. He was in no measure serene or confident.
The polls, the “analytics,” remained in Clinton’s favor, yet Obama,
with the unique vantage point of being the first African-American
President, had watched as, night after night, immense crowds cheered
and hooted for a demagogue who had launched a business career with
blacks-need-not-apply housing developments in Queens and a political
career with a racist conspiracy theory known as birtherism. During
his speech in Charlotte that night, Obama warned that no one really
changes in the Presidency; rather, the office “magnifies” who you
already are. So if you “accept the support of Klan sympathizers before
you’re President, or you’re kind of slow in disowning it, saying,
‘Well, I don’t know,’ then that’s how you’ll be as President.”
Donald Trump’s ascent was hardly the first
sign that Americans had not uniformly regarded Obama’s election
as an inspiring chapter in the country’s fitful progress toward
equality. Newt Gingrich, the former Speaker of the House, had branded
him the “food-stamp President.” In the right-wing and white-nationalist
media, Obama was, variously, a socialist, a Muslim, the Antichrist,
a “liberal fascist,” who was assembling his own Hitler Youth. A
high-speed train from Las Vegas to Anaheim that was part of the economic-stimulus
package was a secret effort to connect the brothels of Nevada to
the innocents at Disneyland. He was, by nature, suspect. “You just
look at the body language, and there’s something going on,” Trump
said, last summer. In the meantime, beginning on the day of Obama’s
first inaugural, the Secret Service fielded an unprecedented number
of threats against the President’s person.
And so, speeding toward yet another airport
last November, Obama seemed like a weary man who harbored a
burning seed of apprehension. “We’ve seen this coming,” he said.
“Donald Trump is not an outlier; he is a culmination, a logical
conclusion of the rhetoric and tactics of the Republican Party for
the past ten, fifteen, twenty years. What surprised me was the degree
to which those tactics and rhetoric completely jumped the rails.”
For half a century, in fact, the leaders
of the G.O.P. have fanned the lingering embers of racial resentment
in the United States. Through shrewd political calculation and
rhetoric, from Richard Nixon’s “Southern strategy” to the latest
charges of voter fraud in majority-African-American districts, doing
so has paid off at the ballot box. “There were no governing principles,”
Obama said. “There was no one to say, ‘No, this is going too far,
this isn’t what we stand for.’ ”
Last week, the world witnessed Obama’s successor
in the White House, unbound and unhinged, acting more or less
as Obama had predicted. In 2015, a week after Trump had declared
his candidacy, he spoke in favor of removing the Confederate
flag from South Carolina’s capitol: “Put it in the museum and
let it go.” But, last week, abandoning the customary dog whistle of
previous Republican culture warriors, President Trump made plain his
indulgent sympathy for neo-Nazis, Klan members, and unaffiliated white
supremacists, who marched with torches, assault rifles, clubs, and
racist and anti-Semitic slogans through the streets of Charlottesville,
Virginia. One participant even adopted an isis terror tactic, driving
straight into a crowd of people peaceably demonstrating against the
racists. Trump had declared an “America First” culture war in his Inaugural
Address, and now—as his poll numbers dropped, as he lost again and again
in the courts and in Congress, as the Mueller investigation delved into
his miserable business history, as more and more aides leaked their dismay—he
had cast his lot with the basest of his base. There were some “very fine
people” among the white nationalists, he said, and their “culture” should
not be threatened.
Who could have predicted it? Anyone, really.
Two years ago, the Daily Stormer, the foremost neo-Nazi news
site in the country, called on white men to “vote for the first
time in our lives for the one man who actually represents our interests.”
Trump never spurned this current of his support. He invited it,
exploited it. With Stephen Bannon, white nationalism won prime
real estate in the West Wing. Bannon wrote much of the inaugural speech,
and was branded “The Great Manipulator” in a Time cover story that
bruised the Presidential ego. But Bannon has been marginalized for
months. Last Friday, in the wake of Charlottesville, Trump finally
pushed him out. He is headed back to Breitbart News. But he was staff;
his departure is hardly decisive. The culture of this White House was,
and remains, Trump’s.
When Trump was elected, there were those
who considered his history and insisted that this was a kind
of national emergency, and that to normalize this Presidency
was a dangerous illusion. At the same time, there were those who,
in the spirit of patience and national comity, held that Trump was
“our President,” and that “he must be given a chance.” Has he had enough
of a chance yet? After his press conference in the lobby of Trump Tower
last Tuesday, when he ignored the scripted attempts to regulate his
impulses and revealed his true allegiances, there can be no doubt about
who he is. This is the inescapable fact: on November 9th, the United
States elected a dishonest, inept, unbalanced, and immoral human being
as its President and Commander-in-Chief. Trump has daily proven unyielding
to appeals of decency, unity, moderation, or fact. He is willing to imperil
the civil peace and the social fabric of his country simply to satisfy
his narcissism and to excite the worst inclinations of his core followers.
This latest outrage has disheartened Trump’s
circle somewhat; business executives, generals and security
officials, advisers, and even family members have semaphored their
private despair. One of the more lasting images from Trump’s squalid
appearance on Tuesday was that of his chief of staff, John Kelly,
who stood listening to him with a hangdog look of shame. But Trump
still retains the support of roughly a third of the country, and of
the majority of the Republican electorate. The political figure Obama
saw as a “logical conclusion of the rhetoric and tactics of the Republican
Party” has not yet come unmoored from the Party’s base.
The most important resistance to Trump has
to come from civil society, from institutions, and from individuals
who, despite their differences, believe in constitutional norms
and have a fundamental respect for the values of honesty, equality,
and justice. The imperative is to find ways to counteract and diminish
his malignant influence not only in the overtly political realm
but also in the social and cultural one. To fail in that would allow
the death rattle of an old racist order to take hold as a deafening
revival. ♦
David Remnick
Donald Trump’s True Allegiances
Who could have predicted the President’s latest
outrage? Barack Obama and anyone, really.
Early last November, just before Election Day,
Barack Obama was driven through the crisp late-night gloom of
the outskirts of Charlotte, as he barnstormed North Carolina on
behalf of Hillary Clinton. He was in no measure serene or confident.
The polls, the “analytics,” remained in Clinton’s favor, yet Obama,
with the unique vantage point of being the first African-American President,
had watched as, night after night, immense crowds cheered and hooted
for a demagogue who had launched a business career with blacks-need-not-apply
housing developments in Queens and a political career with a racist
conspiracy theory known as birtherism. During his speech in Charlotte
that night, Obama warned that no one really changes in the Presidency;
rather, the office “magnifies” who you already are. So if you “accept
the support of Klan sympathizers before you’re President, or you’re
kind of slow in disowning it, saying, ‘Well, I don’t know,’ then that’s
how you’ll be as President.”
Donald Trump’s ascent was hardly the first sign
that Americans had not uniformly regarded Obama’s election as
an inspiring chapter in the country’s fitful progress toward
equality. Newt Gingrich, the former Speaker of the House, had branded
him the “food-stamp President.” In the right-wing and white-nationalist
media, Obama was, variously, a socialist, a Muslim, the Antichrist,
a “liberal fascist,” who was assembling his own Hitler Youth. A high-speed
train from Las Vegas to Anaheim that was part of the economic-stimulus
package was a secret effort to connect the brothels of Nevada to the
innocents at Disneyland. He was, by nature, suspect. “You just look
at the body language, and there’s something going on,” Trump said,
last summer. In the meantime, beginning on the day of Obama’s first
inaugural, the Secret Service fielded an unprecedented number of threats
against the President’s person.
And so, speeding toward yet another airport last
November, Obama seemed like a weary man who harbored a burning
seed of apprehension. “We’ve seen this coming,” he said. “Donald
Trump is not an outlier; he is a culmination, a logical conclusion
of the rhetoric and tactics of the Republican Party for the past
ten, fifteen, twenty years. What surprised me was the degree to which
those tactics and rhetoric completely jumped the rails.”
For half a century, in fact, the leaders of the
G.O.P. have fanned the lingering embers of racial resentment
in the United States. Through shrewd political calculation and
rhetoric, from Richard Nixon’s “Southern strategy” to the latest
charges of voter fraud in majority-African-American districts, doing
so has paid off at the ballot box. “There were no governing principles,”
Obama said. “There was no one to say, ‘No, this is going too far, this
isn’t what we stand for.’ ”
Last week, the world witnessed Obama’s successor
in the White House, unbound and unhinged, acting more or less
as Obama had predicted. In 2015, a week after Trump had declared
his candidacy, he spoke in favor of removing the Confederate flag
from South Carolina’s capitol: “Put it in the museum and let it go.”
But, last week, abandoning the customary dog whistle of previous Republican
culture warriors, President Trump made plain his indulgent sympathy
for neo-Nazis, Klan members, and unaffiliated white supremacists, who
marched with torches, assault rifles, clubs, and racist and anti-Semitic
slogans through the streets of Charlottesville, Virginia. One participant
even adopted an isis terror tactic, driving straight into a crowd of
people peaceably demonstrating against the racists. Trump had declared
an “America First” culture war in his Inaugural Address, and now—as his
poll numbers dropped, as he lost again and again in the courts and in
Congress, as the Mueller investigation delved into his miserable business
history, as more and more aides leaked their dismay—he had cast his lot
with the basest of his base. There were some “very fine people” among the
white nationalists, he said, and their “culture” should not be threatened.
Who could have predicted it? Anyone, really. Two
years ago, the Daily Stormer, the foremost neo-Nazi news site
in the country, called on white men to “vote for the first time in
our lives for the one man who actually represents our interests.”
Trump never spurned this current of his support. He invited it,
exploited it. With Stephen Bannon, white nationalism won prime real
estate in the West Wing. Bannon wrote much of the inaugural speech,
and was branded “The Great Manipulator” in a Time cover story that bruised
the Presidential ego. But Bannon has been marginalized for months. Last
Friday, in the wake of Charlottesville, Trump finally pushed him out.
He is headed back to Breitbart News. But he was staff; his departure is
hardly decisive. The culture of this White House was, and remains, Trump’s.
When Trump was elected, there were those who considered
his history and insisted that this was a kind of national emergency,
and that to normalize this Presidency was a dangerous illusion.
At the same time, there were those who, in the spirit of patience
and national comity, held that Trump was “our President,” and that
“he must be given a chance.” Has he had enough of a chance yet? After
his press conference in the lobby of Trump Tower last Tuesday, when
he ignored the scripted attempts to regulate his impulses and revealed
his true allegiances, there can be no doubt about who he is. This is
the inescapable fact: on November 9th, the United States elected a dishonest,
inept, unbalanced, and immoral human being as its President and Commander-in-Chief.
Trump has daily proven unyielding to appeals of decency, unity, moderation,
or fact. He is willing to imperil the civil peace and the social fabric
of his country simply to satisfy his narcissism and to excite the worst
inclinations of his core followers.
This latest outrage has disheartened Trump’s circle
somewhat; business executives, generals and security officials,
advisers, and even family members have semaphored their private
despair. One of the more lasting images from Trump’s squalid appearance
on Tuesday was that of his chief of staff, John Kelly, who stood listening
to him with a hangdog look of shame. But Trump still retains the support
of roughly a third of the country, and of the majority of the Republican
electorate. The political figure Obama saw as a “logical conclusion
of the rhetoric and tactics of the Republican Party” has not yet come
unmoored from the Party’s base.
The most important resistance to Trump has to
come from civil society, from institutions, and from individuals
who, despite their differences, believe in constitutional norms
and have a fundamental respect for the values of honesty, equality,
and justice. The imperative is to find ways to counteract and diminish
his malignant influence not only in the overtly political realm but
also in the social and cultural one. To fail in that would allow the
death rattle of an old racist order to take hold as a deafening revival.
♦
Tưởng niệm Susan Sontag
Joan Acocella
Lời Bạt
Susan Sontag viết cho báo
này [Người Nữu Ước], tuy không liên tục, nhưng
ròng rã trên ba chục năm. Bà mất bữa
Thứ Ba vừa rồi, trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, mặc
dù, ai cũng biết bà bị ung thư, và thuốc thang
chữa trị từ hồi thập niên 1970, nhưng chẳng bao giờ bà
để tâm đến chuyện này, cũng như không để cho ai để
tâm đến nó, rằng, bịnh này có thể giết bà.
Một ý nghĩ như thế đó, là một vi phạm, violation,
đối với sự cần thiết sâu xa nhất của bà, the deepest need,
the need to live, cần sống và có được kinh nghiệm mà
thế giới đem tới cho bà.
Một lần, viết về tuổi thơ, và
những bữa ăn thịt nướng trong gia đình, bà cho biết,
"Tôi ăn, ăn, và ăn... Tôi luôn luôn
đói."
Luôn luôn đói, bà
giữ cho mình suốt đời là như vậy đó. Bà
đọc mọi thứ, và viết đủ thứ: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,
tiểu luận văn học, phim ảnh, chính trị. Bà làm
phim. Bà đọc diễn văn. Bà đi Bắc
Việt, Cuba,
và Bosnia,
và từ đó, gửi về những bài tường thuật.
Gần như chẳng có điều gì bà nghĩ, bà
không thể làm được, và chẳng có điều
gì bà không tính làm, và
làm thật lẹ, liền tức thì.
Khi tôi bắt đầu phỏng vấn bà,
vào năm 1999, cho một bài báo thuộc loại
chân dung nhìn nghiêng [profile] của báo
này [The New Yorker], bà vừa trải qua một chuỗi những
chữa chạy mới, rất, rất ư hung bạo [agressive], căn bịnh ung thư, và
chúng gây tổn thương về thần kinh ở nơi bà. Bà
phải sử dụng thuốc giảm đau, đúng ra, tôi muốn nói,
lúc đó bà sống bằng những thuốc giảm đau, the
painkillers; bà phải nhìn xuống chân, mỗi khi bước.
Nhưng, nhằm nhò gì ba thứ lẻ tẻ đó, bà cười,
khi tiếp tôi. Bà dang rộng hai tay, ôm lấy trọn một
cuộc đời mới của bà. Trước đó, bà là một
nhà viết tiểu luận. Bây giờ, bà là một tiểu
thuyết gia. Thực ra, bà đã từng viết tiểu thuyết, hai cuốn,
ngay lúc khởi nghiệp, vào thập niên 1960. Bà
không thích chúng lắm, vì vậy mà bà
trở thành một nhà phê bình, đúng ra
phải nói, nhà phê bình nổi tiếng nhất, và
nhà phê bình trẻ có ảnh hưởng nhất, của
thập niên 60 và 70, khuôn mặt trung tâm nổi
cộm của một đảo nghịch mỹ học, "the aesthetic bouleversement", của thời
kỳ đó: sự hấp thụ, absorption, văn hóa đại chúng
vào văn hóa cao, huỷ bỏ thể loại cổ điển, để đổi lấy
sự đứt đoạn, nét gẫy, vết rạn hiện đại, làm lễ tấn phong
cho ý thức tan hoang, rã rời, đêm tóc rối,
thay cho chủ nghĩa hiện thực, những nền tảng đạo đức, những lớp lang mở
đầu, thân bài, và kết luận. Nhưng vào năm 1999,
tất cả mọi chuyện đó chấm hết, nếu kể như chúng đã
là những quan tâm của bà trước đó. Bà
đã cho xuất bản một cuốn sách như thế vào năm 1992,
"Người Tình Hoả Diệm Sơn", "The Volcano Lover", viết về cuộc
tình đã trở thành truyền thuyết giữa Lord Byron
với người đàn bà có chồng, là Emma Hamliton.
Cuốn sách là một best-seller. Bây giờ, bà
vừa mới kết thúc một tác phẩm mang nhiều tham vọng hơn,
so với cuốn trước, một cuốn tiểu thuyết lịch sử, "Ở Mỹ", "In America",
và bà đang khởi sự một cuốn tiểu thuyết khác, về nước
Nhật hiện đại.
Thật không rõ, trong tương
lai, chuyện gì sẽ xẩy ra, đối với một Susan Sontag với
một nghiệp viết nhiều mặt như thế. Có thể việc viết tiểu thuyết
sẽ chỉ được coi là thứ yếu. "Người Tình Hoả Diệm Sơn"
là một đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực hiện đại mang tính
tâm lý, nhưng rõ ràng là, so với
những tiểu thuyết khác của bà, nó tách biệt
hẳn ra, theo nghĩa, không mặn mà, xứng hợp với những cuốn
còn lại. Nếu có một cái gì khác, ngoài
cuốn tiểu thuyết đó ra, ở trong những thành tựu đỉnh
cao của bà, như người ta thật dễ dàng nhận ra, và
sẽ nhớ mãi, thì đó là những tiểu luận mang
tính phê bình, hầu hết viết về những nhà
văn, những nhà làm phim, mà bà thu gom và
cho in trong "Chống Dẫn Giải", "Against Interpretation" (1966), cuốn sách đã làm
bà nổi tiếng; "Những Phong Cách Về Ý Chí
Cấp Tiến", "Styles of Radical Will" (1969), "Sinh dưới một vì
sao xấu xố", "Under the Sign of Saturne" (1980). Cuốn sách sẽ
còn sống dai khác nữa, là "Về Phim Ảnh", "On Photography"
(1977). Cuốn này, như "Người Tình Hoả Diệm Sơn", là
một best-seller, nhưng, đây là một chuyên khảo
về quyền lực xa [the distancing power] của hình ảnh, nó
thực sự không trông mong có được một thứ vinh quang
mang tính bình dân, hay đại chúng. Trong
những bài viết ở trong đó, Susan Sontag kết hợp một đam
mê cho nhiều cách mới mẻ trong cái nhìn (Godard,
Artaud, "ngẫu hứng", "happenings") với sự trung thành với những
giá trị mang tính cổ điển (chân lý, cái
đẹp, sự thanh lịch), và từ đó, xây dựng một cây
cầu cho chúng ta, chỉ cho chúng ta bằng cách nào,
làm sao xâm nhập được Cái Hiện Đại, The Modern.
Sau đó, khi mà hiện đại
sau cùng đã hất cẳng [supplanted] cổ điển, bà
đổ dồn đóng góp của mình cho sự phát
triển này. Cũng như thế, là với những phát
triển mang tính chính trị. Vốn là một người tả
phái dấn thân, bà đã từng ca ngợi những
chế độ ở Cuba, ở Bắc Việt Nam, vào thập niên 1960, và
đã diễn tả "giống trắng", "the white race", như là "ung
thư của lịch sử nhân loại". Điều này làm bà
bị mất cảm tình rất nhiều, từ hữu phái. Rồi thì,
vào năm 1982, bà công khai tuyên bố "Chủ
nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa Phát xít",
ngược hẳn những gì bà ca ngợi và tin
tưởng trước đó, điều này càng làm cho phái
hữu có lý do để mất cảm tình thêm với bà
(Thế đấy, bây giờ đã
mở mắt ra chưa!), trong khi cùng lúc, làm tả phái
nghỉ chơi, bỏ chạy bà!
Nhưng, như cách bà nhìn,
bà được sinh ra, là để nói ra những quan
điểm mạnh bạo như thế đó. Và để thay đổi chúng,
như là thế giới thay đổi. Bà trải qua những năm đầu đời
ở Paris, thành thử ở trong bà có điều chi gần
gụi với Pháp hơn so với Hoa Kỳ: một trí thức của đám
đông, một con người với quyền của người đó, có thể
nói, với bổn phận của người đó, là đưa ra, trình
tới cho bàn dân thiên hạ, những tư tưởng, những ý
nghĩ, như là sự đóng góp của mình cho
công cuộc bàn luận của xã hội, về cuộc sống của
nó. Bà thì cũng thật là hăm hở, thật là
tình cảm, dễ xúc động. Mắt bà đẫm lệ, khi nói
về những chuyện như là chính quyền Miến Điện, hay Hilton
Kramer, hay "Anh em nhà Karamazov", (tác phẩm của Dostoevsky).
Với bà, đọc và kinh nghiệm không chỉ là
những sự kiện mang tính tâm thần, tâm linh; bà
đón nhận chúng như là đón nhận những
ngọn phi tiêu lửa. Không có bà, thành
phố Nữu Ước như trở nên lạnh lẽo hơn.
Joan Acocella.
[Người Nữu Ước, số đề ngày 10
Tháng Giêng, 2005)
Bữa trước, 1 vị bằng hữu FB phán,
Susan Sontag là tác giả giấc mơ sáng ngủ dậy thấy biến thành Mít,
thứ cực Mít, là Bắc Kít!
Susan Sontag làm sao có được giấc
mơ thần kỳ này. Bà tới Hà Nội hai lần, và
rất rành xứ Bắc Kít, và có đưa ra 1
nhận xét, nhớ đại khái, cách đọc sử viết sử của
Mít, khác của Tây Phương, cái gì
gì đẳng thời, vô thời, anachronic, chronologic, trên
Tin Văn đã từng viết về vụ này, kiếm mãi không
thấy, nhưng đây cũng là nhận xét của Tolstaya, Á
Châu sống bằng lịch sử - anachronism - Âu Châu, văn
minh.
Chính vì sống bằng lịch sử, nên
Bác Hồ lâu lâu vỗ vai…Vua Hùng, toa
có công dựng nước, moa
giữ nước!
Sách
& Báo
Mới
(Trịnh Công
Sơn, Ðinh Cường phác họa ngày 1 tháng
4, 2001)
VHNT, số
đặc biệt tưởng niệm TCS, khi ông vừa mất, 7 April, 2001
In Memory
of a Troubadour
http://www.tanvien.net/tribute/PCL.html
V Ă N H
Ọ C N G H Ệ T H U Ậ T
P.O. Box 452512
Garland, Texas
75045-2512 USA
PHỤ TRƯƠNG VHNT ÐẶC BIỆT - April 7, 2001
Những ngày Trịnh Công Sơn
Tôi
biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua
Nguyễn Ðình Toàn, tại một bàn cà
phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài
Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số
công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc
chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng
thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn
và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh
bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó,
tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh,
và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy,
anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng
tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách
chương trình nhạc chủ đề trên đài phát
thanh Sài Gòn, và hai người hình
như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi
suy đoán ra như vậy. Thời gian này, tôi chưa
để ý đến nhạc TCS. Nói rõ hơn, nó chưa
thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi
vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm
cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng
nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế
huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt
đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi,
rứt không ra. Lúc này, tiếng nhạc của anh,
đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút
hết những âm tiết địa phương, và trở thành
tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới,
vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy
yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ,
và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính
vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái
với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc
cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến
bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc
Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.
Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính
phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến
bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công
Sơn mới hiểu. Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài
Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể
chuyện, sau "giải phóng", có thời gian TCS bị CS
địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài
Gòn, và có than thở với anh bạn văn kể trên.
Anh nói, thì cứ dzô đây, gì thì
gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang TCS không
phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những
ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi
cứ thế theo nhau lên Trung Tâm Ba, TCS may mắn đã
được tướng Lưu Kim Cương che chở. Trong số những quân cảnh
tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được
TCS! Tướng Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi
bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng
tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài
Gòn.
Xin vĩnh biệt.
Nguyễn Quốc
Trụ
-by ianbui
"Living this life
Requires but the heart.
You know for what, my love?
For the wind -- to sweep it away..."
- Trinh Cong Son (1939-2001)
The year
was 1974. The war was intensifying even though, or perhaps because,
US troops had all but withdrawn completely from Vietnam. It was
a turbulent time, a crazy time. An increasing number of refugees
had steadily been streaming South from Central Vietnam where the fighting
had escalated in preparation for the final Big Push. Conflicting
news, depressing news was everywhere. Everyone was tense.
I was a student at the Hong-Bang Academy
in Saigon. Prepubescent, preoccupied with more than just schoolwork
and friends, and not so naive anymore after the deaths of my uncle
and a cousin (who was barely seventeen when he marched off to die.)
Nevertheless, I was a normal kid -- a happy kid, all things considered.
One day our school organized a field trip
to one of the refugee camps that had been hastily set up outside
Saigon. The weeks prior we had collected several truckloads
of food and supply for the refugees -- everything from rice and
instant noodle to sleeping mats and mosquito nets. For a young
boy who rarely got a chance to get away from the safety of the capitol,
it was an exciting event.
We'd made hospital trips to visit wounded
soldiers before, but seeing civilian sufferings face-to-face
made the war seem even closer and ever more real. For the first
time in my life I saw a tent city, with thousands of people crammed
into it. (Little did I know then that only a few months later I would
be living in one myself!) I remember the haggard look on the faces
of the women, the wild staring eyes of the children, the skinny old
men, the bare feet, the mud, the smell, the dust, the flies...
My classmates and I were considered "kids"
and thus were not given a lot of responsibilities. My job was
to pass out drinks to the 11th and 12th graders who ran the operation,
and to keep the water coolers always filled. But I watched the elder
students go about their work -- organizing, worrying, laughing,
sweating... -- with total awe and respect. But the most poignant and
memorable moment came during lunch break, and it came quite unexpectedly.
Sitting atop one of the camions, our student
council president, a senior, took out a guitar and began to
sing. We all stopped what we were doing and started to gather
around his truck to listen.
His voice was sweet but full of pain, his
playing clear and warm. Soon the music began to drift above
the tent tops like a floating lullaby.
"A tear for a child aslumber in peace
A tear for a stream that nurtures her weeds
A tear for an earth so barren and scarred
A tear for a race so displaced and scared..."
It was a song by Trinh Cong Son, one that
I had heard on the radio before but didn't pay much attention
to. "A Tear For My Homeland" [*] was its name. And for a small while
everything seemed to come to a standstill; even the dust settled
and the flies stopped buzzing.
I still can see the image in my mind as though
it was only yesterday: An eighteen-year old, in his white-and-blue
school uniform, strumming and singing what was at the time considered
"anti-war" music. But no one protested. No one moved.
"A tear for a cloud asleep on the hill
A tear for a tree that silently fell
A tear for a man whose coarse blood's run
dry
The tears of our land are coursing inside..."
"Oh, the tears of my heart
They're tearing apart the time of our lives
Oh, the tears in my soul
They beckon me on and on through the night..."
The sun beat down on our humble convoy. The
heat rose up to meet the still, blue sky. The song, cool as a
blade, slowly knifed its way into one's subconscious and then left
it quietly bleeding at the end.
"A tear for the birds who forests have fled
A tear for the night all covered with death
A tear for you, love, your pain to relieve
A tear without name -- this homeland I give."
It was one of Son's many war-time ballads
that had made him both a well-loved public icon and a loathed
enemy of the Saigon regime during those dark and fateful years.
No matter. His songs always spoke directly to the commoners
-- and never with even a trace of pretension. They sometimes were
bitter, yes, but always filled with human compassion, even in the
face of utter hopelessness and despair. Those qualities have,
perhaps more subliminally than real, had some influence on my own artistic
and musical style years later -- one never knows for sure. But probably
the greatest debt I owe to this lonely poet/songwriter is not something
of the aesthetic realm, but rather an unconditional love for humanity
and a sense of humility and grace. And for that I feel thankful.
Farewell then, my friend, though we never
have met; I hope there is peace wherever you are. And to him
that day on top of the camion with a guitar (and whose name I didn't
even know to forget) I dedicate this requiem for the finest troubadour
Vietnam has ever had.
April 09, 2001
Ephemeral
- Phôi Pha, tưởng niệm TCS
Run away, away to the past -- and from your
fears.
In a way, the love that you cast away was
The last defense for your tears
You're away, a song for a while -- farewell,
sing I.
In a way, the love that you hide away deep
inside
Will conquer the years.
The curse that you wear,
The curtain you tear,
The cross that you bear!
No one dares to answer your prayers
(When no one believes, no one cares)
Come away, my love, come away and face your
fears.
In a way, your battle is past --
I'll comfort and cast away all your tears.
4'2001
ianbui
Bài thơ này của Borges,
tôi dịch đầu năm 2011 từ tiếng Anh. Khi ấy tôi vẫn còn
chưa học tiếng Tây Ban Nha, và vẫn chưa bị "đóng
đinh" quá nhiều để cần phải "biện chính cho những gì
làm tôi thương tổn". Nhân ngày sinh của
Borges (24/08/1899), xin post lại bài thơ, mà những câu
trong đó thường xuyên trở về với tôi, nhất là
mỗi khi bị ném đá (hoặc bị ném... giày).
---
KẺ TÒNG
PHẠM - Jorge Luis Borges
... See More
JORGE LUIS BORGES (1899-1986)
Kẻ tòng phạm Người ta đóng đinh tôi. Tôi
phải là đinh, là thập tự giá. Người ta
đưa tôi một cái chén. Tôi phải là
thuốc độc. Người ta lừa tôi. Tôi phải là lời
n…
phanquynhtram.com
Note: Chắc là nhắc tới GCC, vì
đã có lần dám sửa thơ dịch của vị này,
đúng bài thơ trên.
Nhưng quả là dịch dở thật, do dùng
chữ bừa bãi, dư thừa, và do không rành
tiếng Việt.
Đây là nhược điểm của hầu hết
những người viết trẻ ở hải ngoại. Tiếng Anh thì cũng
chỉ đủ để sử dụng ngôn ngữ giao tiếp thường ngày,
Tiếng Việt thì quá tệ. Vị này đã từng
dịch từ adultery, ngoại tình, là tà dâm
– cái gì gì, làm thơ là tà
dâm trong 1 thoáng, khi dịch 1 bài viết của
1 tác giả nước ngoài, và, nhầm, chỉ 1 từ như
vậy, làm hư hết 1 bài viết, nguyên tác,
và còn hiểu sai cả 1 dòng văn học hiện sinh,
với chủ đề “lưu đày vs quê nhà”, qua truyện ngắn
"Người đàn bà ngoại tình" của Camus.
Gấu đọc vị này từ lâu rồi, khi
lướt net, nhưng chẳng để ý, vì cùng băng
Gấu đã có thời gian cộng tác.
Nhưng lạ, là, trong số những người khen
vị này, dịch hay quá, có mấy vị Gấu quen,
thế là đành mất chút thì giờ, để
đọc, để đưa ra những nhận xét đúng mức, về thơ dịch
không của chỉ vị này, mà của rất nhiều vị khác.
Có hai vấn đề, trong dịch thuật, và
quá nữa, trong việc viết bằng tiếng nước ngoài.
Bạn phải thật giỏi tiếng Việt, hoặc thật giỏi
tiếng nước người, hơn cả đám mũi lõ.
Đây là ý của Rushdie, khi
ông ta cho rằng, chỉ có cách, viết văn bằng
tiếng nước người thì mới hết vong thân, nhớ đại khái.
(1)
Lạ, là fan của vị này đông
lắm!
Chẳng ai dám chê cả, cũng càng
lạ!
NQT
Sở dĩ những nhà văn di dân được
giải này giải nọ, là vì họ viết, hoặc 1
thứ tiếng Anh khác thứ tiếng Anh trước đó, trước
thời kỳ có cú bùng nổ di dân, hoặc đem
đến cho tiếng Anh, 1 cái gì đó, trước đó
không có, hoặc có, nhưng lũ mũi lõ, hoặc
không để ý tới, hoặc không nhận ra, hoặc hoặc....
Mít chưa có tên nào
viết nổi thứ tiếng Anh đó hết.
Tiếng Tẩy thì có Linda Lê.
Bảnh hơn cả Tẩy chính gốc!
Cái gì làm Mít tệ
như thế?
Có thể là do đạo hạnh, theo nghĩa
của Brodsky, khi ông coi mỹ là mẹ của đạo hạnh.
Trường hợp rõ nhất, là của Sebald.
Ông viết 1 thứ tiếng Đức lệch ra khỏi dòng văn
học viết bằng tiếng Đức, dòng chính, như thường
gọi.
Có thể là do đạo hạnh: Viết, dịch
dở như hạch mà mong được đóng đinh như Chúa!
NQT
(1)
Salman Rushdie, một trong những đứa con của giờ Tý
thì cho rằng, muốn giải phóng ra khỏi giấc mơ (muội)
vong thân trong ngôn ngữ là phải viết văn bằng
tiếng Anh. Trong bài viết "Quê hương tưởng tượng", ông
viết: Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn tất tiến
trình giải phóng của chúng ta.
Vả chăng, vẫn theo ông, những nhà văn
Anh gốc Ấn khó mà từ bỏ tiếng Anh. Con cái
của họ lại càng khó hơn nữa, vì đây là
ngôn ngữ thứ nhất của chúng. Phải chấp nhận, đối với
tất cả và chống với tất cả. Theo từ nguyên học, "dịch",
traduire, là từ tiếng La tinh "traducere", "mener au de-là",
dẫn (đi) đằng đó. Bị đá văng ra khỏi nơi chôn rau
cắt rốn, chúng ta đều là những con người "bị dịch" (nous
sommes des hommes "traduits"). Cho dù ‘dịch là chết ở trong
hồn một tí’, ông vẫn khăng khăng với ý nghĩ, rằng
có một chút chiến lợi phẩm, mỗi khi đi ăn hàng!
Mấy cái lỗi về dịch thuật, nếu gặp 1 người
khác, họ sẽ nhận ra, và cám ơn.
Như vị chủ nhân trang Da Màu, thí
dụ.
Thu Cam On
Thuy Dinh
To
quocoai_sontay@yahoo.com
Today at 1:05 PM
Kính chào nhà văn Nguyễn
Quốc Trụ,
Chân thành cám ơn ông
đã đề nghị sửa tựa bản dịch "Viết lịch sử nhỏ về một không
tưởng lớn" bằng cách bỏ mạo từ xác định "la" cho câu
văn dịch sang tiếng Việt được mạnh hơn. Ông chỉ rất đúng.
Cũng cám ơn ông đã góp
ý trên Tin Văn cho bản dịch Lưu Hiểu Ba cách
đây bốn năm. Tôi có nhớ mình đã
sửa lại một vài chỗ vì cách dịch của ông
đã làm câu văn gọn, và mạnh hơn.
Mong ông nhận lời cám ơn (có
thể bị ông coi là hơi trễ). Là một người
viết tị nạn - chứ không phải là một sinh viên
du học trước 1975 - tôi hoàn toàn không
có sự lựa chọn về nơi mà tôi đã lớn
lên và hấp thụ một sinh ngữ, văn hoá khác.
Tôi chỉ là một nữ sinh 13 tuổi khi Saigon mất. Học
hỏi, duy trì tiếng Việt và văn chương Việt ở một xứ sở
hoàn toàn xa lạ, như ông biết, là một đam
mê vô vị lợi. Có lẽ sự đam mê này
cũng xuất phát từ tâm trạng bất an ("không chính
thức", illegitimate) của một người bị giằng co giữa hai, hay nhiều
ảnh hưởng văn hóa. Dù sao thì cũng rất mong có
được sự ủng hộ và khuyến khích từ những người đi trước,
như ông.
Tôi rất thích đọc những tài
liệu của báo Văn, và những bài phê bình
đăng trước 75 của ông, như bài viết về Nguyễn Xuân
Hoàng và Thanh Tâm Tuyền. Những tài
liệu đặc sắc này đã giúp tôi kiếm đọc
lại những tác phẩm của các nhà văn này.
(Hiện tôi đang đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền và
hy vọng sẽ có dịp chia sẻ với ông ở vị trí một
người đọc tác phẩm khoảng 60 năm sau lần xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám ơn ông. Kính
chúc ông mạnh khoẻ.
Trân trọng,
Đinh Từ Bích Thuý
Kẻ mạo tiếng
The Voice Imitator
See More
Hai đấng thị trưởng Pisa
và Venice, đồng ý chơi cú xì căng
đan thật bảnh, trong 1 đêm, bí mật chuyển tháp
Pisa tới Venice, và Tháp Chuông Venice tới
Pisa.
Hỡi ơi, họ không kín
miệng, thể là cả hai được chuyển vô nhà
thương điên, ông ở Pisa thì vô nhà
thương điên ở Venice, và ông kia, ngược lại.
Đọc 1 phát, là
bèn tưởng tượng ra, 1 buổi sáng đẹp trời dân
Xề Gòn thức dậy, thay vì thấy Sở Thú, thì
là Lăng Bác Hồ!
Khủng thực!
Note: Đây là
cái truyện ngắn đầu tiên của Borges, mà Gấu được
đọc, khi ra được hải ngoại, và khi đầu quân cho tờ Văn
Học, làm tên viết mướn – nên nhớ trong số
những người cộng tác cho tờ báo, Gấu là 1
người được trả tiền, những người khác, sợ không được
trả tiền mà còn phải đóng tiền để nuôi
tờ báo - Gấu bèn dịch liền tù tì, và
còn đi 1 đường vinh danh ông anh nhà thơ của
mình:
Vào một buổi sáng
tháng Tư, có một người, khi nhìn
những đoàn quân tiến vào thành
phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta
sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người,
thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của
đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng
nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã
từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như
nhân vật trong truyện...
NQT
Nền văn học hải ngoại, của lũ Ngụy,
chẳng đã thoát thai từ cái khoảnh khắc
tên trưởng toán hành quyết VC ra lệnh
bắn, và 1 năm qua đi, giữa cánh tay giơ lên
và tên nhà văn Ngụy té xuống, trong Phép
Lạ Bí Ần, của Borges, và không chỉ 1 năm qua
đi mà "hoài hoài còn hoài", khi
VC, Cái Ác Bắc Kít vẫn hoành hành
ở nơi xứ Mít.
Trong Phỏng vấn chót, The
Last Interview, khi được hỏi về truyện ngắn Phép Lạ
Bí Ẩn, Borges cho biết, ông viết thời gian Đệ
Nhị Thế Chiến, và [khi viết nó] ông quan
tâm chủ yếu là tới hai điều. Thứ nhất, thứ phép
lạ “dưng không”, [tạm dịch từ “unassuming”, trong câu
của Borges, “First, in an unassuming miracle”, và trong
ý của TTT, khi ông viết, “dưng không trồi lên
sự thực. Và điều thứ nhì, là 1 ý tưởng
về tôn giáo - về 1 con người tự xác minh mình
với Thượng Đế, về 1 điều gì chỉ Thượng Đế biết. Thượng
Đế cho anh ta cái cơ hội đó.
BORGES: Yes; I think I wrote that
during the Second World War. What chiefly interested me-or
rather, I was interested in two things. First, in an unassuming
miracle, no? For the miracle is wrought for one man only.
And then in the idea- this is, I suppose, a religious idea-of
a man justifying himself to God by something known only to God,
no? God giving him his chance.
BURGIN: A very personal pact between
the two.
BORGES: Yes. A personal pact
between God and the man, And also, of course, the
idea of, well, this is a common idea among the mystics, the
idea of something lasting a very short while on earth and a long
time in heaven, or in a man's mind, no? I suppose those ideas
were behind the tale. Now maybe there are others. And then, as I
had also thought out the idea of drama in two acts, and in the first
act you would have something very noble and rather pompous, and
then in the second act you would find that the real thing was rather
tawdry, I thought, "Well, I'll never write that play, but I'll work
that idea of the play into a tale of mine." Of course, I couldn't
say that Hladik had thought out a drama or a work of art' and say nothing
whatever about it. Because then, of course, that would fall flat, I had
to make it convincing. So, I wove. I interwove those two ideas ... Now
that story has been one of my lucky ones. I'm not especially fond of it,
but many people are. And it has even been published in popular magazines
in Buenos Aires.
BURGIN: Maybe they think of it as
a more optimistic story of yours, in a way ... It ties
in with your ideas on time, your "New Refutation of Time."
BORGES: Yes, yes, and the idea of
different times, no? Of different time schemes. Psychological
time.
Và điều thứ nhì, là
1 ý tưởng về tôn giáo - về 1 con người
tự xác minh mình với Thượng Đế, về 1 điều
gì chỉ Thượng Đế biết. Thượng Đế cho hắn ta cơ hội
đó.
Đúng như thế. Thượng Đế,
sau khi thử thách GCC bằng đủ thứ địa ngục, và,
khi GCC đã qua được cái Test của Kafka, “anh
Trời già” bèn cho Gấu cái cơ hội làm
trang Tin Văn!
Chúc
vui, khỏe, và thanh thản trong mùa lễ cuối
năm . (1)
Và gởi bài thơ cho
GNV :
Đọc giữa
hai hàng chữ
Hình
như lúc em được tượng hình
Thượng Đế đang ngồi nhìn
mông mênh
Lỡ tay đánh vỡ đôi
mắt ngọc
Đành nhặt sương đôi
hạt rơi quanh
Mắt em từ
đó chẳng bao giờ
Nhìn cho thật rõ
với người ta
Trần gian bỗng trở thành
thi vị
Những hình, những bóng
nhẹ nhàng qua
Thuở bé
mẹ dắt tay cổ tích
Trong vườn đâu thấy những
gai đâm
Đâu thấy sâu nằm trong
tơ kén
Chỉ thấy hoa và bướm bâng
khuâng
Anh cứ viết
mực màu đen mướt
Chữ kẽm gai trên giấy đỏ
tươi
Cứ việc nhắc những ngày
lạnh buốt
Qua mắt em chỉ thấy mặt trời.
K
Tks. NQT
(1)
Note: Giáng
Sinh 2011
Bác
«lãng mạn» quá, cứ mong chờ có
một cú ngoạn mục của các nhân tài.
O.
Cú
ngoạn mục đó, a very personal pact
between the two, chính là cái cơ may của con
người, để tự xác minh, chính nó, vói Thượng
Đế, về 1 điều, chỉ nó và Thượng Đế biết.
Sách
& Báo
Mới
Thiếu Khanh
Hoàng Hạc Lâu – Lầu Hoàng
Hạc
Trong các bài thơ
về Lầu Hoàng Hạc được truyền tụng từ xưa, có lẽ bài Hoàng
Hạc Lâu của Thôi Hiệu được ngưỡng mộ hơn cả. Nhiều thi sĩ Việt
Nam cũng đã dịch bài này ra thơ Việt. Có người
cho biết, đã có hơn bốn trăm bản dịch tiếng Việt từ bài
thơ Hoàng Hạc Lâu này. Trong số đó
có bản dịch của nhiều thi sĩ nổi tiếng, từ Tản Ðà,
Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng San, Vũ Hoàng
Chương vân vân. Riêng bản dịch của nhà thơ
họ Vũ được những người biết đến đánh giá rất cao nhưng
có lẽ do thời thế (được nhà thơ dịch sau năm 1975) mà
ít người được thưởng thức bản dịch này. Ở đây người
viết xin giới thiệu bản dịch tài hoa này của thi sĩ Vũ
Hoàng Chương cùng với một số bài dịch sang các
ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức của các nhà Trung
Hoa học Tây Phương nổi tiếng, và một bài dịch tiếng
Anh của người viết.
TK
Theo Gấu, bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng
Chương, quá hay, nhưng không theo kiểu nhận định
về "hay dở" thông thường, hay khi phải so với những bản dịch
khác!
Nói rõ hơn, vấn
đề ở đây, là bản dịch của VHC khác hẳn các
bản dịch khác.
Gấu đã lèm bèm về bài
thơ này một đôi lần.
Nguyên tác sử dụng
vần trắc, thành ra những bản dịch, trong số đó,
hay nhất, là của Tản Ðà với riêng Gấu, thì
đều sử dụng vần bằng, thành ra mất hẳn cái “air” trượng
phu, viril, của bài thơ, theo kiểu “ba năm mẹ già
cũng đừng trông”, của Thâm Tâm, hay kiểu Brodsky,
"Doomed
Never to Return Home": kẻ bị kết án đi một
lèo, không quay lại…
Ðó là cái
ý hoành tráng của câu thơ đầy sảng
khoái:
Hoàng hạc nhất khứ bất
phục phản.
Dịch nhảm kiểu Gấu:
Một lần Gấu đi là đếch
có về nữa!
Chính vì thế mà
VHC, khi dịch, đã sử dụng vần trắc.
Bài thơ, và tác giả
của nó, từ ngàn xưa mà đã nhìn
ra thân phận lưu vong của Gấu, hàng ngàn năm
sau.
Thế mới khủng!
Có thể vì vậy,
mà người đời cứ dịch đi dịch lại hoài, nó.
Bởi vì mỗi thời, con người lại cần
1 bản dịch của Hoàng Hạc Lâu.
Bài Biển của Gấu,
theo nghĩa đó, cũng là 1 bản dịch của Hoàng
Hạc Lâu!
Hà, hà!
Biển
Buổi chiều đứng trên
bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê
nhà.
Sóng đẩy biển lên
cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm
tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được con
người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ
nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong công
viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút
hết nỗi buồn lên trời.
Chỉ còn ta cô đơn
lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình
sầu
Vào lời thì
thầm của biển...
Bài thơ của VHC, dịch
HHL, không phải được dịch sau 1975.
Gấu đã từng nghe nó,
khi học Ðệ Tam, [Ðệ Nhị, Gấu học nhảy, bỏ Ðệ Tam,
lên Ðệ Nhị, cuối năm thi Tú Tài 1, đậu,
vô Chu Văn An, học Ðệ Nhất, quen Bạn C, ông em
nhà thơ...], trường Hồng Lạc, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài
Gòn, kế ngay bên vườn Bờ Rô, khi là học
trò của nhà thơ. Như thế, phải khoảng năm 1956 -7,
bởi vì Gấu đậu Tú Tài 2 năm 1958.
Ông dậy Việt Văn, và
có lần khen 1 bài luận của Gấu, nhưng cảnh cáo,
bài luận làm đúng thể thức 1 bài
luận, đừng có nghĩ là nó hay, mà vênh
mặt lên!
Ngay lần đó, ông
đã cho biết, lý do ông dịch HHL, sử dụng
vần trắc, như trên.
Bài
Biển này, từ khi ra đời,
là đã gặp nhiều hạnh ngộ, và gây cho tác
giả của nó, hạnh phúc, có, và bất hạnh,
càng có, và càng khổ.
Ðã từng được diễn đàn Gió-O
đọc, trong mục đọc thơ. Một vị, bạn tù của Gấu, quen
ở nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó,
định cư tại Úc, viết thư khen nức nở, hào khí
ngất trời. Một vị, cũng Bắc Kít, quen ở hải ngoại, trong
1 lần nhậu xỉn, phán, chỉ cần bài thơ này, là
đủ rồi, khỏi cần làm thơ nữa. Vụ này đã kể
trong bài viết Dạ Vũ Ký Bắc
Một trong những vị độc giả đầu
tiên, là cô bạn. Bài thơ này
được làm ra, là vì cô bạn, lần cả hai
gia đình đi thăm Wasaga.
Gấu mất 1 vị độc giả quá
thân, là vì bài thơ này.
Ðúng ra, là
vì Gấu không giữ đúng điều kiện: ta cấm mi
không được post mail của ta.
Sorry, please take care. NQT
Tưởng Niệm Vũ Hoàng Chương
Người xưa thường nói,
nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng,
bữa nào hứng lên, rồng vàng, hạc vàng...
bay mất, để trơ lại một thành Thăng Long mất cả Gươm Thiêng
lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành
tiệm chả cá Lã Vọng...
Hình Bóng Cũ
Theo thi sĩ, và cũng còn
là ông thầy Việt văn của người viết - năm học
Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn
là một căn hộ, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn
- bản dịch của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát,
cho nên không diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục
phản" - toàn "vần trắc" - trong nguyên bản. Bất phục
phản! Nhân một cơn say, ông nổi hứng, dịch một lần nữa,
tạo thế chân vạc cho bài thơ.
Họ Vũ vốn là dân toán,
ông vẫn bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa
độ, khi làm thơ. Nhưng cái tam giác của ông,
vô tình làm tôi nhớ tới tam giác
bếp núc của C. Lévi-Strauss.
Văn minh nhân loại, theo
C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp.
Trước tiên là sống. Cái thuở loài
người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée
ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái
trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa,
thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân
của C. Lévi- Strauss. Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui...
con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân
loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn
thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói
thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.
Bắt chước Vũ Hoàng Chương,
C. Lévi-Strauss, tôi cũng tưởng tượng ra một thế
chân vạc của Hà-nội. Ở đây, không có
nguyên bản, cứ coi như vậy. Chỉ có dịch bản. Một
Hà-nội, của những người di cư, 1954. Một, của những người
ra đi từ miền Bắc. Và một của những người tù cải
tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội, như của Nguyễn Chí
Kham, trong lần ghé ngang, trên chuyến tầu trở về với
gia đình.
Bếp Lửa trong văn chương
CAMEO APPEARANCE
I had a small, nonspeaking part
In a bloody epic. I was one of the
Bombed and fleeing humanity.
In the distance our great leader
Crowed like a rooster from a balcony,
Or was it a great actor
Impersonating our great leader?
That's me there, I said to the
kiddies.
I'm squeezed between the man
With two bandaged hands raised
And the old woman with her mouth open
As if she were showing us a tooth
That hurts badly. The hundred
times
I rewound the tape, not once
Could they catch sight of me
In that huge gray crowd,
That was like any other gray crowd.
Trot off to bed, I said finally.
I know I was there. One take
Is all they had time for.
We ran, and the planes grazed
our hair,
And then they were no more
As we stood dazed in the burning city.
But, of course, they didn't film that.
Charles Simic
Cameo Apperance: Sự xuất hiện của 1 nhân
vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử thi đầy máu của dân tộc
tớ.
Tớ là một trong cái nhân loại
Bị bom, oanh tạc, pháo kích, và
bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị lãnh đạo của chúng tớ lúc
đó, hình như là Sáu Dân thì
phải
Gáy như 1 con gà trống, từ ban công
dinh Độc Lập
Hay là thằng khốn nào đóng vai
Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ nói
với lũ con nít
Tớ bẹp dí, giữa một người đàn ông
Hai tay băng bó, cùng giơ lên
[Sao giống TCS quá, khi chào mừng Sáu
Dân,
sau khi ca Nối Vòng Tay Lớn?]
Và một bà già miệng há
hốc
Như thể bà muốn chỉ cho coi một cái
răng của bả.
Đau thật. Nhức nhối thật.
Hàng trăm lần, tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1 lần
Liệu họ nhận ra tớ không nhỉ,
Trong cái đám đông ở Dinh Độc
Lập bữa đó?
Thì cũng như mọi đám đông xám
xịt,
Bè lũ Cách Mạng 30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng có 1 cái băng đỏ
ở cánh tay!
Thôi đi ngủ, tớ sau cùng
phán
Tớ biết, có tớ ở đó.
Một cú [cameo appearance]
Họ đâu có thì giờ, 1 cú
là đủ rồi.
Chúng tớ chạy, và những chiếc trực
thăng thổi tóc chúng tớ,
Như muốn giật chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng còn gì hết
Chẳng còn máy bay trực thăng
Khi chúng tớ đứng bàng hoàng
trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất nhiên, lũ khốn VC có bao
giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
Note:
Một vị bằng hữu FB xoa đầu GCC, cách Gấu dịch cũng khác
người ta.
Lạ, là bài thơ trên, và
cách dịch, “quái” như trên, lại đúng
y chang tâm trạng, và hoàn cảnh của Simic, khi
ông làm bài thơ. Như ông cho biết, bài
thơ dựa vào 1 số hình ảnh Belgarde ăn bom, 1941,
nhưng bữa đó, ông về nhà muộn, và TV đang
chiếu cảnh xứ Mít thời kỳ bom đạn
The beauties of Nature, the mysteries of the Supreme
Being, and the torments of love are still with us, but a shadow
lies over them. "God is afraid of man ... man is a monster, and history
has proved it," says Cioran. Some of us are who we are because of that
kind of thinking. For example, I remember a night during the Vietnam
War. I had returned home late after a swell evening on the town and
happened to turn on a TV channel where they were presenting a summary
of that day's action on the battlefield. I was already undressed and
sipping a beer when they showed a helicopter strafing some small running
figures who were supposedly Vietcong and were more likely just poor peasants
caught in the cross fire. I could see the bodies twitch and jump as they
were hit by a swarm of bullets. It occurred to me that this had been filmed
only hours ago and here I was in my bedroom, tired but no longer sleepy,
feeling the monstrosity of watching someone's horror from the comfort
of my bedroom as if it were a spectator sport.
Can one be indifferent to the fate
of the blameless and go about as if it doesn't matter? Yes, there
have been more than a few fine poets in the history of poetry who
had no ethical feelings or interest in other people's sufferings. There
is always religion available, of course, or some theory of realpolitik
to explain away the awful reality and ease one's conscience. What if
one doesn't buy any of these theories-as I do not? Well, then one just
writes poems as someone who sees and feels deeply, but who even after
a lifetime does not understand the world.
Charles Simic: Poetry and History
(in “The Life of Images”)
V/v Vietnam War: Trên trang Vịt
Xì Tốp Đi Thôi, của giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng:
- Hai
cuốn sách hay nhất về Việt Nam?
Reading
Vietnam (NYT 22-8-17) --
Theo Clay Risen thì đó là cuốn "Dispatches"
của Michael Herr và cuốn "A Rumor of War"
của Philip Caputo.
Trên Tin Văn, đã giới
thiệu "Dispatches" của Michael Herr,
từ hồi Diễm Xưa:
http://tanvien.net/Day_Notes/khe_sanh.html
1968: Khe Sanh
MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM
I looked and there was a pale
green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with
him.
-Book of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và
thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần
Chết, và Diêm Vương, đằng sau anh ta.
Khe Sanh 1968, Sarajevo 1992,
Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”,
kể cả "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có
chung cái air "độc thoại". Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát
là nhập vô liền:
There was spring rain and pale
fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering
over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân và
sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi
chiếc phi cơ của tôi loay hoay chọn hướng đáp xuống
thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp, màu
xanh, của núi Mount Igman.
Câu văn còn làm
nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận
xác chồng”, cái gì gì, “phi cơ đáp
xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp
nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không
biết!
(1)
Tưởng như còn người yêu
Ngày mai đi nhận xác
chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một
chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót
xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong
tà áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Em không nhìn được
xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu
!
Lê Thị Ý
[net]
Lần đầu tiên Gấu nghe,
1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông
trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát
cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả mình, nhớ
lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết được mùi
thịt chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và
phải cơ may [“máy trời” xoay chuyển] như thế nào mới
được thưởng thức!
1968: Khe Sanh
MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM
I looked and there was a pale
green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with
him.
-Book of Revelations, c. 90
Sometimes you'd step from the
bunker, all sense of time passing having left you, and find it dark
out. The far side of the hills around the bowl of the base was glimmering,
but you could never see the source of the light, and it had the look
of a city at night approached from a great distance. Flares were dropping
everywhere around the fringes of the perimeter, laying a dead white
light on the high ground rising from the piedmont. There would be
dozens of them at once sometimes, trailing an intense smoke, dropping
white-hot sparks, and it seemed as though anything caught in their range
would be made still, like figures in a game of living statues. There
would be the muted rush of illumination rounds, fired from sixty-millimeter
mortars inside the wire, dropping magnesium-brilliant above the North
Vietnamese Army's trenches for a few seconds, outlining the gaunt, flat
spread of the mahogany trees, giving the landscape a ghastly clarity
and dying out. You could watch mortar bursts, orange-and-gray smoking,
over the tops of trees three and four kilometers away, and the heavier shelling
from support bases farther east along the DMZ, from Camp Carrol and the
Rockpile, directed against suspected troop movements or NVA rocket and
mortar positions. Once in a while-I guess I saw it happen three or four
times in all-there would be; secondary explosion, a direct hit on a supply
of NVA ammunition. And at night it was beautiful. Even the incoming was
beautiful at night, beautiful and deeply dreadful.
I remembered the way an F-4 Phantom
II pilot had talked about how beautiful the surface to-air missiles
looked as they drifted up toward his plane to kill him, and remembered
myself how lovely .50-caliber tracers could be, coming at you as you
flew at night in a helicopter, he slow and graceful, arching up easily,
a dream, so remote from anything that could harm you. It could make
you feel a total serenity, an elevation that put you above death but
that never lasted very long. One hit anywhere in the chopper would bring
you back, bitten lips, white knuckles and all, and then you knew where
you were. It was different with the incoming at Khe Sanh. You didn't get
to watch the shells very often. You knew if you heard one, the first one,
that you were safe, or at least saved. If you were still standing up and
looking after that, you deserved anything that happened to you.
Nights were when the air and artillery
strikes were heaviest, because that was when we knew that the NVA
was above ground and moving. At night you could lie out on some sandbags
and watch the C-47's mounted with Vulcans doing their work. The C-47
was a standard prop flare ship, but many of them carried 20- and 762-millimeter
guns on their doors, Mike-Mikes that could fire out three hundred rounds
per second, Gatling style, “a round in every square inch of a football
field in less than a minute," as the handouts said. They used to call it
Puff the Magic Dragon, but the Marines knew better: they named it Spooky.
Every fifth round fired was a tracer, and when Spooky was working, everything
stopped while that solid stream of violent red poured down out of the black
sky. If you watched from a great distance, the stream would seem to dry up
between bursts, vanishing slowly from air to ground like a comet tail,
the sound of the guns disappearing too, a few seconds later. If you watched
at a close range, you couldn't believe that anyone would have the courage
to deal with that night after night, week after week, and you cultivated
a respect for the Vietcong and NVA who had crouched under it every night
now for months. It was awesome, worse than anything the Lord had ever put
down on Egypt, and at night, you'd hear the Marines talking, watching it,
yelling, "Get some!" until they grew quiet and someone would say, "Spooky
understands." The nights were very beautiful. Night was when you really
had the least to fear and feared the most. You could go through some very
bad numbers at night.
Because, really, what a choice there
was; what a prodigy of things to be afraid of! The moment that you
understood this, really understood it, you lost your anxiety instantly.
Anxiety was a luxury, a joke you had no room for once you knew the
variety of deaths and mutilations the war offered. Some feared head
wounds, some dreaded chest wounds or stomach wounds, everyone feared the
wound of wounds, the Wound. Guys would pray and pray-Just you and me, God.
Right?-offer anything, if only they could be spared that: take my legs,
take my hands, take my eyes, take my fucking life, You Bastard, but please,
please, please, don't take those. Whenever a shell landed in a group, everyone
forgot about the next rounds and skipped back to rip their pants away,
to check, laughing hysterically with relief even though their legs might
be shattered, their kneecaps torn away, kept upright by their relief and
shock, gratitude and adrenaline.
There were choices everywhere, but
they were never choices that you could hope to make. There was even
some small chance for personal style in your recognition of the one
thing you feared more than any other. You could die in a bloodburning
crunch as your chopper hit the ground like dead weight, you could fly
apart so that your pieces would never be gathered, you could take one
neat round in the lung and go out hearing only the bubble of the last
few breaths, you could die in the last stage of malaria with that faint
tapping in your ears, and could happen to you after months of fire-fights
and rockets and machine guns. Enough, too many, were saved for that, and
you always hoped that no irony would attend your passing. You could end
in a pit somewhere with a spike through you, everything stopped forever
except for the one or two motions, purely involuntary, as though you could
kick it all away and come back. You could fall down dead so that the medics
would have to spend half an hour looking for the hole that killed you,
getting more and more spooked as the search went on. You could be shot,
mined, grenaded, rocketed, mortared, sniped at, blown up and away so that
your leavings had to be dropped into a sagging poncho and carried to Graves
Registration, that's all she wrote. It was almost marvelous.
And at night, all of it seemed more
possible. At night in Khe Sanh, waiting there, thinking about all
of them (forty thousand, some said), thinking that they might really
try it, could keep you up. If they did, when they did, it might not
matter that you were in the best bunker in the DMZ, wouldn't matter
that you were young and had plans, that you were loved, that you were
a noncombatant, an observer. Because if it came, it would be in a bloodswarm
of killing, and credentials would not be examined. (The only Vietnamese
many of us knew was the words "Bao Chi!
Bao Chi!" - Journalist! Journalist!-
or even "Bao Chi Fap!"-
French journalist!- which was the same as crying, Don't shoot!
Don't shoot!) You came to love your life, to love and respect the mere
fact of it, but often you became heedless of it in the way that somnambulists
are heedless. Being "good" meant staying alive, and sometimes that
was only a matter of caring enough at any given moment. No wonder everyone
became a luck freak, no wonder you could wake at four in the morning
some mornings and know that tomorrow it would finally happen, you could
stop worrying about it now and just lie there, sweating in the dampest
chill you ever felt.
But once it was actually going on,
things were different. You were just like everyone else, you could
no more blink than spit. It came back the same way every time, dreaded
and welcome, balls and bowels turning over together, your senses working
like strobes, free-falling all the way down to the essences and then
flying out again in a rush to focus, like the first strong twinge
of tripping after an infusion of psilocybin, reaching in at the point
of calm and springing all the joy and all the dread ever known, ever known
by everyone who ever lived, unutterable in its speeding brilliance, touching
all the edges and then passing, as though it had all been controlled from
outside, by a god or by the moon. And every time, you were so weary afterward,
so empty of everything but being alive that you couldn't recall any of
it, except to know that it was like something else you had felt once before.
It remained obscure for a long time, but after enough times the memory took
shape and substance and finally revealed itself one afternoon during the
breaking off of a firefight. It was the feeling you'd had when you were
much, much younger and undressing a girl for the first time.
From
Dispatches. The conflict in Vietnam
between the communist North and anticommunist South began after the
North defeated the French colonial administration in 1954. By 1965
President Johnson had committed over 180,000 US. troops to the country.
Herr served six months of active duty in the Army Reserve in 1963 and
1964 and was in Vietnam in the late 1960s as a correspondent for Esquire.
In 1977 he published his memoir, Dispatches, which
John le Carré called ''the best book I have ever read on men and
war in our time. "
Viết mỗi
ngày
Note: Đây là cái
truyện ngắn đầu tiên của Borges, mà Gấu được đọc,
khi ra được hải ngoại, và khi đầu quân cho tờ Văn Học, làm
tên viết mướn – nên nhớ trong số những người cộng tác
cho tờ báo, Gấu là 1 người được trả tiền, những người
khác, sợ không được trả tiền mà còn phải
đóng tiền để nuôi tờ báo - Gấu bèn dịch
liền tù tì, và còn đi 1 đường vinh danh
ông anh nhà thơ của mình:
Vào một buổi sáng tháng Tư,
có một người, khi nhìn những đoàn quân
tiến vào thành phố, đã vui mừng thốt lên,
như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó
có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối
cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này.
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến
họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng
được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân
vật trong truyện...
NQT
Nền văn học hải ngoại, của lũ Ngụy,
chẳng đã thoát thai từ cái khoảnh khắc tên
trưởng toán hành quyết VC ra lệnh bắn, và 1
năm qua đi, giữa cánh tay giơ lên và tên
nhà văn Ngụy té xuống, trong Phép Lạ Bí
Ần, của Borges, và không chỉ 1 năm qua đi mà "hoài
hoài còn hoài", khi VC, Cái Ác Bắc
Kít vẫn hoành hành ở nơi xứ Mít.
Trong Phỏng vấn chót, The Last Interview,
khi được hỏi về truyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn, Borges
cho biết, ông viết thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, và [khi
viết nó] ông quan tâm chủ yếu là tới hai
điều. Thứ nhất, thứ phép lạ “dưng không”, [tạm dịch
từ “unassuming”, trong câu của Borges, “First, in an unassuming
miracle”, và trong ý của TTT, khi ông viết,
“dưng không trồi lên sự thực. Và điều thứ nhì,
là 1 ý tưởng về tôn giáo - về 1 con người
tự xác minh mình với Thượng Đế, về 1 điều gì
chỉ Thượng Đế biết. Thượng Đế cho anh ta cái cơ hội đó.
BORGES: Yes; I think I wrote that during the Second
World War. What chiefly interested me-or rather, I was interested
in two things. First, in an unassuming miracle, no? For the miracle
is wrought for one man only. And then in the idea- this is, I suppose,
a religious idea-of a man justifying himself to God by something
known only to God, no? God giving him his chance.
BURGIN: A very personal pact between the two.
BORGES: Yes. A personal pact between God and the
man, And also, of course, the idea of, well, this is a common
idea among the mystics, the idea of something lasting a very short
while on earth and a long time in heaven, or in a man's mind, no? I
suppose those ideas were behind the tale. Now maybe there are others.
And then, as I had also thought out the idea of drama in two acts, and
in the first act you would have something very noble and rather pompous,
and then in the second act you would find that the real thing was
rather tawdry, I thought, "Well, I'll never write that play, but I'll
work that idea of the play into a tale of mine." Of course, I couldn't
say that Hladik had thought out a drama or a work of art' and say nothing
whatever about it. Because then, of course, that would fall flat, I had
to make it convincing. So, I wove. I interwove those two ideas ...
Now that story has been one of my lucky ones. I'm not especially fond
of it, but many people are. And it has even been published in popular
magazines in Buenos Aires.
BURGIN: Maybe they think of it as a more optimistic
story of yours, in a way ... It ties in with your ideas on time,
your "New Refutation of Time."
BORGES: Yes, yes, and the idea of different times,
no? Of different time schemes. Psychological time.
Và điều thứ nhì,
là 1 ý tưởng về tôn giáo - về 1 con
người tự xác minh mình với Thượng Đế, về 1 điều
gì chỉ Thượng Đế biết. Thượng Đế cho hắn ta cơ hội đó.
Đúng như thế. Thượng Đế, sau khi thử thách
GCC bằng đủ thứ địa ngục, và, khi GCC đã qua được
cái Test của Kafka, “anh Trời già” bèn cho
Gấu cái cơ hội làm trang Tin Văn!
Chúc
vui, khỏe, và thanh thản trong mùa lễ cuối năm .
(1)
Và gởi bài thơ cho GNV :
Đọc giữa
hai hàng chữ
Hình
như lúc em được tượng hình
Thượng Đế đang ngồi nhìn mông mênh
Lỡ tay đánh vỡ đôi mắt ngọc
Đành nhặt sương đôi hạt rơi quanh
Mắt em từ
đó chẳng bao giờ
Nhìn cho thật rõ với người ta
Trần gian bỗng trở thành thi vị
Những hình, những bóng nhẹ nhàng
qua
Thuở bé
mẹ dắt tay cổ tích
Trong vườn đâu thấy những gai đâm
Đâu thấy sâu nằm trong tơ kén
Chỉ thấy hoa và bướm bâng khuâng
Anh cứ viết
mực màu đen mướt
Chữ kẽm gai trên giấy đỏ tươi
Cứ việc nhắc những ngày lạnh buốt
Qua mắt em chỉ thấy mặt trời.
K
Tks. NQT
(1)
Note: Giáng
Sinh 2011
Bác
«lãng mạn» quá, cứ mong chờ có một
cú ngoạn mục của các nhân tài.
O.
Cú
ngoạn mục đó, a very personal pact between the two., chính
là cái cơ may của con người, để tự xác minh, chính
nó, vói Thượng Đế, về 1 điều, chỉ nó và
Thượng Đết biết.
Lời cảm tạ khi được vô Hàn
Lâm Viện Đức
W.G. Sebald [1944-2001]
Tôi ra đời
vào năm 1944, tại Allgau, thành thử có lúc
tôi đã không cảm nhận, hoặc hiểu được thế nào
là huỷ diệt, vào lúc bắt đầu cuộc đời của mình.
Lúc này, lúc nọ, khi còn là một
đứa trẻ, tôi nghe người lớn nói tới một cú,
a coup, tôi chẳng có bất cứ một ý nghĩ, cú
là cái gì. Lần đầu tiên, như ánh
lửa ma trơi, cái quá khứ của chúng tôi
đó bất chợt tóm lấy tôi, theo tôi nghĩ,
đó là vào một đêm, vào cuối thập
niên 1960, khi nhà máy cưa ở Platt cháy
rụi, mọi người ở ven thành phố đều túa ra khỏi nhà
để nhìn bó lửa cuồn cuộn tuá lên nền trời
đêm. Sau đó, khi đi học, phần lớn huỷ diệt mà chúng
tôi được biết, là từ những cuộc viễn chinh của Alexander
Đại Đế và Nã Phá Luân, chứ chẳng phải từ,
vỏn vẹn chỉ, muời lăm năm quá khứ của chúng tôi đó.
Ngay cả ở đại học, tôi hầu như chẳng học được gì, về lịch
sử vừa mới qua của Đức. Những nghiên cứu Đức vào những năm
đó, là một ngành học - mù lòa như dã
được dự tính, chỉ đạo từ trước, và, như Hebel sẽ nói
- cưỡi một con ngựa nhợt nhạt (1). Trọn một khoá học mùa
đông, chúng tôi trải qua bằng cách mân
mê Cái Bô Vàng [The Golden Pot] (1), mà
chẳng hề một lần băn khoăn, về sự liên hệ ở trong đó, rằng,
tại làm sao mà một câu chuyện lạ thường như vậy lại
có thể được viết ra, với tất cả những cấu trúc dàn
dựng của nó như thế, liền ngay sau một thời kỳ mà xác
chết còn ngập những cánh đồng bên ngoài Dresden,
và trong thành phố ở bên con sông Elbe đó
thì đang xẩy ra nạn đói, và bệnh dịch. Chỉ tới khi
tới Thụy Sĩ, vào năm 1965, và một năm sau, tới Anh, những
ý nghĩa của tôi về quê nhà mới bắt đầu được nhen
nhúm, từ một khoảng cách xa, ở trong đầu của tôi, và
những ý nghĩ này, trong vòng 30 năm hơn, ngày
một lớn rộng, nẩy nở mãi ra. Với tôi trọn một thể chế Cộng
Hoà có một điều không thực, kỳ cục chi chi về nó,
như thể một cái gì biết rồi chẳng hề chấm dứt, a never-ending
déjà vu. Chỉ là một người khách ở đất nước Anh
Cát Lợi, và ở đó thì cũng vậy, tôi như
luôn luôn cảm thấy mình lơ lửng, giữa những ý
nghĩ, những tình cảm của sự quen thuộc và của dời đổi, bật
rễ, không bám trụ được vào đâu. Một lần tôi
nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi có giấc mơ của mình
ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và
trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và
một tên lừa đảo. Đặc biệt là, chính vì những
nghi hoặc như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn
Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có
vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng hy
vọng.
W.G. Sebald
Nguyễn Quốc Trụ dịch [từ bản tiếng
Anh, của Anthea Bell, trong Campo Santo, do Sven Meyer
biên tập, nhà xb Hamish Hamilton, Penguin Books,
2005]
(1) Pale Rider: Kỵ sĩ Nhợt Nhạt, Ám
chỉ Thần Chết
(2) Tác phẩm của E.T.A Hoffmann
(1814)
Vụ TXT làm nhớ tới Sebald.
Ông chửi nước
Đức của ông, vờ cái vụ máy bay
Đồng Minh tàn phá những thành phố Đức,
và tự hỏi tại sao, và bèn tự trả lời,
người Đức coi đây là nỗi nhục nhã trong
gia đình, đừng mang ra khoe với thiên hạ, y chang
cái vụ Bắc Kít mời Tẫu vô giường, nhường
vợ cho chúng, đổi lấy súng đạn làm thịt
thằng em Nam Bộ!
Làm sao Đức bỏ
qua cho Vẹm cho được!
Sở dĩ không có
1 tên Bắc Kít nào dám
nhỏ 1 giọt nưóc mắt cá sấu cho lũ Ngụy, có
thể là do chúng vẫn còn đau cái
nỗi đau nhường giường cho Tẫu, trong khi xẻ dọc Trường Sơn!
But barbarism doesn't care if
we are cultivated or not.
Lũ Vẹm đếch "care", chúng
ta có học hay không có học.
Quả thế. Cho đến thời điểm này,
chúng vẫn không làm sao hiểu được,
tại làm sao mà Đức lại quá quan tâm
đến 1 tên mafia đỏ, bị đồng bọn hăm he làm thịt,
bỏ chạy
Nhưng, nhìn 1 cách
nào đó, trường hợp TXT là cơ may
độc nhất, có thể nói như vậy, cho tới nay,
để cho người Đức, thắp lên nén hương tưởng niệm
nạn nhân Lò Thiêu.
Sebald chẳng đã từng than,
"không làm sao tưởng niệm, nỗi nhục trong
gia đình…. "...
Đọc bài của Sến, trên
net, viết về cas TXT, thì thấy rõ, cái
đọc, cái độc, cái ác của Bắc Kít.
Chúng chỉ có thể
sản xuất ra 1 thứ văn chương làm nhục thêm cho
Mít.
Cái nén hương mà
Đức thắp lên cho Lò Thiêu, lũ Ngụy
cũng được ngửi ké, theo cái kiểu suy nghĩ của
Sến, ngửi khói bếp hàng xóm cũng đủ no.
Cũng trên tờ báo Trẻ
[hải ngoại, đọc trên net] có bài của Sến,
còn có bài, Đức đâu cần TXT.
Cần quá chứ làm sao
nói không cần?
Chính lũ Vẹm cho Đức cơ hội
để nhìn lại vụ Lò Thiêu, và
quá đó, lũ Ngụy, nhìn lại Trại Tù
Cải Tạo.
Nghe có
vẻ lớn lối nhưng quả đúng như thế, nếu đọc Sebald
viết về 1 nước Đức thời hậu chiến, cái thành
quả kinh tế hậu chiến, vẫn có mùi tủi nhục, từ
Lò Thiêu.
Chúng chỉ có thể
sản xuất ra 1 thứ văn chương làm nhục thêm cho
Mít.
http://tanvien.net/TG_TP/Jean_Amery.html
Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể
Đảo Ngược: Về Jean
Améry, trong Lịch sử tự nhiên
về huỷ diệt
[Against
the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction,
nhà xb Vintage Canada].
Améry
viết, tra tấn có cái tính quái
dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã
từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu
tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm
tra tấn suốt đời!
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal
du pays, le Hauptwehe, “nỗi nhức nhối số 1",
“la douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ
của Thomas Mann, thì khác, cực khác về bản
chất, so với những gì tôi viết ở trên, và
nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn. Vào
lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ
gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít
đã mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt
nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải là
tự an ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était
pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
"Perhaps", writes
Nietzsche in the Genealogie
der Moral, "there is nothing more terrible and mysterious
in the whole prehistory of mankind than our mnemonic technique.
We burn something into the mind so that it will remain in the memory;
only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có
lẽ không có chi khủng khiếp và bí
ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Nietzsche viết
trong Genealogie
der Moral: Chúng ta đánh dấu trái
tim của chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau
được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss learned
in exile to understand the fate he escaped...... so vital
to him, of whether he himself was on the side of the creditors
or the debtors. He finds the answer to the question in the course
of his own study, as it becomes increasingly clear to him that
rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact the same
species, so that he, the potential victim, must also range himself
with the perpetrators of the crime or at least theirs accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss
mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía kẻ ăn
cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy câu hỏi cho
câu trả lời theo dòng nghiên cứu của chính
ông, và mọi chuyện càng ngày càng
trở nên rõ ràng, đối với ông, là,
cai trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì
cũng rứa, và, bởi vì ông ta sinh ra là có
tướng bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng
cùng với những kẻ tạo ác, hay chí ít,
cũng đồng phạm.
Sebald
… Weiss to attend the Auschwitz
trial in Frankfurt. He may also have been motivated before
the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury
has its equivalent somewhere and can be truly compensated for,
even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This
idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice
and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor
and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work
of Peter Weiss
Weiss tham dự tòa án
xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là
do ông vẫn còn hy vọng, một niềm hy vọng chẳng hề
tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái
phần tương đương của nó, ở đâu đó, và
có thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn,
ngay cả, sự bồi hoàn
này thông qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào
gây ra sự tổn thương”. Tư
tưởng này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm
quan của chúng ta về công lý, và nó,
như ông nói, “nằm trong liên hệ có tính
khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và nó cũng
cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp,
chính nó”
W.G. Sebald:
Sự hối hận của con tim.
… even if it be through the pain of whoever inflicted the injury.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá
tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói
như thế:
Ta mang cái gánh nặng của
Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc
Kít?
Con chim ousen [chim két] hót
ở trong rừng Cilgwri.
Hót hoài hót hoài
như một dòng suối dội lên những hòn đá
rêu xanh
Nhưng cũng chưa xa xưa bằng con nhái
Cors Fochno
Cảm thấy làn da lạnh chũng vào
tới tận xương tận tuỷ.
Rushdie viết, rất ít nhà
thơ kết hôn sâu xa đằm thắm với đất mẹ như nhà
thơ R.S. Thomas, một nhà thơ dân tộc Welsh [a Welsh
nationalist], những vần thơ của ông tìm kiếm, bằng
cách nhận ra, để ý [noticing], khẳng định [arguing],
làm thành vần điệu, huyền hoặc hóa, biến
đất nước thành một sinh vật rất ư là nồng nàn,
rất ư là trữ tình.
Tuy nhiên, cũng chính
ông này, cũng viết:
Sự hận thù mất nhiều thời gian
Để mà đâm chồi nẩy lộc,
và lòng hận thù của tôi
Kể từ khi sinh ra, cứ thế mà tăng
trưởng..
Không phải tôi thù
cái mảnh đất tàn nhẫn thô bạo dã
man mà tôi ra đời...
Tôi nhận ra một điều:
Cái lòng hận thù
đó, là thù cái làn da khốn
kiếp của tôi,
Cái thứ khốn kiếp, là chính
tôi!
Hate takes a long time
To grow in, and mine
Has increased from birth;
Not for the brute earth...
I find
This hate's for my own kind.
*
Thảo nào, thằng cha
Gấu thù chính nó, thù cái
chất Yankee mũi tẹt của chính nó! (1)
http://www.tanvien.net/Souvenir/19.html
Primo Levi trả lời tờ Partisan
Review, 1987
Không biết đám quản
giáo VC, khi cần chùi tay, có chùi vô áo
tên sĩ quan tù VNCH không, nhỉ?
*
Partisan Review:
Tôi bị chấn động
bởi những lá thư mà những độc giả Đức gửi
cho ông, sau khi cuốn Đây có phải 1 người,
bản tiếng Đức được xb. Đa số nhắc tới giai đoạn xẩy ra sự kiện 1 người
lính Đức đã chùi tay của anh ta lên
chiếc áo sơ mi của ông. Tại sao, theo ông,
sự kiện trên lại khiến cho họ để ý tới?
Primo Levi:
Cử chỉ đó mang tính biểu
tượng đặc thù, và vì lý do đó,
nó làm nhiều người chấn động, tôi là
người đầu tiên. Không phải là 1 cú thượng
cẳng chân hạ cẳng tay: đấm vô mặt làm tôi
đau hơn. Sự kiện là, anh lính Đức coi tôi như
là một cái khăn để chùi tay. Những ngày
tiếp theo sau, và ngay cả đến tận bây giờ, tôi vẫn
tôi cảm thấy, đây là cú sỉ nhục nặng nề
nhất mà tôi đã từng bị.
Những cú sỉ nhục như thế
đè nặng lên nhân phẩm của ông tới
cỡ nào?
Lúc thoạt đầu,
quả là đau, nhưng điều tệ hại là những gì
xẩy ra sau đó, nó là cú mở đầu.
Chúng tôi trở nên quen. Thì cũng 1 thứ
chuyện thường ngày ở huyện.
"Quen", là thế nào,
về mặt đạo hạnh, về mặt tinh thần?
Thì nói
mẹ ra như thế này: nó làm mất cái
gọi là tính người ở nơi bạn. Cách độc nhất
để sống sót, là làm quen với cuộc sống trong
trại tù, và làm quen như thế, là
một phần con người ở nơi bạn mất đi. Điều này xẩy ra cho
cả quản giáo và tù nhân. Chẳng có
nhóm nào người hơn nhóm nào.Trừ
1 số ngoại lệ, cái gọi là vô nhân tính
làm nhiễm độc luôn cả tù nhân, làm
sao không!
Khi Gunter Grass
mất, Tin Văn có đi 1 đường tưởng niệm, và cám
ơn, vì ông đã từng lên tiếng cho 1
gia đình Mít thuộc giới viết lách, xin tị
nạn tại Đức.
Và có nhắc tới bài
viết của Rusdhie, link sau đây; trong bài viết,
Rushdie kể là trong 1 lần tới Đức, ông tính
đi thăm Grass và đám phóng viên "lề
chính" bèn xì 1 phát, thằng cha đó,
mà có ra cái đếch gì mà thăm
mới hỏi!
Nhìn theo cách đó,
thì Sebald cũng thuộc loại Đức đếch chịu được, và
chính ông, cũng đếch chịu được nước Đức của ông.
Cái giấc mơ thấy mình đang rong chơi 1 phát
ở Paris, mà bị chặn hỏi, mi có phải là 1 tên
Bắc Kít khốn kiếp, GCC cũng đã từng bị, nhiều lần.
Sến chẳng đã từng mắng yêu, sao mi cứ cay đắng mãi
như thế!
http://www.newyorker.com/books/page-turner/the-greatness-of-gunter-grass
Page-Turner
The Greatness of Günter Grass
By Salman Rushdie
April 13, 2015
Photograph by Rene Burri / Magnum
In 1982, when I was in Hamburg for the publication
of the German translation of “Midnight’s Children,” I was asked
by my publishers if I would like to meet Günter Grass. Well,
obviously I wanted to, and so I was driven out to the village of
Wewelsfleth, outside Hamburg, where Grass then lived. He had two
houses in the village; he wrote and lived in one and used the other
as an art studio. After a certain amount of early fencing—I was expected,
as the younger writer, to make my genuflections, which, as it happened,
I was happy to perform—he decided, all of a sudden, that I was acceptable,
led me to a cabinet in which he stored his collection of antique glasses,
and asked me to choose one. Then he got out a bottle of schnapps,
and by the bottom of the bottle we were friends. At some later point,
we lurched over to the art studio, and I was enchanted by the objects
I saw there, all of which I recognized from the novels: bronze eels, terracotta
flounders, dry-point etchings of a boy beating a tin drum. I envied
him his artistic gift almost more than I admired him for his literary
genius. How wonderful, at the end of a day’s writing, to walk down the
street and become a different sort of artist! He designed his own book
covers, too: dogs, rats, toads moved from his pen onto his dust jackets.
After that meeting, every German journalist
I met wanted to ask me what I thought of him, and when I said
that I believed him to be one of the two or three greatest living
writers in the world some of these journalists looked disappointed,
and said, “Well, ‘The Tin Drum,’ yes, but wasn’t that a long time
ago?” To which I tried to reply that if Grass had never written that
novel, his other books were enough to earn him the accolades I was giving
him, and the fact that he had written “The Tin Drum” as well placed
him among the immortals. The skeptical journalists looked disappointed.
They would have preferred something cattier, but I had nothing catty
to say.
I loved him for his writing, of course—for
his love of the Grimm tales, which he remade in modern dress,
for the black comedy he brought to the examination of history,
for the playfulness of his seriousness, for the unforgettable courage
with which he looked the great evil of his time in the face and rendered
the unspeakable into great art. (Later, when people threw slurs at
him—Nazi, anti-Semite—I thought: let the books speak for him, the
greatest anti-Nazi masterpieces ever written, containing passages
about Germans’ chosen blindness toward the Holocaust that no anti-Semite
could ever write.)
On his seventieth birthday, many writers—Nadine
Gordimer, John Irving, and the whole of German literature—assembled
to sing his praises at the Thalia Theatre in Hamburg, but what
I remember best is that when the praise songs were done music
began to play, the theatre’s stage became a dance floor, and Grass
was revealed as a master of what I call joined-up dancing. He could
waltz, polka, foxtrot, tango, and gavotte, and it seemed that all
the most beautiful girls in Germany were lining up to dance with him.
As he delightedly swung and twirled and dipped, I understood that this
was who he was: the great dancer of German literature, dancing across
history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because
of his personal grace, and his comedian’s sense of the ridiculous as
well.
To those journalists who wanted me to diss
him in 1982, I said, “Maybe he has to die
before you understand what a great man you have lost.” That
time has now arrived. I hope they do.
Trở lại chuyện TXT. Lũ Vẹm quả đúng
là chui ra từ hang Pác Bó, vô học,
và cực kỳ man rợ, khi sử sự như 1 tên trộm cướp,
bắt cóc người, ngay tại cái nơi là người đó
được coi là khách, bị chúng săn/xua đuổi, phải
chạy tới đó, xin dung thân.
Một cách nào đó, thì
lũ Vẹm ở Đức, thì cũng là khách của Đức,
như TXT.
Chủ nhà cho hai thằng khách,
trú ở trong nhà mình, 1 thằng, lừa đêm
tối, bắt cóc thằng kia, làm sao chủ nhà
chịu nổi!
Thành thử, chẳng cần Lò Thiêu,
chẳng cần "không thể tưởng niệm, chẳng cần nỗi nhục
trong gia đình", Đức không thể nào bỏ
qua cho Vẹm được.
My
Old Saigon
https://www.facebook.com/notes/quoc-tru-nguyen/t%C6%B0%E1%BB%9Fng-nh%E1%BB%9B-nguy%E1%BB%85n-t%C3%B4n-nhan/10203841959205861/
Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan
NÓI
RA Ý TƯỞNG NÀY TÔI BIẾT SẼ CÓ NHIỀU
NGƯỜI PHẢN ĐỐI:"NƯỚC NHẬT SỞ DĨ ĐƯỢC NHƯ NGÀY NAY LÀ
"NHỜ" HAI TRÁI BOM NGUYÊN TỬ CỦA MỸ. VẬY SAO KHÔNG
LÀM DIỀU ĐÓ VỚI TRIỀU TIÊN???"
Comments
Note: Số báo này
còn 1 bài phỏng vấn Ray Bradbury, tay chuyên
viết viễn tưởng thần sầu, tác giả Fahrenheit 451.
Báo này đã từng phỏng vấn
ông, vào cuối thập niên 1970, nhưng bỏ dở,
không biết tại sao, với cả hai bên. Bài phỏng
vấn mới hoàn tất [thay thế] bài cũ, mà bản thảo
còn nằm trong 1 trong những ngăn kéo của tác
giả.
Chúng ta chưa từng đọc 1 bài phỏng
vấn nào của 1 tác giả viễn tưởng, và có
lẽ nên đi 1 bài, bởi là vì câu
trả lời sau đây của tác giả:
Một trong những truyện phổ thông nhất của
ông trong cuốn Ký sự Martian [The Martian Chronicles], là “Rồi cơn mưa nhẹ tới”, viết về 1
căn nhà cơ khí hoá [a mechanized house], vẫn tiếp tục
hoạt động sau khi ăn bom nguyên tử. Không có người ở
trong đó. Ông lấy đâu ra ý tưởng này?
Sau khi Hiroshima ăn bom, tôi
nhìn thấy 1 tấm hình 1 căn nhà, với bóng
của những người đã từng sống trong đó in lên tường,
do sức nóng, và sức đẩy của trái bom. Người thì
đi rồi nhưng bóng còn ở lại. Tôi khủng quá,
và viết truyện này.
Ui chao đúng là
THNM! Bởi vì, bỗng dưng Gấu lại nhớ đến xứ Mít!
Có 1 "ẩn dụ" nào
đó, liên quan đến 1 trái bom gì gì
đó, và căn nhà Mít đầy người, nhưng "có
thể", bóng của họ thì không còn, hiểu
theo một nghĩa biểu tượng nào đó, thí dụ, cái
bóng đó tượng trưng cái phần tốt đẹp của Mít
chăng?
Phạm Cao Củng, ông vua
viết truyện trinh thám Mít, Gấu hồi nhỏ mê ông
như điên, có 1 truyện tương tự ẩn dụ trên, nhưng
may mắn làm sao, ngược lại. Nhân vật trong truyện là
1 sát thủ giống y chang sát thủ KGB trong
From Russia With Love, Từ Nga về với tình
yêu, mỗi lần làm thịt ai, là chỉ bắn 1 phát,
ngay tim. Nhân vật của PCC cũng vậy, và lần đó, anh
ta được thuê làm thịt 1 đại gia Ðỏ cực độc, chắc chắn
gốc Bắc Kít. Khi tay này vừa ló ra, là anh
chơi một phát, đúng tim, nhưng đạn
lép!
Và viên đạn lép đã giết
sạch cái ác ở trong người tên VC cực ác
này!
Sau hai người thành bạn!
Ui chao Gấu cứ tưởng tượng mình
đúng là đại sát thủ kể trên!
Tưởng tượng không thôi mà đã
sướng mê tơi rồi!
Phạm Cao Củng có rất
nhiều truyện trinh thám thần sầu, Kho vàng Ba Bể,
Vết Tay Trên Trần…, thí dụ, với nhân vật thám
tử Kỳ Phát, cực kỳ thông minh, cực kỳ mê gái,
cực kỳ nhân hậu, cực kỳ... Gấu!
Kho Vàng Ba Bể kể câu chuyện hai chị
em gái, cùng mê Kỳ Phát, có
dòng suối Kim Tuyền, cứ mỗi năm tới mùa lũ, vào
những ngày “đó đó”, là trong nước có
vàng vụn như cát, Kỳ Phát tìm ra nguồn
của nó, là kho vàng nhà họ Mạc…
Hồi xẩy ra Điện Biên
Phủ, mấy tên tướng Mẽo đề nghị Tông Tông của chúng
là Eisenhower, hay là chơi 1 trái Baby mini,
ông nạt, tụi mi có điên không?
Sợ rằng lũ Mít bây giờ,
trong có đấng bạn quí của GCC, vẫn còn tiếc
hùi hụi!
Nhân tiện, tặng bạn ta bài
thơ sau đây, cũng nói chuyện tận thế, cùng trang
TinVăn có cái vụ "tụi mi có điên không"?
Charles Simic
Nineteen Thirty-Eight
That was the year the Nazis marched
into Vienna,
Superman made his debut in Action Comics,
Stalin was killing off his fellow revolutionaries,
The first Dairy Queen opened in Kankakee, Ill.
As I lay in my crib peeing
in my diapers.
“You must have been a beautiful
baby,” Bing Crosby sang.
A pilot the newspapers called Wrong Way Corrigan
Took off from New York heading for California
And landed instead in Ireland, as I watched my mother
Take a breast out of her blue robe and come closer.
There was a hurricane that September
causing a movie theater
At Westhampton Beach to be lifted out to sea.
People worried the world was about to end.
A fish believed to have been extinct for seventy
million years
Came up in a fishing net off the coast of South
Africa.
I lay in my crib as the days
got shorter and colder,
And the first heavy snow fell in the night.
Making everything very quiet in my room.
I believe I heard myself cry for a long, long time.
Một Chín Ba Tám
Đó là năm binh
đoàn Nazi tiến vào Vienna,
Siêu nhân lần đầu xuất hiện trên
báo hình Action Comics,
Stalin làm thịt cựu chiến hữu,
Tiệm Dairy Queen khai trương tại Kankakee, Ill.
Còn tớ thì
nằm trong máng cỏ, tè ướt đẫm tã.
“Mi hẳn sẽ là 1 đứa bé
cực đẹp”, ca sĩ Bing Crosby thổi tớ.
Một viên phi công mấy tờ báo
gọi là “Corrigan Lầm Đường”
cất cánh tại New York, nhắm California
nhưng lại hạ cánh tại Ireland,
trong lúc tớ ngắm nghía bà
mẹ của tớ lấy cái vú đầy ứ sữa ra khỏi áo
và đưa nó xuống gần miệng tớ.
Có một trận bão
khủng vào Tháng Chín,
nhấc lên cả 1 rạp hát ở Westhampton
Beach và thẩy xuống biển.
Dân chúng lo lắng sắp tận thế.
Một chú cá tuyệt chủng từ 70 triệu
năm về trước,
bèn xuất hiện, và lọt lưới 1 anh thuyền
chài ở phía bên ngoài bờ biển Nam
Phi.
Tớ nằm trong máng cỏ
trong khi ngày tháng cứ thế kéo dài
lê thê,
Ngày một ngắn hơn, và lạnh hơn.
Và một trận tuyết nặng nề đầu tiên
sẽ rơi xuống đêm nay.
Làm mọi thứ trong căn phòng của tớ
càng thêm im ắng.
Và tớ nhớ là, tớ đã khóc,
đã khóc, một thời gian thật lâu.
Vụ TXT: Chim báo bão Vẹm
ngỏm?
Dám lắm.
DTH gọi cuộc thua trận của VNCH
là văn minh thua bạo tàn, man rợ.
Nếu như thế, thì đây
là lần đụng độ thứ nhì của “văn minh vs
man rợ.”
Và lần này, Vẹm
ngỏm chắc chắn như vậy.
Lần này, Vẹm không
còn đánh lừa được bất cứ 1 ai nữa. Làm
gì có ai mơ ngủ dậy biến thành Vẹm nữa!
"No one else could gain access here
because this entrance was reserved just for you. I am going
now to close it."
This finale corresponds to that of
A Country Doctor. "Cheated! Cheated! Once you have followed
the false alarm of the night-bell, there is no returning.”
Everyone has a door to the law, to existence "dans le vrai”;
if he neglects or gambles his entrance away, no recovery is even
possible.
Johannes Urzidil
Không ai có thể qua
cửa này, vì nó dành riêng
cho mi. Tao đứng ở đây, là vì mi, chờ
mi… Bây giờ mi ngỏm thì ta đóng cửa lại và…
chuồn.
Câu cuối của Trước Pháp
Luật, ứng hợp với câu than của Dương Thu Hương,
trong Y Sĩ Đồng Quê:
"Cheated! Cheated! Once you have
followed the false alarm of the night-bell, there is no
returning.”
Đù Má Lũ Vẹm chúng
lừa Bà!
Ôi chao, thê thảm quá
cho số phận lũ Bắc Kít. Một khi chúng lầm
tiếng cầu kíu của con bệnh Miền Nam, thì đéo
có đường về nữa!
40 năm qua đi, chúng vẫn tự
hào về chiến thắng Miền Nam. Một khi chúng
làm thịt Nguỵ, là chúng làm thịt
chính chúng, chúng đâu có
thể hiểu ra được 1 sự thực hiển nhiên như thế?
Tao đứng gác ở đây, là
để chờ mi, một khi mi dùng ngụy kế, là thua:
Mọi người đều có cửa vô pháp luật, vô
cõi thật, to existence "dans le vrai", một khi bạn lơ
đãng, cẩu thả, hay vờ, hay nghe theo tiếng loa ở đầu ngõ,
hay bịp, như Vẹm bịp, để có đường vô, thì không
có sự “recovery”: Đừng bao giờ mong sẽ có 1 nước
Mít, 1 Miền Nam, như xưa, một khi Bắc Kít ký
hợp đồng với con Quỉ ở trong chuồng lợn, là tên Tẫu.
Everyone has a door to the law, to
existence "dans le vrai”; if he neglects or gambles
his entrance away, no recovery is even possible.
Cách đọc Borges của tụi
mũi lõ trên toàn thế giới,
không giống cách đọc Borges, của, chỉ 1
tên da vàng mũi tẹt Bắc Kít, là
GCC. Thế giới của Borges, chính là thế giới
của Kafka, như Gấu đã từng chứng minh. Ác mộng
ở Borges biến thành sự thực thế kỷ 20, ở Kafka. K phán,
mi THNM rồi, nhìn đâu cũng thấy VC, là do
GCC đọc Borges, mà ra Kafka!
Viên
y sĩ trong Y Sĩ Đồng Quê, của Kafka, chẳng
đúng là Dương Thu Hương ư, cả hai đều than,
chúng ta đã bị lừa.
Nền văn
học hải ngoại, của lũ Ngụy, chẳng đã thoát
thai từ cái khoảnh khắc tên trưởng toán
hành quyết VC ra lệnh bắn, và 1 năm
qua đi, giữa cánh tay giơ lên và tên
nhà văn Ngụy té xuống, trong Phép Lạ
Bí Ần, của Borges, và không chỉ 1 năm
qua đi mà "hoài hoài còn hoài",
khi VC, Cái Ác Bắc Kít vẫn hoành
hành ở nơi xứ Mít.
Quan điểm của Borges, về Nazi, và
Hitler, mới thực sự quái dị, và
áp dụng vô xứ Mít mới thần sầu
làm sao: Borges thực sự tin rằng, Hitler "thực
sự" muốn thất trận!
Bạn đọc Tin Văn hẳn còn nhớ anh bạn
học thời trung học Ngô Khánh Lãng
của GCC. Anh là sĩ quan thám báo,
đi tù VC 13 năm, thua Thảo Trường 4
năm. Anh kể là, 1 lần tù Ngụy đi qua
1 làng Bắc Kít, và anh được 1 bà
già thương tình lén quản giáo
cho 1 tô cơm. Nhìn anh ăn thê lương quá,
do đói quá, bà nói,
tụi mi đánh đấm làm sao để thua giặc
dữ. Bà già này ngày đêm
cầu khẩn cho tụi mi ra giải phóng Miền Bắc.
Solzhenitsyn Mít, nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện chẳng thế ư. Đi tù
VC, nghe tin Miền Nam thất trận, anh đi 1 đường
nhạc sến, “thôi rồi còn chi đâu em
ơi”!
Hitler wants to be defeated. Hitler is collaborating blindly
with the inevitable armies that
will annihilate him, as the metal vultures
and the dragon (which must not have been unaware
that they were monsters) collaborated, mysteriously,
with Hercules.
Search
I returned to the town where
I was a child
and a teenager and an old man of
thirty.
The town greeted me indifferently
but the streets' loudspeakers whispered:
don't you see the fire is still burning,
don't you hear the flame's roar?
Get out.
Find another place.
Search for it.
Search for your true homeland.
Adam Zagajewski”: Mysticism for Beginners
Tìm
Gấu trở về Hà Lội
Nơi Gấu còn là 1 chú
nhóc tì
Và một thằng bé mới
lớn, và một anh già 30 tuổi.
Thành phố đón Gấu lạnh
nhạt
Nhưng mấy cái loa ở đầu đường
thì thầm:
Mi không thấy lửa vưỡn còn
cháy,
Mi không thấy ngọn lửa còn
reo?
Đi chỗ khác chơi, thằng vừa
lùn, vừa lé, và ngu!
Tìm một chỗ khác
Tìm một quê khác
Gấu ơi là Gấu!
Khi mua cuốn Latest Readings, của Clive
James, Gấu nghĩ, để làm mồi, viết 1 cuốn “latest” nào
đó, đang ngần ngừ ở trong đầu của Gấu, như ngày còn
trẻ, mỗi lần hứng viết hăm he đòi đẻ, thì bèn
lôi cuốn “Absalom, Absalom!” của Faulkner ra đọc.
Nhưng khi đọc, thì đúng là
cơ hội nhìn lại Conrad, và cùng với nó
là cú TXT, và nó đúng là
chim báo bão, báo hiệu Vẹm ngỏm!
Bất giác lại nhớ đến ông
anh , lần Gấu "bẽn lẽn, thỏ thẻ", để em viết về thơ TTT, một
buổi sáng ở Quán Chùa, khi ông có
ý đưa bài viết về cuốn Bếp Lửa trên tờ Tập
San Văn Chương cho số Văn đặc biệt về ông.
Ông nhìn thằng em, quá
sức ngạc nhiên, thực sự là thế. Và rồi
ông bật cười, “Ừ, viết đi !”
Ông thực sự không tin Gấu đọc
thơ, và còn hăm he viết về thơ!
Thành ra, cái sự đọc của Gấu,
1 cách nào đó, về già nhìn
lại, đều nẩy ra từ 1 cái mầm được gieo từ ngày nào,
ngày nào.
Bài viết ngắn của Clive James, về
Conrad, là để đóng lại 1 chuỗi dài, những
tác phẩm liên quan tới Conrad, mà Gấu
đọc, bắt đầu với cuốn Trái Tim Của Bóng Đen, mà,
khi đọc 1 phát, là Gấu bèn nhận ra 1 tên
Bắc Kít vượt Trường Sơn mang văn hóa sông Hồng
vô khai hóa xứ Mọi Nam Kỳ.
Cái mầm đọc thơ, như thế, là
nét mặt cực kỳ ngạc nhiên của ông anh bữa
đó!
Nhưng, có ông trời ở trong
đó, thật, như Borges nhận xét, khi ông được trao
cho cả 1 kho sách của thế gian, và cùng lúc,
sự mù loà!
Trong cuốn Latest Readings, còn bài
“Thăm lại, Revisiting Conrad”, tác giả kể lần tới nhà
thương kiểm tra bịnh của ông, và lần đó,
nhiệt độ cơ thể cao quá, không thể trở về nhà,
và bèn lôi cuốn Lord Jim,
trên chiếc xe đẩy, 1 thứ thư viện lưu động, của nhà
thương, ra đọc, và kỷ niệm ùa về, ông nhớ lại
đọc nó từ hồi học lớp 1, cách đó nửa thế kỷ…
Cách đọc Conrad của ông, và
của Gấu, tuy có tí chút khác nhau,
khác hẳn của Borges, theo GCC, tuyệt nhất.
Khi nhớ quê hương,
kẻ thì "thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài
Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...
Seagull
Lèm bèm về biển là
phải lôi hai ông này ra. Ông thứ nhất
là..
Borges: Joseph Conrad?
Và
ông thứ nhì là tác giả Cá Voi
Trắng.
Borges:
Đúng như thế. Nhưng hai ông này chẳng có
gì giống nhau. Conrad trau giồi thứ văn nói. Lẽ tất
nhiên chúng là những câu chuyện của vì
phong nhã Marlow, người kể của hầu hết những câu chuyện.
Về ông kia, thì là Herman Melville, trong Cá
Voi Trắng… một cuốn sách gốc, tuy nhiên nó
có hai nguồn, Shakespeare và Thomas Carlyle.
Trong Cá Voi Trắng, đề tài của
nó: cái trắng khủng, the dread of the whiteness.
Thoạt đầu ông ta có thể nghĩ là, con cá
voi trắng, con vật đã xẻ thịt vì thuyền trưởng, được
lọc riêng ra, từ những con cá voi. Rồi ông ta
phải nghĩ là, tốt nhất nên làm khác đi,
bằng cách làm cho nó thành trắng, tức cái
tư tưởng, trắng là một màu cực khủng. Thường thì
chúng ra gán cho màu đen, với sự ghê rợn.
Đen, rồi đỏ, như máu, thí dụ. Nhưng Mleville bèn
phán, trắng mới khủng, mà khủng thực. Có lẽ ông
ngửi ra điều này, từ 1 cuốn sách ông đang đọc.
Tôi nghi, ông ta kiếm ra điều này,
là do đọc Poe, cuốn "Chuyện Kể của Arthur Gordon Pym".
Bởi là vì đề tài của những trang chót,
bắt đầu bằng nước ở những hòn đảo, thứ nước thần kỳ, sau cùng
bật ra cái trắng khủng. Điều này còn giải thích
Miền Bắc Cực đã từng bị xâm lăng bởi những con vật khổng
lồ màu trắng. Pym phán, bất cứ cái gì
trắng gây khiếp sợ. Và Meilville bèn chôm
liền. Thú vị là, có 1 chương mang tên “Cái
Trắng Của Cá Voi”, trong đó, ông lèm
bèm về trắng thì rất ư là khủng khiếp.
FERRARI. Borges, I see that the sea,
through Conrad and Melville, is very close to you, that you often
bear it in mind.
BORGES. Yes, always. It's so lively and mysterious-the
theme of Moby-Dick's first chapter, the theme of the sea as
something alarming, something alarming in a terrible as well
as in a beautiful way ...
FERRARI. Beauty creates this sense of danger.
BORGES. Yes, danger is created by beauty and
beauty is, in any case, one of the forms of danger and anxiety.
FERRARI. Especially if we recall Plato's phrase
from The Symposium:
'Facing the immense sea of
beauty'.
BORGES. Ah, what a lovely phrase. Yes, important
words.
FERRARI. The sea.
BORGES. The sea, yes, that's so present in Portuguese
literature and so absent in Spanish literature. For example, Quixote
...
FERRARI. Set on a tableland.
BORGES. The Portuguese, on the other hand, the
Scandinavians and-yes-the French since Hugo, feel the sea.
Baudelaire felt it; Rimbaud in his 'Le Bateau ivre' felt a sea
that he had never seen.
Coleridge wrote 'The Rime of the Ancient Mariner'
without having seen the sea; when he did see it, he felt betrayed.
And Rafael Cansinos Assens wrote an admirable poem about the sea.
I congratulated him and he answered, 'I hope one day to see it.'
That is, the sea in Assens' imagination and the sea in Coleridge's
imagination were superior to the mere sea of geography (laughs).
FERRARI. As everyone's noticed, for once we have
strayed from the plains.
BORGES. That's true.
JORGE LUIS BORGES • OSVALDO FERRARI
'Facing the immense sea of beauty':
Như thế ông quả mê biển, như Seagull
của... ông Gấu?
Borges: Quả thế. Biển, thật đáng
yêu, thật bí ẩn - chương đầu Cá Voi Trắng,
biển như 1 cái gì đáng sợ, như vẻ đẹp của 1
bướm Playboy, thì cứ phán đại như vậy. Coleridge viết
'The Rime of the Ancient Mariner' khi chưa từng nhìn thấy biển,
và khi nhìn thấy 1 phát - ở PLT - thế là
ông ta bèn tính tự làm thịt mình!
Khủng khiếp thật, đúng như Borges
phán, "danger is created by beauty and beauty is, in any case,
one of the forms of danger and anxiety."
Hà, hà!
Italo Calvino, trong "Tại sao đọc cổ điển", có
1 bài dành cho Conrad, thật tuyệt. Post sau đây.
Ông nhìn quá "cái gọi là chính
trị, màu da cái con mẹ gì đó", và
coi, đọc Conrad, là tìm về nguồn gốc của loài
người....
[Note: Mấy cái viết về Conrad,
ở đây, là để làm PR cho cuốn Giữa Lòng
Tăm Tối ở trong nước, viết chùa]
Conrad's Captains
Joseph Conrad died thirty years ago,
on 3 August 1924, in his country house at Bishopsbourne near Canterbury.
He was sixty-six and had spent twenty years as a seaman and thirty
years writing. He was already a success in his own lifetime, but his
real tune in terms of European criticism began only after his death.
In December 1924 a whole issue of La Nouvelle Revue
Francaise was devoted to him, with articles by Gide and Valery: the
remains of the old captain, a veteran of long sea voyages, were lowered
into the sea with a guard of honour comprising France's most sophisticated
and intellectual literati. By contrast, in Italy, the first translations
were only available in the red canvas bindings of Sonzogno's Adventure
Library, though Emilio Cecchi had already singled him out to readers of
more refined tastes.
Those few, bare facts are sufficient
to indicate the different kinds of appeal that the figure of Conrad
has inspired. He had lived a life of practical experience, travel
and action, and he possessed the prolific creativity of the popular
novelist, but also the fastidious attention to style of the disciple
of Flaubert, as well as having links with the chief exponents of international
Decadentism. Now that his critical fortune has been established in Italy,
at least judging by the number of translations available (Bompiani is
publishing the collected works, both Einaudi and Mondadori are bringing
out translations of individual books, either in hardback or in paperback,
while Feltrinelli's Universale Economica has recently published two
of his works), we are in a position to define what this writer has meant
and still means for us.
I believe there were many of
us who turned to Conrad driven by a recidivist taste for adventure-stories
- but not just for adventure stories, also for those authors for
whom adventures are only a pretext for saying something original
about man, while the exotic events and countries serve to underline
more clearly man's relationship with the world. On one bookshelf
of my ideal library Conrad's place is next to the aery Stevenson,
who is nevertheless almost his opposite in terms of his life and
his literary style. And yet on more than one occasion I have been
tempted to move him onto another shelf, one less accessible for me,
the one containing analytical, psychological novelists; the Jameses
and Prousts, those who tirelessly recover every crumb of sensation we
have experienced. Or maybe even alongside those who are more or less
aesthetes maudits, like Poe, full of displaced passions; always
presuming that Conrad's dark anxieties about an absurd universe do not
consign him to the shelf (not yet properly ordered or finally selected)
containing the 'writers of the crisis of modernism'.
Instead I have always kept him
close to hand, alongside Stendhal, who is so unlike him, and Nievo,
who has nothing in common with him at all. For the fact is that
though I never believed in a lot of what he wrote, I have always
believed that he was a good captain, and that he brought into his
stories that element which is so difficult to write about: the sense
of integration with the world that comes from a practical existence, the
sense of how man fulfils himself in the things he does, in the moral implicit
in his work, that ideal of always being able to cope, whether on the deck
of a sailing ship or on the page of a book.
This is the moral substance
of Conrad's fiction. And I am happy to discover that it is also
there, in its pure form, in a work of non-fiction, The Mirror
of the Sea, a collection of pieces on maritime topics: the techniques
of mooring and setting sail, anchors, sails, cargo weights and so
on. (The Mirror of the Sea has been translated into Italian
- for the first time, I believe, and in beautiful Italian prose - by
Piero Jahier, who must have had enormous fun, as well as agonising difficulty,
translating all those nautical terms: it appears in volumes 10 -11 of
the complete works being published by Bompiani, which also contains
the magnificent tales of Twixt Land and Sea, which has already
appeared in the same translation in Einaudi's Universale series.)
Who else but Conrad in these
pieces has ever been able to write about the tools of his trade
with such technical precision, such passionate enthusiasm, and in
such an unrhetorical, unpretentious way? Rhetoric only comes out at
the end with his exaltation of British naval supremacy, and his reevocation
of Nelson and Trafalgar, but this also highlights a practical and polemical
basis to these essays, which is always present when Conrad discusses the
sea and ships, just when one thinks he is absorbed in contemplation of
metaphysical profundities: he constantly stressed his regret for the passing
of the ethos of the age of sailing ships, always rehearsed the myth of
the British Navy whose age was now on the wane.
This was a typically English
polemic, because Conrad was English, chose to be English and succeeded:
if he is not situated in an English social context, if one considers
him merely an 'illustrious visitor' in that literature, as Virginia
Woolf defined him, one cannot give an exact historical definition
of the man. That he was born in Poland, called Teodor Konrad Nalecz
Korzieniowski, and possessed a 'Slav soul' and a complex about abandoning
his native land, and resembled Dostoevsky despite hating him for nationalistic
reasons, are facts on which much has been written but which are not
really of much interest to us. Conrad decided to enter the British Merchant
Marine at the age of twenty, and English literature at the age of twenty-seven.
He did not assimilate the family traditions of English society, nor
its culture or religion (he was always averse to the latter); but he
integrated with English society through the Merchant Navy, and made it
his own past, the place where he felt mentally at home, and had nothing
but contempt for whatever seemed to him contrary to that ethos. It was
that quintessentially English personage, the gentleman captain, that
he wanted to represent in his own life and in his creative works, though
in widely differing incarnations, ranging from the heroic, romantic,
quixotic and exaggerated to the over-ambitious, flawed and tragic.
From MacWhirr, the impassive captain in Typhoon, to the protagonist
of Lord Jim who tries to escape being obsessed by a single act
of cowardice.
Lord Jim goes from being a captain
to being a merchant: and here we find an even wider range of Europeans
trafficking in the Tropics and ending up as outcasts there. These
too were types Conrad had known during his naval experience in
the Malaysian archipelago. The aristocratic etiquette of the maritime
officer and the degradation of the failed adventurers are the two
poles between which his human sympathies oscillate.
This fascination for pariahs,
vagabonds and madmen is also evident in a writer far removed
from Conrad, but more or less a contemporary, Maksim Gorki. [Chắc
là Maxim Gorki. NQT]. And it is curious to note that an interest
in this kind of humanity, so steeped in irrational, decadent complacency
(an interest that was shared by a whole epoch of world literature,
down to Knut Hamsun and Sherwood Anderson) was the terrain in which
the British conservative as much as the revolutionary Russian found
the roots of their robust and rigorous conception of man.
This has brought us round to
the question of Conrad's political ideas, of his fiercely reactionary
spirit. Of course at the root of such an exaggerated, obsessive horror
for revolution and revolutionaries (which led him to write whole
novels against anarchists, without ever having known one, not even
by sight) lay his upbringing as an aristocratic, land-owning Pole,
and the milieu in which he lived as a young man in Marseilles, amidst
Spanish monarchist exiles and American ex-slavers, shipping contraband
arms for Don Carlos. But it is' only by situating him in the English
context that we can recognize in his stance a key historical configuration
similar to Marx's Balzac and Lenin's Tolstoy.
Conrad lived through a period
of transition for British capitalism and colonialism: the transition
from sail ~team. His world of heroes was based on the culture of
the small ship-owners' sailing ships, a world of rational clarity,
of discipline at work, of courage and duty as opposed to the sordid
spirit of profit. The new fleet of steamships owned by huge companies
seemed to him squalid and worthless, like the captain and the officers
of the 'Patna' who push Lord Jim into betraying himself. So, whoever
still dreams of the old virtues either becomes a kind of Don Quixote,
or surrenders, dragged down to the other pole of humanity in Conrad:
the human relics, the unscrupulous commercial agents, the bureaucratic,
colonial outcasts, all of Europe's human dregs which were starting to fester
in the colonies, and whom Conrad contrasts with the old romantic merchant-adventurers
like his own Tom Lingard.
In the novel Victory,
which takes place on a desert island, there is a fierce game of
chase, which involves the unarmed, Quixote character Heyst, the
squalid desperadoes, and the battling woman Lena, who accepts the
struggle against evil, is eventually killed, but achieves a moral
triumph over the chaos of the world.
For the fact is that in the
midst of that aura of dissolution which often hovers over Conrad's
pages, his faith in man's strengths never falters. Though far removed
from any philosophical rigor, Conrad sensed that crucial moment
in bourgeois thought when optimistic rationalism shed its final illusions
and a welter of irrationalism and mysticism was unleashed on the world.
Conrad saw the universe as something dark and hostile,
but against it he marshalled the forces of man, his moral order, his
courage.
Faced with a black, chaotic avalanche
raining down on him, and a conception of the world which was laden
with mystery and despair, Conrad's atheistic humanism holds the
line and digs in, like MacWhirr in the middle of the typhoon. He was
an incorrigible reactionary, but today his lesson can only be fully
understood by those who have faith in the forces of man, and faith
in those men who recognize their own nobility in the work they do, and
who know that that 'principle of fidelity' which he held dear cannot
be applied solely to the past.
[1954]
Italo Calvino: Why read the classics?
Note: GCC mê Conrad, còn là
do ông là sư phụ của Graham Greene. Đề tài
này cũng thú lắm, vì nó mắc mớ tới PXA,
tới Người Mỹ Trầm Lặng... (1)
Calvino viết về cuốn Victory,
mà Clive James coi là chiến thắng vĩ đại nhất của
Conrad:
In the novel Victory, which takes place on a desert
island, there is a fierce game of chase, which involves the unarmed,
Quixote character Heyst, the squalid desperadoes, and the battling
woman Lena, who accepts the struggle against evil, is eventually killed,
but achieves a moral triumph over the chaos of the world.
Trong “Chiến Thắng”, xẩy ra tại 1 hòn đảo,
là trò chơi săn đuổi dữ dằn, với hai nhân
vật, 1 giống như Đồng Qui Xốt, không súng, và
1 nữ nhân Lena, chấp nhận chống lại quỉ, cuối cùng bị
giết chết, nhưng hoàn tất cuộc chiến thắng đạo đức chống hỗn
mang của thế giới.
Chiến thắng vĩ đại nhất của Conrad.
Về nhà từ nhà
thương, loanh quanh nơi xó bếp, Gấu bèn lôi cuốn
Victory của Conrad ra đọc, và phát giác
ra 1 điều là, cái đọc của Gấu vào lúc
tám bó, đã đạt tới đỉnh rồi!
Được xb lần đầu tiên năm 1915, cuốn tiểu
thuyết hoàn tất cái mác “Gấu Nhà
Văn”, 1 cách giản dị nhất, qua cái chữ ký của
chàng. Nhân vật chính, Heyst, là hình
tượng Lord Jim, trừ đi tội lỗi. Heyst hì hục, loay hoay vượt
quá mốc văn minh, và, bảnh hơn nữa, vượt quá cả
cái mốc tư bản chủ nghĩa: Cái công ty chàng
giúp xây dựng, thành lập, tại những hòn
đảo, trở thành tan hoang, điêu tàn, nhưng chàng,
chính chàng thì lại sống sót, qua được
cơn mê đó - từ này thuổng nhạc sến –
Ở hành lang khiêu vũ nơi khách
sạn Schomber tồi tàn, ti tiện, H gặp cô gái
lý tưởng, Alma, tù nhân vô vọng của tên
Zangiacomo Orchestra. Anh bệ nàng đi cùng với anh
tới Samburan, vương quốc thần kỳ giống như Patusan và Sulaco.
Ở đó, họ có vẻ như làm chủ được sự kiện, chàng
gọi nàng là James Lena, công chúa của
Samburan. Họ giống như Adam và Eve, chỉ cần nhau, đếch cần
ai khác. Nhưng hóa ra không hẳn như vậy, họ
cũng còn cần 1 hiểu biết về cái ác, bởi vì
nó đang nhắm họ, dưới vóc dáng ớn lạnh của “Me-xừ
Jones giản dị”, một trong những nghiên cứu sâu thẳm nhất
của Conrad về khủng bố.
Trong khi cú va chạm giữa hạnh phúc
và huỷ diệt mỗi lúc một thêm xán
vào nhau, độc giả cuốn sách, trải qua ít
lắm là 1 trăm trang, khẩn cầu, Heyst có 1 khẩu súng
giấu ở đâu đó. Những trận đánh đẫm máu
lớn lao đầu tiên của Cuộc Chiến Lớn đã xẩy ra trong khi
Conrad cho xb cuốn tiểu thuyết, nhưng chẳng có tí ti dấu
báo, rằng hòa bường sẽ ló dạng. Conrad hiểu rất
rõ, 1 thứ lòng tốt, hay thiện ý “cái con
mẹ gì đó”, mà không có tí
võ khí lận lưng thì rất ư là vô
dụng trước cái ác ma mãnh được võ trang
đến tận răng!
Đây cũng là bài học thế
kỷ sắp tới, đang tới, nên dạy đi dạy lại, và cứ
thế cứ thế, cho đến những ngày này của chúng
ta - tội nghiệp lũ Ngụy, không hề được học bài học
này, lúc nào cũng đinh ninh, thằng anh Yankee
mũi tẹt, giọt máu Mít xẻ làm đôi, phải
hơn thằng Yankee mũi lõ, hà, hà!
Bài học, hòa bường không
phải là 1 nguyên tắc, hay nguyên lý,
mà chỉ là một tình trạng, hay tình
hình, hay thái độ, đáng thèm, của
những áp phe. Và nó không thể nào
đạt/đoạt được nếu không có 1 khả năng về bạo động, ít
nhất thì cũng bằng bằng, xêm xêm với… Cái
Ác Bắc Kít!
Conrad chẳng hề muốn tới được kết luận như vậy,
chẳng khác gì chúng ta, nhưng linh tính
nghệ sĩ của ông là bằng chứng chống lại dáng
vẻ nhẹ nhàng nhất của một sự khuây khỏa tinh thần
thần bí, và chúng ta cũng cầu được như thế.
Thời đại của những vụ tàn sát của chúng ta,
là thời đại của sự bịp bợm trí thức, một khi mà
con người nghĩ rằng mình cắt nghĩa những sự kiện chỉ có
thể dựa vào đó để đưa ra một bảng kết toán
thẳng thừng, về những gì thực sự xẩy ra. Conrad là nhà
văn tới được sự trưởng thành chính trị, trước bất cứ
một nhà văn nào khác của thời của ông, và
khi họ làm được điều này, thì cũng chỉ tới đầu
gối của ông.
Nói thì nói thế, tuy nhiên
phải thừa nhận là, sự ngu ngốc thẳng đứng của Heyst trở
thành chán ngắt ở những xen sau cùng. Conrad
đúng ra phải để cho những nhân vật của ông thông
minh như ông, như vậy tốt hơn, trong cái việc minh hoạ
sự quan tâm có tính đề tài của ông,
về, bằng cách nào, những sức mạnh lịch sử nghiền nát
đám người ngây ngô sẽ cũng nghiền nát đám
người khôn ngoan, nếu chúng không sửa soạn để chống
trả. Sau cùng ông tính tăng cường cái ý
nghĩ thèm muốn của chúng ta, rằng, học vấn – gặt hái
được từ cái đọc Conrad – có thể đủ, để ngăn ngừa man rợ.
Nhưng man rợ đếch thèm “care”, chúng
ta có học vấn hay là không!
Nhưng Vẹm đếch thèm care...
Quả thế thực, qua vụ TXT
(1)
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/TTT_9.html
A Burnt-out Case
Ầm ầm sóng vỗ chung
quanh ghế ngồi
Câu
thơ trên, của Nguyễn Du, trong truyện Kiều, tả cảnh Kiều ở
trung tâm một trận bão, lụt, làm Gấu nhớ tới cái
truyện ngắn chỉ có được mỗi cái tên truyện của
Gấu: Mắt Bão.
Nhớ, cả cái bữa ngồi Quán Chùa,
khoe cái tít với ông anh, ông biểu, còn
nhiều từ như thế lắm, ở trong môn học địa lý.
Nhưng,
"ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi", còn là
cái dáng ngồi như ông Bụt của Marlow, khi anh
kể lại câu chuyện của Kurtz, trong Trái Tim Của Bóng Đen.
Và đúng là cái tâm
trạng của NHT, kẻ "chẳng bao giờ đi xa và cứ ở mãi
đây", ở cái xứ Bắc Kít. Ở trung tâm của
Bóng Đen.
Ở Mắt
Bão.
Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun
qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en
nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage
de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait,
il était « parti très loin, comme dirait Kafka,
pour rester ici ».
Thì, tất nhiên,
nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước
đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái
tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội,
ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát
hải tặc Thái lan, mãi tít tới miệt Công
Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là
nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng
hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh
ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.
Kurtz,
như thế, họ hàng với Colonel Sutpen, trong Absalom, Absalom!
Cũng dòng Yankee mũi tẹt, gốc gác
Hải Dương [cùng quê PXA], hay Sơn Tây [cùng
quê Tướng Râu Kẽm]?
Gấu bảnh hơn cả PXA & Râu Kẽm: Sinh Hải
Dương, nhưng gốc dân Sơn Tây!
Gấu về Bắc lần đầu, năm 2000, là để tìm
hỏi coi ông bố mình mất ngày nào,
và đến chỗ ông mất, trên, ngày xưa chỉ
là một bãi sông, thắp nén hương cho
bố, rồi đi.
Mấy ông bạn văn VC nói, đi làm
cái quái gì nữa, anh mua cái nhà,
khu Thanh Xuân chẳng hạn, vừa gần Tướng Về Hưu vừa gần tụi
này!
Đi rất xa, chỉ để ở lại đây!
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm!
*
NHT cũng một thứ Kurtz, nhưng
chẳng bao giờ rời xứ Bắc Kít!
Bảnh nhất trong những Trái Tim của Bóng Đen!
Ông Trùm.
Chẳng cần đi rất xa, và cứ ở mãi đây!
Giles
Foden, đọc và giới thiệu A Burnt-out Case của Greene, cũng
nhận ra, Trái Tim Của Bóng
Đen của Conrad phủ lên nó.
"Burnt-out", cháy mất tiêu, cháy
đến tàn lụi, ở đây, là để chỉ tình trạng
bệnh cùi ăn chân tay của người bệnh, biến chúng
thành một thứ bóng ma, có đó, nhưng không
có đó.
Note:
Bài viết của Vila Matas, theo GCC, là số 1
trong tất cả những bài viết về Conrad, đúng hơn, về
Trái Tim Của Bóng Đen
On the Meadow
With the wind gusting so wildly,
So unpredictably,
I'm willing
to bet one or two ants
May have
tumbled on their backs
As we
sit here on the porch.
Their
feet are pedaling
Imaginary
bicycles.
It's
a battle of wits against
Various
physical laws,
Plus
Fate, plus-
So- what
-else- is-new?
Wondering
if anyone's coming to their aid
Bringing
cake crumbs,
Miniature
editions of the Bible,
A lost
thread or two
Cleverly
tied end to end.
Đồng cỏ
Với gió dữ như thế
Lại đếch thèm cảnh báo
Gấu đoan chắc
Ít lắm là phải có
một,
Hoặc hai con kiến
Té bổ chửng
Chân chổng lên trời
Khi chúng tớ ngồi ở đây,
dưới vòm cổng
Cẳng chúng đạp, như đạp xế đạp
Những chiếc xế tưởng tượng
Đó là 1 trận chiến của
những mưu mẹo,
Chống lại luật vật lý, lúc
thế này, lúc thế khác
Cộng Số Phần, cộng –
Tính thêm cái gì
mơi mới, đường được, so what?
Lẩn thẩn lầu bầu, cầu có ai
mò tới kíu chúng
Nhớ đem theo mấy mẩu bánh vụn
Ẩn bản mini Thánh Kinh
Một sợi chỉ đã mất, hay hai sợi
Hai đầu thắt thật gọn.
Empty Rocking Chair
Talking to yourself
on the front porch
As the night blew in
Cold and starless.
Everybody's in harm's
way,
I heard you say,
While a caterpillar
squirmed
And oozed a pool of
black liquid
At your feet.
You turned that notion
Over and over
Until your false teeth
Clamped shut.
Ghế Xích Đu Trống Trơn
Lầu bầu với đầu gối
Hay cái đầu,
Hay chính Gấu,
Ở nơi vòm cổng trước
Khi đêm ào tới
Lạnh, và trên trời không
1 vì sao
Sông có khúc, người
có lúc
Gấu nghe Gấu Cái phán
Trong lúc một con sâu bướm
bò ngoằn ngoèo
Và ị ra cả 1 bãi nước đen
ngòm
Dưới chân GC
GC lầu bầu, lầu bầu hoài, "chân
lý" trên
Tới một lúc
Hàm răng giả
Bực quá
Bèn khớp cứng lại!
Ambiguity's Wedding
for E. D.
Bride
of Awe, all that's left for us
Are vestiges of a feast
table,
Levitating champagne
glasses
In the hands of the
erased millions.
Mr. So-and-So, the bridegroom
Of absent looks, lost
looks,
The pale reporter from
the awful doors
Before our identity
was leased.
At night's delicious
close,
A few avatars of mystery
still about,
The spider at his trade,
The print of his vermilion
foot on my hand.
A faded woman in sallow
dress
Gravely smudged, her
shadow on the wall
Becoming visible, a
wintry shadow
Quieter than sleep.
Soul, take thy risk.
There where your words
and thoughts
Come to a stop,
Encipher me thus, in
marriage.
Charles Simic
My
Old Saigon
Thôi
rồi Nghẹo ơi, bảo sao mày im thế.
Đức nói, Vẹm bội tín, là
vậy.
Vả chăng, Đức vô phương bỏ qua vụ TXT,
vì, có thể nói, nếu bỏ qua, là vờ
luôn hồi ức về Lò Thiêu, như Sebald phán
[Trong bài viết Không chiến và văn chương
(Air War and Literature) ông có giải thích
về cái sự im hơi bặt tiếng, của hồi ức văn hoá Đức:
Họ coi đây là một điều cấm kỵ, một vết thương, vết
nhục ở trong gia đình, [a kind of taboo like a shameful family
secret].
Những gì gì, "không thể
tưởng niệm, nỗi nhục trong gia đình", TXT có
thể nói, là nén hương đầu tiên Đức
đốt lên, để tưởng niệm nạn nhân Lò Thiêu,
làm sao họ bỏ qua cho được?
Đừng có nghĩ là Gấu cường điệu,
vì sự thể nó đúng như thế. Chẳng cần hồi
ức Lò Thiêu, thì Đức cũng không thể
bỏ qua.
Được coi là thượng khách, theo
đúng luật của con người cũng như luật bang giao quốc
tế, vậy mà lén lút bắt cóc người,
đem nhốt tại tòa đại sứ Vẹm, trong khi chờ đưa về xứ Mít,
làm sao Đức chịu nổi?
TXT, cũng là thượng khách của
Đức, như bất cứ 1 người nào khác, ngoài
ra, còn là kẻ không còn nơi nương tựa,
trú ẩn, cầu cứu tới nước Đức, người Đức, làm sao họ
thản nhiên, bỏ qua?
http://web.archive.org/web/20070620141237/http://tanvien.net/
Không thể nào tưởng niệm,
The Inability to Mourn, đó mới chính là
tình trạng đau thương của người Việt, y chang nước Đức
sau Lò Thiêu.
Người đẻ ra lý thuyết Không
thể nào tưởng niệm, là Alexander and Margarete
Mitscherlich, vào năm 1967. Kể từ đó, nó
được chứng nghiệm, proved, mặc dù, thật khó
mà kiểm chứng, verified, như là một trong những
lời giải thích sáng sủa nhất, rõ ràng
nhất cho cái chứng bệnh tâm thần của xã hội
Đức hậu chiến, theo W. G. Sebald, trong bài viết Contructs
of Mourning, được in trong Campo Santo [nhà xb Hamish Hamilton,
Penguin Books, bản dịch tiếng Anh, 2005].
Người Việt trong, ngoài nước,
thù VC vì đã tước đoạt của họ giấc mơ
tuyệt vời nhất - sau giấc mơ chấm dứt chiến tranh, thống nhất
đất nước - cứ thế mà cùng nhau bước vào thiên
niên kỷ, không một chút hận thù, không
một chút phân biệt, kẻ thắng, người thua.
Câu của Sunday Times, thổi Sebald, đúng
chỉ 1 nửa. Sebald vs Borges, OK, nếu chỉ nói về mặt văn
chương. Nhưng thời của Sebald là của Lò Thiêu.
Borges, vô thời.
Publisher's Note
Campo Santo brings together pieces written
over a period of some twenty years touching, in typical Sebaldian
fashion, on a variety of subjects. None has been previously
published in book form, but the ideas expressed in 'Between History and Natural History'
will be familiar to some readers - the essay is the predecessor of the Zurich
lectures which later became the backbone of On the Natural History of Destruction.
Sân Trường Cũ
WG Sebald's last book, Campo
Santo, offers further proof of his rare gift for tackling Germany's
pain, says Jason Cowley
Sunday February 27, 2005
The Observer
Sampo Santo, cuốn sách sau chót
của Sebald, đưa ra thêm chứng liệu cho thấy tài
năng quí hiếm của ông, trong cái việc sờ vô
nỗi đau của Ðức.
Bài điểm này trên
tờ Observer, tuyệt quá.
TV tính dịch, đăng bài giới thiệu
cuốn trên, của Sven Meyer, nhưng thôi, "tùy
tiện" mình chơi bài này trước.
Trong những kỳ tới GCC sẽ giới thiệu mấy bài
viết trong Về lịch sử tự nhiên của
huỷ diệt.
Ðể đáp lại thịnh tình của
vị độc giả hâm mộ Sebald!
“And so they are ever returning
to us, the dead.”
NOTES ON A VOICE: W.G. SEBALD
Sent East
James Wood writes about W.G.
Sebald's 'Austerlitz'
The destruction of someone's
native land is as one with that person's destruction. Séparation
becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new
homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever
has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble
about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’
to which Améry confesses, although he wants no more to do with
that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim,
"In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini"
("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran
commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security.
"Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent.
Même sous la forme du regret, elle prend un caractère
dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement,
protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's
homesickness was of course in line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry:
Chống Bất Phản Hồi: Against
The Irreversible.
[Sự huỷ diệt quê nhà
của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính
ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách
nát, và chẳng thể nào có quê
mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu
và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là
tiêu táng thòng, là ô hô
ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là
'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn
sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng
một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá
đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ
vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán,
là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng
ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không
còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ
cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông
viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay
cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có
cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật
mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống
cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà
của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước
muốn xem xét lại lịch sử].
L'homme a des endroits de son
pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur
entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người
có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau
thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon
Bloy.
W.G. Sebald trích dẫn,
làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim:
Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter
Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works
of Peter Weis, trong "Lịch sử tự nhiên về
huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage
Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
My
Old Saigon
Follow
TÔI
CHƯA CƯỚI VỢ MÀ!
Anh chàng Martinez
mới gặp linh mục Đặng Hữu Nam, ngạc nhiên nói:
"Oh You look so young, I thought.." (ôi trông cha
còn trẻ quá, thế mà tôi cứ tưởng...).
Cha Đặng Hữu Nam tỉnh bơ nói:
"of course, I'm not getting married" (dĩ nhiên
rồi, tôi chưa cưới vợ mà"
��
Tôi và Martinez
cười sảng khoái vì câu đáp
độc đáo của ngài.
Tính
hóm hỉnh hài hước của cha Nam đã
khiến không khí cuộc nói chuyện với chàng
phóng viên ngoại quốc về chủ đề Formosa trở nên
nhẹ nhàng hơn nó vốn có. Chính
sự hài hước tự nhiên trong những câu chuyện khô
khan đã làm nhiều người bất ngờ đến thú vị.
Trong công việc thì nguyên tắc nhưng tương
quan nhân vị thì lại tình cảm và những
câu chuyện tiếu lâm luôn làm cho các
vị khách cười nghiêng ngả. Thật ra đâu phải chỉ
khách mới cười, anh em chúng tôi ở với cha
suốt cả năm trời mà khi nào cha kể chuyện cũng cười
không kịp nhặt răng.
Anh chàng
Martinez trước khi về nước đã nhắn tôi:
cám ơn cha và anh rất nhiều. Đây là
lần đầu tiên đi làm phóng sự mà
được cảm thấy như ở nhà mình.
Tôi
rất vui vì nghe được tâm tình đó
từ Martinez nhưng vui hơn vì học được điều đó
từ cha: đón tiếp tất cả mọi người với sự nồng nhiệt và
nụ cười của mình.
Mời đọc bài
viết chi tiết trên tờ The Guardian về cuộc chiến của chúng tôi
đòi công lý cho nạn nhân Formosa.
https://www.theguardian.com/…/vietnamese-fishermen-jobless-…
Sách
& Báo
Mới
Of course, Kafka is not the first
writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his art—think
of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness
with which he conceived of his role. Who else could
have invented the torture machine at the center of his
frightful story “In the Penal Colony,” which executes miscreants
by graving their sentence—le mot juste!—with a metal
stylus into their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên, Kafka
đâu phải nhà văn đầu tiên, càng
không phải nhà văn cuối cùng, nhìn
ra mình, lọc mình ra, như là 1
kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà
mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới
Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1
tí là thêm tên GCC vô!]. Nhưng
ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là,
loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có
mỗi cú đó, với “cái mình, cái
đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ
xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ
đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình,
"nhà dzăng".
Làm sao có
thằng cha nào, ngoài Kafka ra, phịa
ra được cái máy tra tấn người ở trung tâm
câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới"
[xém thêm cái tên của nó,
là Xứ Mít bi giờ!], nó hành
quyết những tên “ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng
cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản
án [le mot just], vô da vô
thịt họ.
Ending at the Begining
Chấm Dứt ở Bắt
Đầu
John Banville đọc Kafka,
những năm đầu đời
GCC biết đến Banville, lần ông
đọc Nhà Hội của Amis, trên tờ NYRB.
Tay này cũng cực lạ. Viết tiểu thuyết, điểm sách,
và có vẻ như rất mê đám
thiên văn học.
Note: Bài viết
trên, GCC mua tờ báo, tính giới
thiệu & dịch, may sao thấy trên net, qua địa
chỉ của 1 vị bằng hữu. Tks. NQT
For a person as sensitive as Kafka
was, or at least as he presented himself as being—it
is entirely possible to view his life in a light other
than the one he himself shone upon it—inner escape was
the only available strategy. “If we are to believe his own
personal mythology,” biographer Reiner Stac...
nybooks.com
Cuốn thứ ba, Những
Năm Đầu Đời, lại xb sau hai cuốn trước, và đây
là do vấn đề pháp lý liên quan
tới thư khố Kafka.
Gấu mua hai cuốn trước,
chưa có tiền mua cuốn mới ra lò, và,
ngại đọc quá.
Đọc bài điểm
của Banville, vớ được 1 câu thần sầu, post liền
sau đây.
Stach tells us that
Kafka "grouped his first literary endeavors under
a surprising watchword: coldness," and lamented: "What
a chill pursued me for days on end from what I had written!"
It is not clear why the biographer considers this surprising;
the first and hardest lesson an artist must learn is to curb
the excesses of youthful ardor. A mark of Kafka's greatness
was the distance from himself that he achieved in his writings
from the outset. The remarkable story "The Judgment," composed
in a single sitting one night in 1912, which he considered
his first fully achieved work, is written at "degree zero," to
use Roland Barthes's formulation, and maintains a dreamlike steadiness
and purity of tone, despite its strongly autobiographical theme-the
son humiliated and overborne by the father-and the fact that
it was done, the author himself wrote, by way of "a complete opening
of body and soul." Kafka always wrote out of himself, and of himself,
without ever imagining
that thereby he was
directly expressing himself. The artist, he once remarked,
is the one who has nothing to say. "He would always speak
only of the act of writing as the truly precious element," Stach
observes, "but not of the resulting works, which always conveyed
no more than a hazy image of the flash of creation."
In his diary in 1920 he wrote of a moment when he had
a clear glimpse of what would be for him the true creative
flame. He was sitting one day, "many years ago,… on the slope
of the Laurenziberg," the hill in the center of Prague that
figures in "Description of a Struggle," brooding on "the wishes
I had for my life":
The most important or the most appealing wish was
to attain a view of life (and-this was inescapably
bound up with it-to convince others of it in writing) in which
life retained its natural full complement of rising and falling,
but at the same time would be recognized no less clearly as a
nothing, as a dream, as a hovering.
This artistic epiphany-remarkably
reminiscent of that interrupted moment in Beckett's
Krapp's Last Tape when Krapp recognizes
that his aim must be to allow into his work the darkness
he had always struggled to keep out-is summed up beautifully
by Stach when he writes: "The presence of
being and nothingness in one and the same moment, in the same
object or the same sentence, struck Kafka as a sign of perfection
that made life worth living." And art worth making
Sự hiện diện của hữu thể và
hư vô, trong một và cùng khoảnh khắc,
trong cùng 1 sự vật, hay cùng 1 câu
câu văn, thọi Kafka, như là 1 ký hiệu của
sự hoàn hảo, nó làm cho cuộc đời đáng
sống, và nghệ thuật đáng làm ra.
Một Kafka Khác
Such anecdotes pierce the austere
image left by Kafka’s work. Mr Stach also effectively undermines
conventional views of Kafka as a prophet of the
atrocities to come (his three sisters died in
Nazi concentration camps, as did two of his mistresses).
A frequent target of anti-Semitic remarks, Kafka depicted
the world as he saw it, full of lonely and persecuted individuals,
but not one
without hope.
Franz Kafka: Nervous brilliance
A definitive biography
of a rare writer
Tờ Người Kinh Tế đọc "Những
năm đốn ngộ", [Kafka: The Years of Insight. By Reiner Stach], coi đây là tiểu sử chung quyết của Kafka, và qua tác giả cuốn sách,
Kafka không đến nỗi thê luơng như hậu
thế thường nghĩ/đọc ông.
Thế giới cũng không
đến nỗi vô hy vọng, dù chỉ một, not
one without hope. (1)
(1)
Benjamin
nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod
và Kafka. "Tôi nhớ lại", Brod viết,
"một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu bằng Âu-châu
ngày-này và sự suy tàn của
nhân loại. 'Chúng ta là những tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái
đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt
đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic,
về cuộc đời: Thượng Đế chỉ là một ác thần. Thế giới:
Sự Sa Ngã của Người.
'Ô, không
phải đâu,' Kafka nói, 'thế giới chúng
ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của
Thượng Đế, một ngày xấu của người.'
'Vậy thì có
hy vọng ở bên ngoài cái thế giới
mà chúng ta biết'.
Ông mỉm cười.
'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng
- nhưng không cho chúng ta, dù chỉ một'.
A Different Kafka
by John Banville
Of course, Kafka is not the first
writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his art—think
of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness
with which he conceived of his role. Who else could
have invented the torture machine at the center of
his frightful story “In the Penal Colony,” which executes
miscreants by graving their sentence—le mot juste!—with
a metal stylus into their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu
phải nhà văn đầu tiên, càng
không phải nhà văn cuối cùng,
nhìn ra mình, lọc mình ra, như là
1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà
mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới
Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1
tí là thêm tên GCC vô!]. Nhưng
ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là,
loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có
mỗi cú đó, với “cái mình, cái
đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ
xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ
đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình,
"nhà dzăng".
Làm sao có
thằng cha nào, ngoài Kafka ra, phịa
ra được cái máy tra tấn người ở trung tâm
câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới"
[xém thêm cái tên của nó,
là Xứ Mít bi giờ!], nó hành
quyết những tên “ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng
cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản
án [le mot just], vô da vô
thịt họ.
“Kim chích vô thịt
thì đau” là theo nghĩa này
đấy!
Kafka, “the poet of his own disorder”
John Banville
Note: Trong bài viết,
khi điểm mấy cuốn mới ra lò về Kafka -
Một Kafka Khác
- Banville đánh giá cao cuốn của
Pietro Citati.
GCC khi mua, đọc
cái bìa sau là đã thú
rồi!
Cũng trong bài
điểm, Banville xoa đầu bạn quí của Kafka,
là Brod, người mà Kundera coi như đếch hiểu
1 tí gì về Kafka!
Banville phán,
mặc dù mắc nhiều lỗi, nhưng cũng được lắm.
Khi biết bạn mình bị bịnh lao, Brod an ủi: “Bạn sung
sướng trong cái không sung sướng”.
Tuyệt!
Tính gửi tặng bạn quí
“NDTM” nhưng lại ngại!
Hà, hà!
Brod, though mistaken in some
things—his representation of Kafka as a religious
writer, for instance—was ever commonsensical. He largely
had the measure of his friend, and even after Kafka had
been diagnosed with tuberculosis did not hesitate to write
to him with a flat rebuke: “You are happy in your unhappiness.”
In the matter of originality
of approach one should mention Pietro Citati’s
Kafka (English translation 1990) and Robert Calasso’s
K. (English translation 2005). These are not biographies
but deeply perceptive and poetic meditations on the unique
phenomenon that Kafka represented.
My
Old Saigon
Người ta
thấy “chàng” ngồi Quán Chùa - ấy
chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy
chết xin lỗi – quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn
- ấy chết xin lỗi - tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng
bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô bạn có
giờ học ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy
hoáy ghi sổ tay, tự nhủ thầm, mình mới ba mươi
tuổi, còn “xoan” chán!
Ui chao, bữa nay "chàng" ăn mừng
Tám Bó!
Cảm khái chi đâu!
[việc Steiner
thiếu vắng trong sự dịch thuật ở Việt Nam càng
cho thấy thêm trí thức Việt Nam
không đủ sức bao quát các
giá trị của tư tưởng thế giới - bởi vì,
một phần lớn, họ chỉ chăm chăm thể hiện mình
rất giỏi, mình công chính, đồng
thời chăm chăm nói xấu người khác, và
trong tập đoàn ấy có vô số giáo
sư]
Blog NL
Theo GCC, không hẳn như thế.
Steiner, ít
được cả thế giới quan tâm, không
chỉ riêng với Việt Nam, sở dĩ như thế,
là do ông ta quá quan
tâm tới, chỉ 1 vấn đề, Lò Thiêu,
và chính vì quan tâm
đến Lò Thiêu, cho nên, quan tâm
độc nhất của ông ta, là về Thượng Đế,
như chính ông ta thú nhận, khi
trả lời tờ The Paris Review:
http://www.tanvien.net/pv/pv06_george_steiner.html
Những người
buộc tội tôi "tản mạn" (scattering), là
họ phỉnh nịnh tôi đấy. Thị kiến của
riêng tôi, hầu như chỉ xoáy
về một điểm. Khi còn là một gã
quá trẻ, tôi cho xuất bản cuốn Tolstoy
hay là Dostoevsky, trong đó, tôi
nhắc đi nhắc lại mãi, rằng điều phân
biệt hai nhà văn này với một Flaubert
hay một Balzac, đó cũng là điều làm
họ giống Melville, và đó là chiều
thần học (theological dimension), tức là câu
hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế. Cuốn sách nói
về điều mà Những Hiện Diện Thực mở rộng
ba mươi lăm năm sau đó. Tôi tin tưởng rằng
có một số chiều nào đó, trong văn chương,
nghệ thuật, âm nhạc, và cả trong triết học:
chúng sẽ không thể nắm bắt được, nếu câu
hỏi, có hay không một đấng Thượng Đế, bị
coi là vô nghĩa.
Steiner là
Thầy của GCC, có thể nói như thế.
Kỷ niệm gặp Thầy của GCC, y chang lần gặp TTT,
khi được bạn Chất, đưa đến nhà bạn, và
thấy TTT ngồi ở cái bàn ở góc
nhà, hai chân cho cả lên ghế, theo
cái kiểu ngồi chổm hỗm, viết, chẳng để ý
gì đến gì khác. Với TTT, Gấu ngộ
ra cuộc đời của Gấu, sau đó, cái hình
ảnh của ông đó, sẽ là của Gấu sau này.
Với Steiner, có thể nói,
ông trao cho Gấu gánh nặng
Lò Thiêu, và, 1 phần nào
đó, Gấu đã giải ra được, cũng,
“một phần nào” đó.
Sở dĩ những nhà
thơ Mẽo, như Robert Hass, hay như Auden, Anh, không
đọc được những nhà thơ như Osip Mandelstam, là
do họ không làm sao chọc
thủng được Cái Độc, Cái Ác
Á Châu.
Đây là cái
ý mà Gấu ngộ ra, khi đọc
Tolstaya, như đã từng lèm bèm
nhiều lần.
Trong bài
Tựa cho cuốn thơ của Osip Mandelstam, mà
GCC mới bê về, dịch giả phán, y
chang:
Sở dĩ thơ Osip Mandelstam không
đọc được, vì nó quá
phi nhân, quá lạnh lùng,
theo cái nghĩa, thánh nhân
bất nhân, coi thiên hạ như… kít
(sô cẩu):
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1467671643474397&id=1444490525792509
Thiên địa
bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu ﹔thánh nhân
bất nhân, dĩ bách tính
vi sô cẩu. Thiên địa chi gian,
kì do thác thược hồ ? Hư nhi bất khuất,
động nhi dũ xuất. Đa ngôn sác (sổ)
cùng, bất như thủ trung.
DỊCH NGHĨA
Trời đất bất nhân, coi
vạn vật như chó rơm; thánh
nhân bất nhân, coi trăm họ như
chó rơm.
Khoảng giữa trời đất như ống
bễ, hư không mà không
kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng
ra. Càng nói nhiều lại càng
khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.
Tại sao Âu Châu
lại có thể là lò cừ văn hóa
và một sàn diễn của cái man rợ tồi tệ
đến như thế?
Tại làm sao lại có
1 giống dân ưu việt đến như thế. Hitler đã
từng phán, Do Thái phịa ra ý thức,
lương tâm (1)
(1)
Exemple : « Ce qui me
fascine, c'est le mystère de l'excellence intellectuelle
juive. II ne faut pas être hypocrite: en sciences, le
pourcentage de Nobel est écrasant. II y a des domaines dans
lesquels il y a presque un monopole juif. Prenez la création
du roman américain moderne par Roth, par Bellow, par
Heller et tant d'autres. Les sciences, les mathématiques,
les médias aussi. .. Est-ce qu'il y a le fruit de la
pression terrible du danger? Est-ce que le danger est le père
de l'invention et de la création? J'ose le croire. Le
judaisme est la seule religion qui ait une prière spéciale
pour les families dont les enfants sont des savants. Cela me
remplit d'une joie et d'un orgueil fou. [ ... ] Non vraiment, quand
Hitler déclare "Ie Juif a inventé la conscience",
il a parfaitement raison. [ ... ] Le mystère de ce qui attise
la haine chez le non-Juif, c'est je crois que le Juif a signé
un pacte avec la vie. II semble y avoir une négociation millenaire
entre le Juif et la vie elle-même, le rnystère de
la vitalité humaine. "
Thầy của Gấu phán về
Do Thái của Thầy mới bảnh làm sao. Trò cũng có
những ý nghĩ tương tự về gốc Bắc Kít của nó, nhưng cái
kết luận của Thầy và của Trò ngược hẳn
nhau:
Những tên Bắc Kít
cực kỳ thông minh, là thể nào não
của chúng cũng bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu
có lương tri của con người.
Thầy, Do Thái đã
ký 1 hòa ước với đời sống, và chính
vì thế mà dân Do Thái bị thù
ghét!
Aleph
Cách đọc Borges của tụi mũi lõ
trên toàn thế giới, không giống cách đọc
Borges, của, chỉ 1 tên da vàng mũi tẹt Bắc Kít,
là GCC. Thế giới của Borges, chính là
thế giới của Kafka, như Gấu đã từng chứng minh. Ác
mộng ở Borges biến thành sự thực thế kỷ 20, ở Kafka. K phán,
mi THNM rồi, nhìn đâu cũng thấy VC, là do
GCC đọc Borges, mà ra Kafka!
Viên y sĩ trong Y Sĩ Đồng
Quê, của Kafka, chẳng đúng là Dương
Thu Hương ư, cả hai đều than, chúng ta đã bị
lừa.
Nền văn học hải ngoại, của lũ
Ngụy, chẳng đã thoát thai từ cái
khoảnh khắc tên trưởng toán hành quyết
VC ra lệnh bắn, và 1 năm qua đi, giữa cánh tay giơ
lên và tên nhà văn Ngụy té xuống,
trong Phép Lạ Bí Ần, của Borges, và không
chỉ 1 năm qua đi mà "hoài hoài còn
hoài", khi VC, Cái Ác Bắc Kít vẫn
hoành hành ở nơi xứ Mít.
Quan điểm
của Borges, về Nazi, và Hitler, mới thực sự
quái dị, và áp dụng vô xứ
Mít mới thần sầu làm sao: Borges thực sự
tin rằng, Hitler "thực sự" muốn thất trận!
Bạn đọc Tin
Văn hẳn còn nhớ anh bạn học thời trung học
Ngô Khánh Lãng của GCC. Anh là
sĩ quan thám báo, đi tù VC
13 năm, thua Thảo Trường 4 năm. Anh kể là, 1 lần
tù Ngụy đi qua 1 làng Bắc Kít, và
anh được 1 bà già thương tình lén
quản giáo cho 1 tô cơm. Nhìn anh ăn thê
lương quá, do đói quá, bà nói,
tụi mi đánh đấm làm sao để thua giặc dữ.
Bà già này ngày đêm cầu khẩn
cho tụi mi ra giải phóng Miền Bắc.
Solzhenitsyn
Mít, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
chẳng thế ư. Đi tù VC, nghe tin Miền Nam thất trận,
anh đi 1 đường nhạc sến, “thôi rồi còn chi
đâu em ơi”!
Hitler wants to be defeated. Hitler is collaborating blindly
with the inevitable armies that will annihilate
him, as the metal vultures and the dragon (which must
not have been unaware that they were monsters) collaborated,
mysteriously, with Hercules.
Lạ, hiếm, phong trần, tã:
Vớ được tại tiệm sách cũ.
FOREWORD
First and foremost, I think
of myself as a reader, then as a poet, then as
a prose writer. The initial part of this statement
calls for no explanation; the other two should
be qualified. They do not mean- they emphatically do
not mean-that I am fonder of my verse than of my prose,
or that I judge it as technically better, For all I know,
the opposite may be true. I suspect that poetry differs
from prose not, as many have claimed, through their dissimilar
word patterns, but by the fact that each is read in a different
way. A passage read as though addressed to the reason is prose;
read as though addressed to the imagination, it might
be poetry. I cannot say whether my work is poetry or not; I
can only say that my appeal is to the imagination. I am not a
thinker. I am merely a man who has tried to explore the literary
possibilities of metaphysics and of religion.
My stories
are, in a sense, outside of me. I dream
them, shape them, and set them down; after that, once
sent out into the world, they belong to others. All
that is personal to me, all that my friends good-naturedly
tolerate in me-my likes and dislikes, my hobbies,
my habits-are to be found in my verse. In the long
run, perhaps, I shall stand or fall by my poems.
Goethe, who
is not one of my heroes, thought that all
poetry is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung).
I have forgotten the context, but I suppose his
statement is open to at least two interpretations:
he may have been apologizing for the all-too-plentiful
verses he contributed to albums, or he may have
implied that true poetry springs from what a particular
man feels at a particular time. In my case, I can fairly claim
that every piece in this book had its origin in a particular
mood, in a necessity of its own, and was not meant to illustrate
a theory or to fill out a volume. I have never thought of my
poems, in fact, in terms of publication.
When this book
was begun, some three years ago in Cambridge,
it was the first time I had ever taken a direct
hand in the translation 'of any of my own work. Di Giovanni
and I have gone very thoroughly over each piece,
each line, and each word; the fact that I am not only a
collaborator but also the writer has given us greater
freedom, since we are less tied to verbal precision than to
inner meanings and intentions. I should like to thank the
outstanding British and American poets who, by their
skill and generosity, have made English poems of my
Spanish originals and so given them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City, March 31, 1971
Trước hết và trên
hết, tôi nghĩ về tôi như là
1 độc giả, rồi như một thi sĩ, và rồi
thì là, một nhà văn xuôi.
Phần đầu của câu phán,
tớ là độc giả, thì đếch
cần giải thích [trừ đám Mít
triết, chúng chỉ thích làm
phê bình gia, khi chửi Gấu, mi đâu
phải phê bình gia, vì mi
đâu có bằng cử nhân triết của
Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi, hà, hà!].
Hai phần sau, có lẽ nên định giá.
Chúng không có nghĩa, tôi
khoái thơ vần hơn thơ xuôi. Ngược lại,
có lẽ thú hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ rằng, mỗi cách
có cách đọc riêng
của nó. Môt đoạn, đọc, mà nghĩ,
nó viện tới lý lẽ, thì
là văn xuôi, cái viện tới
trí tưởng tượng, thì là thơ.
Tôi cũng khó nói về cái viết
của tôi, thì thơ, hay đếch thơ. Tôi
chỉ có thể nói, tôi cố với/vời
tới trí tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không phải là
1 suy nghĩ gia. Tôi, giản dị mà
nói, là 1 người cố phát triển,
khai phá, những khả hữu văn chương của
siêu hình học và của tôn
giáo.
Cách đọc Borges của GCC,
như "tự sướng" ở trên, chưa từng có tên
mũi lõ nào, đọc!
Cũng thế, là giải thích
cách trao Nobel những năm gần đây: Cho,
chỉ 1 tác phẩm, chẳng cần toàn bộ văn nghiệp,
cho thứ viết từ “anus mundi”, từ đáy, thay vì
từ đỉnh, gợi hứng từ Walter Benjamin.
Những câu chuyện của tôi,
theo 1 nghĩa, thì ở ngoài tôi. Tôi
mơ chúng, tạo vóc dáng cho chúng,
và cho chúng ra đời; sau đó, một khi ra
đời, vào đời, chúng thuộc về những ngưòi
khác. Tất cả thì đều có tính cá
nhân đối với tôi, tất cả thì đều được bạn bè
của tôi, do rộng luợng chịu đựng tôi, nên chịu
đựng chúng, có thể nói như thế: họ chịu đựng cái
tôi thích, cái tôi không thích
- già rồi hiền đi để mà chết, họ khuyên tôi
như thế - những "hobbies” của tôi, tám bó rồi
mà vẫn ham hố những kiều nữ Playboy thí dụ - những thói
quen của tôi… , tất cả đều có trong thơ của tôi.
Trên đường dài, chúng
đứng thế chỗ của tôi, hoặc té, ngã,
thế cho tôi!
(1)
Cuốn sách “Thương Xá”,
cho dù chúng ta đánh giá
nó như thế nào – điêu tàn, thất
bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị
một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những
rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ
phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy
thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của
Benjamin (trong “Những luận đề” - “Theses”), cho một lịch sử xoáy
vào đau khổ của những người thua, thay vì thành
tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính
tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu
nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn
lại ngắn ngủi của chúng] ta.
J. M. Coetzee: The Marvels of Walter Benjamin [Những
kỳ tích về Walter Benjamin]
Ending at the Begining
John Banville đọc Kafka, những năm
đầu đời
http://www.nybooks.com/articles/2017/08/17/reiner-stach-kafka-ending-at-the-beginning/
GCC biết đến Banville, lần ông
đọc Nhà Hội của Amis, trên tờ NYRB. Tay này
cũng cực lạ. Viết tiểu thuyết, điểm sách, và có
vẻ như rất mê đám thiên văn học.
DOCTOR COPERNICUS
John Banville was born in Wexford,
Ireland, in 1945. His first book, “Long Lankin”, was published
in 1970. His other books are “Nightspawn”; “Birchwood”; “Kepler”
which was awarded the Guardian Fiction Prize in 1981; “The Newton
Letter”, which was filmed for Channel 4; “Mefisto”; and “The
Book of Evidence”, which was shortlisted for the 1989 Booker
Prize and won the 1989 GPA Book Award. “Doctor Copernicus” won
the James Tait Black Memorial Prize in 1976. John Banville is the literary editor of the
“Irish Times” and lives in Dublin with his wife and two sons.
Note: GCC biết đến tay này,
khi đọc ông viết về Nhà Hội của Amis, trên
tờ NYRB
http://www.tanvien.net/T_G/nha_hoi.html
House of Meetings:
Nhà Hội. Nơi gặp gỡ, và, nếu là
bà xã đi thăm, thì trại viên sẽ
được qua đêm tại đó.
Tay giữ mục điểm sách của
tờ Người Kinh Tế này, phải là bậc thầy! Đọc
nhiều, viết ngắn, gọn, đúng thứ nhà nghề, mở
ra thường bằng một trích dẫn, y chang cái vòng
hoa đầu tiên mà "Quỹ Nobel" choàng lên
vị tân Nobel, tức cái thông báo dành
cho báo chí.
Câu mở của bài trên
chẳng hách xì xằng sao?
Phê bình gia thứ thiệt,
Nabokov có lần đưa ra nhận xét, là
người đọc, không phải với cái đầu, mà bằng
xương sống lưng của anh ta.
Hắn ta, giống như Gấu, đọc, đến giây
phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến thành giọt
lệ người, bỗng thấy một làn hơi hạnh phúc từ
huyệt bách hội ở trên đỉnh đầu, theo xương sống lưng
chạy xuống, rồi tỏa ra khắp cơ thể, tới từng lỗ chân lông,
và cứ thế tê lịm người đi, và thế là
biết liền tù tì, đây là thơ thần.
*
-Phách lối vừa vừa thôi,
cha nội. Bộ mi nghĩ, mi là phê bình gia
thứ thiệt?
-Phê bình gia thứ thiệt
hay không, chưa cần biết. Nhưng giây phút
tê lịm người thì có thiệt.
Date: Sun, 23 Jan 2005 11:41:44 -0800
(PST)
From:
Subject: hey
To:
Hey ong Gau, ong la cai gi tren doi
nay ma viet van phach loi , hay tu kiem diem lai xem minh
co xung dang khong?
Mot doc gia
Đúng là
đọc bằng cột xương sống. Thanks anh, từ ngày đọc
Tin Văn ngộ ra nhiều
· Reply · 16 mins · Edited
Tks
Fear
1979: Kabul
MASK OF FEAR
"You should
beware of two things about a woman: her hair and her tears."
God knows why my grandfather told my father
that.
He
muttered prayers to himself as he fingered three of his worry
beads, then continued, "Her hair will chain you and her tears
will drown you!"
Another three beads, another three prayers,
and then: "That's why it's imperative they cover up their hair and
their faces!"
He
said this on the day my father decided to take a second wife.
My mother wept-and then her face once again assumed its mask
of fear.
My grandmother used to say that my mother
was born with a terrified face, and it was the face I was used
to. Whenever someone met her for the first time, they'd assume
she was scared of them.
I couldn't understand what it was exactly
that made her appear so frightened. Was it because her face
looked so drawn and thin? Or because of the dark circles under her
eyes? Or because her mouth turned down at the corners? If my mother
ever smiled, she would smile between the two deep lines cut into her face
like the brackets around a sentence; if she ever cried, she would cry between
brackets. In fact, she lived her whole life between brackets ...
But
one day the brackets vanished. The terrified mask dropped from
her face. And then a few months later, my father took a second
wife. No one asked why, because even if some one had dared to
ask, my father would never have answered.
My
father had no interest whatsoever why my mother always looked
so frightened. He couldn't have, otherwise how could he have
lived alongside a woman who always looked terrified? Truth is, my father
never loved my mother at all, he just fucked her. He'd get on top of
her in the dark, close his eyes ... and get on with it.
But
what happened the day the fear vanished from my mother's face
to make my father think about taking another wife? Probably
my father needed a woman to be scared of him in order to get turned
on. And the day my mother stopped being terrified of having sex,
my father’s desire vanished. So he had to get himself another wife.
A younger wife who'd still scared of sex.
And maybe the day my mother lost her fear
having sex was the first time she ever enjoy it. The first
and last time.
But it wasn't
long before she put her frightened mask back on. This time not
because she was scared of having sex, but because she was terrified
he'd leave her.
Tonight,
lonelier than ever, my brave mother has placed her frightened
face behind the street door while she waits for me to come home.
Her worn-out hands, free at night to be
raised to beg God's mercy, recite the prayer for safe return.
Atiq Rahimi, from A Thousand Rooms of Dream and Fear. In 2013
the Afghan-born writer an filmmaker - who in 1984 fled to France
to escape the Soviet coup in his home country - gave an address
in Edinburgh about whether literature should be political. ''I
remember that when Soviets were in Afghanistan, a brilliant saying
from Poland was used by intellectuals, " said Rahimi. ''It went:
'If you want to survive, don't think. If you think, don't talk. If
you talk, don't write. If you write, don't sign it. If you sign it
don't be surprised!"
Nếu mi muốn
sống sót, đừng nghĩ; nếu nghĩ đừng nói; nếu nói,
đừng viết; nếu viết, đừng ký tên; nếu ký
tên, đừng tỏ ra ngạc nhiên.
Đây là luật của Hội Nhà
Thổ Bắc Kít.
Trước 1975.
Sau 1975, Vẹm áp dụng cho cả nước
Mít.
Và cả nước Mít bây giờ,
sống thời xài rồi, tức cái thời trước 1975, ở xứ
Bắc Kít!
FROM A CONVERSATION WITH THE CENSOR
-This is a lie! This is slander against
our soldiers, who liberated half of Europe. Against our partisans.
Against our heroic people. We don't need your little history,
we need the big history. The history of the Victory. You don't
love our heroes! You don't love our great ideas. The ideas of
Marx and Lenin.
-True, I don't love great
ideas. I love the little human being ...
Note: Mới tinh. Sẽ đi vài đường
về cuốn này
Lèm bèm với Kiểm Duyệt
Vẹm
Mi nói láo. Mi nhục mạ
Bộ Đội Cụ Hồ. Chúng ông đánh thắng hai
tên thực dân đầu sỏ cũ và mới. Chúng
ông giải phóng, thống nhất đất nước. Chúng
ông không cần thứ lịch sử nhỏ của mi. Chúng ông
cần thứ lịch sử lớn...
AZ, trong Slight Exaggeration,
trích Malraux, 1 câu thần sầu - theo nghĩa,
nếu áp dụng vào thực tế cuộc chiến Mít.
Một cách nào đó, những tên Bắc Kít,
khi xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, chúng đều “mơ thành
người Liên Xô”, mơ biến thành 1 tên Hồng
Quân chống Nazi trong cuộc chiến vĩ đại của Liên Xô
- thì cũng vệ quốc, một bên là Nazi, một bên
là tên đầu sỏ thực dân mới, một Miền Nam bị nô
lệ ngoại bang:
Malraux says people die only
for something that doesn't exist
Người ta chết chỉ vì
một điều gì đếch hiện hữu.
Cái gì đếch
hiện hữu, với Mít, chính là cái
lý tưởng nước Việt Nam là một, có thể
nói như vậy.
Đây chính là
giấc mơ không tưởng của giống nòi Mít,
mà cả lịch sử của nó, là làm
cỏ sạch mọi giống dân trên đường chạy thằng Tẫu,
mở đường dựng nước về phiá Nam.
Nói như Malraux, OK,
nhưng nói như... GCC, trên, cũng OK:
Cái giả bảnh hơn cái
thực. Bạn có thể nói như thế, cũng
được.
Nhìn xuyên
suốt lịch sử Mít, thì nó đúng
là như thế. Bao nhiêu cái đẹp, cái
lý tưởng, cái giấc mộng tuyệt vời của
cái giống Mít, được Vẹm dùng làm
mồi nhử cả lũ Mít, đưa đến 1 đất nước như hiện nay.
Trên Tin Văn, Gấu đã
nhiều lần lèm bèm, với cuộc chiến Mít,
chỉ có giả tưởng mới mang ý nghĩa thực sự
đến cho nó. Chứng cớ: Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh,
và Một Chủ Nhật Khác của TTT.
Tay này, 1 phê bình
gia, thi sĩ Úc, vào năm 2010, được chẩn đoán
là bị leukemina giai đoạn chót. Bèn truớc
tác cuốn này, "Những cú đọc chót
của tôi.".
Bài viết, lạ làm sao,
câu chót, là nói về vụ TXT
đang nóng hổi, và tiên tri đúng
y chang, cách xử sự của Vẹm:
But barbarism doesn't care if we are
cultivated or not.
Lũ Vẹm đếch ke, chúng ta có
học, hay không có học!
Một nước Đức, còn khốn khổ
với cái quá khứ Nazi của nó, một khi,
qua vị bộ trưởng ngoại giao của nó, phán, lũ
khốn kiếp này bắt cóc người, thì sự tình
nó phải đúng như thế, làm sao khác
được?
Mấy tên Vẹm ở Tòa Đại
Sứ Vẹm, đều được Đức coi là thượng khách, Tòa
Đại Sứ của chúng, thì là nước Mít,
vậy mà nhục nhã bắt cóc người, ngay trong
nước Đức.
Đúng là 1 lũ man rợ,
chui ra từ hang Pác Bó, không có
1 chút học vấn, văn hóa.
Chúng làm nhục tất cả
những tên Mít, từ thuở có giống Mít!
Conrad's Greatest Victory
STARTING IN THE infusion
suite at the hospital, and continuing as I Ambulate up and down
my kitchen, I have been reading Conrad's Victory; and I feel
that my recent years of reading have come to a kind of culmination.
First published in 1915, the novel perfects Conrad's signature
themes. The hero, Heyst, is a Lord Jim figure without the guilt.
Heyst has managed to get beyond the bounds of civilization, and
even of capitalism: the coal company that he helped to found in the
islands has fallen into ruins, but he himself has survived. In the
dance hall of the despicable hotelier Schomberg, Heyst encounters
the ideal girl, Alma, who is the helpless prisoner of the tatty Zangiacomo
Orchestra and has nowhere to turn as Schomberg odiously threatens her
with his attentions. Heyst bears her away to Samburan, a magic kingdom
like Patusan and Sulaco. There, seemingly in control of events, he calls
her James Lena, princess of Samburan. They are like Adam and Eve, needing
only each other. Or so it seems: but it soon emerges that they need a
knowledge of evil, too, because it is heading toward them in the chilling
form of "plain Mr. Jones," one of Conrad's most profound studies in
terror. As the collision between bliss and destruction gets closer,
the reader will spend at least a hundred pages praying that Heyst has
a gun hidden away somewhere. The first big slaughterhouse battles of
the Great War had already been fought while Conrad was publishing the novel,
but there is not a hint of pacifism. Conrad knew that unarmed goodwill is
useless against armed malice. It was to be a lesson that the coming century
would teach over and over, and so on into the present century: peace is
not a principle, it is only a desirable state of affairs, and can't be
obtained without a capacity for violence at least equal to the violence
of the threat. Conrad didn't want to reach this conclusion any more than
we do, but his artistic instincts were proof against the slightest tinge
of mystical spiritual solace, and so should ours be. Our age of massacres
has also been an age of the intellectual charlatan, when people claiming
to interpret events can barely be relied upon to give a straightforward
account of what actually happened. Conrad was the writer who reached political
adulthood before any of the other writers of his time, and when they did,
they reached only to his knee.
That being said,
however, it must be admitted that Heyst's upright stupidity
grows tedious in the final scenes. Conrad should have made
his heroes as intelligent as himself, the better to illustrate
his thematic concern with how the historic forces that crush
the naive will do the same to the wise, if they do not prepare to
fight back. Finally, he tends to reinforce our wishful thought
that cultivation gained, for example, from reading the novels
of Joseph Conrad-might be enough to ward off barbarism. But barbarism
doesn't care if we are cultivated or not.
Chiến thắng vĩ đại nhất của Conrad.
Về nhà từ nhà thương,
loanh quanh nơi xó bếp, Gấu bèn lôi cuốn Victory
của Conrad ra đọc, và phát giác ra 1 điều
là, cái đọc của Gấu vào lúc tám
bó, đã đạt tới đỉnh rồi!
Được xb lần đầu tiên năm 1915, cuốn tiểu
thuyết hoàn tất cái mác “Gấu Nhà Văn”,
1 cách giản dị nhất, qua cái chữ ký của chàng.
Nhân vật chính, Heyst, là hình tượng
Lord Jim, trừ đi tội lỗi. Heyst hì hục, loay hoay vượt quá
mốc văn minh, và, bảnh hơn nữa, vượt quá cả cái
mốc tư bản chủ nghĩa: Cái công ty chàng giúp
xây dựng, thành lập, tại những hòn đảo, trở thành
tan hoang, điêu tàn, nhưng chàng, chính
chàng thì lại sống sót, qua được cơn mê
đó - từ này thuổng nhạc sến –
Ở hành lang khiêu vũ nơi khách
sạn Schomber tồi tàn, ti tiện, H gặp cô gái
lý tưởng, Alma, tù nhân vô vọng của tên
Zangiacomo Orchestra. Anh bệ nàng đi cùng với anh
tới Samburan, vương quốc thần kỳ giống như Patusan và Sulaco.
Ở đó, họ có vẻ như làm chủ được sự kiện, chàng
gọi nàng là James Lena, công chúa của
Samburan. Họ giống như Adam và Eve, chỉ cần nhau, đếch cần
ai khác. Nhưng hóa ra không hẳn như vậy, họ cũng
còn cần 1 hiểu biết về cái ác, bởi vì
nó đang nhắm họ, dưới vóc dáng ớn lạnh của “Me-xừ
Jones giản dị”, một trong những nghiên cứu sâu thẳm nhất
của Conrad về khủng bố.
Trong khi cú va chạm giữa hạnh phúc
và huỷ diệt mỗi lúc một thêm xán
vào nhau, độc giả cuốn sách, trải qua ít
lắm là 1 trăm trang, khẩn cầu, Heyst có 1 khẩu súng
giấu ở đâu đó. Những trận đánh đẫm máu
lớn lao đầu tiên của Cuộc Chiến Lớn đã xẩy ra trong khi
Conrad cho xb cuốn tiểu thuyết, nhưng chẳng có tí ti dấu
báo, rằng hòa bường sẽ ló dạng. Conrad hiểu rất
rõ, 1 thứ lòng tốt, hay thiện ý “cái con
mẹ gì đó”, mà không có tí
võ khí lận lưng thì rất ư là vô
dụng trước cái ác ma mãnh được võ trang
đến tận răng!
Đây cũng là bài học thế kỷ
sắp tới, đang tới, nên dạy đi dạy lại, và cứ thế cứ
thế, cho đến những ngày này của chúng ta -
tội nghiệp lũ Ngụy, không hề được học bài học này,
lúc nào cũng đinh ninh, thằng anh Yankee mũi tẹt, giọt
máu Mít xẻ làm đôi, phải hơn thằng Yankee
mũi lõ, hà, hà!
Bài học, hòa bường không phải
là 1 nguyên tắc, hay nguyên lý, mà
chỉ là một tình trạng, hay tình hình,
hay thái độ, đáng thèm, của những áp
phe. Và nó không thể nào đạt/đoạt được
nếu không có 1 khả năng về bạo động, ít nhất
thì cũng bằng bằng, xêm xêm với… Cái Ác
Bắc Kít!
Conrad chẳng hề muốn tới được kết luận như vậy,
chẳng khác gì chúng ta, nhưng linh tính
nghệ sĩ của ông là bằng chứng chống lại dáng
vẻ nhẹ nhàng nhất của một sự khuây khỏa tinh thần
thần bí, và chúng ta cũng cầu được như thế.
Thời đại của những vụ tàn sát của chúng ta, là
thời đại của sự bịp bợm trí thức, một khi mà con
người nghĩ rằng mình cắt nghĩa những sự kiện chỉ có
thể dựa vào đó để đưa ra một bảng kết toán
thẳng thừng, về những gì thực sự xẩy ra. Conrad là nhà
văn tới được sự trưởng thành chính trị, trước bất cứ
một nhà văn nào khác của thời của ông, và
khi họ làm được điều này, thì cũng chỉ tới đầu
gối của ông.
Nói thì nói thế, tuy nhiên
phải thừa nhận là, sự ngu ngốc thẳng đứng của Heyst trở
thành chán ngắt ở những xen sau cùng. Conrad
đúng ra phải để cho những nhân vật của ông thông
minh như ông, như vậy tốt hơn, trong cái việc minh hoạ
sự quan tâm có tính đề tài của ông,
về, bằng cách nào, những sức mạnh lịch sử nghiền nát
đám người ngây ngô sẽ cũng nghiền nát đám
người khôn ngoan, nếu chúng không sửa soạn để chống
trả. Sau cùng ông tính tăng cường cái ý
nghĩ thèm muốn của chúng ta, rằng, học vấn – gặt hái
được từ cái đọc Conrad – có thể đủ, để ngăn ngừa man rợ.
Nhưng man rợ đếch thèm “care”, chúng
ta có học vấn hay là không!
David Grossman : Nghệ thuật giả tưởng
Mọi người, bất cứ một người, ai cũng
nên đặt ra cho chính mình, một vài
câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
David Grossman
Câu này, nhà văn
Mít phải thuộc nằm lòng, và Lò
Thiêu đối với chúng, là Trại Cải Tạo.
Chưa từng có đến 1 tên,
đau cái đau, làm thịt cả 1 miền đất ruột thịt,
và sau đó, như cục ung thư, làm thịt cả
nước.
Không phải "vô tư" mà
vị bộ trưởng ngoại giao Đức nhắc tới chiến tranh lạnh, trong
vụ Vẹm bắt cóc TXT.
Chiến Tranh Lạnh bắt đầu khi chế độ Nazi
chấm dứt.
Đằng sau vụ TXT, là bóng
ma Lò Thiêu, và quá nữa, bóng
ma Lò Cải Tạo, có thể nói như thế.
Cái vụ TXT này, còn làm
nhớ tới Sebald.
Ông chửi nước Đức của ông, vờ
cái vụ máy bay Đồng Minh tàn phá
những thành phố Đức, và tự hỏi tại sao, và
bèn tự trả lời, người Đức coi đây là nỗi
nhục nhã trong gia đình, đừng mang ra khoe với thiên
hạ, y chang cái vụ Bắc Kít mời Tẫu vô giường,
nhường vợ cho chúng, đổi lấy súng đạn làm thịt
thằng em Nam Bộ!
Làm sao Đức bỏ qua cho Vẹm cho được!
Sở dĩ không có 1 tên Bắc
Kít nào dám nhỏ 1 giọt nưóc mắt
cá sấu cho lũ Ngụy, có thể là do chúng
vẫn còn đau cái nỗi đau nhường giường cho Tẫu, trong
khi xẻ dọc Trường Sơn!
Hình manhhai, net
Giáp & Cố vấn Tẫu DBP: Đâu
phải đợi đến hội nghị Thành Đô, đến Nguyễn Văn Linh
mới nô lệ Tẫu.
Cú đụng độ giữa
Vẹm và Đức, qua vụ TXT, là, giữa cổ điển và
man rợ, và như thế, nó vang vọng lên câu
phán của Dương Thư Hương, văn minh thua bạo tàn,
khi bà phải nhìn lại cuộc chiến Mít.
http://www.tanvien.net/Review/Taisao_Codien.html
Coetzee mở ra cuốn
Những bến bờ lạ lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài viết
Cái Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt. Bài
này Mít chắc thú hơn bài của Calvino,
vì ông chú trọng tới cái thời của
riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.
Theo cái kiểu, sống sót Lò
Cải Tạo, một buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài Gòn,
bèn lôi Nguyễn Du ra đọc!
Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển
vĩ đại nhất của thời của riêng chúng ta, nhà thơ
Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch
của cổ điển thì không phải là hiện đại, mà
là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không
hẳn một đối nghịch, mà là một đối đầu [not so
much an opposition as a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu
xa”, "Thơ giữa chiến tranh và trại Tù",
"Ta Về"… đều là… cổ điển: Chúng
dám đối đầu với man rợ.
*
Câu trả lời của Coetzee, cho
câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”: Cổ điển
là cái sống sót, … that the classic is what
survives…. the classic defines itself by surviving… what survives the
worst of barbarism, surviving because generations of people cannot
afford to let go of it and therefore hold on to it at all costs – that
is the classic.
Cái sống sót những gì tệ
hại nhất của man rợ, sống sót theo cái nghĩa,
hết thế hệ này qua thế hệ khác, con người không
thể chịu nổi chuyện buông xuôi, cố ôm lấy nó,
không thể cho man rợ thắng thế, cái đó gọi
là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là
cổ điển của Mít, chính là văn chương Miền
Nam
trước 1975. Chỉ có nó sống sót trong trận
chiến "cổ điển vs man rợ"!
Note: Thân hữu & độc giả gửi,
phán, đăng liền!
OK.
Tks
Take Care
NQT
Thứ Năm,
27-7-2017 8:26 PM
Nên đọc ngay!
Lá thơ của Trịnh-Xuân-Thanh
đã được người bạn dịch ra Anh-Ngữ!!!
* Đọc, để biết THAM-NHŨNG của các
CHÓP BU VẸM ăn bẩn như thế nào? Chỉ
tội-nghiệp cho DÂN-TỘC và
ĐẤT NƯỚC VN chúng ta!!!
(Nhân việc Đinh-La-Thăng bị
đề nghị KỶ-LUẬT!)
Kính gửi bà con Cộng
đồng mạng.
Tôi tên là
Trịnh-Xuân-Thanh.
- Tổng giám
đốc kiêm Chủ tịch hội đồng quản trị Tổng công
ty xây
lắp Dầu Khí.
- Phó
chủ tịch UBND tỉnh hậu Giang.
- Đại biểu quốc
hội khoá 2016-2021..
Trong suốt thời gian làm
việc tại tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt-Nam,
tôi đã phát hiện ra nhiều hành
vi ăn cắp bán dầu thô trên biển! Nhưng vì
tất cả các hành vi đó đều được sự bao che
của thủ tướng các đời từ Võ-Văn-Kiệt, Phan-Văn-Khải,
Nguyễn-Tấn-Dũng… Nên tôi sợ không dám
tố cáo, vì tôi biết rằng nếu mình tố
cáo thì chắc chắn sẽ bị thủ tiêu!!!
Nay tôi đã định
cư tại Châu-Âu với lệnh truy nã của
CAVN về tội làm thất thoát tài sản 3.200
tỷ của nhà nước! Vấn đề này, tôi đã
nói nhiều trên trang Facebook của "Người Buôn
Gió"! Nên tôi không nói ra
ở đây nữa!!!
Tôi viết đơn tố cáo
này không hy vọng được giảm nhẹ tội, mà
tôi chỉ muốn nói ra để bà con ta hiểu
rằng sống trong chế độ này thì sẽ “Không
ai cho ta làm người lương-thiện“! Vì tất cả lãnh
đạo đều là tham nhũng trá hình!!! Chỉ có
điều khi phe cánh đấu đá nhau, tranh ăn nhau thì
ai bị lộ ai không bị lộ mà thôi!!!
Tôi tin rằng với những hành
vi ăn cắp này, thì tất cả các uỷ viên
Trung-ương đảng, Bộ chính-trị đều biết, nhưng không
hiểu do ăn chia thế nào; mà không ai dám
nói ra sự thật? Để 1 lượng lớn tiền bán dầu thô
cứ chảy vào túi các quan chức từ Bộ chính-tri,̣
cho đến các lãnh-đạo trong tập đoàn Dầu
khí Việt-Nam???
Tôi cũng mong các
bạn trên Facebook! Nếu đọc được những dòng
chữ này thì xin hãy chia sẻ cho nhiều
người cùng đọc, để cho nhân dân biết được
tình trạng tham nhũng, ăn cắp của đảng csVN nó
nguy hại đến đất
nước như thế nào???
Trước hết, nói về
quy trình bán dầu thô ngoài
biển Vũng-Tàu như sau cho bà con biết:
Dầu thô từ các
giàn khoan được bơm về các tàu chứa
dầu “Chí-Linh", ”Chi-Lăng“, “Ba-Vì“, “Vietsopetro
01“… Rồi sau đó được xuất bán cho các
tàu chở dầu của nước ngoài vào mua dầu.
Đoàn cán bộ bán
dầu gồm Công-an, Hải-Quan, Dầu-khí, Đại-lý
tàu biển…Sẽ đi từ trong bờ ra.
Vào những ngày biển
êm, thì đoàn này đi ra bằng
máy bay trực thăng, đáp xuống các tàu
chứa dầu, rồi sau đó chuyển qua tàu mua dầu bằng
tàu dịch vụ!!!
Tàu mua dầu được Hoa
tiêu dẫn đường sẽ buộc vào sau đuôi tàu
chứa dầu, rồi nối ống vào và dầu thô
được bơm từ tàu chứa qua!!!
Khoảng 1, 2 ngày sau
khi bơm hàng xong, thì tàu mua dầu
tách ra và các cán bộ của VN
lại được tàu dịch vụ đón chở về tàu chứa
dầu và từ đó lên máy bay trực thăng
về bờ!!!
Vào mùa biển
động, sóng to gió lớn, thì không
thể chuyển người trên biển được! Nên tàu
mua dầu phải chạy vào Vũng-Tàu rồi đoàn
cán bộ VN sẽ được tàu dịch vụ chở ra leo lên
tàu mua dầu và đi ra giàn khoan…
Từ những ngày bán
lô dầu thô đầu tiên đến nay, đã
gần 30 năm và có hàng trăm triệu tấn
dầu thô được bán ngoài biển như thế!
Tuy nhiên, có
1 thông báo miệng từ thời Võ-Văn-Kiệt
là tất cả các vụ tham nhũng trong ngành
Dầu khí thì công an, báo chí…
Đều không được phép điều tra, và những nghi
vấn về ăn cắp dầu ngoài biển đều không ai được nói
đến!!!
Với khách hàng
mua dầu là Nhật hay Châu-Âu, thì
có lẽ chuyện mua bán là sòng phẳng,
có hoá đơn chứng từ rõ ràng,
theo giá dầu thế giới và tiền bán dầu có
lẽ được chuyển vào nhà nước công khai minh
bạch, có đóng thuế… Và cũng không thể
gian lận được!
Nhưng với khách hàng
Tàu-Quốc, thì hoàn toàn khác!
Ví dụ xuất bán 100.000 tấn dầu, thì
họ chỉ trả 70.000 tấn qua ngân hàng có hoá
đơn, còn 30.000 tấn thì họ trả bằng tiền mặt ngay
trên tàu với giá chỉ bằng 50% giá thị
trường, và khoản tiền này không được đưa vào
sổ sách (dầu
thô giá 100 đô/thùng
thì họ trả bằng tiền mặt chỉ 50/đô/thùng
và hai bên cùng có lợi) !!!
Tôi đã chứng
kiến từng đoàn cán bộ VN với ba-lô căng
phồng tiền đô, vừa lên bờ là có
công an và người của Hà-Nội đón
và đưa đi đâu không rõ… Nhưng chắc chắn
là tiền mặt mà Tàu-Quốc trả trên
tàu sẽ vào túi của các quan chức từ Trung-ương
đến các lãnh đạo của tập đoàn Dầu
khí!!!
Đặc biệt từ ngày ông
Nguyễn-Tấn-Dũng và Đinh-La-Thăng lên, thì
giá dầu thô tăng vọt! Nên số tiền thu
được do bán lậu dầu này cũng tang lên rất
nhiều!!!
Từ đó, đời sống của
lãnh đạo tập đoàn dầu khí vô
cùng xa hoa, lãng phí! Chỉ cần 1 cán
bộ cấp trưởng phòng, hay giàn trưởng… Cũng có
thể có hàng chục triệu đô, và chuyện
mua nhà bên Mỹ hay châu Âu đối với họ
là chuyện “Cái móng tay“!!!
Từ ngày ông
Nguyễn-Tấn-Dũng lên làm thủ tướng và
ông Đinh-La-Thăng lên làm chủ tịch tập
đoàn Dầu khí thì khách hàng
mua dầu khoảng 70% là Tầu Cộng! Trong thời gian này
giá dầu thô cũng leo lên rất cao, có
lúc hơn 120 đô/thùng tức là khoảng
850 đô/tấn!!!
Chỉ tính trong 10
năm ông Nguyễn-Tấn-Dũng làm thủ tướng, mỗi
năm Việt-Nam xuất bán 20 triệu tấn dầu thô! Với
lượng dầu thô ăn cắp khoảng 30% tức là khoảng 6
triệu tấn/năm! Mỗi tấn tính rẻ 600 đô, như vậy
là băng đảng ông Nguyễn-Tấn-Dũng và Đinh-La-Thăng
đã ăn gọn là 10
x 6 x 600 = 36 tỷ đô-la!!!
Đó là chưa
kể đến hàng trăm khoản tham nhũng khác,
từ ngành Dầu khí như mua sắm thiết bị, vật tư,
chi phí khai thác, mua sắm tàu bè!!!
Tất cả những cái này,
tôi sẽ lần lượt nêu ra trong các lá
đơn sau.
Tôi mong bà con
share rộng rã̉i lá đơn này, ai giỏi
thì có thể dịch ra tiếng Anh, và phổ
biến trên mạng cho toàn thế giới biết THAM-NHŨNG ở VN
là trầm trọng như thế nào???
Xin chân thành
cảm ơn đồng bào!
© Trịnh-Xuân-Thanh (FB
Hiếu-Bùi)
Note: Vụ TXT xẩy ra, và diễn biến
sau đó, đúng như Clive James phán, “But
barbarism doesn't care if we are cultivated or not”: Lũ Vẹm
đếch ke, chúng ta có học, hay không có
học.
Một khi Đức phán, bắt cóc,
là họ phải chắc chắn, bắt cóc. Vậy mà
Vẹm vẫn chơi cái đòn xưa rồi Diễm ơi, đưa TXT
lên TV, tôi tự thú, không phải bị bắt
cóc!
Chúng làm như thế, chẳng
khác gì nói, Đức nói dối?
Vụ này, cho thấy cái nhơ
bẩn của Bắc Kít. Đúng như thế. Tên bò
sát - từ của Người Kinh Tế - chỉ Trọng Lú, kỳ
Đại Hội Đảng - chỉ vì thù những kẻ dám chống
lại hắn, mà gây họa lớn, làm nhục cả 1 xứ sở,
đất nước, xứ Mít ngày nào chưa có
Vẹm - cái gì gì 4 ngàn năm văn hiến.
Làm gì có chính sách đả hổ
diệt ruồi ở đây, như 1 đấng nào trên net viết.
Chứng cớ, tên Đinh La Thăng, cũng chống hắn, nhưng sau lạy hắn,
hắn bèn tha, không giết. Phi độc bất trượng phu, như Bắc
Kít phán.
Hình như Rilke, một nhà
thơ người Tiệp, từng nói lời cực đoan: “Tôi van
bạn chớ làm thơ, ngoại trừ trường hợp thiếu nó,
bạn sẽ chết”. Cũng chính ông người “lạc hậu” kia viết
ra câu: “Ở đâu có nguy hiểm, ở đó có
cứu rỗi”.
HDN
http://www.phamcaohoang.com/
Note: Người lạc hậu, phán,
"Ở đâu...," là Holderlin, không phải Rilke.
Rilke, là nhà thơ Đức, nhưng
không ưa Đức, có thể nói như thế. Ông
thích không nhà, không quê
hương hơn.
Kiếm ra cuốn cũ, có cái
hình là bức tượng của Rodin.
Có cả hai thì cũng tuyệt
quá, vì cái phần hồ sơ, dossier, râu
ria, khác hẳn nhau, bổ túc nhau.
Hà, hà!
TTT viết nhiều văn xuôi,
nhưng "cốt" của ông là thi sĩ. Những người
đọc văn ông, mà mê, thì là
do chất hung bạo, thời cuộc của nó, và dù
sao, thì cũng dễ đọc, so với thơ, nhất là thứ thơ
bị coi là hũ nút.
Võ Phiến, qua lời kể của Kiệt Tấn,
phán, TTT là nhà văn chứ không
phải là nhà thơ.
TTT, qua Ninh Hạ kể, thời gian ở tù
VC chung, cho biết, ông thích làm thơ hơn
viết văn.
Và nếu TTT viết văn, thì
cũng là 1 cách làm thơ! Khi đọc Bếp Lửa, lần tái bản 1972
(?), Gấu đã nhận ra, và vạch ra điều này,
trong bài viết “Bếp Lửa trong văn chương”.
Hai cuốn tuyệt nhất của ông là
Bếp Lửa, và Một Chủ Nhật Khác, và,
tuyệt nhất ở trong đó, là những câu
thơ, theo Gấu. Bởi vì là những câu thơ,
cho nên chúng "loạng quạng" so với dòng
kể, và đây là 1 điều mà, một trong
những độc giả của ông, còn là nhà văn,
cũng quen thân với Gấu, cũng đi tù chung với ông,
và cũng rất mê TTT, nhận ra:
Văn của TTT không thoáng,
không tự nhiên so với văn của GCC!
Hà, hà!
Khi cố gò “văn” thành
“thơ” thì mạch văn sẽ bị hỏng cẳng.
Trường hợp TTT làm Gấu nhớ tới
Rilke.
Sau đây, sẽ viết về Rilke,
đúng hơn, sẽ giới thiệu bài viết về Rilke
của Coetzee, và nhân đó, chúng
ta so sánh hai nhà thơ, qua cái gọi là
“đứa con tư sinh” của 1 miền đất [TTT viết về chính ông],
và “thi sĩ đếch có nhà” [Rilke].
Rilke by Banville
Note: Bài này thật tuyệt,
trên NYRB, cho đọc free. Banville, tiểu thuyết gia, viết
phê bình cũng cực thần sầu.
Thư gửi một nhà thơ trẻ
Phạm Thị Hoài dịch
Số phận bản văn
Khi xb tác phẩm của
Rilke, Oeuvres, nhà xb Seuil, cũng như
trong tủ sách Pléiade, Thư gửi thi sĩ trẻ được để vô
thơ xuôi, hoặc tiểu luận, chứ không phải Trao đổi,
Correspondance. Như thể thư [Lettres] xoáy vào nghệ
thuật thơ [un concentré d’art poétique], bỏ qua thời
điểm xuất hiện của chúng (1903-1908).
Số phận của tuyển tập thư [lettre] cũng
đặc biệt: nó được biết đến nhiều ở Pháp. Đám
chuyên gia, phê bình gia thường lèm
bèm về “góc độ thơ” hơi bị nhảm của nó [Pourtant
de nombreux spécialistes ont crié à l’escroquerie
littéraire]: chiều hướng thơ [le dimesion poétique]
của tiểu luận, hơi bị yếu, và chẳng có gì hỗ
trợ cho tiếng nói cà chớn của 1 nhà thơ nhóc
tì, (Rilke), anh ta 27 tuổi, khi viết lá thư đầu, so
với đại thi sĩ, [thì cũng vẫn là] Rilke, tác
giả của 1 tác phẩm, sau đó xuất hiện, và được coi
là độc nhất vô nhị trong thế giới thi ca:
Élégies de Duino.
Tuy nhiên, qua những lá thư,
thì người ta lại nhìn ra 1 giai đoạn chuyển
tiếp của Rilke, một sự hoá thân đau thương và
chậm chạp, từ 1 nhà văn hơi mùi mẫn, và hiếm
quí, un peu sentimental et précieux, thành
1 giọng thơ cất lên tột bực, trong những âm điệu tiên
tri và gần như thần bí, une voix poétique
s’élèvera souveraine en accents prophétiques
et presque mystiques.
http://tanvien.net/scan/tacpham_dautay.html
Thơ
Mỗi Ngày
https://harpers.org/archive/2017/08/
GCC mua số báo này, tháng
8/2017 vì thấy có tên Roth &Modiano.
Về, đọc được, thì lại là
hai bài thơ. Post dưới đây.
Cái intro, cũng thú:
Thường, thì tác phẩm nhớn
của 1 tác giả, được ị ra, khi ông ta hay chị
ả đang làm 1 việc khác, không mắc mớ gì
đến tứ khoái - ở đây là ị!
Và quả thế thực, như với Faulkner,
ông viết tác phẩm lớn của mình, khi
là thằng thợ máy bưu điện!
Xin lỗi, đệ tử của ổng, đúng
hơn!
Sư phụ, còn tệ hơn, thay vì
sửa máy móc VTD thì liếm tem, và
liếm dở quá, bị đuổi việc (1)
Với Faulkner, khủng khiếp, là,
cuốn Giáo Đường, được viết vào cũng thời gian
này, và ông trở nên nổi tiếng, và
tai tiếng với nó.
Ông viết cuốn sách vì
cần tiền, và dù nó nổi tiếng, ông
vẫn ruồng rẫy nó!
(1)
http://www.tanvien.net/tgtp_02/thoi_1.html
Trong vài năm chàng làm
nghề bán tem [postmaster] tại một bưu điện nhỏ cho
tới khi, do trình diễn tệ quá, trong việc bán
tem, chàng bị cho nghỉ việc [until he was dismissed for
poor performance]. Chàng trải qua hàng giờ trong quầy
bán tem như thế đó, để đọc và viết.
TWO POEMS
By Anthony Amsterdam
Introduction by James Marcus
Many poets have done their
best work while holding down a job-and yet it is often impossible
to deduce the connection, if any, between the two. Who would
have thought that Wallace Stevens's metaphysical pirouettes were
the product of a man who spent his days behind a desk at the Hartford
Accident and Indemnity Company? Or that T. S. Eliot, while composing
his elegiac and explosive Waste Land, was laboring on behalf of
Lloyds Bank? There is a similar disconnect when we read the work
of Anthony Amsterdam. "I have been a criminal defense lawyer specializing
in death penalty cases for more than fifty-five years now," he notes.
The poems he has written along the way are, he says, "very, very
lightless." Yet Amsterdam brings both deftness and delicacy to
the traditional forms he embraces. The resulting verse is not morbid
but quietly musical, with, as he writes in one poem, "ripe vowels" draped
like "translucent grapes / between the dark dowels/ of their branching
consonants."
CAMPFIRE
A pine knot cracks and scatters
cannonades of embers
flaring through the grate. Black wind,
black waves,
and violet backwash mutter
through the ash-banked chambers
underneath the bed log, and the battered
kettle raves-
an ancient tower sacked. Drinking coffee
from a
tin tureen,
we watch the fire kill things, things
too small to
matter.
Now a field moth, now a tiny flying
flit, all
emerald-green,
smacks on the grate and sticks, and
flicks its wings,
and spatters.
So, when all the shrunken earth beneath
it lies
opaque,
the Southern Cross rides up the clear
Canberra
skies,
magnificently uninquiring. Damp the
fire. Make
it dark if you would see more distant
fires rise
beyond these stars. They blaze in
unfamiliar flame,
consume an unknown timber in a
woods without a name,
astonish alien minds with unimaginable
anguishings
and captivate, caparison, and gutter
all-too-human wings.
THE WATER TREES
Put pain in a plum tree,
plums in a bone tree;
Lord, launch love from a rusting
gantry
out, far, far beyond reentry.
Lord, thy nuns wear nets.
Thy nuns wear sea-blanched nets.
They hang them shining on the water
trees,
and in the land
men's hearts that see are hungry. +
Cuốn Giáo Đường, bị tác
giả của nó chê, nhưng Vargas Llosa rất mê,
như bài viết, link sau đây.
Nhưng Borges, phải là Borges mới
dành những lời ưu ái nhất, cho nó:
William Faulkner: The Sanctuary of Evil
Mario Vargas Llosa
Faulkner suốt đời giữ cái nhìn
tiêu cực của ông, với Sanctuary, câu chuyện
một cô gái bị một tên liệt dương phá
huỷ trinh tiết bằng một cái bắp ngô, bởi vì,
cả nửa thế kỷ, sau những dòng tự kiểm hồi sách mới
ra lò, trong lần nói chuyện tại Đại học Virginia, [Vintage
Books, New York, 1965], ông vẫn còn chê đứa
con hư hỏng của mình, coi đây là một câu
chuyện "yếu" và được viết bởi những tà ý [base
intentions].
Nhưng đây là một đại tác
phẩm của ông. Hai Lúa cứ liên tưởng tới
Giáo Đuờng Của Cái Ác, ở một xứ sở khác,
ở đó, có những tên già, liệt dương
hay không liệt dương, lôi con nít vào
khách sạn hãm hiếp, xong xuôi, đuổi ra,
quẳng cho cô bé hình như là một trăm đô
thì phải, thí dụ như một tay LQD nào đó.
Bởi vì, chỉ có thiên
tài mới có thể kể một câu chuyện như
thế, với những sự kiện như thế, với những nhân vật như
thế, bằng một cách kể mà người đọc, không chỉ
chấp nhận, gật gù, kể được, được đấy, mà còn
như bị quỉ sứ hớp hồn!
Như chính Faulkner đã
từng kể, ông viết Giáo Đường, bản viết đầu,
trong ba tuần lễ, năm 1929, liền sau Âm thanh và
Cuồng nộ. Ý tưởng về cuốn sách, như ông giải
thích, trong lần in thứ nhì [1932], thứ tiểu thuyết
ba xu, và ông viết, chỉ vì một mục đích
duy nhất, là tiền, [trước nó, thì chỉ vì
vui, for "pleasure"]. Phương pháp của ông, là,
"bịa ra một câu chuyện ghê rợn nhất mà tôi
có thể tưởng tượng ra được", một điều gì một con người
miệt vườn, vùng Mississipi, có thể coi như là
một chủ đề. Quá sốc, khi đọc, tay biên tập bảo ông,
hắn sẽ chẳng bao giờ xuất bản một cuốn sách như thế, bởi vì,
nếu xb, là cả hai thằng đều đi tù.
Bản viết thứ nhì cũng chẳng kém
phần ghê rợn...
Được coi như, hiện đại hóa bi
kịch Hy Lạp, viết lại tiểu thuyết gothic, ám dụ thánh
kinh, ẩn dụ chống lại công cuộc hiện đại hoá mang
tính kỹ nghệ nền văn hóa Miền Nam nước Mẽo vân
vân và vân vân. Khi Faulkner mang đứa
con hư của mình trình làng văn Tây, André
Malraux phán, đây đúng là, "đưa tiểu
thuyết trinh thám vô trong bi kịch Hy Lạp", và
khi Borges nói dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc
Mỹ đã biến "sự tàn bạo thành đức hạnh",
chắc chắn, ông ta có trong đầu lúc đó,
cuốn Giáo Đường của Faulkner.
Trong Giáo
Đường, em nhí bị thằng chả bất lực phá
trinh bằng cái bắp ngô - the barbarous
deflowering of Temple. Vargas Llosa - GCC nhớ, hình như đọc
1 tay phê bình, đọc cuốn sách, hít
hà, trang nào cũng dậy lên mùi ngô
bắp!
Sợ, không chỉ mùi ngô
bắp!
Cái xen Đỗ Hải Yến,
vào vai em nhí, trong Cánh Đồng Bất Tận, mà
chẳng bước ra từ Giáo Đường sao?
Giáo
Đường làm Faulkner
nổi tiếng, và, tai tiếng, như Đại Sư Phụ của "sự thờ cúng
cái độc ác, tàn bạo". Ra lò năm
1931, Giáo Đường, khỏi bàn
cãi, là 1 trong những tác phẩm quan trọng
nhất của ông.
Và cũng là tác
phẩm viết đi viết lại nhiều lần. Chắc là Người cũng
ớn, như ghi chú nxb cho thấy:
EDITORS' NOTE
This volume reproduces the text
of Sanctuary that has been established by Noel Polk. It
is based on Faulkner's own typescripts-both the original carbon
typescript that was completed in May 1929 and the revisions that
he typed and affixed to his galley proofs in the summer of 193o--which
have been emended to account for his revisions in proof, his indisputable
typing errors, and certain other mistakes and inconsistencies
that clearly demand correction. All of Faulkner's novels bear
alterations of varying degrees of seriousness by his editors, but
Sanctuary is without question the work that has been most heavily
revised by the author himself.
Jean Baptiste Baronian, tác
giả bài viết về Faulkner, trong số báo đã
dẫn, đặt câu hỏi, liệu có nên xếp những tác
phẩm của Faulkner vào “tiểu thuyết đen” không,
bắt đầu bằng Giáo Đường?
Aleph
Viết
mỗi ngày
NHỮNG GÌ
LÀ THƠ - John Ashbery
Thị trấn
thời Trung cổ, với chiếc khăn quàng
Của những hướng đạo sinh từ Nagoya? Tuyết
John Ashbery, sinh năm 1927, được
đông đảo các nhà phê bình
đánh giá là một trong những nhà
thơ xuất sắc nhất của Mỹ trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã
xuất bản hơn 20 tập thơ và đoạt hầu hết các giải…
Note:
What is Poetry, tiếng Mít dịch là,
Cái là thơ, vậy thôi, vì câu
tiếng Anh dùng ở số ít, không thể chuyển
qua tiếng Mít, thành số nhiều được.
Tiếng Mít rất khó, không
dễ.
Tính bỏ qua nhưng sợ hư mẹ tiếng
Mít!
NQT
Cả 1 băng Hậu Vệ, theo GCC, không rành
tiếng Mít.
Một trong những ông Trùm của nó,
Trùm Cớm, đã từng dịch "fail", là vấp ngã,
lần Vẹm bắt Lê Công Định: chúng ta ca ngợi
sự vấp ngã của ông! (2)
(2)
http://www.tanvien.net/Notes_2/don_3.html
V/v TXT
Vụ này, do Vẹm, chúng từ hang
Pác Bó chui ra nên tưởng thế giới cũng từ
cái hang nào đó chui ra như chúng.
GCC đọc trên net, có tên
phán, thì Do Thái cũng vẫn làm trò
này. Chúng đâu có biết Do Thái
bắt ác nhân, còn TXT có làm
điều gì ác. Cùng lắm thì 1 tên
ăn bẩn, bị đồng bọn hăm làm thịt phải bỏ chạy!
Thái độ của Đức, thật rõ ràng,
minh bạch, và rất đúng tinh thần ngoại giao.
Đọc bài bên Washington Post, (tin hãng AP),
thì biết, vì GCC không biết tiếng Đức:
“There is
no longer any serious doubt about the participation of the
Vietnamese intelligence services and the embassy ... in the kidnapping
of a Vietnamese citizen in Berlin,” German Foreign Ministry spokesman
Martin Schaefer told reporters.
Không nghi ngờ chi, có sự tham
gia của lũ Cớm Vẹm ở Toà Đại Sứ của chúng trong
vụ bắt cóc công dân Mít ở Bá
Linh.
The kidnapping,
he added, “is an unprecedented and flagrant violation of German
and international law” and “has the potential to negatively influence
relations in a massive way.”
Vụ bắt cóc là 1 vi phạm, tiền
lệ chưa từng có, trắng trợn, luật pháp Đức và
quốc tế, và có tiềm lực gây họa lớn tới
những giao thiệp.
Germany is
declaring the intelligence attache at Vietnam’s embassy persona
non grata and demanding that he leave within 48 hours, Schaefer
said.
“We reserve
the right to draw further consequences if necessary at a political,
economic and development policy level,” he added.
Chúng ông - chữ
của Vẹm nhe -giành quyền kể ra những hậu quả tới, nếu
cần thiết...
https://www.washingtonpost.com/world/asia_pacific/germany-blasts-vietnam-over-kidnap-of-former-oil-executive/2017/08/02/dc92f368-7779-11e7-8c17-533c52b2f014_story.html?utm_term=.3e01c61cb2f7
Còm của độc giả tờ Washington Post:
Sao lũ Vẹm ngu thế?
What a stupid government
of the people of Việt Nam! Why ?
V/v John Ashbery
Đấng này được chín bó.
Tờ Guardian có bài chúc mừng, khi lọc ra
1 bài thơ của ổng
https://www.theguardian.com/books/booksblog/2017/jul/31/poem-of-the-week-life-is-a-dream-by-john-ashbery
Poem of the week: Life
is a Dream by John Ashbery
To celebrate the 90th birthday of this majestic
writer, a poem whose casual telling of what might be a coming-of-age
story reveals some fascinating ambiguities
Note: Cuốn này, mua cũng cả tuần
rồi, nhưng không làm sao post lên Tin Văn,
do FB error. Bữa nay, may quá OK.
Thời xài rồi: Xứ
Mít VC hiện nay, đang sống cái thời xài
rồi, tức cái thời trước 1975, ở xứ Bắc Kít.
Nobel
laureate Svetlana Alexievich at the Swedish
Academy in Stockholm. Photograph:
Fredrik Sandberg/TT Photography/EPA
The Belarusian journalist said
in her Nobel lecture that former
Soviet countries were ‘again living in an era
of power’, and recounted her time reporting
the Chernobyl disaster from the radiation zone.
The 2015 Nobel literature laureate Svetlana
Alexievich has said that Russia “missed
the chance” it had in the 1990s to become
a country “where people can live decently”,
choosing instead to become “a strong country”.
During her Nobel lecture on Monday, the
Belarusian journalist said “a time full
of hope has been replaced by a time of
fear”. Alexievich, whose oral histories
tell the stories of thousands of individuals
from the Soviet Union, said that “the era has
turned around and headed back in time.
The time we live in is secondhand.”
Thời mà chúng
ta đang sống là thứ thời xài
rồi, khi mà thay vì tràn trề
hy vọng, thì là tràn trề sợ
hãi.
Từ cũ, có nghĩa là xài
rồi, cũ người mới ta, nhưng secondhand, ở đây,
với bà Nobel, mạnh hơn nhiều, thời qua tay một
thời, y chang thòi kỳ văn học hiện nay ở trong
nước.
Thê thảm thực.
Vậy mà có thứ văn học "siêu
văn học" được ư?
Metalitterature?
Viết ra 1 phát, là phải trình
Đảng, phải qua kiểm duyệt, làm sao là
thứ tiếng nói cho những người không
có tiếng nói?
May mà có Ngụy: Sở dĩ Vương Đại
Gia tức nhà phê bình nhớn xứ Bắc
Kít Vương Trí Nhàn, phán
như thế, là vì văn chương Ngụy chưa
từng bị lũ Ngụy quản lý, như sau 1975, được Bắc
Kít quản lý!
Vậy mà lũ Mít lưu vong mang tác
phẩm về trong nước in, rồi khoe loạn cả lên,
được Vẹm chiếu cố!
Chúng không biết nhục là
gì hết.
GCC thực sự không tin, văn học Mít
lại có được 1 thời hiển hách như
thời có GCC, tức, cái gì gì,
Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam!
Đừng có nghĩ là GCC tự sướng, như
1 tên Lang Băm khốn nạn nghĩ.
Note: Có vẻ như bài thơ "Gate" của
AZ, trên, viết về thời kỳ đó, nếu cái
liên tưởng của bạn, mách bảo bạn:
What courage to catch sight of us again?
Mi có dám lại nắm bắt mi?
We lived only once.
Chúng ta sống, chỉ 1 lần
Note: Tay này,
vua viết trinh thám, biết mình
sắp đi, ung thư phổi, bèn viết cuốn này.
Gấu mua, làm mồi, viết cuốn của Gấu!
Chắc là sẽ viết về những ngày
ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa,
nơi Gấu tính chọn, để chết, đếch thèm
trở về Đời!
Nơi chốn hạnh phúc, là
nơi chốn để chết!
Khi ông anh của Gấu viết MCNK,
ông biết, mình là con
voi già, trở về cái nghĩa địa voi,
tức là Đà Lạt của ông, để chết.
Nơi chốn hạnh phúc nhất?
Thì đọc thư viết cho đảo xa
thì biết.
Hay đọc mấy bài thơ của ông
gửi cho đảo xa.
Ngôi nhà đỏ, trăng hồng
TTT
@ Phan Nguyên Blog
Những
đứa trẻ của Dickens
17.2.1973
Em và anh thuộc loại máu
lạnh ở xứ nóng không hợp thật.
Mấy ngày em ở Sài Gòn, tuy nói
với em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng
làm gì cả. Làm mấy bài
thơ thì có. Lúc nào anh cũng
ngóng, biết em không đến, nhất là hai
bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này
không có anh đưa. Giả thử anh có đưa
chỉ làm em nặng thêm, máy bay
nặng thêm. Bữa ấy - chắc là có cô
H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng
hiểu mình ra sao, mình muốn
gì. Bởi anh toàn nói bậy không.
Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên
làm em buồn, hãy cùng vui lúc
bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây ra cũng
tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không làm
như với những người khác, hay bình thường
là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi
anh có sợ em không, bây giờ anh thấy
có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết
bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không bao giờ
anh có được cái mà tất cả mọi người
đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá
sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi bày
trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác
chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó.
Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không?
Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã
thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa
trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt
cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Tin Văn giới thiệu 1 bài
thần sầu trong cuốn trên, để tặng mấy ông
bạn họa sĩ, Nguyễn Đình Thuần, Kinh Dương Vương, Nguyễn
Trọng Khôi, Phan Tấn Hải, Khánh Trường, tên
không theo thứ tự.
Và tự hỏi, không
biết mấy đấng bạn hoạ sĩ của GCC, đã từng vẽ, 1
bức tranh, như trong bài viết?
Trong bức tranh được nhắc tới
ở đây, khi vẽ, người họa sĩ không chỉ vẽ những
còn đang sống, mà luôn cả những người
đã chết rồi.
Như thể cuộc viếng thăm "cuộc
đời, cõi đời, cõi sống.... ", của họ
- những người đã chết- chưa chấm dứt!
People reluctantly on their way into
the shadows
Những người ngần ngại trên
con đường của họ đi vô bóng râm
Two DAYS AFTER THE CAR CRASH
I PAID A VISIT TO SLAP CHURCH, which is close to where
I live on the coast, just north of Kungsbacka. I suddenly
felt an urge to see a painting I had observed and admired many
times. A painting like no other.
It is a family
portrait. Years before photography was invented, people
with sufficient means used to commission oil paintings. This
picture depicts the vicar Gustaf Fredrik Hjortberg and his wife
Anna Helena and their children - all fifteen of them. The picture
was painted at the beginning of the 1770s when Gustaf Hjortberg
was in his fifties. He died a few years later, in 1776.
It is possible
that he was the person who introduced potatoes into Sweden
on a serious scale.
What is striking
and remarkable about the picture, and perhaps also frightening,
is that it doesn't only depict the individuals who were
alive when the artist Jonas Durchs started work on the project:
he also painted the children who were already dead. Their brief
visit to this earth was over, but it was felt they should be in
the family portrait even so.
The picture
is constructed in a way that was normal at the time:
the boys - both the living and the dead - are gathered around
their father on the left of the picture, while the girls are standing
around their mother on the right.
Those who
are alive are looking at the observer - there are quite
a lot of modest, perhaps shy smiles. But the dead children's
faces are half averted from the observer, or partly hidden
behind the backs of the living. All that is visible of one of
the dead boys is his forehead and one eye. He gives the impression
of trying desperately to make his presence felt.
In a cradle
beside the mother is a small child, half hidden. Girls
are hovering vaguely in the background. There seem to be six
dead children in all.
It is as if
time has stood still in the painting. Just as is the
case in a photograph.
Gustaf Hjortberg
was one of Linnaeus's disciples, although he was never
outstanding in any way. He made at least three voyages with
the East India Company to China as the ship's chaplain. Also depicted
in the painting is a globe of the world, and a lemur. Hjortberg
is holding a sheet of paper in his hand, covered in writing. We
are in the presence of an educated and sophisticated family. Gustaf
Hjortberg lived and died in accordance with the ideals of the Age
of Enlightenment. He also had a reputation of being well versed in
medicine - people went on pilgrimages to Slap in order to receive
advice and be healed.
It is about
250 years since these people lived and died. Eight or
nine generations, no more. In many ways they are our contemporaries.
And above all, they belong to the same civilisation as those
of us who contemplate the painting.
Everybody
in the picture is smiling. Some a little stiffly, others
introspectively, a few are quite uninhibited and close to me
as I scrutinise the picture.
But needless
to say, what one remembers about the painting is the children
who are half hidden or looking away. The dead. It is as
jf they are in motion, moving away from the observer and into
the world of shadows.
What is so
touching is the reluctance of the dead children to disappear.
I know of
no other picture that depicts so vividly the stubborn
determination of life to continue.
I hope this
painting will survive into the future - a future so far
distant that I am incapable of imagining it - as a greeting
from our civilisation. It combines a belief in reason with the
tragic conditions that are inherent in human life. Everything
is there.
Simic:
Scribbled
in the Dark
Note: Hai bài thơ
sau đây, trong Master of Disguises,
nhớ là dịch rồi, nhưng kiếm hoài không thấy.
Bèn dịch lại:
God
never made a day as beautiful as today,
Chúa
chưa từng tạo ra 1 ngày đẹp đến như thế này: Bữa
nay!
Đúng là điều Gấu đã
từng khám phá ra!
Cái gì gì:
Tại sao trời mưa?
Tuổi Thiên tài
Gấu có tới ba cái truyện ngắn
đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời
đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời lập
thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay, tính
theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng
thể nhớ tên, đăng trên tuần báo Mã
Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, trang VHNT do Huỳnh
Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này
lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel,
theo nghĩa, chẳng có cái chó gì hết ở trong
đó.
Quả thế thật. Đây là câu
chuyện mà Gấu còn nhớ đại khái, một bữa
chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em mời ngồi
bàn, ở hành lang căn nhà, một tòa
biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi em ngồi cũng gần đó,
nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ mình
là những cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em
cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó trời mưa. Ra
đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố
xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại sao trời mưa?
The Toad
It'll be a while before my friends
See me in the city,
A while before we roam the streets
Late at night
Shouting each other's names
To point out some sight too wonderful
Or too terrifying
To give it a name in a hurry.
I'm staying put in the country,
Rising early,
Listening to the birds
Greet the light,
And when they fall quiet,
To the wind in the leaves
Which are as numerous here
As the crowds in your city.
God never made a day as beautiful as today,
A neighbor was saying.
I sat in the shade after she left
Mulling that one over,
When a toad hopped out of the grass
And, finding me harmless,
Hopped over my foot on his way to the pond.
Con Cóc
[là cậu Ông Giời]
Nó sẽ là 1 lúc, trước
khi bạn quí của Gấu
Nhìn thấy Gấu trong thành phố
Một lúc, trước khi chúng tớ
lang thang phố phá
Khuya đêm
Ơi ới gọi tên nhau [cho đỡ nhớ!]
Chỉ cho nhau thấy một cảnh tượng thần sầu
Hay, thật đáng sợ
Để ban cho nó 1 cái tên,
trong vội vã
Gấu lúc này đang ở bên
ngoài thành phố
Dậy sớm
Nghe chim
Chào mừng ánh sáng
Và khi chúng im lặng
Bèn quay qua gió
Ở trong đám lá
Chúng mới nhiều làm sao
Như đám đông ở trong thành
phố của bạn
Ôi, Chúa ơi!
Người chưa từng tạo ra một ngày đẹp
như là ngày hôm nay
Một người hàng xóm nói
Gấu ngồi trong cái bóng sau
khi bà ta bỏ đi
Lầu bầu lầu bầu
Khi một con cóc lóc lóc
nhảy ra khỏi đám cỏ
Và, thấy Gấu vô hại
Bèn nhảy lên chân Gấu
Trên đường ra cái ao gần đó!
Summer Light
It likes empty churches
At the blue hour of dawn.
The shadows parting
Like curtains in a sideshow,
The eyes of the crucified
Staring down from the cross
As if seeing his bloody feet
For the very first time.
Ánh Sáng Mùa
Hạ
Nó thít nhà thờ
vắng hoe
Vào cái giờ xanh của rạng đông
Những cái bóng bèn lên
đường
Như những bức màn trong 1 "sideshow"
Mắt của người bị đóng đinh thập tự
Nhìn dọc xuống cây thánh
giá
Như thể nhìn thấy máu của mình
ở dưới chân
Lần đầu,
Rất lần đầu
Charles Simic
Malraux says people die only for
something that doesn't exist
Người ta chết chỉ vì
một điều gì đếch hiện hữu.
Cái gì đếch
hiện hữu, với Mít, chính là cái
lý tưởng nước Việt Nam là một, có thể
nói như vậy.
Đây chính là
giấc mơ không tưởng của giống nòi Mít,
mà cả lịch sử của nó, là làm
cỏ sạch mọi giống dân trên đường chạy thằng Tẫu,
mở đường dựng nước về phiá Nam.
Nói như Malraux, OK,
nhưng nói như... GCC, trên, cũng OK:
Cái giả bảnh hơn cái
thực. Bạn có thể nói như thế, cũng
được.
Nhìn xuyên
suốt lịch sử Mít, thì nó đúng
là như thế. Bao nhiêu cái đẹp, cái
lý tưởng, cái giấc mộng tuyệt vời của
cái giống Mít, được Vẹm dùng làm
mồi nhử cả lũ Mít, đưa đến 1 đất nước như hiện nay.
Trên Tin Văn, Gấu đã
nhiều lần lèm bèm, với cuộc chiến Mít,
chỉ có giả tưởng mới mang ý nghĩa thực sự
đến cho nó. Chứng cớ: Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh,
và Một Chủ Nhật Khác của TTT.
http://www.nguoi-viet.com/tin-chinh/nha-tho-nguyen-duy-chuyen-vo-thi-sau-toan-bia-dat/
Người ta chết chỉ vì
một điều gì đếch hiện hữu:
Cả hai cuộc chiến Mít đều do
Vẹm phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực.
Nhằm nhò gì ba chuyện
lẻ tẻ Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám!
In the late summer of that year
we lived in a house in a village that looked across the
river and the plain to the mountains. In the bed of the river
there were pebbles and boulders, dry and white in the sun,
and the water was clear and swiftly moving and blue in the channels.
Troops went by the house and down the road and the dust they raised
powdered the leaves of the trees. The trunks of the trees too were
dusty and the leaves fell early that year and we saw the troops marching
along the road and the dust rising and leaves, stirred by the breeze,
falling and the soldiers marching and afterward the road bare and white
except for the leaves.
So goes the famous first paragraph
of Ernest Hemingway's ''A Farewell to Arms," which I was
moved to reread by the recent announcement that what was
said to be Hemingway's last novel would be published posthumously
next year. That paragraph, which was published in 1929, bears
examination: four deceptively simple sentences, one hundred
and twenty-six words, the arrangement of which remains as mysterious
and thrilling to me now as it did when I first read them, at twelve
or thirteen, and imagined that if I studied them closely enough
and practiced hard enough I might one day arrange one hundred and
twenty-six such words myself.
Joan Didion
Vào
cuối mùa hè năm đó, chúng tôi
sống trong một căn nhà trong một cái làng
nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi.
Ở lòng con sông là đá cuội và
đá mòn, khô và trắng trong ánh
nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng,
xanh ở trong những dòng rẽ. Những toán quân
đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi dấy lên
phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá
rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn
thấy những toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên,
và những lá cây, theo làn gió thổi
rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó
con lộ trần trụi, vắng hoe, và trắng toát, ngoại trừ
những chiếc lá cây.
Đó là
đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã
từ vũ khí, mà tôi,
thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn
tiểu thuyết chót của Hemingway sẽ được xb, sau khi ông
mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929,
nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này:
bốn câu đơn, 126 từ, sự sắp xếp thì là
một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại
tôi vẫn cảm thấy như lần đầu đọc nó, vào
lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu nhìn
thật gần, gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể,
nếu trần lực ra mà đánh vật với chúng, thì
có một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó,
chính tôi!
Note: Kinh nghiệm đọc & viết
của vị này, y chang GCC, hồi mới tập tành
viết, với Faulkner.
Và đây là lời
khuyên - an order - của GCC:
Viết văn là phải có
Thầy, và phải học thầy, từng chữ, từng dấu phảy!
A brief survey of the short story: Italo Calvino
"My author is Kafka", Calvino
once told an interviewer when asked about his influences,
and his presence is discernible throughout Calvino's work,
from The Argentine Ant to the 1984 story Implosion. Here Calvino
links two of literature's most introspective characters, the
doomed prince Hamlet (the story begins: "To explode or to implode
– said Qfwfq – that is the question") and the mole-like creature
from Kafka's death-haunted story The Burrow, in a beautiful but deeply
melancholic rumination on black holes and the death of the universe,
and an apprehension that obliteration lies at the heart of each individual
consciousness:
"Don't distract yourselves fantasizing
over the reckless behaviour of hypothetical quasi-stellar objects
at the uncertain boundaries of the universe: it is here that
you must turn your attention, to the centre of our galaxy, where
all our calculations and instruments indicate the presence of
a body of enormous mass that nevertheless remains invisible. Webs
of radiation and gas, caught there perhaps since the time of the
last implosions, show that there in the middle lies one of these
so-called holes, spent as an old volcano. All that surrounds it,
the wheel of planetary systems and constellations and the branches of
the Milky Way, everything in our galaxy rests on the hub of this implosion
sunk away into itself."
Thầy của tôi là
Kafka.
Không 1 tên Mít
nào viết nổi 1 câu thật là bình
thường như vậy.
Bài viết này, nằm
trong loạt bài nghiên cứu về truyện ngắn của
tờ Guardian. Bài này cũng thật là tuyệt
Tác giả cuốn sách,
tức bà Nobel, chửi thẳng tên già NN,
khi tên này vinh danh Uỷ Ban Nobel, cho 1 tác
giả phi hư cấu. Bà viết, ta đếch cần 1 sự sắp loại, gọi tên:
Her work has been called journalism, or history, but it defies
easy classification.
Tài năng lớn alo nhất của bà
có thể không phải là viết, nhưng mà
là lắng nghe và cho người chứng nói. Cuốn
sách có hơn 200 giọng. Tuy nhiên nó
được lọc bằng cái tai người, yet, filtered by the human
ear.
Câu viết này chửi bố
lũ Vẹm: The fight for memory began as soon as the war stopped.
Cuộc chiến Mít chấm dứt hơn
40 năm rồi, cuộc chiến, the fight, hồi ức, chưa hề có!
Vẫn 1 thứ nhơ bửn vinh danh ca ngợi.
Quá lắm thì cởi mặt
nạ nhìn kẻ thù cũ, Yankee mũi tẹt NN cởi
mặt nạ nhìn 1 tên Yankee mũi lõ, cựu thù.
Đâu có dám nhìn
1 tên Ngụy!
Trieu Duong: 2 poems as things shift
from black-and-white to red-vs-grim-black
AZ, trong Slight Exaggeration, trích
Malraux, 1 câu thần sầu - theo nghĩa, nếu áp
dụng vào thực tế cuộc chiến Mít. Một cách
nào đó, những tên Bắc Kít, khi
xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, chúng đều “mơ thành
người Liên Xô”, mơ biến thành 1 tên Hồng
Quân chống Nazi trong cuộc chiến vĩ đại của Liên Xô
- thì cũng vệ quốc, một bên là Nazi, một bên
là tên đầu sỏ thực dân mới, một Miền Nam bị
nô lệ ngoại bang:
Malraux says people die only for something
that doesn't exist
Người ta chết chỉ vì một điều
gì đếch hiện hữu.
Cái gì đếch hiện hữu,
với Mít, chính là cái lý
tưởng nước Việt Nam là một, có thể nói
như vậy.
Đây chính là giấc
mơ không tưởng của giống nòi Mít,
mà cả lịch sử của nó, là làm cỏ
sạch mọi giống dân trên đường chạy thằng Tẫu, mở
đường dựng nước về phiá Nam.
Nói như Malraux, OK, nhưng nói
như... GCC, trên, cũng OK:
Cái giả bảnh hơn cái
thực. Bạn có thể nói như thế, cũng được.
Nhìn xuyên suốt
lịch sử Mít, thì nó đúng
là như thế. Bao nhiêu cái đẹp, cái
lý tưởng, cái giấc mộng tuyệt vời của cái
giống Mít, được Vẹm dùng làm mồi nhử cả
lũ Mít, đưa đến 1 đất nước như hiện nay.
Trên Tin Văn, Gấu đã nhiều
lần lèm bèm, với cuộc chiến Mít, chỉ
có giả tưởng mới mang ý nghĩa thực sự đến cho
nó. Chứng cớ: Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh, và
Một Chủ Nhật Khác của TTT.
Soviet history
The war for memory
After the Great Patriotic War came the
struggle to reckon with-and manipulate-the stories
"I AM writing a book about war,"
Svetlana Alexievich noted in her diary in 1978. Russian does not have
definite and indefinite articles, but Ms Alexievich, at the time a 30-year-old
Soviet author, born to a Belarusian father and a Ukrainian mother, did
not need one. There was only one war, defining the country at the cost
of 20m lives: the Great Patriotic War of 1941-45.
There had been many
accounts, but Ms Alexievich's "The Unwomanly Face of War",
published in 1985 and released this week in its first post-Soviet
English edition, was unusual: an oral history told by women who
enlisted in the army straight after school, learning to kill and
die before they learned to live or give life. Some tales were blood-curdling-like
that of a 16-year-old nurse who bit off the smashed arm of a wounded
soldier to save his life, and days later volunteered to execute those
who had fled the field. Other stories were heart-breaking, like that
of a girl who first kissed her beloved man only when he was about
to be buried.
The book was followed
by other oral histories of people caught in calamities: the
Soviet invasion of Afghanistan, the Chernobyl disaster, the
collapse of the Soviet empire. In 2015 she won the Nobel Prize in
literature "for her polyphonic writings". For her, the nightmares
of the 20th century made fiction impossible. "Nothing may be invented
... The witnesses must speak," she said in her acceptance speech.
Her work has been called journalism or history, but it defies easy classification.
Ms Alexievich's greatest
talent may be not writing, but listening and getting witnesses
to talk. The book is filled with more than 200 voices. Yet,
filtered by "the human ear", as she calls herself, they vary little
in tone or rhetoric. Her book reflects an uneasy relationship between
memory, which often involves mythologizing, and history as a multitude
of dimensions. A memoir is not a reconstruction of the past, but
a record of the time when the memoir is produced and of the mental
state of the person remembering. As such, Ms Alexievich's book
is a testimony to the late 1970s and early 1980s and the war for
memory which she took part in.
The fight for memory
began as soon as the war stopped. Stalin feared the feelings
the war awoke in his people. ("The only time we were free was
during the war. At the front," Ms Alexievich was told.) Reminders
of suffering were cleared off the streets. Crippled veterans who
pushed themselves on self-made wheeled platforms with hands-if
they had any-were rounded up and sent to a camp on the island of Valaam.
Russian prisoners-of-war were sent to the gulag as potential traitors.
"Liberation" brought not freedom, but a new wave of repression and
anti-Semitic campaigns. "After the Victory everybody became silent.
Silent and afraid, as before the war," one man told Ms Alexievich.
Victory day-the only
unifying and truly national Soviet holiday-became part of
the official calendar and mass culture only in 1965. Leonid
Brezhnev, the Soviet leader from 1964 to 1982, saw the war as the
main source of legitimacy for a stagnating system, and covered
himself in military medals: Hero of the Soviet Union, Order of Victory.
Liberals and the Soviet apparatchiks fought over its memory, and
Ms Alexievich was on the front lines. The bleeding memories of her
witnesses clashed with the gloss and bombast of the official rhetoric.
Her book was published when Mikhail Gorbachev came to power, hoping
to put a human face on socialism.
Even so, the censor
demanded cuts, such as the story of a young partisan woman
who drowned her crying baby to avoid alerting German soldiers.
Those cuts are restored in the new edition-as are her conversations
with the censor, who was particularly scandalized by the description
of menstruation on the battle front. "Who will go to fight after
such books?" the censor demanded "You humiliate women with a primitive
naturalism .. .You make them into ordinary women, females."
More important, the
battle for memory unfolded in the minds of storytellers themselves.
A woman who joined a tank brigade at 16 tells Ms Alexievich
"how it was", only to follow her story a few weeks later with
a letter that included an edit of the transcript of their interview-with
every human detail crossed out. The suppression of the human and
the humane in people was crucial to surviving Soviet life.
Having defeated fascism
in Germany, the Soviet Union imported some of its ideas and
practices, which bore fruits decades later. Waving the banners
of the second world war and holding the photographs of those who
perished in it defeating fascism, today's Kremlin has restored
Soviet symbols, declared the supremacy of the state over the individual
and annexed Crimea. Unleashing a war against Ukraine, Kremlin propaganda
described Ukrainians who demanded dignity as "fascists" and Russian
soldiers as "anti-fascist liberators". The exploitation of the
memory of the war has been the central element of modern Russian
ideology. It is what makes Ms Alexievich's work so relevant today.
_
Số báo này còn
bài ai điếu vị nữ Nobel Toán, người Iran, cũng
cực tuyệt.
Bèn đi luôn.
Adding up
Maryam Mirzakhani, the world's leading
female mathematician, died on July t4th, aged 40
IMAGINE a frictionless ball
rolling around a billiard table. Next, work out, on variously
shaped tables, which set of ricochets would merely repeat a pattern,
and which would eventually cover the whole surface. Full answers
are still elusive, but it is the sort of mathematical puzzle that outsiders
can at least imagine.
By Maryam Mirzakhani's
standards, such problems were mundane. In her world, the
billiard tables were abstract geometric objects which stretched
and warped. The problems involved not just one table but a "moduli
space", of all possible such surfaces. Fans called her work on these
mind-spinning abstractions the "theorem of the decade".
Until the joy of
maths claimed her, she wanted to be a novelist. Books cost
next to nothing in the Iran of her childhood, and her earliest
ambition was to read everything. Later, her maths had a literary
tinge. She thrilled to the unfolding plot lines in the problems
she studied-though unlike in literature, she said, they evolved
like live characters. "Just as you start getting to know them,
you look back and realize your first impression is mistaken."
By her own account
she was a "slow" mathematician, both in the time it took
her to get started (her first teacher in Tehran thought she
lacked aptitude) and in the way she approached problems: teasing
out solutions by doodling for hours on vast sheets of paper. These
would swathe the floor of their home, to the delight of her toddler,
and to the amused bewilderment of her tidy-minded Czech husband.
The point, she said, was not to write down all the details, but
to stay connected with the problem. She also likened mathematical inquiry
to being lost in a forest, gathering knowledge to come up with some
new tricks, until you suddenly reach a hilltop and "see everything
clearly".
But she was quick
on other fronts. Encouraged by her teachers and older brother,
she soared through the Iranian education system. She was the
first girl to represent the country in the mathematical Olympiad,
winning gold medals in two successive years. Her beloved abstract
surfaces can be described geometrically, with angles, lengths and
areas, or algebraically, with equations. She was fluent in both:
a mathematical polyglot. She found it "refreshing" to cross what
she dismissed as the "imaginary" boundaries between different branches
of the subject.
After Harvard and
a stint at Princeton, she ended up at Stanford, winning the
Fields medal-broadly the maths equivalent of a Nobel prize-in
2014, the first woman to do so since its inception in 1936.
Her doctoral thesis alone was an academic
earthquake, leading to papers published in the three most-admired
mathematical journals. Of her great breakthroughs, perhaps
the most easily explained involves hyperbolic surfaces: roughly,
doughnuts with two or more holes, but where each point on the surface
curves upwards, like a saddle. These exist, in theory, in infinite
varieties. A big puzzle involves "geodesic" lines: the shortest distances
between two surface points. Some may be infinitely long; others
are "closed", forming loop with no endpoints. A fascinating and
tiny handful, known as "simple", never cross themselves. Her thesis
revealed a formula for how the number of simple closed geodesics
of a given length rose as that length increased. Such work might seem
abstruse to outsiders, but uses abound, from cosmology to cryptography.
She belied stereotypes.
To Americans, she had to explain that in her native Iran (unlike
Saudi Arabia) women's education and careers were not just
tolerated but encouraged: her girls' high school was run by
a national organization responsible for hothousing young talent.
She was not only the first woman to win the Fields medal, but
the first Iranian, making her a celebrity there. Some media flinched
piously from portraying her without a headscarf, a taboo which frayed
after her death. Her marriage to a non-Muslim was not recognized, hampering
family visits. Many also bemoaned her emigration, part of a debilitating
brain drain. She moved to America for postgraduate study in 1999,
a time when today's anti-Muslim immigration policies were unimaginable.
Drawing a line
She quailed only before the limelight.
She ignored a friend's e-mail telling her of the Fields award,
assuming it was a practical joke. In remission from the cancer
that would eventually kill her, she worried that chemotherapy
had left her too weak to attend the awards ceremony.
Men have roughly
five in every six maths-heavy academic jobs in America,
part of a wider puzzle that neither nature nor nurture fully
explains. One reason may be that maths talent and female fertility
flower in the same crucial years. She acknowledged the problem
of discouragement, but resisted pressure to be a role model;
other women were doing great things too, and anyway research mattered
more. At conferences, female colleagues, working in pairs,
helped her dodge media inquiries. While one distracted the journalist,
the other let her ricochet to a more familiar plane of being. _
Sao người
ta, cái ông Havel ấy, lại có thể nói
hay thế?
Note: Havel nói,
không hẳn như thế:
http://tanvien.net/tg/tg20_ke_ban_xoi.html
Theo Vaclav Havel, đây là
chủ nghĩa tự động-toàn trị (auto-totalitarisme) của
xã hội. Vẫn theo ông, chế độ toàn trị đặc
biệt ở chỗ: khác hẳn những chế độ bạo chúa truyền
thống, ở đây không có thiểu số áp bức
đa số, mà là, mỗi cá nhân đều bị cuốn
hút vào guồng máy: họ vừa là đao phủ,
vừa là nạn nhân, tuỳ theo mức độ nào đó.
Mỗi cá nhân là một bộ "nạn nhân-đao phủ",
"tù nhân-cai ngục". Mấy ông Trung Ương Đảng cũng
không thoát khỏi "qui luật" này: Một phần thân
thể, tôi chịu đựng hệ thống; phần kia, tôi điều khiển nó,
làm cho nó hoạt động. Đây chính
là phần số bi thảm mà chế độ toàn trị đã
áp dụng lên mỗi cá chân.
Vĩnh Biệt Chính Trường
Vaclav Havel
Lời giới thiệu:
Vaclav Havel sinh ngày 5 tháng
Mưòi 1936, tại Prague, Tiệp Khắc. Cha của ông
là một thương gia giầu có. Khi cuộc đảo chánh
do những phần tử được Moscow hỗ trợ nắm quyền Czechoslovakia vào
năm 1948, gia đình ông bị liệt vào danh sách
"kẻ thù của giai cấp", và bị tịch thu tài sản.
Bản thân ông, bị cấm không được học quá chương
trình tiểu học. Ông học xong trung học một cách
lén lút, vào ban đêm, trong khi ban ngày
làm chuyên viên phòng thí nghiệm.
Bị bác đơn xin học ngành nghệ thuật, ông học kinh
tế tại Đại học Kỹ thuật Czech. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1957,
phục vụ quân đội trong hai năm.
Nhà soạn kịch, chính trị
gia, nhà đối kháng, ly khai và tranh
đấu cho nhân quyền. Bị bắt 4 lần, trải gần 5 năm trong
tù, 1977-89. Được dân bầu làm tổng thống Tiệp
(Czechoslovakia), 1989; và bầu làm tổng thống Cộng Hoà
Czech Republic (1992).
Thập niên 1960, ông sáng
tác những bi hài kịch theo kiểu Kafka, nhằm
chỉ trích sự phi lý của chế độ thư lại cộng sản.
Trong vở kịch dài "The Garden Party" (1963), những nhân
viên nhà nước cộng sản đã không làm
sao phá huỷ được chế độ thư lại, chỉ vì không
làm sao giải được ngôn ngữ mật mã mà
nó sử dụng. Thời kỳ đen tối ngay sau khi xe tăng Liên Xô
giập nát "Mùa Xuân Prague 1968", lợi dụng chút
tự do ngắn ngủi, ông viết hai vở kịch mang tính hiện
sinh, "The Conspirators" và "The Mountain Hotel".
Thời gian dài sau đó, tiếp
theo sau cuộc xâm lăng của Liên Xô, ông
quay qua viết chui, với những tác phẩm như Phỏng Vấn,
"Interview" (1975), Một Cái Nhìn Riêng Tư,
"A Private View" (1975), và Phản Đối, "Protest" (1978). Nhân
vật là chính ông, có cái tên
là Vanek ở trong những vở kịch kể trên, một nhà
ly khai, và nhà văn, bị nhà nước bách
hại. Những vở kịch trên đều được trình diễn trong
bí mật.
Bà vợ của ông mất vì
ung thư, tháng Giêng 1966. Bản thân ông
cũng đã trải qua những cuộc điều trị ung thư phổi.
Sau đây là bài diễn
văn của Tổng Thống Havel, tại Nữu Ước, vào ngày
19 tháng Chín, 2002, tại Graduate Center of
the City University, nhân chuyến công du nước Mỹ sau
cùng của ông, với cương vị Tổng thống xứ Cộng Hòa
Czech Republic.
Trong những số tới Jennifer tôi
sẽ giới thiệu thêm về những tác phẩm của Havel.
Vẫn còn ngời ngời trong tôi,
là kỷ niệm chuyến đi mười ba năm trước đây, vào
tháng Hai 1990, thành phố Nữu Ước chào
mừng tôi, như là vị tổng thống mới tinh của xứ Czechoslovakia.
Lẽ dĩ nhiên, đây không phải vinh danh cá
nhân tôi, mà là một cách vinh
danh tất cả những đồng bào của tôi, mà, bằng một
hành động không bạo động, đã có thể lật
đổ một chính quyền quỉ ma từng ngự trị trên xứ xở này.
Và cũng vinh danh tất cả những người, trước tôi, hay
cùng với tôi, đã chống cự, cưỡng lại chế độ đó,
một lần nữa ở đây, bằng những phương tiện không bạo động.
Rất nhiều người yêu tự do trên toàn thế giới, đã
nhìn chiến thắng của cuộc Cách Mạng Nhung Czechoslovak
Velvet Revolution tại Tiệp khắc như là một loài chim đem
tin mừng, về một thế giới nhân bản hơn đang cận kề, một thế giới
mà trong đó, tiếng nói của thi sĩ thì
cũng đầy quyền uy, chẳng thua gì của ông chủ ngân
hàng.
Hôm nay chúng ta vui vầy
ở đây, ấm áp, ngời ngời, đầy ấn tượng, chẳng
kém chi lần trước, và một không khí
như vầy tự nhiên khiến tôi băn khoăn về một điều,
rằng, thời gian mười ba năm trôi qua, tôi có
gì thay đổi, và khoảng đời làm tổng thống, chắc
là chẳng thoải mái, khó mà cảm thông,
ảnh hưởng gì tới tôi, và những kinh nghiệm không
thể nào đếm được, qua bằng ấy năm tháng chẳng thể
nào êm đềm, đã thay đổi con người tôi,
bằng những cách như thế nào.
Và tôi khám phá
ra một điều phải nói là kỳ quái. Bởi vì
ai mà chẳng cho rằng, giầu kinh nghiệm như vậy sẽ làm
cho tôi tự hào hơn, tự tin hơn, sáng sủa
hẳn ra, nhưng ngược hẳn vậy. Tôi trở nên bớt tự tin,
và càng khiêm tốn hơn. Các bạn có
thể không tin, nhưng mỗi ngày tôi một thêm
khớp vì phải lên sân khấu; ngày nào
tôi cũng sợ, rằng mình không đóng tới
nơi tới chốn vai của mình, và như thế, tôi sẽ
làm tệ, làm hỏng công việc đó. Càng
ngày càng trở nên khó khăn hơn, cái
việc viết diễn văn, và càng sợ hơn, khi ngồi viết:
cứ như là rắn cắn phải lưỡi, nghĩa là bổn cũ soạn lại,
hàng nhiều lần. Cứ thế, tôi sợ rằng tôi sa sút
một cách thê thảm đối với hoài vọng, và
tới một ngày nào đó, mình lộ chân
tướng: chỉ là một gã bất tài, một tên
thất bại, và cho dù đầy thiện ý, tôi sẽ
tạo những lỗi lầm ngày càng lớn, cho tới một ngày,
tôi không còn được tin cậy, chẳng có chút
đáng giá, nghĩa là vô dụng, và
do đó mất quyền làm những gì tôi làm.
Và trong khi những vị tổng thống
khác, trẻ hơn tôi vào lúc tại
chức, tỏ ra rất hân hoan mỗi lần có cơ hội gặp
gỡ, giữa họ với nhau, hoặc với những người quan trọng khác,
xuất hiện trên truyền hình, hay ban diễn từ, đọc
diễn văn, bấy thứ đó chỉ làm tôi thêm
sợ. Đòi phen, lẽ ra tôi phải hân hoan đón
chào một cơ hội tốt, thì tôi lại cố tình
tránh né do nỗi sợ phi lý, là tôi
sẽ làm hỏng thời cơ kia bằng cách này cách
khác, và còn có thể tổn hại đến chính
nghĩa. Nói tóm tắt là, tôi ngày
càng thêm ngần ngại, nghi ngờ, ngay cả với chính
mình. Và tôi càng có thêm kẻ
thù bao nhiêu, tôi càng cùng phe với
họ bấy nhiêu, ở trong cái đầu của mình, và
như thế, tôi trở thành kẻ thù khốn kiếp nhất, tệ
hại nhất của chính tôi.
Làm sao giải thích nỗi đoạn
trường, cuộc truân chuyên, là cái
nhân cách của tôi, ở đây?
Có lẽ, một khi không còn
làm tổng thống nữa, tôi sẽ đào sâu
thêm về vấn đề này, nghĩa là kể từ tháng
Hai sắp tới, tôi sẽ có thì giờ, và có
một quãng cách với chính trường, và,
lại có tư cách của một con người hoàn toàn
tự do, tôi sẽ khởi sự viết một cái gì đó
khác với những bài diễn văn chính trị.
Tuy nhiên, vào lúc
này, hãy cho tôi thử đưa ra một trong
rất nhiều lời giải thích, về những nguồn cơn cơ sự kể
trên. Như bạn biết đấy, càng về già, càng
trở nên chín chắn, về kinh nghiệm cũng như là
về tâm trí, tôi dần dần nhận ra một cách
đầy đủ tầm mức trách nhiệm của mình, và
về những đòi hỏi rất đỗi thay đổi, đa dạng, đẻ ra từ cái
công việc mà tôi chấp nhận. Hơn thế nữa, thời
gian cứ thế tiến gần, trong khi những người chung quanh tôi,
thế giới, và - điều tệ nhất – lương tâm của riêng
tôi, chẳng còn hỏi tôi những điều đại loại như
thế này: đâu là những lý tưởng, mục tiêu
của tôi, tôi đã mong hoàn thành
những gì, thay đổi thế giới ư, làm sao thay đổi... nhưng
thay vì như thế, bây giờ là những câu hỏi
như thế này: cuối cùng tôi đã làm
được chút nào không, những ý hướng nào
đã được đề ra, và hậu quả thế nào, di sản để
lại, và cái kiểu thế giới nào, tôi muốn
để lại sau lưng mình. Và bất thình lình,
tôi cảm thấy nỗi nhức nhối, khó chịu, vừa mang tính
tâm linh, vừa mang tính trí thức: vẫn là nỗi
nhức nhối, đã có lần tôi cảm thấy, khi đứng lên,
chống lại chính quyền toàn trị, và đi vào
tù vì dám làm như thế. Chính nỗi nhức
nhối này làm cho tôi đắm chìm vào những
nghi ngờ, về giá trị việc làm của riêng tôi,
về những việc làm của những người mà tôi hỗ trợ, và
về ảnh hưởng của những người có được vì tôi.
Trong quá khứ, mỗi lần được trao
những bằng cấp danh dự, nghe những bài diễn văn ngợi
ca, tôi thường cười với chính tôi, rằng,
làm sao mà trong rất nhiều dịp như thế này,
tôi lại nhớ tới một chú bé, trong câu
chuyện cổ tích, nhân danh cái tốt, đập đầu
vào bức tường tòa lâu đài của những
ông vua độc ác, ma quỉ, cho tới khi bức tường đổ xuống,
chú bé trở thành vì vua, và
trị vì vương quốc trong nhiều năm, bằng sự khôn ngoan
và tài đức của mình. Đừng trách tôi
coi nhẹ những dịp lễ lạc như trên, tôi trân trọng,
đánh giá cao những bằng cấp tiến sĩ danh dự mà
tôi đã được trao tặng, và tôi luôn luôn
cảm động, khi nhận chúng.
Tuy nhiên, như trong câu chuyện
thần tiên trên chứng tỏ, tôi chỉ muốn đưa
ra một mặt khác - hơi có tính hài
hước - của vấn đề. Bởi vì, tôi bắt đầu hiểu ra, tại
làm sao, duyên cớ nào, tất cả giống như một
cái bẫy quái quỉ mà số mệnh đã bầy đặt
cho tôi. Bởi vì, như một viên đạn sỏi ở trong
một cái ná của một đứa trẻ, chỉ trong một đêm,
tôi thấy mình ở trong một thế giới của những câu
chuyện thần tiên, và rồi, trong những năm tiếp theo,
phải trở về trái đất, và nhận ra, những câu chuyện
thần tiên chỉ là phóng chiếu những mẫu người
(human archetypes), và thế giới chẳng hề được cấu trúc
như một câu chuyện thần tiên. Và, chẳng bao giờ
cố gắng làm một ông vua như trong chuyện thần tiên
kể trên, mặc dù "bị" số mệnh đẩy vào một sự biến
của lịch sử, thì cứ nói như vậy, nhưng tôi lại
không có được sự miễn nhiễm ngoại giao, khi té cái
bịch xuống trái đất, từ thế giới hào hứng cách mạng
vào thế giới thư lại tẻ nhạt thường ngày.
Làm ơn hiểu dùm, tôi
không hề muốn nói rằng tôi đã bỏ
cuộc, đầu hàng, hay là mọi chuyện đều vô
ích. Ngược lại, thế giới, nhân loại, và nền văn
minh của chúng ta, tất cả thấy mình ở ngã tư, ngã
năm, có lẽ quan trọng nhất, trong lịch sử của chúng,
vào lúc này. Chưa từng có một cơ may nào
lớn lao như vậy, trong những thời kỳ mới đây thôi, để
hiểu tình thế, hoàn cảnh của chúng ta, và
hai ngả đường mà chúng ta phải chọn lựa: gật đầu chấp
nhận con đường của lẽ phải (reason), hòa bình, và
công lý, thay vì con đường dẫn đến sự hủy diệt chính
chúng ta.
Tôi nhấn mạnh, chỉ điều này:
gay go lắm, chông gai lắm, là con đường của
lẽ phải, hòa bình và công lý.
Chấp nhận gian khổ, phải tự xóa mình, phải kiên
nhẫn, phải chịu học – phải có tri thức – phải có
một cái nhìn khái quát, điềm đạm,
và phải dám chịu rủi ro, do hiểu lầm, hiểu sai. Cùng
lúc đó, chấp nhận con đường của lẽ phải, hòa
bình và công lý còn có nghĩa:
mọi người nên tự phán đoán về chính mình,
rằng tài cán ấy, sức lực này, có thể
làm nên cơm cháo gì, và hành
động tùy theo "nội lực" của mình, đừng để xẩy ra tình
trạng tẩu hỏa nhập ma, hại không chỉ riêng mình
mà còn gây họa cho người khác; chỉ như vậy
thì cái nội lực của mỗi con người mới không bị cạn
láng; mà ngày một tăng thêm, nhịp nhàng
với những nhiệm vụ, mục tiêu mới mà tự mình đề
ra cho mình. Nói một cách khác, sẽ chẳng
có chuyện dựa vào bí kíp, kỳ thư, hoặc
thần dược, hay linh chi ngàn năm; nghĩa là đừng dựa
vào những câu chuyện thần tiên và những người
anh hùng ở trong đó. Cũng chẳng còn có
chuyện dựa vào những sự biến của lịch sử, nhờ đó, những
nhà thơ ngồi chễm chệ vào những chiếc ngai của những
ông vua bà chúa, những ông tướng, ông
tá vừa bị lật nhào. Những tiếng nói cảnh giác
của những nhà thơ cần phải được lắng nghe hết sức cẩn trọng, và
càng được cẩn trọng nếu đem ra áp dụng, có lẽ còn
cẩn trọng hơn cả của những tiếng nói của mấy ông chủ nhà
băng hay mấy ông giao dịch chứng khoán. Nhưng cùng
lúc đó, chúng ta đừng hoài vọng, rằng thế
giới – ở trong tay những thi sĩ – bất thình lình biến
thành một bài thơ.
Có lẽ phải như thế thôi.
Có một điều tôi biết thật rõ, là,
cho dù tôi đã đóng vai trò
của mình như thế nào, cho dù tôi
rất muốn, hoặc xứng đáng được trao cho, cho dù tôi,
nhiều hoặc ít, hài lòng với những cố gắng
của mình, tôi hiểu ra rằng, cái việc làm
tổng thống đó đúng là một món quà
tặng tuyệt vời mà số mệnh đã ưu ái trao
cho tôi. Tôi đã có cơ hội, có cái
phần của mình, ở trong những biến động lịch sử, chúng
thực sự đã thay đổi bộ mặt của thế giới. Và còn
điều này nữa, như là một kinh nghiệm của cuộc đời, và
một cơ hội có tính sáng tạo, nó thật đáng,
với tất cả những cạm bẫy ẩn giấu ở trong nó.
Và bây giờ, nếu các
bạn cho phép, sau chót, tôi cố gắng
tạo một khoảng cách với chính mình, và
thử đưa ra ba, trong số những "đoan chắc", đúng ra là
những nhận xét (observations) ngày nào của
tôi, mà cái quãng đời làm tổng
thống ở trong giới chính trị cao cấp, đã chứng nghiệm:
(1). Nếu nhân loại sống còn,
và tránh được những thảm họa mới, thì,
cái trật tự chính trị toàn cầu phải được
đi kèm bởi một sự kính trọng lẫn nhau một cách
thành thực, giữa những lục địa, quốc gia, văn hóa,
văn minh trên những vùng địa cầu khác nhau;
và bởi những cố gắng thực thà, lương thiện của mỗi
thành phần như thế đó, trong việc tìm kiếm những
giá trị hay là những thế giá đạo đức cơ bản mà
họ cảm thấy có thể là của chung, và coi chúng
là những viên gạch xây dựng những nền tảng của cuộc
sống chung của họ, ở trong một thế giới được nối kết vào với
nhau, trên mặt toàn cầu.
(2). Cái độc, cái ác
phải được đối mặt, và hủy diệt ngay từ khi còn
trong trứng nước; và nếu không có cách
chi để mà diệt cái ác ngay từ mầm mống của
nó, thì đành phải sử dụng tới vũ lực. Nếu
cái kho tàng vũ khí hiện đại, tinh vi hữu hiệu
là như thế, tốn tiền tốn bạc là như thế, phải được lôi
ra sử dụng, thì hãy sử dụng nó cách
nào mà không làm khổ, làm hại
tới dân lành. Nếu không thể được như vậy, nghĩa
là người dân lành cứ thế mà chết
theo, thì cái kho võ khí khốn kiếp
kia là một sỉ nhục cho toàn nhân loại, và
bao nhiêu thời giờ, bạc tỉ, sức lực, trí tuệ đổ vào
đó, thật đáng gọi là một sự tốn hao vô
ích.
(3). Nếu chúng ta xem xét
những vấn đề mà thế giới hiện nay đang phải đối đầu,
nào là kinh tế, xã hội, sinh thái
hay là những vấn đề mang tính tổng quát
về văn minh, cho dù muốn hoặc không, chúng ta
đều đụng với câu hỏi: tiến trình hành động như
thế đó, có thích đáng hay là
không, và theo một cái nhìn dài
hạn, mang tính toàn cầu, trách nhiệm của nó
ra sao. Trật tự đạo đức và những nguồn gốc của nó; nhân
quyền và những nguồn gốc về quyền của dân chúng,
từ đó chúng ta có được những điều được gọi là
nhân quyền như hiện nay; trách nhiệm làm người và
những nguồn gốc của nó; lương tâm con người và
một cái nhìn thấu đáo, mà qua đó,
không có gì có thể che giấu, bằng bức màn
tre hay màn sắt, hay bất cứ thứ màn gì, của sự
dối trá, hay của những lời nói cao thượng, phong nhã,
quân tử: Trong niềm xác tín sâu xa nhất
của tôi, và trong kinh nghiệm của tôi, đó
là những chủ đề chính trị quan trọng nhất của thời đại
chúng ta.
Các bạn thân mến, khi nhìn
quanh tôi, và thấy rất nhiều người nổi tiếng
có vẻ như từ trên trời sa xuống trái đất,
tôi không thể không có cảm giác,
rằng, sau cùng, sau cú té dài từ thiên
thai xuống trái đất cứng rắn này, bất thình
lình tôi lại thấy mình, một lần nữa, ở trong
một câu chuyện thần tiên. Có lẽ chỉ có
chút khác biệt: bây giờ, tôi có thể
thưởng thức cảm giác này, nhiều hơn là lần cách
đây mười ba năm.
Jennifer Tran chuyển ngữ
(từ bản tiếng Anh của Paul Wilson, dịch
từ nguyên bản tiếng Czech, đăng trên tờ Điểm
Báo Nữu Ước, NYRB, số đề ngày 24 tháng
Mười, 2002).
Trong túi luôn thủ
sẵn cái bàn chải đánh răng. Cớm VC Tchèque
tới lúc nào là đi lúc đó.
Quái làm sao, GCC
lại nhớ đến tay soạn nhạc người Nga, Shostakovich, thời gian thất sủng, không
dám ngủ ở trong nhà, mà ở hành lang, chờ KGB
tới bắt, để vợ con khỏi phải nhìn thấy cảnh tượng này. Trên
TLS số mới có 1 bài hay lắm về ông, đúng hơn,
về cái thế đi hai hàng của ông. Để thủng thẳng TV giới
thiệu độc giả, coi có giống đám sĩ phu Bắc Hà không.
GCC coi lại, trên tờ Điểm
Sách London, số 1, Dec 2011, không phải TLS.
Số này còn
1 bài Tim Parks điểm Beckett’s Letters,
cũng được lắm.
Malaparte
My
Old Saigon
Viết
mỗi ngày
Gấu mua cuốn Into The
Looking-Glass Wood của Alberto Manguel cũng lâu
rồi, có đọc lai rai, vì là 1 tác
giả Gấu mê, ngay từ lúc vừa ra hải ngoại,
qua sự giới thiệu của Nguyễn Tiến Văn, với cuốn A History
of Reading của ông. Bữa nay lôi ra đọc, vớ
đúng 1 bài thật là thần sầu “Borges in
Love”.
Manguel
đã từng hân hạnh là người đọc
truyện cho Borges, khi ông bị mù. Bài
viết kể về cuộc tình của Borges với Estela Canto,
và Borges viết truyện The Aleph, là để tặng
vị này.
Sau đây
là link bản tiếng Anh, và bản tiếng
Việt (Da Màu).
Tiép
đó, Gấu bèn lai rai về truyện ngắn
The Aleph.
http://damau.org/archives/43270
http://www.phinnweb.org/links/literature/borges/aleph.html
In a 1970
commentary on the story, Borges explained, "What eternity
is to time, the Aleph is to space." As the narrator
of the story discovers, however, trying to describe such
an idea in conventional terms can prove a daunting—even
impossible—task.
Trong 1 lần
còm, Borges giải thích, "cái"
là "vĩnh cửu" với thời gian, thì với The Aleph,
"nó" là "không gian".
Món
quà của Borges tặng em, đúng là
như thế, cái "nơi chốn của tất cả nơi chốn"
Bạn đọc
Tin Văn hẳn cũng đã đọc MCNK của TTT, trên
Tin Văn, và chắc hẳn cũng khổ tâm như
Duy, 1 nhân vật ở trong truyện. Duy băn khoăn, thế
rồi Hiền đi đâu. Kiệt thì giải thích
với vợ là, anh đưa Hiền tới đó, rồi lại về
với em.
Chỗ đó
là chỗ nào?
Có
lần Gấu gọi nơi chốn đó, là Lost Domain,
muợn từ Anh Môn. Nhưng Manguel cho biết, đó
là Ithaca: The place that is all places, tức là
The Aleph.
Borges cho
biết, ông cảm thấy định mệnh của ông,
là, đếch được hạnh phúc, that it was not
his destiny to be happy. Quái làm sao, Gấu
cũng đã từng bị phán như thế, qua ông
bạn chưa từng được gặp là nhà văn Doãn Dân,
sĩ quan VNCH, đã tử trận. Nhớ là, Nguyễn Tân
Văn, bạn thời còn đi học của Gấu, có lần đưa cho
anh đọc cuốn “Những ngày ở Sài Gòn”, đọc xong,
anh phán, thằng cha này quá sợ hạnh phúc!
(1)
(1) Doãn Dân: Tên
Trần Doãn Dân, sinh năm 1938 tại
Nam
Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày
29.4.1972
VHTQ Võ Phiến
Viết
mỗi ngày
Borges in Love
A young woman in the audience:
"Mr. Borges, have
you ever been in love?"
Borges (unhesitatingly):
"Yes."
Yale University,
March 1971
LCPEZ LECUBE: You said
once that you have always been in love with a woman.
BORGES: Yes, but the women have changed
over time.
LCPEZ LECUBE: Have you had so many loves?
BORGES: I asked my sister about her
first love and she said to me, "I don't remember
much from my life but I know that I've been in love
since I was four years old," and as far as I remember I
have always been in love, but the people change. The love
is always the same, and the person is always unique,
even if she is different.
LCPEZ LECUBE: Who is that unique person?
BORGES: There have been so many that
I've lost track.
LOPEZ LECUBE: Have you been in love with
many women?
BORGES: It would be very strange if I
hadn't.
LOPEZ LECUBE: Because I would say that
actually one has very few great loves.
BORGES: All love is great, love doesn't
come in different sizes, whenever one is in
love, they’re in love with a unique person. Maybe
every person is unique, maybe when one is in love they
see a person as they really are, or how God sees them.
If not, why fall in love with them? Maybe every person is
unique, I could go further: maybe every ant is unique, if not
why are there so many of them? Why else would God like ants
so much? There are millions of ants and each one is undoubtedly
as individual as, well, as Shakespeare or Walt Whitman.
Every ant is undoubtedly unique. And every person is unique.
LOPEZ LECUBE: Like women ... ? The species
known as woman?
BORGES: I think that they're more sensible
than men, I have no doubt that if women
governed countries, there would be no wars, men
are irrational, they've evolved that way, women too.
LOPEZ LECUBE: So why aren't women allowed
to govern countries?
BORGES: Well, they probably have somewhere
... I was talking to Alicia Moreau de Justo
who seems a miraculous person to me; she's about
to turn a hundred and she speaks so fluently. She can
put together long, complex phrases and each phrase
has a certain elegance. I was genuinely amazed for the first
time in my life, really, a few months ago at her house, which
is in Cinco Esquinas. The tenement where Leónidas
Barletta was born used to stand where her house is now,
in Juncal and Libertad, and Barletta used to say to me
''I'm a compadrito from Cinco Esquinas."
In the end he came into town. He liked to play the guitar and
knew how to improvise, he was very good. Once he dedicated a song
to Mastronardi that lasted maybe a quarter of an hour,
all improvised, the whole thing, it came to him very easily.
Có lần ông
phán, ông luôn yêu
1 người đàn bà
Yes. Nhưng đàn bà thay
đổi theo thời gian
Ông có nhiều tình
yêu?
Tôi hỏi bà chị của tôi,
về tình yêu đầu tiên
của bà, bà nói, “Ta không
nhớ nhưng ta nhớ là ta yêu lần đầu khi
ta bốn tuổi”, và như tôi nhớ, tôi
luôn yêu, nhưng con người thay đổi.
Tình thì luôn luôn là
thế đó, và người, thì độc nhất,
ngay cả nếu nàng khác đi.
Cuốn tiểu thuyết mới của
Linda Lê:
Nhân nói chuyện,
chỉ những kẻ mê viết...
GCC có lần thú thực,
không đọc được Linda Lê, văn, nhưng rất mê
Linda Lê, tiểu luận.
Đây là vấn đề tạng văn,
tạng người. Có thể nói, Gấu chỉ đọc được
có 1 Faulkner, và với Faulkner, cũng chỉ có
1 cuốn “Absalom, Absalom!”
Vẫn, có thể nói, giả
như không đọc “Absalom, Absalom!”, là không
có GCC!
Cái đoạn văn mở ra cõi
văn của GCC, post sau đây, đúng là
cái đoạn văn mà hồi mới viết, Gấu cứ phải lôi
ra tụng, lấy hứng, và chôm, 1 câu, hay 1
ý nào đó, rồi từ đó, phóng ra,
phóng tới
1
From a little after two o’clock until
almost sundown of the long still hot weary dead September
afternoon they sat in what Miss Cold field still called the
office because her father had called it that-a dim hot airless
room with the blinds all closed and fastened for forty-three summers
because when she was a girl someone had believed that light and
moving air carried heat and that dark was always cooler, and
which (as the sun shone fuller and fuller on that side of the
house) became latticed with yellow slashes full of dust motes
which Quentin thought of as being flecks of the dead old dried
paint itself blown inward from the scaling blinds as wind might
have blown them. There was a wisteria vine blooming for the second
time that summer on a wooden trellis before one window, into which
sparrows came now and then in random gusts, making a dry vivid dusty
sound before going away: and opposite Quentin, Miss Cold field in
the eternal black which she had worn for forty three years now, whether
for sister, father, or nothusband none knew, sitting so bolt upright
in the straight hard chair that was so tall for her that her legs hung
straight and rigid as if she had iron shinbones and ankles, clear of
the floor with that air of impotent and static rage like children's
feet, and talking in that grim haggard amazed voice until at last listening
would renege and hearing-sense self-confound and the long-dead object
of her impotent yet indomitable frustration would appear, as though
by outraged (recapitulation) evoked, quiet inatten....
Bạn so sánh đoạn trên,
với khúc sau đây, trong Tứ Tấu Khúc:
Mùa Hè Miền Nam
Căn nhà gỗ, vách ván,
nền tráng xi măng, mái thấp, đứng ở ngoài
hiên, hơi kiễng chân có thể lùa
tay dọc theo con máng, lùa mớ lá khô,
rồi sau đó, lấy rẻ ướt vét sạch lớp bụi cát
do những chuyến xe đò chạy trên đường lộ lùa
tới, lưu cữu dưới lòng máng sâu, mùi
xăng nhớt lẫn trong luồng hơi nóng bị vách ván
cùng những cánh cửa sổ đóng kín, ngăn
chặn, quanh quẩn trong hiên, đánh thức những giấc ngủ
trưa chập chờn, bài hoải trên chiếc ghế bố ở cuối hiên,
đánh thức luôn những xúc động nhỏ nhặt, những ước
muốn mơ hồ, không rõ rệt... Một lần giở một khúc
máng gỉ nát tính sửa chữa, tình cờ tìm
lại được cả một tập thư tình viết cho L.H. Những bức thư tình
viết đầu tiên trong đời, trong đêm khuya, dưới ánh
đèn lén lút chiếu sáng vừa đủ trang giấy, lo
sợ, không phải ánh sáng đèn, nhưng mà
là những xúc động rồn rập (nhiều lúc làm nghẹt
thở), làm mọi người thức giấc; càng về khuya, chữ càng
thêm năng nề, nhưng vẫn không thể nói hết, thỉnh thoảng
viết được một vài điều thật cảm động, (những kể lể sướt mướt, những
lời nói họa hoằn của nàng vẫn còn đọng lại, tiếng cười,
cử chỉ của nàng khi vẫy tay từ giã, hẹn kỳ hè tới sẽ
gặp lại...), vội vã tắt đèn, ngồi yên lặng trong bóng
tối, sợ hãi chính nỗi xúc động của mình, chúng
có thể gây nên những tiếng động lịch kịch như tiếng
bàn ghế di chuyển, làm ngọn đèn cháy sáng
trở lại, nỗi xúc động giống như nỗi cô đợn nhiều khi đột nhiên
thái quá, làm ngây ngất, khó chịu.
Những bức thư viết nhưng không bao giờ gửi, không phải
sự sợ hãi, không phải quá rụt rè khi gặp
nàng, nhưng mỗi lần tính đưa, thì một cử chỉ vô
tình của nàng làm khựng lại, ngay chính
người đưa thư cũng nhận ra sự vô ích, thừa thãi,
nhưng tại sao vẫn.... Tưởng tượng nếu nàng đọc những bức thư
đó, có cảm giác chết cứng vì tủi hổ, nỗi
cô đơn đột nhiên bị tước đoạt, cảm giác trần truồng
trước mặt nàng, trước người khác... Những bức thư được giấu
kỹ trong đống sách vở, ở dưới đệm giường, ở dưới lòng máng,
chỗ an toàn nhất không sợ chị Thu lục lọi ngăn kéo
hộc bàn tìm mẩu viết chì, thỏi gôm, lật những
cuốn tập, vô tình thấy, tò mò đọc, chắc chắn
sẽ cười cợt, chế giễu, nhưng có thể sẽ thương hại; xấp giấy được
giấu kỹ như những món quà, bánh được ba má
chia đều cho hai chị em, thường để dành, tìm chỗ cất giấu,
nhiều khi mải chơi, quên luôn, khi nhớ tìm lại, kiến
bu quanh, hoặc chuột đã tha đi đâu mất tích, xấp giấy
nay cũng bị gián nhấp tả tơi, chữ thiếu hụt, chỗ còn mất, nước
mưa làm nhiều chỗ trở nên trắng bệch, mất cả buổi sáng
tìm cách vá víu, chắp nối, nhưng không
thể, quá khứ...
Mái lợp ngói nâu,
vẻ cũ kỹ, mốc thếch, vườn cây vây quanh nhà,
con kinh đào dẫn nước luân lưu khắp vườn, sau cùng
đổ những trái dừa, trái cam hư thối ra nhánh
sông sau nhà, một chiếc xuồng lập úp, vùi
giữa đống lá dưới bóng một thân cây
lớn, chủ nhật hay ngày lễ, nhất là vào dịp
nghỉ hè, L. H. từ Sài Gòn lên vườn thăm
chị Thu, sẽ đưa nàng đi chơi xuồng, cả hai len lỏi giữa những
vùng trời nước im lặng, tiếng mái chèo đập
nước làm át tiếng tim đập mạnh, giả đò thở hổn
hển vì mệt chứ không phải vì quá xúc
động... hoặc đậu xuồng dưới đám lá cây dầy đặc
che hết ánh nắng (nàng bỏ kính che mắt, trong
bóng mát, ánh mắt chợt long lanh, có thể
nàng biết... tinh nghịch nhúng tay xuống nước, bóng
nàng vỡ ra từng mảnh, chụm dần lại... biết tôi đang đăm đăm,
ngơ ngẩn nhìn....), hoặc chìm mất giữa đám sậy
nhỏ, những lần đi quá xa, tiếng chị Thu từ trên bờ gọi trở
về dùng cơm vọng nước tới làm tắt ngấm những lời dự định nói,
cuối cùng vẫn chỉ là những lời vu vơ, những hỏi han về việc
học, về thành phố Sài Gòn đã lâu chưa
có dịp xuống chơi, về một vài dự tính trong tương
lai (nàng nói, sẽ học y khoa, chữa bệnh cho mọi người nhưng
không cho riêng ai, tâm sự của mỗi người cũng chỉ là
một chứng bệnh, rồi sẽ qua đi, chẳng cần chữa trị...), tất cả những gì
còn lại được giấu kín như những bức thư chẳng bao giờ gửi,
như những lần tự nhủ, trước khi nhập ngũ, sẽ gặp nàng một lần,
và sau đó sẽ bỏ đi, sẽ mất tích trong cuộc chiến,
hoặc cũng chẳng cần cuộc chiến, sẽ cố gắng quên hết, cố gắng làm
lại từ đầu, giả sử như chưa từng gặp nàng, như những lần lang thang
nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm
thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách
vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn
lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng
xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy
nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn
ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận
ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc,
hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên
kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc,
giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá
khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng,
ngó nhìn lên, có thể bóng dáng
nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh
đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập,
cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng
về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết,
hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành
phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét
mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với
nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút
tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô
đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức,
những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài
sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng,
lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng an ủi, vỗ về, nàng
đứng ở đâu đó ở bên ngoài cuộc đời của tôi,
như một người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng
không thể thấy, không thể biết, nhưng thôi, thôi,
Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng
nói gì cả....
Sơ Dạ Hương.
Văn Linda Lê, hay cái
đẹp, theo Bà, là phải dữ dằn, quằn quại, trật trìa,
loạng quạng... hình như bà, hay giới phê
bình, hay dùng những chữ này.
Không có Gấu ở trong đó!
Malaparte
Mấy nước phát
xít đã đen thui, mấy cục đen sì
văn chương của mấy nước ấy thì còn đen đến
mức nào nữa: một người Ý, Malaparte và
một người Áo, Thomas Bernhard.
Trong ảnh trên
đây, bên trái là quyển tiểu
sử đầy đủ nhất cho tới nay về Malaparte tức Curzio Suckert;
tác giả Maurizio Serra ngay từ đầu đã
cho biết: “Người ta có thể tìm ra rất nhiều lý
do, mà lý do nào cũng tuyệt hảo, để
không yêu quý ông”. Bởi tài
năng của Malaparte đi kèm với những khiếm khuyết, thậm
chí là những xấu xa của con người: mythomane (có
thể hiểu đại ý là nói dối bệnh lý),
exhibitionniste (thích tự trưng bày), ham muốn
tiền bạc và khoái lạc, một “tắc kè hoa”
trong nhiều thứ. Từ “tắc kè hoa” ngay lập tức gợi ta nhớ
đến Romain Gary-Émile Ajar; quyển tiểu sử lớn nhất về
Gary mang nhan đề “tắc kè hoa”, và Romain Gary cũng
mythomane, cũng thích điệu đà, gái gú
như điên, một thời sống với “femme fatale” Jean Seberg,
một trong những phụ nữ đẹp nhất của thời ấy.
Malaparte là
một phát hiện trở lại của châu Âu
như một nhà văn đặc biệt quan trọng về Thế chiến thứ
hai, từ góc nhìn rất đặc biệt: đặc phái
viên báo chí chiến trường của Ý,
có mặt ở những bữa tiệc xa hoa nhất giữa cảnh đổ nát
và chết chóc của châu Âu, ngồi
cùng bàn ăn với Toàn quyền Ba Lan Frank,
ông vua Đức của Ba Lan, chơi Chopin tuyệt hảo và
thực tâm ước nguyện khai hóa cho dân Ba Lan, là
bạn thân của các hoàng thân Thụy Điển
rồi một loạt nhân vật tối cao của châu lục hồi ấy.
Những chuyện này
được Malaparte thuật lại trong Kaputt (quyển bên
phải trong ảnh), tác phẩm lớn nhất của Malaparte
và cũng thuộc hàng tác phẩm lớn
nhất về Thế chiến thứ hai, trong đó Malaparte, mặc dù
miêu tả châu Âu từ các bữa tiệc
linh đình đúng theo kiểu truyền thống La Mã
của Satyricon, lại dùng những ẩn dụ “thấp” nhất, các
ẩn dụ thú vật: các chương tên là “Ngựa”,
“Chuột”, “Chó”… “Malaparte” nghĩa là ngược lại
với (Napoléon) Bonaparte, là “la part du mal”
(phần của cái ác), vì chủ đề chính
của văn chương Malaparte là cái ác, cái
ác độc địa nhất của con người văn minh nhất.
Ở Việt Nam hiện nay
đã có ba tác phẩm của Malaparte
(chắc chỉ có vậy): Kỹ thuật đảo chánh dường
như do Thế Uyên dịch, Thượng đế đã chết trong
thành phố tức La Penne tức La Peau (Da) do Nguyễn Quốc
Trụ dịch và Mặt trời mù do Bửu Ý dịch.
Blog NL
Cuốn này,
nếu không có ngày 30 Tháng
Tư, là đã có bản tiếng Việt
của NQT.
Cuốn
Thượng Đế Đã Chết
Khủng Khiếp Thật.
Nó
nói về Mẽo giải phóng Ý,
và nó tiên tri ra hai cuộc
giải phóng khác, tại Việt
Nam.
Gấu lập lại, hai cuộc giải phóng.
1.
Quân đội Mẽo tới Miền Nam, nhằm giải
phóng miền đất này, thoát cuộc xâm
lăng của VC Miền Bắc.
2.
VC Miền Bắc giải phóng Miền Nam. Và xoá
sổ nó.
Trong cuốn sách
mới ra lò, Une rencontre, Kundera
vinh danh, và trả nợ, những nhà văn đã
từng ảnh hưởng lên ông. Trong có Malaparte
và cuốn La Peau
mà Gấu đã
từng dịch, bản tiếng Việt có tên là
Thượng Đế đã
chết trong thành phố, và cái tít
này, tiếu lâm vô cùng, như tiên
tri ra được cái gọi là sự băng hoại về đạo đức nơi
xứ Mít của chúng ta. (1)
Thượng Đế Đã Ngỏm chắc là
ăn khách quá, ông Nhàn
ra lệnh Gấu dịch tiếp cuốn Kaputt (1944).
Gấu nhớ,
trong có câu chuyện tiếu lâm thú
vô cùng, và, quái, nó
cũng tiên tri cú băng hoại hiện thời
ở xứ Mít.
Một anh Cớm
VC bắt 1 em, chắc hậu duệ lũ Ngụy, mấy chục năm sau
Phỏng Giái, vưỡn còn đi treo cờ “ba que sỏ
lá”.
Thấy còn
con nít quá, và, lại xinh quá,
anh ta bèn giở trò, và chỉ mắt
của anh ta:
Trong hai
con mắt này, một thật, một giả. Mi nói
đúng con nào giả, ta tha không
bắt đi tù.
Em phán, dễ ợt, và
chỉ đúng con mắt giả, với cục thuỷ tinh.
Anh Cớm VC
ngạc nhiên quá đỗi, hỏi, làm sao
mà mi biết?
Dễ ợt! Con
mắt đó người hơn so với con mắt thật của mi!
Yankee mũi lõ hăm
đẩy Yankee mũi tẹt về thời kỳ đồ đá.
Chúng
quả đã làm được điều này.
My
Old Saigon
Như Chiếc Rìu Đập Vỡ Mặt Băng
( Tựa cho tuyển tập Bốn Mươi Năm Thơ Việt Hải Ngoại )
Bùi Vĩnh Phúc
Để mượn một ẩn dụ bạo liệt
hơn của Franz Kafka về văn học nói chung, thơ
là ‘chiếc rìu đập vỡ cái đại dương đóng
băng bên trong chúng ta.’
(To borrow Franz Kafka’s
more violent metaphor about literature in general, poetry
is ‘the axe to break the frozen sea within us.’ – Dana Gioia,
trong tiểu luận “Poetry as Enchantment”)
Note: Câu của Kafka,
phải trích đủ nội dung của nó, thì
mới hiểu được, tại sao ông lại nói như thế, và
nếu đúng như thế, thì không thể áp
dụng cho cuốn thơ của NDT được.
"I think we ought to read
only books that bite and sting us. If the book we reading
doesn't shake us awake like a blow on the skull, why bother reading
it in the first place? So that it can make us happy, as you put
it? Good God, we'd be just as happy if we had no books at all;
books that make us happy we could, in a pinch, also write ourselves.
What we need are books that hit us like a most painful misfortune,
like the death of someone we loved more than we love ourselves, that
make us feel as thought we had been banished to the woods, far from
any human presence, like a suicide. A book must be the axe for the
frozen sea within us. That is what I believe."
"Tôi nghĩ chúng
ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm,
hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà
chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh
hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú
vào sọ, thì ích chi đâu mà
đọc nó? Sách làm cho chúng ta
hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc
biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn
sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng
ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng
ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện
bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân
thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng
ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất
tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống
như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu
phá cái biển đóng băng ở bên trong
chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích
dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb
Alfred A. Knopf Canada, 1996)
Bạn thử đọc bài viết
của Thầy Phúc, rồi đọc ba bài thơ nhảm
nhí được thi sĩ NDT vinh danh, của lũ Mít hải
ngoại, coi có làm được cái việc, làm
1 cái rìu phá băng, đập bể cái
biển băng "cái con mẹ gì đó" không?
Câu nói của
Kafka, không liên quan tới "văn học nói
chung", chẳng mắc mớ gì đến "mặt băng", mà
chỉ về "đọc sách gì".
Chỉ có vậy.
Bài viết được dùng
làm bài giới thiệu cuốn sách của
NDT, về 40 năm thơ lưu vong của Mít hải ngoại. Chôm
ý của nhà văn nhà tù lương tâm
Vũ Thư Hiên, “có cái gọi là văn
học Mít hải ngoại ư?”, Gấu cũng hỏi, liệu có thơ Mít
lưu vong?
Làm đếch gì
có. Tên nào tên đó
bò về bợ đít VC, xin chúng kiểm duyệt
sách báo. Tên NDT này, thì
còn về châm đóm cho nhà thơ lớn
Hoàng Cầm hút thuốc lào, nâng
bi nhà thơ Vẹm hạng bét Thanh Thảo, lưu vong gì
thứ đó.
Thầy Phúc sợ cũng không
thua.
Cái đọc của Thầy cực
nhảm. Khi quá 70, Gấu có tí thì
giờ, bèn đọc tập phê bình của Thầy, mới
hỡi ơi, Thầy ra hải ngoại, cố học trường của lũ mũi lõ
để có cái bằng để có cơ hội kiếm sống, cho
khỏi chết đói nơi xứ người, như mọi tên Mít
bị mất quê hương, nhưng có cái bằng đâu
có thành phê bình gia? Thầy, như
GCC đã từng chỉ ra, mỗi lần viết về 1 nhà văn nhà
thơ Mít, là bắt 1 tên mũi lõ đứng
kế. Vũ Khắc Khoan ư, có ngay Beckett, dù hai ông
này chẳng mắc mớ, lẹo tẹo gì với nhau, 1 ông
thì khệnh khạng đóng vai làm cách
mạng, từ tầng lớp tiểu tư sản, để đối lại với vô sản Vẹm,
còn 1 ông thì “thua, thua nữa, thua cho bảnh”,
vinh danh “cái anh hùng của cái hư vô”.
Cũng thế, ở đây, Kafka
thì mắc mớ gì đến Mít lưu vong?
Ngay cả Stefan Zweig, lưu
vong - như BVP trích dẫn [Chỉ có sự bất
hạnh của lưu vong mới có thể cung cấp một sự hiểu biết
cặn kẽ và một cái nhìn tổng quát
vào những thực tại của thế giới.” - với ông này,
là bất khả, là vì ông ta nghĩ, ông
ta là nhà văn Âu Châu cuối cùng,
sống sót Nazi. Ông ta tự tử là vì
thế.
http://www.tanvien.net/Viet/Mit_phe_1.html
Viết lý luận & phê
bình đối với Thầy Phúc, là 1 cách
viết văn, làm thơ, và, thơ văn, đối với Thầy,
là thứ cải lương, vọng cổ, mùi, thật mùi,
ướt, thật ướt.
Bạn thử đọc, chỉ những cái
tít là… ướt
liền:
Tro, lửa và nỗi hoài nhớ trong
tùy bút NXH
NBT: cỏ bồng và trái
tim lưu vong
BBH: một mình trong nỗi
nhớ
Người nữ và trái tim
Đông Phương trong thế giới TMT
TTT, người thi sĩ ấy.
....
[chữ “ấy” này, Thầy rất
ưa sử dụng, trong những trang sách ấy, trong
trái tim lưu vong ấy….]
Cũng được thôi. Cũng là
1 cách viết phê bình!
Bất giác GCC nhớ tới Hemingway.
Đúng hơn, nhớ đến 1
xen trong "Mặt Trời Vẫn Mọc". Ở ngay phần đầu mở ra cuốn
truyện, tả anh chàng võ sĩ gốc Do Thái,
quyết tâm bỏ vợ, đi "thực tế" Phi Châu, để
viết văn.
Có vợ, ở 1 nơi, không
đi, là không viết văn được.
Anh chàng mất chim bèn
lắc đầu, mi đi đâu, với cái đầu như thế,
thì cũng chẳng làm sao viết được. Và
nhân đó, kể cái xen hai vợ chồng bỏ nhau
của ông bạn quí của mình. Bà vợ, trước
khi bỏ đi, khuyên anh chồng… cũ: Em chỉ dặn anh điều này,
nếu muốn viết văn thì đừng khóc, nhất là lúc
làm tình. Mỗi lần "ấy", là anh khóc,
như 1 đứa con nít, thì làm sao “miêu
tả”?
Đoạn văn viết, rất ư là
độc địa. Y văn của Sến.
Đến nỗi đám phê
bình, gán cho "Papa", bài-Do Thái!
Đoạn văn mở ra "TTT, người thi
sĩ ấy" của BVP. Cả 1 cuốn sách "lý luận
phê bình", gần 1 ngàn trang, toàn
một giọng cải lương, "sến hơn cả sến", như trên.
Khủng khiếp thật.
Mình phải cầm đóm lấy
mới ngon. Để người châm hộ không ngon.
Tên thi sĩ hải ngoại bợ đít
VC này, đã từng kể lại cái kỷ niệm,
lần hắn ngồi với ông già, nghe Tông Tông
Thiệu đọc diễn văn trên TV Ngụy, vừa đọc vừa khóc
ròng, khi sắp mất Miền Nam, vậy mà hắn lọc ra
được mấy lỗi văn phạm. Hắn nói với ông bố, và
ông bố phán, 1 đất nước sắp tiêu vong thường
có những thảm họa như thế, GCC nhớ đại khái, trên
TV có viết về cú này! (1)
Tên này cũng đã
từng về lại Đất Bắc để xin được yết kiến thi sĩ lớn Hoàng
Cầm, để xin được châm đóm, cho tên sĩ
này hút thuốc lào, và HC biểu,
hút thuốc lào, là tự mình châm
đóm, chứ không thể nhờ người khác, theo
cái kiểu lịch sự, thay vì nói thẳng, xê
ra, đi chỗ khác chơi, cho tao hút thuốc lào!
Đúng là cả
1 lũ nhơ bẩn!
NQT
Nghe Tông Tông
Thiệu đọc ai điếu Ngụy, mà lọc ra được mấy lỗi văn
phạm, quái đản thật!
Thì GCC đã phán
rồi, lũ VC nằm vùng, lũ tinh anh Miền Nam bỏ chạy
cuộc chiến bợ đít VC... không tên
nào viết lách cho ra hồn, là thế.
Bảnh nhất trong đám là
ông Chánh Tổng An Nam ở Paris nhưng vị này,
là nhờ vốn trời cho.
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/doc-tho-7-thanh-thao-ti-cho-dat-nuoc-ti/
Thú thực GCC đọc những bài
viết như bài này, thấy cực tởm
Tôi chào đất nước tôi.
Đất nước tôi, như bây
giờ, bị lũ Vẹm làm cho nát bấy. Chúng
muốn bắt ai là chúng bắt, chúng cho
côn đồ ngang nhiên vô nhà đánh
đập dã man một người phụ nữ, và còn ngang
nhiên đưa lên You Tube. Cả hai tên nâng
bi lẫn được nâng bi không thấy nhục ư?
Một người đàn bà
hai con, chỉ ôn hoà phản đối nhà
nước, chúng bắt vô tù, cố tình
không cho thân nhân thăm nuôi, không
cho xài băng vệ sinh, rồi giáng cho án
tù 10 năm đến nỗi cả thế giới phẫn nộ, hai tên khốn
nạn có biết những chuyện đó không? Tôi
chào đất nước tôi là chào những chuyện
như thế?
Tên già NN,
tay đầy máu Ngụy, đã từng cởi mặt nạ
ra để nhận mặt 1 tên cựu thù, là cựu binh
Mỹ, có dám cởi mặt nạ nhìn 1 nhà
văn Ngụy, như Thảo Trường chẳng hạn, bị lũ Vẹm bắt đi tù
13 năm?
Vả chăng, những nhận xét,
chỉ về thơ, của tên thi sĩ Vẹm này, theo
GCC đều tào lao.
Cũng trò áo
thụng vái nhau.
Thú thực, Gấu chưa
đọc được, chỉ 1 câu thơ thôi, của tên
thi sĩ NDT, và cũng thế, của tên thi sĩ Vẹm TT.
Cái sự nhơ bẩn khiến
người đọc tởm lợm, ở những tên nhà văn
nhà thơ này, Lưu Hiểu Ba cũng đã nhắc
tới, và luôn cả, “trách nhiệm” của chúng,
vào 1 thời điểm đặc biệt như lúc này,
ở 1 xứ Mít, sau hai cuộc chiến do lũ Vẹm cố tình
gây ra, khi lợi dụng niềm tin của dân Mít,
về 1 "chính nghĩa" độc lập thống nhất, giải phóng dân
tộc ra khỏi nô lệ ngoại bang.
Ông viết, phải thay đổi
chế độ bằng cách thay đổi xã hội, nhưng
ông cũng cảnh cáo cái sự vô liêm
sỉ ở những tên như lũ này.
Cả hai cuộc chiến đều do dã
tâm của Bắc Kít, tức lũ Vẹm, tức Cái
Ác Bắc Kít gây ra, để thủ lợi. Suốt từ
khi khởi nghiệp, là chúng chỉ có giết và
giết. Giết hết kẻ thù, bây giờ giết dân.
Bất cứ 1 người dân, dù phản đối 1 cách ôn
hòa, chúng đều giết, bắt bỏ tù, vu cho đủ thứ
tội. Một người đàn bà, hai con, chỉ nói không
với 1 cơ sở ngoại bang như Formosa mà bị chúng
bỏ tù, không cho sử dụng băng vệ sinh, còn giáng
cho cái án 10 năm, thử hỏi còn gì hy
vọng cho cái xứ Mít nữa, nếu lũ Vẹm không bị huỷ
diệt?
Muốn huỷ diệt chúng,
là phải tố cáo hai cuộc chiến vừa qua,
là hai tội ác. Đại Ác.
1945, chúng
giết sạch tầng lớp tinh anh của xứ Bắc.
1975, chúng
giết sạch cả 1 Miền Nam.
Còn tin rằng,
đó là thần thánh, là
giải phóng dân tộc, là cái mả
mẹ gì đó, là còn chết!
NQT
Phải có 1 sự tỉnh
thức triệt để mới mong có được cứu rỗi.
In an essay titled “Changing the Regime by Changing Society”—which
during his trial was cited as evidence of his counter-revolutionary
ideals—Liu expressed hope that the Chinese people would
awaken to their situation and that their new awareness would
forge a sense of solidarity against the state. But he also warned
of a growing moral vacuum in the nation. He wrote:
China has entered an Age of Cynicism
in which people no longer believe in anything. . .
. Even high officials and other Communist Party members
no longer believe Party verbiage. Fidelity to cherished beliefs
has been replaced by loyalty to anything that brings material
benefit. Unrelenting inculcation of Chinese Communist Party ideology
has . . . produced generations of people whose memories are
blank.
Một đấng Trùm Hội Nhà
Thổ Hà Nội, như Nguyên Đầu Bạc, mà
cũng từ chứcTrùm, vì "tự trọng", vậy mà
mấy tên này không biết nhục, vẫn tôi
chào đất nước tôi!
V/v Thay đổi Xã hội thay
vì thay đổi chế độ:
Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"
Gulag của Solz, cơ bản khác hẳn
những cuốn trước - những hồi ức cá nhân,
trong có những phát hiện có tính
xã hội - không chỉ vì trong đó
là hàng hàng chứng tích, từ những
hàng hàng lớp lang con người, với những cuộc sống
khác nhau, từ đó phản chiếu cả một xã
hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm, với
kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có
của riêng ông, vào trong nội dung của lịch
sử dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó,
từ đó, làm bật ra cả một hệ thống kìm kẹp
từ đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể
dân chúng, của toàn thể một dân tộc,
cùng tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều
hướng ngang dọc, cao thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương
xứng với nó.
Sự đồng lõa
của toàn thể dân chúng, chỉ có
Nazi mới tương xứng....: Có Thái Dúi,
tà lọt Osin... trong số ‘dân chúng’đó
không? Chắc là còn bé quá,
khi Bắc Kít ăn cướp Miền Nam, nên đếch có
tội?
Foreword to the Abridgment
If it were possible for any
nation to fathom another people's bitter experience through a book, how much
easier its future fate would become and how many calamities and mistakes
it could avoid. But it is very difficult. There always is this fallacious
belief: "It would not be the same here; here such things are impossible."
Alas, all the evil of the twentieth
century is possible everywhere on earth.
Yet I have not given up all
hope that human beings and nations may be able, in spite
of all, to learn from the experience of other people without
having to live through it personally. Therefore, I gratefully
accepted Professor Ericson's suggestion to create a one-volume
abridgment of my three-volume work, The Gulag Archipelago, in
order to facilitate its reading for those who do not have much
time in this hectic century of ours. I thank Professor Ericson
for his generous initiative as well as for the tactfulness, the literary
taste, and the understanding of Western readers which he displayed
during the work on the abridgment.
ALEKSANDR I. SOLZHENITSYN
Cavendish, Vermont December,
1983
Lời nói đầu cho bản Bản Rút Gọn
Nếu khả hữu cái chuyện,
bất cứ một dân tộc nào cũng có
thể cưu mang kinh nghiệm bi thương cay đắng của 1 dân
tộc khác, tương lai của nó mới dễ dàng
làm sao, và chỉ còn có cái
may mắn, mọi khuyết điểm lầm lẫn chẳng hề xẩy ra.
Những đúng là
chuyện cực nhảm, khó bằng trời. Luôn luôn
có niềm tin cà chớn: “Ở xứ Mít, thí
dụ, làm sao có chuyện đó xẩy ra. Nước Việt
Nam là một, vậy mà tụi Mỹ, Ngụy dám nói
xưng xưng là Bắc Kít là đồ ăn cướp, đồ xâm
lăng!”
Than ôi, Con Quỉ Gulag
của thế kỷ thứ 20, chỗ nào mà chẳng có.
“Oan ức” gì cái
chuyện được đi tù Cải Tạo?
Tuy nhiên, tôi không
hề buông xuôi mọi hy vọng rằng con người và
những quốc gia có thể, mặc dù mọi chuyện,
học được kinh nghiệm của dân tộc khác mà,
1 cách cá nhân, không phải sống nó.
Vì thế, tôi cám
ơn giáo sư và chấp nhận đề nghị tạo bản
rút gọn bộ sách gồm ba cuốn của tôi,
Quần Đảo Gulag,
để tạo sự dễ dàng khi đọc nó, đối với những độc giả
không có nhiều thời giờ dành cho cái
thế kỷ sôi nổi, [đầy máu và nước mắt] của chúng
ta….
Tên thi sĩ hải ngoại bợ đít
VC này, đã từng kể lại cái kỷ niệm,
lần hắn ngồi với ông già, nghe Tông Tông
Thiệu đọc diễn văn trên TV Ngụy, vừa đọc vừa khóc
ròng, khi sắp mất Miền Nam, vậy mà hắn lọc ra được
mấy lỗi văn phạm. Hắn nói với ông bố, và ông
bố phán, 1 đất nước sắp tiêu vong thường có những
thảm họa như thế, GCC nhớ đại khái, trên TV có
viết về cú này! (1)
Tên này cũng đã
từng về lại Đất Bắc để xin được yết kiến thi sĩ lớn Hoàng
Cầm, để xin được châm đóm, cho tên sĩ này
hút thuốc lào, và HC biểu, hút
thuốc lào, là tự mình châm đóm,
chứ không thể nhờ người khác, theo cái kiểu
lịch sự, thay vì nói thẳng, xê ra, đi chỗ
khác chơi, cho tao hút thuốc lào!
Đúng là cả 1 lũ nhơ
bẩn!
NQT
(1)
http://www.tanvien.net/Notes_2/don_2.html
11.8.2007
Nguyễn Đức Tùng
1. Bài của Likhachev, “Phẩm
tính trí thức”, là bài rất có
ích cho các nhà văn. Tôi đặc
biệt chú ý đến đoạn nói về cách sống
và phong độ của giới trí thức Nga, cũng như đoạn
về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì
nhiều nhà văn nước ta (chứ không phải là
nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế.
Mà mê là đúng, vì họ lớn quá.
Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền
Nam
và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn
học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều
để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner? Tuy nhiên
theo thiển nghĩ của tôi, sự phân chia hướng Âu hay
Á-Âu thật ra không quan trọng lắm.
2. Nhận xét của nhà
văn Nguyên Ngọc về tuyên bố của Bộ trưởng Thông
tin-Truyền thông rất chính xác, thẳng
thắn, mà vẫn có ý vị văn chương. Tôi
rất thích đoạn ông bắt bẻ về vụ mười chữ và
năm từ. Thật ra từ vẫn gọi là chữ được, vì từ hay
chữ chỉ là qui ước của các nhà ngữ pháp
sau này thôi, chứ lúc tôi còn đi học
không có sự phân biệt đó. Vấn đề chính
là, đúng như Nguyên Ngọc nói, nói
năm từ hay chữ (đôi) thì đúng hơn là nói
mười chữ. Mười chữ đơn lẻ không có nghĩa gì cả.
Tôi nhớ trước ngày
30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi
rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh
như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không
đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút
nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát
rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ
phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như
thế.
3. Nhờ cái link của talawas
mà tôi cũng đọc được bài “ Hồ Anh Thái
có sợ giải thiêng?” trên VietNamNet nói
về tác phẩm Đức Phật, nàng
Savitri và tôi. Cuốn này có trích
đăng trên talawas chủ nhật, tôi chưa kịp đọc, nhưng
Hồ Anh Thái thì tôi có đọc qua một
hai cuốn khác vì bạn bè khuyên. Tôi
cũng chưa đọc Phạm Xuân Thạch bao giờ, không biết ông
có ký tên nào khác không,
hay chỉ vì tôi ít đọc các nhà văn
trong nước. Bài của ông làm tôi ngạc nhiên
quá: tôi lấy làm mừng cho nền phê bình
văn học Việt Nam. Ít ra
cũng phải có những bài review mạnh mẽ, thuyết phục,
khen chê rõ ràng như vậy. Thường thì các
nhà phê bình Việt Nam chỉ khen
các nhà văn nhà thơ chứ không chỉ ra
được cho họ các khuyết điểm nghệ thuật cần tránh.
Xin cám ơn La Thành,
Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Thạch, và Ban
biên tập talawas.
Nghe Tông Tông Thiệu
đọc ai điếu Ngụy, mà lọc ra được mấy lỗi văn phạm,
quái đản thật!
http://www.nybooks.com/articles/2017/07/13/les-miserables-something-grander-than-novel/
Bài
này tuyệt lắm.
Bạn đọc Tin Văn chắc còn
nhớ, GCC đã từng nhặt ra 1 chi tiết thần sầu về
đám Trùm VC, như Víp Ka Ka, thí
dụ, cứ có ai hỏi chúng, lý do làm
Cách Mạng, là chúng bèn dõng
dạc phán, tôi làm Cách Mạng vì
đọc Victor Hugo!
Trên Tin Văn cũng đã
từng kể kỷ niệm, lần Gấu đứng đọc Những Kẻ Khốn Cùng,
bản tiếng Tây, ở tiệm Lê Phan, Sài
Gòn, từ sáng đến chiều, sau cùng bị 1
cô nhân viên tống ra khỏi tiệm.
Cuốn này, đã
từng được Hồ Biểu Chánh phóng tác
thành Ngọn Cỏ Gió Đùa. Gấu đọc nó,
trước khi đọc Victor Hugo, và khi đọc Victor Hugo,
Gấu lại nghĩ ông Tây thuổng ông Ta!
Bài dưới đây cũng
liên quan tới Nazi, đọc được lắm. Cho đọc free!
http://www.newyorker.com/magazine/2017/07/10/the-third-reichs-good-cop
http://www.tanvien.net/Day_TV/21.html
Nobel
Văn Chương 2016
Bob Dylan: The Music Travels,
the Poetry Stays Home
Tim Parks
Âm
nhạc du lịch. OK.
Thơ?
Ở nhà!
http://www.nybooks.com/daily/2016/10/16/bob-dylan-nobel-poetry-that-stays-home/
Nobel văn chương quả đúng
là 1 tai nạn lịch sử. Và nó liên
quan tới Lò Thiêu, tức tới tai nạn lịch sử xẩy ra cho dân tộc Do Thái.
Và cũng phải đợi, cho tới khi Walter Benjamin
xuất hiện, người ta mới nhận ra điều này.
Trước đó, giải
thưởng chỉ là 1 nghi lễ thời thượng.
Bởi thế GCC mới phán,
những giải thưởng Nobel văn chương mấy năm gần đây,
mới có giá trị, khi Viện Hàn Lâm
Thụy Điển ngộ ra được câu phán của Walter Benjamin:
Mọi tài liệu về văn minh là 1 tài
liệu về dã man, và, ở dưới đáy của 1
tác phẩm văn học là cả 1 đống man rợ.
Bà Huệ Gió
O cho rằng mafia Do Thái thao túng giải
này.
Ba triệu người Do Thái
chết ở Lò Thiêu thao túng giải
này, đúng hơn.
Bởi thế mà anh
Mẽo phát điên lên, vì không
có tên nào xứng đáng được Nobel.
Đây là
giải thưởng dành cho… nỗi nhục của nhân
loại, vì đã để xẩy ra Lò Thiêu!
Hà, hà,
đúng quá!
Đành phải tự
sướng đúng như tên Lang Băm chửi vậy!
J. M. Coetzee
The Marvels
of Walter Benjamin
Những kỳ tích
về Walter Benjamin.
...
See More
Walter Bejamin
là ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một
sử gia? Hay "chỉ là" một nhà văn?
Câu
trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah
Arendt: ông ta là một "trong số những người
không thể xếp loại… là những người có
tác phẩm không hợp với trật tự đang có,
mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào."
Cách
tiếp cận độc đáo của ông – tới với một
đề tài không theo lối thẳng băng, mà
đi xiên từ một góc độ, bước từng bậc, từ một tổng
kết qui mô đã hoàn hảo, tới bậc kế tiếp –
khiến người ta nhận ra ngay, vì chẳng ai bắt chước nổi,
với trí tuệ sắc bén, với kiến thức nhẹ mang, và
với một văn phong chính xác và súc
tích tuyệt vời, đã có lần ông đành
không dám nghĩ về mình, là giáo
sư tiến sĩ. Làm sao tới được sự thực về thời đại của chúng
ta, đó là cốt lõi dự án của ông,
và nó được nhấn mạnh bởi một tư tưởng, mà
Bejamin nhận thấy, đã được diễn tả bởi Goethe: làm
bật ra những sự kiện, theo kiểu này: những sự kiện sẽ là
lý thuyết của chính chúng.
Cuốn sách
"Thương Xá", cho dù chúng ta
đánh giá nó như thế nào
– điêu tàn, thất bại, một dự án bất
khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới, để viết
về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm
chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái
nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì
lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin
(trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy
vào đau khổ của những người thua, thay vì thành
tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính
tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu
nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn
lại ngắn ngủi của chúng] ta.
Note: Có thể nói,
Nobel văn học bắt đầu xứng đáng, khi Uỷ Ban Nobel,
hay đúng hơn, Viện Hàn Lâm Thụy Điển, ngộ ra được câu phán
của Walter Benjamin
Tình cờ vớ được bài viết về trường
hợp Lưu Hiểu Ba. Bị ung thư đến sắp ngỏm, mà Tẫu
Đỏ cũng không tha. Ông cũng kêu gọi sự
tỉnh thức, như GCC phán, đối với xứ Tẫu của ông.
In an essay titled “Changing the Regime
by Changing Society”—which during his trial was
cited as evidence of his counter-revolutionary ideals—Liu
expressed hope that the Chinese people would awaken
to their situation and that their new awareness would forge
a sense of solidarity against the state. But he also warned
of a growing moral vacuum in the nation. He wrote:
China has entered an Age of Cynicism
in which people no longer believe in anything.
. . . Even high officials and other Communist Party
members no longer believe Party verbiage. Fidelity to
cherished beliefs has been replaced by loyalty to anything
that brings material benefit. Unrelenting inculcation
of Chinese Communist Party ideology has . . . produced
generations of people whose memories are blank.
My Old Saigon
Viện Hàn lâm
Thụy Điển thì đã làm gì?
Từ khi sang thiên niên kỷ mới họ không
còn trao Nobel văn học cho những nhà
văn xịn và những tác phẩm văn học
hư cấu đỉnh cao (theo tiêu chí của giới văn
chương “thượng thặng”). Đã lâu, văn giới khắp
nơi thường chờ họ liếc mắt tới những là Philip Roth,
Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas Pynchon, Ko Un, Javier
Marías, Umberto Eco (vừa chết), Don DeLillo… Nhưng không,
họ chả hạp với tâm tính Bắc Âu. Không
phải là ý chính bài này,
nhưng trong những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít
năm ngay trong thế kỷ này thôi thì không
biết bạn có còn nhớ tên họ hay cuốn sách
nào của họ, như là Elfriede Jalinek, Harold
Pinter, Jean-Marie Gustave Le Clézio, Herta Müller…
chứ chưa thèm nói đến thế kỷ trước (Có điều
nghe chừng khốn nạn, ấy là trường hợp khi trao Nobel 2014
cho Patrick Modiano, Thư ký Thường trực Viện Hàn lâm
Thụy Điển lúc đó là Peter Englund nhận định:
“Patrick Modiano có thể được coi là Marcel Proust
của thời đại chúng ta.” Chà, Marcel Proust chính
là “kẻ kinh tởm” mà Thụy Điển trước đây
cương quyết không trao Nobel!!) Và gần đây,
bằng việc trao giải cho một nhà báo (Svetlana Alexandrovna
Alexievich) vào năm 2015, và một ca-nhạc
sỹ (Bob Dylan) vào năm 2016, ý đồ khai tử văn
học của họ dường như đã trở nên lộ liễu. Có
người đùa rằng, đó là những giải Nobel “vắn
học”. Rất có thể, sắp tới “giải Nobel văn học” sẽ được trao
cho bất cứ tác giả nào sản sinh ra những gì
có “tính thơ”: nhà thiết kế thời trang, nghệ
sỹ thị giác, nhà hoạt động môi trường… Phải
chăng, văn học đã từ “kinh điển” chuyển sang “kinh
hãi”?
ĐT
Khi Kertesz được Nobel, đến ngay người
dịch ông qua tiếng Anh cũng sững sờ.
Khi Cao Hành Kiện
được, bị thiên hạ tố cáo, Nobel cho
gà nhà, vì ông được 1 vị trong
Uỷ Ban Nobel dịch qua tiếng mũi lõ, và Uỷ
Ban Nobel bèn ra thông báo, chúng
tôi phải cám ơn ông ta, nếu không,
đã bỏ qua Cao Hành Kiện!
The Belarusian journalist
said in her Nobel lecture that former Soviet
countries were ‘again living in an era of power’,
and recounted her time reporting the Chernobyl
disaster from the radiation zone.
The
2015 Nobel literature laureate Svetlana
Alexievich has said that Russia “missed the
chance” it had in the 1990s to become a country
“where people can live decently”, choosing
instead to become “a strong country”.
During
her Nobel lecture on Monday, the Belarusian
journalist said “a time full of hope
has been replaced by a time of fear”. Alexievich,
whose oral histories tell the stories
of thousands of individuals from the Soviet
Union, said that “the era has turned around and headed
back in time. The time we live in is
secondhand.”
Thời mà chúng ta đang
sống là thứ thời xài rồi, khi mà
thay vì tràn trề hy vọng, thì
là tràn trề sợ hãi.
Cái sự kiện tố
cáo, sống lại thời của nó, 1 lần thứ
nhì, cái thời nhục nhã tem phiếu, tin
tức thế giới thì chỉ nghe qua cái loa ở đầu ngõ,
của xứ Bắc Kít, và sau 1975, của toàn
nước Mít bị Vẹm đô hộ, chẳng xứng đáng
được Nobel ư?
"La catastrophe
nazie est désormais la référence absolue et
radicale de toute existence juive."
Tai ương Nazi từ
nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để,
tất cả hiện hữu Do Thái.
Tai ương 30 Tháng
Tư 1975, và cùng với nó,
Lò Cải Tạo... từ nay là điểm qui chiếu,
tuyệt đối, triệt để, mọi hiện hữu Mít.
Il n'est pas bon
de ne pas avoir de patrie
Thư tín,
Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội
không còn nhà.
Tôi đâu
có nhớ Hà Nội, mà Sài
Gòn.
Tôi
thì Sài Gòn không, mà
Huế cũng không.
Không
hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam
hết.
Brodsky
cũng nói thế:
Cám
ơn Trời cho tôi sống không quê
nhà.
Thank God I was
left on this earth without a homeland.
Note:
Cuốn này, cũng 1 cuốn gối đầu của
Gấu, được vị bằng hữu O gửi cho. May sao còn, không bị vụ phần
thư vừa rồi!
Mỗi lần đọc, là mỗi lần
nhớ đến kinh nghiệm của Tam Ích. Ông
phán, đại ý, tuổi trẻ của tôi thật là
tuyệt vời nếu không vô tình biết
đến Lò Thiêu. Biết 1 phát, thế là
xong không chỉ tuổi trẻ, mà luôn cả
cuộc đời.
Có thể vì
lý do như thế mà Ông Giời phải
để cho Gấu, về già, mới cho đọc 1 số tác giả,
như Jean Améry!
Hay có được
những vì bằng hữu như hai vị O & K!
Đọc Améry, cực kỳ thê
lương.
Không tốt gì
đâu, cái chuyện không đọc Jean Améry!
[Thuổng văn của ông,
Il n'est pas bon...].
Trong số những người
sống sót Lò Thiêu, khủng nhất
là Améry, đúng như Kertesz gọi ông,
Ông Thánh Lò Thiêu:
http://www.tanvien.net/dich/kertesz_lire.html
Ông thấy ông đứng ở đâu
so với các chuyện do Elie Wiesel hay Primo
Levi kể?
I.K.
Chỉ vừa mới gần đây tôi mới được đọc Đêm
Đen - La Nuit, của Elie Wiesel, bởi vì
vào năm 1960, quyển sách này không
có ở Hung. Tôi choáng váng khi đọc:
tôi khám phá hóa ra lúc
đó chúng tôi cùng ở Buchenwald.
Wiesel để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng.
Còn Primo Levi thì khác. Ông ta chưa
tận căn cho đủ. Tôi muốn nói ông không
bao giờ rời tầm nhìn nhân văn của sự việc mà
đối với tôi điều này thật hoàn toàn xa lạ.
Với tôi, kiệt nhân của trại tập trung là văn sĩ
người Pháp: Jean Améry.
Ông ta mới là
người đi rất xa, nhất là trong quyển Vượt
quá tội ác và hình phạt - Par-delà
le crime et le châtiment. Tuyệt đối phải đọc
các bài trao đổi giữa ông và
Primo Levi: Améry nói đến cái thiết
yếu. Chưa ai đi xa hơn ông trong cách suy nghĩ
về chế độ tập trung chủ nghĩa.
Cả hai cuộc
chiến đều do dã tâm của Bắc Kít, tức
lũ Vẹm, tức Cái Ác Bắc Kít gây
ra, để thủ lợi. Suốt từ khi khởi nghiệp, là chúng
chỉ có giết và giết. Giết hết kẻ thù,
bây giờ giết dân. Bất cứ 1 người dân, dù
phản đối 1 cách ôn hòa, chúng đều giết,
bắt bỏ tù, vu cho đủ thứ tội. Một người đàn bà,
hai con, chỉ nói không với 1 cơ sở ngoại bang như
Formosa mà bị chúng bỏ tù, không cho
sử dụng băng vệ sinh, còn giáng cho cái
án 10 năm, thử hỏi còn gì hy vọng cho cái
xứ Mít nữa, nếu lũ Vẹm không bị huỷ diệt?
Muốn huỷ diệt chúng,
là phải tố cáo hai cuộc chiến vừa qua, là
hai tội ác. Đại Ác.
1945, chúng giết sạch
tầng lớp tinh anh của xứ Bắc.
1975, chúng giết sạch
cả 1 Miền Nam.
Còn tin rằng, đó
là thần thánh, là giải phóng
dân tộc, là cái mả mẹ gì đó,
là còn chết!
NQT
Phải có 1 sự tỉnh thức
triệt để mới mong có được cứu rỗi.
Tình cờ vớ được bài
viết về trường hợp Lưu Hiểu Ba. Bị ung thư đến sắp ngỏm,
mà Tẫu Đỏ cũng không tha. Ông cũng kêu
gọi sự tỉnh thức, như GCC phán, đối với xứ Tẫu của
ông.
In an essay titled “Changing the Regime by Changing Society”—which
during his trial was cited as evidence of his counter-revolutionary
ideals—Liu expressed hope that the Chinese people would awaken
to their situation and that their new awareness would forge a
sense of solidarity against the state. But he also warned of a growing
moral vacuum in the nation. He wrote:
China has entered an Age of Cynicism
in which people no longer believe in anything. . . . Even
high officials and other Communist Party members no longer
believe Party verbiage. Fidelity to cherished beliefs has been
replaced by loyalty to anything that brings material benefit.
Unrelenting inculcation of Chinese Communist Party ideology
has . . . produced generations of people whose memories are blank.
Tuổi thiên
đường
Trong bài Tuổi Thiên
Đường, anh có nhắc về Schulz, và có
dịch một đoạn nhỏ của bài Age of Genius . K xin
tách bài này làm hai : Tuổi Thiên
Đường và Tuổi Thiên Tài . Tuổi thiên
đường chỉ nói về NQT thôi, và
Tuổi Thiên Tài sẽ nói về Schulz . Bài
trong NY hay quá, K sẽ gắng dành chút
thì giờ ra dịch hết ( 22 trang!) để bổ túc cho
bài Age of Genius anh dịch dở dang .
Nhân nói
về bài của Grossman, cái giai thoại
về cái chết của Schulz rất thê lương, không
phải vì một trong hai tên sĩ quan xua tay
bảo chuyện lẻ tẻ, để tao kiếm thằng khác thay thế
, mà nó trả lời : Mày giết một thằng Do Thái
của tao thì tao sẽ giết một thằng Do Thái của
mày! Câu nói này liên quan
tới chuyện kể về sau của những nhân chứng về cái
chết của ông trong thời kỳ dân Do Thái bị
giết, bất kỳ ở đâu chứ không còn bị tập trung
(Aktion) như trước . Schulz bị bắn, chẳng vì lý
do gì, chỉ tại đi ngang qua nơi có tụi lính
Đức đang có súng, vậy thôi . Và thê
lương hơn nữa là chính học trò của ông
đã nhận ra xác ông khi cúi xuống, tính
lượm cái gì trông giống như mẩu bánh
mì rơi ra từ cái túi áo khoác
của ông . Họ đói khủng khiếp . (1)
K
(1)
[From where Fleischer
stood during the shooting he likely wouldn’t have seen
exactly what was happening, and he himself says that he was
not paying special attention at the moment of the killing.
There is no reason to doubt his word about what he went through
when he found himself crouching over the dead body of his teacher.
Fleischer’s testimony
provides us with the story of one more human contact
with Bruno Schulz, after his death and before his body
was buried. Contact that for a moment redeemed him from the
anonymity of the murder, and also from that vile “statistic,”
and gave him back his name, his face, and his uniqueness.
This brief contact echoed everything that had been good and nourishing
and generous in him toward his young student. This contact “allowed”
Bruno Schulz to perform one more act of grace, even after his
death]
Độc giả Tin Văn &
art2all chờ đọc bài trên NY về Schulz.
GCC đọc bài
đó, mê quá, tính dịch,
rồi quên luôn.
David Grossman : Nghệ thuật giả tưởng
Mọi người, bất cứ một
người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình,
một vài câu hỏi liên quan tới Lò
Thiêu.
DG
Câu này,
nhà văn Mít phải thuộc nằm lòng,
và Lò Thiêu đối với chúng, là
Trại Cải Tạo.
Chưa từng có
đến 1 tên, đau cái đau, làm thịt
cả 1 miền đất ruột thịt, và sau đó, như cục ung
thư, làm thịt cả nước.
Tranh Schulz
|
Painting Under Coercion - The New York
Times > Arts > Slide Show > Slide 1 of
10
An exhibition, in Jerusalem, of works
by Bruno Schulz includes wall paintings he created
under Nazi duress short...
|
|
Note: GCC biết tới Bruno Schulz, qua
J.M. Coetzee. Sau đọc David Grossman, gặp lại ông.
Bài của Coetzee về Schulz sau được in trong Inner
Workings, Essays 2000-2005. Schulz từng dịch Kafka.
Tin Văn post bài
của Coetzee, và dịch lai rai [bài cũng
dài], trong khi chờ đọc Grossman viết về Schulz.
Trên net có
1 trang dành riêng cho Schulz
http://brunoschulz.eu/en/
Franz Kafka
and Bruno Schulz: cockroaches and crocodiles
Ewa Kuryluk
http://brunoschulz.eu/en/archiwa/1218#more-1218
An American
friend recently asked me a seemingly impossible question:
„What would you recommend to a lover of modern literature
if you had to name just one book of Polish fiction?” The Street
of Crocodiles by Bruno Schulz, I replied, the collected
stories by a prose writer equal to Kafka.... Kafka?”
My friend mumbled in disbelief. „Aren’t you exaggerating?”
Not a bit. Franz Kafka and Bruno Schulz are two outstanding
citizens of „The Republic of Dreams”, to use Schulz’s beautiful
metaphor, capable of transmuting acute observation into prophecy
by circumscribing reveries and nightmares as precisely as
if they were facts of life. Illuminators of human nature and
visionaries of history, they complement each other in interesting
and significant ways.
Franz Kafka
(1883-1924) and Bruno Schulz (1892-1942) were born
into assimilated Jewish families of the multicultural and
multilinguistic Austrian-Hungarian Empire. Kafka was
from a well-to-do German-speaking family of Prague, Schulz
from a modest Polish-speaking family of Drohobych. Kafka’s
German, admired for its cool rigor, is indebted to Pragerdeutsch,
the exquisite postclassical German spoken in Prague by the educated
Jewish elite. It was a perfect medium for what Kafka had in mind.
Employed by an international insurance company, he watched bureaucracy
driven by capitalist efficiency operating in a moral vacuum and
imagined how easily it could be turned into a totalitarian death
machine. Bruno Schulz was as keenly aware of Europe becoming corrupt
and criminal, but he had a different point of observation. A gifted
painter and draftsman, he made his living as a secondary-school
crafts teacher; after teaching, he illustrated his stories and
drew self-portraits and portraits of friends. He worked in a rare
technique known as cliche verre, printing from treated
glass plates, and excelled in the grotesque and erotic in black
and white. A follower of Goya, Aubrey Beardsley and other European
fin-de-siecle artists, Schulz was fascinated by the human beast
and inspired by Leopold von Sacher-Masoch, an Austrian from Lemberg
(in Polish Lwów), and his famous novel
Venus in Fur (1870), the bible of masochism.
Unlike Kafka,
a cosmopolite traveler, Schulz was firmly based in
Drohobych, a medium-sized town with ties to international
business, situated in the industrial oil district of Galicia,
the eastern provinces of Austria-Hungary, which after World
War I became part of Poland. Schulz’s poetic prose has its
roots in Galician Polish, a language traced by the official Imperial
Austrian German, fond of convoluted sentences and archaic-sounding
Latinisms, yet rich and polyphonic, spiced with Yiddish wit, laced
with Hasidic fantasy and echoing the musicality of Ukrainian, spoken
in the countryside around Drohobych. Fluent in German, Schulz was
equally familiar with the Polish modernists of Warsaw,Cracow and
Lwow and the German-writing avant-garde of Vienna,Berlin and Prague,
including Kafka, whose Trial he translated
into Polish.
A father-son
duo, symbolic of old and new power and evocative of the
writers’ respective relationships with their own fathers,
stands at the center of Kafka’s and Schulz’s writing. Kafka’s
robust and successful father was a family tyrant who disapproved
of culture and all things spiritual, including Judaism and his
son’s literature. Jacob Schulz, on the other hand, was a lovable eccentric
with bad health, bad luck and a passionate interest in animals.
This passion was shared by his son and by Kafka, who wrote about
an ape wiser than a human, and Josephine, the singer heroine mouse
of his last story, which inspired Mauss. Both writers identified with
the underdog and delighted in that innocent „crumb of life,” as Schulz
calls the puppy Nimrod, named ironically after the Old Testament warrior
and hunter.
Jacob Schulz,
given to daydreaming more than to commerce or exercise
of paternal authority, failed in business and as head of household.
His textile store onMarket Square, located in his family
house and registered under the name of his wife Henrietta,
burned soon after the outbreak of World War I in 1914. Confined
to bed and taken care of by Henrietta and his youngest son Bruno,
Jacob survived the fire by only a few months. We find the writer’s
father in many stories and most significantly in Birds, a counterpart
to Kafka’s Metamorphosis.
Nhân
đọc cái tít, cockroaches and crocodiles,
gián và cá sấu, bèn mò
ra bức hình sau đây, cũng liên quan tới
Kafka
Không biết cái
tít “Sát thủ đầu mưng mủ” ở đâu mà ra, liên
quan tới cái chi, riêng GCC thì lại nghĩ đến những lần
bị nổ ống khói, hay, đầu súng bị... mưng mủ!
Cái tít
của 1 entry của Blog NL, “Cười như đười ươi xóc
lọ”, nghĩ đến những lần... tự sướng!
“Chán như con gián”,
tưởng tượng ra “con gián”, con bọ, của
Kafka.
Trên tờ TLS số Oct 7,
2011, có bài viết về cô em gái út mà
Kafka thương nhất, Ottla, và thư từ của ông anh viết cho cô
em gái, may sao còn, được trưng bày ở Bodleian Library.
Lần trưng bày trước, Thư viết
cho Milena, một tư nhân mua trọn, và
giấu biệt, chẳng còn ai được nhìn thấy nữa.
[Ui chao, đọc THNM, và bèn
nhớ đến những bức thư của TTT gửi cho đảo xa. Chán
thế!]
Cô út này,
đúng ra không bị đưa đi Lò Thiêu,
vì có chồng là 1 “Aryan” [Ðức
thuần chủng] nhưng, vào ngày 5 Tháng
10, 1943, tình nguyện đi theo 1 chuyến xe lửa chở
trẻ em Do Thái tới Auschwitz, và chết chung với
chúng.
Bài viết này, về Schulz,
cũng quá tuyệt.
Tác giả coi mấy bài
viết của những đại gia như Roth, Updike, Coetzee,
do không biết tiếng.... Mít, nên
đếch đọc được... GCC!
Tuyệt!
Thì như K phán,
GCC có Tuổi Thiên Đường, đâu thua
gì Tuổi Thiên Tài, của Schulz!
The Republic of Dreams
Michał Paweł Markowski
Schulz says clearly: the
unreal is whatever people cannot share with one another.
Whatever falls out of that sharing falls beyond the circle
of human affairs, beyond the boundaries of the human theater,
beyond literature.1/
The trouble with Bruno Schulz
is the following: everybody knows he’s a genius, everybody
talks about his tremendous influence, but when push comes
to shove it’s all restricted to banalities, as if the measure
of a writer’s greatness were to be this community of popular judgments.
On the other hand, this comes as no surprise.
Schulz assaults the reader
from the very first page and never allows him to rest,
never allows him to gather his thoughts. His perfidy lies
in the fact that he resists all translation, but encourages
us to imitate, to paraphrase and to counterfeit. It’s easier
to speak in Schulz’s language than to speak about Schulz. After
reading a single paragraph we know at once that it’s Schulz, though
we don’t at once know what to say about the paragraph.
The greatness of Schulz
is the greatness of his resistance to appropriation,
while the result of this resistance is the very small number
of memorable books written about him. Certainly, there are
a great many discussions, monographs, presentations, dictionaries
and exegeses, but few books which would discard the academic
paraphernalia and show in black and white that to read Schulz
is to wrestle with an angel who means to wrench out your hip.
2/
But then how should we read
Schulz? Should we catalogue motifs and themes? This
is important, but superficial. Should we illuminate metaphors
and track turns of phrase? This reeks of the laboratory from
a mile off. Should we compare? But how to compare the incomparable?
Even worse, Schulz cannot be utilized for anything: he can’t
be hailed as a patron of the left or right and nobody will write
a politically engaged essay about him.
Schulz is clearly useless:
he refuses to serve any cause, he refuses to rouse and
uplift, and even his essays about Józef Piłsudski are
a disappointment to old legionnaires. Neither does Schulz
have – as would befit a genius of the nation – a decent biography.
Ultimately Jerzy Ficowski didn’t write one, preferring to ferret
about in the The Vicinity of ’Cinnamon Shops’, rather than to
take a look inside them. This is in fact a broader tendency. Indeed,
the proliferation of books in the Schulzean bibliography with titles
dominated by various margins, postscripts and footnotes clearly
demonstrates that the criticism has been overcome by a reverent fear
of confrontation. This ferreting about in the margins is by no means
a purely native affliction.
The recent excitement in
the West over the figure of Bruno Schulz has been largely
connected not with his works but with the scandal which erupted
after the theft of his frescos from Drohobycz and their removal
to Israel. Although new translations into foreign languages
are appearing, there is still no faithful translation into
the most important language, that is, into English. The existing
translation, made years ago by Celina Wieniewska, reads with
a difficulty exacerbated by the fact that whenever the translator
can’t cope with the linguistic thicket of Schulz’s language (usually
by pruning away with the translator’s secateurs), she blithely
omits the troublesome sentences, thus entirely erasing the writer’s
signature. Schulz in English reads smoothly and fluently, whereas
Schulz is not in the least bit smooth and fluent, and thus I understand
the surprise of English-language readers, who can’t understand
how they’re supposed to be dealing with a linguistic genius when
the sentences they have in front of them sound so ordinary.
Even such virtuosi as Roth,
Updike or Coetzee, unfamiliar as they are with the Polish
language, cannot know who Bruno Schulz really is, but can
only guess. Of course, this is no small thing: better to guess
with Coetzee than to know with Professor Pimko.
Cuốn "Một con gió bụi", một cách
nào đó, là bản cáo trạng Vẹm, ngay
từ những ngày đầu tiên chúng có mặt ở
trên cõi đời này, cái gì gì
một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra.
Cái
chuyện cấm nó, thì là tất nhiên
rồi, nhưng cái chuyện cho in nó, mới thật
là quái dị.
Thầy Kuốc
đã từng phán, cả nước VC mù chữ,
có thể đúng như thế.
GCC nhớ là,
đọc lần đầu, khi còn học trung học, nhớ
đại khái, TTK tả cái cảnh đến gặp lũ nhóc
Vẹm, tên nào tên đó bặm
chợn, chỉ có biết mỗi 1 chuyện giết người, và
khi ra về, ông than, lũ này sẽ đánh
thắng thằng Tẩy, công lớn, nhưng tội cũng lớn.
Câu
than của ông, chỉ đúng có 1 nửa.
Nửa cái
bánh mì!
Cuộc chiến
chống Pháp, là cơ hội cho Vẹm giết
sạch các đảng phái Cách Mạng.
TTK không nhìn ra cái dã tâm
của Vẹm. Thê thảm hơn nữa, do đánh Tẩy mà
rước hoạ Tầu Phù vô giường!
Thay đế quốc
Tẩy bằng thằng Tẫu Đỏ, hiện tình xứ Mít
như hiện nay, theo GCC, vô phương cứu chữa.
Phải có
1 tên, phải 1 tên Bắc Kít, dám
kết án cả hai cuộc chiến, chỉ là "Tội
và Tội", thì mới có cơ may sám
hối.
Sám
hối đã, rồi tính tiếp.
GCC có
đọc 1 vài tài liệu của Tẩy, thời kỳ 1945.
Chúng gọi là hoà bình bỏ lỡ.
Nên nhớ thằng Tẩy có lại được xứ Đông
Dương, là nhờ Đồng Minh. Chúng cũng bị Nazi đô
hộ vậy. Cái nhục đó, đến bây giờ, chưa
xong với nó, chứng cớ là Nobel cho anh Tẩy, vì
viết về những ngày đen tối của nước Pháp khi bị
Nazi đô hộ. Chúng thực tình muốn hoà,
không hề muốn đánh. Nhưng Vẹm, không thể không
đánh. Chỉ có mỗi 1 đường đánh Tây,
thì mới nhân đó làm cỏ sạch các
đảng phái khác. Phạm Quỳnh chẳng đã than,
không có thằng Tây, là thằng Mít
chết. Ông hiểu rõ cái độc cái ác
của Mít, của Á Châu, và cái gọi
là văn minh Tây Phương, mà ông là
1 đứa học trò của nó, như nhiều người khác.
GCC không tin, ông nhận ra cái bóng
kẻ thù ngồi đằng sau vua, như trong truyện My Châu,
Trọng Thủy. Nhưng Solzhenitsyn thì lại nhìn ra,
bảnh thế.
Cuộc chiến chống
Mỹ cũng do Bắc Kít tìm đủ mọi cách
cho nó xẩy ra.
Cả hai cuộc chiến
đều có thể tránh được hết. Nhưng làm
sao tránh, Vẹm cố tình làm cho
chúng phải xẩy ra.
On Foldenyi
Alberto Manguel
[Table Talk, from The
Threepenny Review]
I owe the discovery of Laszlo Foldenyi
to Cees Nooteboom, who, in one of his epistolary assaults,
insisted that I should read him and sent me a Spanish
translation of one of his essays, Dostoyevsky
reads Hegel in Siberia and bursts into tears. Among the
many paths that lead us to read a book (all of which have something
mysterious about them) is that of the title. We may not be immediately
attracted to a book called The Divine Comedy
or Les contemplations,
but only a soul of stone can resist Dostoyevsky reads Hegel
in Siberia and bursts into tears. I read it immediately in one
sitting, and then again, and then once again, for luck. The contents
amply justified the magnificent title. My ignorance of Hungarian
is word-perfect: my reading was therefore limited to only a few
of Foldenyi's works in Spanish and German, and yet it was enough to
judge him, in my view, a brilliant, original, clear-cut thinker whose
illuminations I gladly followed through philosophical, historical,
and aesthetic considerations. His books on melancholia, art, and criticism
are masterworks.
Long
ago, Copernicus's discoveries shifted the self-centered
vision of our world to a corner that has since constantly
shifted further and further towards the margins of the universe.
The realization that we human beings are aleatory, minimal,
a casual convenience for self-reproducing molecules is not
conducive to high hopes or great ambitions. And yet, what Nicola
Chiaromonte called "the worm of consciousness" is also part of our
being, so that, however ephemeral and distant, we, these particles
of stardust, are also a mirror in which all things, ourselves included,
are reflected. This modest glory should suffice us. Our passing (and,
on a tiny scale, the passing of the universe with us) is ours to
record: a patient and bootless effort begun when we first started
to read the world. What we call history is that ongoing story which
we pretend to decipher as we make it up. This Dostoyevsky fully
understood when he said that, if our belief in immortality were destroyed,
"everything would be permissible." Like history, immortality need
not be true for us to believe in it.
From
the beginning, history is the story told by its witness,
true or false. In the Book VIII of the Odyssey,
Odysseus praises the bard who sings the misfortunes of the
Greek" as if he had been there or heard it from the lips of
another." The "as if" is of the essence. History then is the story
of what we say has happened, even though
the justifications we give for our testimony cannot, however
hard we try, be justified. Centuries later, in a dusty German
classroom, Hegel would divide this "invention of what took place"
into three categories: first, history written by its assumed direct
witnesses (ursprungliche Geschichte); second, history as
a meditation upon itself (reflektierende Geschichte);
third, history as philosophy (philosophische Geschichte),
which eventually results in what we agree to call world history
(Welt-Geschichte), the never-ending story that includes
itself in the telling. Immanuel Kant had earlier imagined two
different concepts of our collective evolution:
Historie to define the mere recounting of facts
and Geschichte, a reasoning of those facts-
even a priori Geschichte, the chronicle of
an announced course of events to come. For Hegel, what mattered
was the understanding (or the illusion of understanding) of the entire
flow of events as a whole, including the river bed and it coastal
observers, and in order to better concentrate on the main, from this
torrent he excluded the margins, the lateral pools and the estuaries.
Foldenyi
imaginatively suggests that this is the horror Dostoyevsky
discovers: that history, whose victim he knows he is, ignores
his existence, that his suffering goes on unnoticed or,
worse, serves no purpose in the general flow of humankind. What
Hegel proposes, in Dostoyevsky's eyes (and in Foldenyi's ),
is what Kafka would later say to Max Brod: "There is hope, but not
for us." Hegel's caveat is even more terrible than the illusion
existence proposed by the idealists: we are perceived but we are
not seen.
Such
an assumption is, for Foldenyi (as it must have seemed
to Dostoyevsky), inadmissible. It's not just that history
cannot dismiss anyone from its course; the reverse is also
true- the acknowledgement of everyone is necessary for history
to be. My existence, any man's existence, is contingent
on your being, on any other man's being, and both of us must
exist for Hegel, Dostoyevsky, Foldenyi to exist, since we
(the anonymous others) are their proof and their ballast, bringing
them to life in our reading. This is what is meant by the ancient
intuition that we are all part of an ineffable whole in which
every singular death and every particular suffering affects
the entire human collective, a whole that is not limited by each
material self. The worm of consciousness mines but also proves
our existence; it is no use denying it, even as an act of faith.
"The myth that denies itself" says Foldenyi wisely, "the faith that
pretends to know: this is the grey hell, this is the universal
schizophrenia with which Dostoyevsky stumbled on his way."
Our
imagination allows us always one hope more, beyond
the one shattered or fulfilled, one as yet seemingly unattainable
frontier that we'll eventually reach only to propose another
lying further away. To forget this limitlessness (as Hegel
tried to do by trimming down his notion of what counts as history)
may grant us the pretty illusion that what takes place in the world
and in our life is fully understandable. But this reduces the questioning
of the universe to catechism and that of our existence to dogma.
As Foldenyi argues, what we want is not the consolation of that which
seems reasonable and probable, but the unexplored Siberian regions
of the impossible.
-ALBERTO
MANGUEL SPRING 2012
What we call history is that
ongoing story which we pretend to decipher as we make
it up. This Dostoyevsky fully understood when he said that,
if our belief in immortality were destroyed, "everything
would be permissible." Like history, immortality need not
be true for us to believe in it.
Câu phán của Dos,
còn được dịch là, "Nếu Thượng Đế đếch có,
thì mọi chuyện đều được phép".
Sartre mở ra cuốn sách
mỏng dính của ông, thế nào là
chủ nghĩa hiện sinh, bằng câu này, theo ý,
chủ nghĩa hiện sinh bắt đầu với Dos.
Bài viết ngắn của Manguel,
đặt ngược lại vấn đề, khởi từ cái sự kiện, Foldenyi
không chấp nhận ý của Dos: Such an assumption
is, for Foldenyi (as it must have seemed to Dostoyevsky),
inadmissible. It's not just that history cannot dismiss anyone
from its course; the reverse is also true- the acknowledgement
of everyone is necessary for history to be. Lịch sử không
thể dimiss bất cứ 1 ai, trong chúng ta, và ý
nghĩa cuộc đời, từ đó xuất hiện.
Cái chuyện lịch sử viết
từ đáy, là cũng từ đó mà
ra.
Gấu biết đến Kafka, là
nhờ đọc Manguel. Cũng qua ông, Gấu biết Borges,
và cả hai, đến cuối đời, sắp đi xa, Gấu ngộ ra, là
1, theo nghĩa, họ là thầy trò.
Cái gọi là
“nightmare” ở Borges, tức là ở trong cõi
mộng – cõi bất tử, như Naipaul đọc Borges – thì
ở trong cõi thực, ở Kafka.
Đây là
thai đố khủng khiếp nhất, và nó liên
quan, mắc mớ tới câu phán khủng khiếp nhất,
của Kafka, mà ngay cả Adam Zagajewski cũng không
đọc ra, theo GCC, khi coi đây là trò
masochism ở Kafka.
Bạn có thể
đi hết cuộc chiến Mít, trong cái nhìn
tiểu vi, micro, về cõi người, qua câu phán
của Kafka:
Trong cuộc duel,
giữa mi và cuộc đời, hãy ở về phía
cuộc đời.
In the duel between you and the
world, back the world.
Kafka
Cái sự
tương tự giữa Kafka, và Borges, với GCC, 1
kẻ bị THNM vì cuộc chiến Mít, là còn
ở chỗ này: Tất cả những tác phẩm lớn của
cả hai, đều là những ẩn dụ về cuộc chiến Mít.
Phép Lạ Bí Ẩn, và quãng thời
gian - khoảnh khắc - từ lúc tên trưởng toán
hành quyết VC giơ tay ra lệnh, bắn, và tên
Ngụy nhà văn ngã xuống, 1 năm trôi qua,
là cả 1 nền văn học hải ngoại của chúng, dài
dài, còn hoài.... ư?
Ẩn dụ Tháp
Babel của Kafka, chẳng là nói về hãy
đâm vào lưng mi, thay vì vào
cuộc đời, khi lũ VC xây xong tháp Babel, tức
là vào 30 Tháng Tư 1975 ư?
Làng Kế
Bên, giá đừng bao giờ đến, cũng là
1 ẩn dụ về cuộc chiến Mít, hà, hà!
"In the duel with
the world you should always take the world's part."
At first I resisted this aphorism. Yet another case of Kafka's
masochism, I thought. More precisely, I mocked, yes, I see
now how you turn against yourself. It's easier to write it than
to do it. Later I understood, though, that Kafka's idea could
be interpreted in various ways. For example, "take the world's
part" could mean that we shouldn't be governed by our impulses,
whims, which are-may be-blind, arbitrary, short-lived, childish,
frivolous. The task is rather to understand what the world is,
how it's structured, what it expects of us, what it might offer.
Only then, when
we've learned to recognize, however imperfectly, the
world's nature-it is blind and deaf, mindless and cruel,
or rather it can be cruel, of course, but it also emits
a splendid spark from time to time-can we begin to act, new
initiates into the world's secrets. Only then do we start
imperceptibly to take our own part. We may also come to understand
that there is in fact no conflict between world and us, we're
made of the same substance, the same cosmic dust.
Moments of joy;
but also the danger produced by a false poem, by what
the English language calls cant ("insincere and sanctimonious
speech, chiefly moral, religious or political in nature,"
the dictionary informs us), that is, duplicitous rhetoric,
a kind of propaganda. Cant may turn up in poetry, and
Polish priests rely on it all too frequently in their preaching.
ADAM ZAGAJEWSKI:
SLIGHT EXAGGERATION
Roland Barthes
là 1 trong những người thấu ngộ Kafka, qua
câu phán khủng khiếp, trên, và
ông bệ về ngay nhà của ông, dán
lên tường bàn viết của ông, trong
bài viết cực ngắn, nhưng cực thần sầu, Câu Trả
Lời Của Kafka, Kafka’s Answer, khi ông đọc Marthe Robert,
có nên đốt mẹ Kafka chăng, faut-il bruler Kafka?
Câu phán
của Kafka, theo GCC, xẩy ra vào lúc
sinh tử nhất của 1 kiếp người, và là cái
lúc Thiện Ác đối đầu, và bạn đành
phải hy sinh chính bạn, để vượt cuộc xét nghiệm,
The Test.
Todorov thì
coi đây là lúc tín hữu
Ky Tô viện tới Chúa, và cầu Chuá
hãy khu trục con quỉ ở nơi họ.
Lũ Bắc Kít
không làm sao thấu ngộ được, 1 tác
giả như Kafka, và chỉ 1 câu của ông,
câu trên, là do chúng không
hề có 1 niềm tin tôn giáo.
Ha Jin, khi viết
cuốn Nhà Văn Kẻ Di Dân, là cũng
đồng ý với cái chuyện, bạn muốn viết văn ư,
thì hãy ôm lấy Lò Thiêu!
(1)
(1)
David Grossman : Nghệ thuật giả tưởng
Mọi người,
bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính
mình, một vài câu hỏi liên
quan tới Lò Thiêu.
Câu này,
nhà văn Mít phải thuộc nằm lòng,
và Lò Thiêu đối với chúng,
là Trại Cải Tạo.
Chưa từng có
đến 1 tên, đau cái đau, làm thịt
cả 1 miền đất ruột thịt, và sau đó, như cục
ung thư, làm thịt cả nước.
Note: Trên
FB, vị bằng hữu Ngô Nhật Đăng, ông con
trai lớn của Xuân Sách, có đưa ra đề
xuất, chỉ xứ Đàng Trong, may ra mới có thể kíu
xứ Mít khỏi họa Tẫu Đỏ.
Nhớ đại khái, không
làm sao post lại được trên Tin Văn.
Nhưng quái
làm sao, Borges đã từng đề nghị 1 giải
pháp cho cuộc chiến Mít, qua 1 truyện ngắn
mà ông, chính ông, coi là
số 1 của mình,
và GCC đã từng chôm,
The Intruder.
Câu chuyện hai thằng
anh và em cùng yêu 1 cô
gái, và 1 trong hai thằng giết cô, để
cả hai có bổn phận nhớ cô hoài hoài.
[Với GCC]
Trong bài viết về Borges,
Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên
The New Yorker, sau in trong
“Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1
truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder.
Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng
hiện tại của Borges.
Tò mò, Gấu kiếm
trong “thư khố” của Gấu, về ông, không
có. Lên net, có, nhưng chỉ cho
đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”,
câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một
trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại
được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó
mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn
phận quên nàng”.
[Tin Văn đã kiếm
thấy cái truyện ngắn này, và
đã post trên Tin Văn, thong thả sẽ dịch
hầu quí độc giả]
Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang
trí - cho những những câu chuyện đầu tay
của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The
Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không
1 tì vết và cảm động một cách lạ
thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng
trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng
hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít,
cùng mê, và 1 thằng đã "làm
thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên
nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang
thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở
về Xề Gòn, và thấy Những
Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên
bàn!
"The Intruder," a very short
story recently translated into English, illustrates
Borges's present ideal. Two brothers share a young
woman. One of them kills her so that their fraternity may
again be whole. They now share a new bond: "the obligation to
forget her."
Borges himself compares this
vignette to Kipling's first tales. "The Intruder"
is a slight thing, but flawless and strangely moving.
It is as if Borges, after his rare voyage
through languages, cultures, mythologies, had come home and
found the Aleph in the next patio.
Trong The Last Interview,
Borges xeo phi Borges, qua truyện ngắn thần
sầu kể trên, và Gấu nghĩ, chưa từng có
ai, kể cả GCC, vinh danh BHD, và Tứ Tấu Khúc
của thằng khốn đó, đến mức tuyệt hảo như thế!
BORGES: But I think I've
written a better story called "La intrusa" ("The Intruder")
and you'll find that story in the last edition of El Aleph
or of A Personal Anthology. I think
that's better than the other. I think that's
the best story I ever wrote. There's nothing personal about
it; it's the story of two hoodlums. The intruder is the woman who
comes into the lives of two brothers who are hoodlums. It isn't
a trick story. Because if you read it as a trick story, then, of
course, you'll find that you know what's going to happen at the end
of the page or so, but it isn't meant to be a trick story. On the contrary.
What I was trying to do was to tell an inevitable story so that the
end shouldn't come as a surprise.
BURGIN: That's sort of like
"The South," though. The sense of inevitability in
the story.
BORGES: Yes, yes. But, I
think that ‘La intrusa' is better, because it's simpler.
BURGIN: When did you write
it?
BORGES: I wrote it about
a year or so ago, and I dedicated it to my mother. She
thought that the story was a very unpleasant one. She thought
it awful. But when it came to the end there was a moment when
one of the characters had to say something, then my mother found
the words. And if you read the story, there's a fact I would like
you to notice. There are three characters and there is only one
character who speaks. The others, well, the others say things and
we're told about them. But only one of the characters speaks directly,
and he's the one who's the leader of the story. I mean, he's behind
all the facts of the story. He makes the final decision, he works out
the whole thing, and in order to make that plainer, he's the only character
whose voice we hear, throughout the story.
BURGIN: Is it a very short
story?
BORGES: Yes, five pages.
I think it's the best thing I've done.
Bà
mẹ của Borges, mới là người kiếm ra câu
văn tuyệt hảo kết thúc câu chuyện.
Borges coi đây là
tuyện ngắn tuyệt hảo của ông, bởi vì, nó
không có tính "trick story", mà
là 1 truyện ngắn không thể tránh được, "inevitable
story", và với thứ thần sầu này, cái kết
thúc của nó,
không đến với bạn, như là 1 ngạc nhiên.
Bạn thử kiếm ra 1 thứ truyện ngắn
như thế, để kết thúc cuộc chiến Mít?
BURGIN: What about "Death
and the Compass"? Do you like the way you treat the
local colour in that story?
BORGES: Yes, but in "Death
and the Compass," the story is a kind of nightmare,
no? It's not a real story. While in "La intrusa" things are
awful, but I think that they are somehow real and very sad also.
Borges, khi phải so sánh
BHD - La intrusa -
với Thần Chết và Cái La Bàn, 1 truyện
ngắn thần sầu của ông, đã coi Death giống như
1 cơn ác mộng, không phải truyện thực, trong khi
BHD thì, 1 cách nào đó, somehow,
thực, và rất ư là buồn!
Tks you, Mr. Borges!
.... somehow real and very
sad also.
Mi
không biết vác gạo đến nhà bố ta, những
ngày Sàigòn rục rịch, nghe đồn... có
đảo chánh, làm sao ta lấy mi?
My Old Saigon
http://www.tanvien.net/Viet/8.html
The Intruder
Note: GCC kiếm thấy The Intruder, trong cuốn
Borges A Reader,
mua xôn, từ đời nào. Bèn post ở đây,
và sẽ dịch sau.
Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang
trí - cho những những câu chuyện đầu tay của
Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”,
quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì
vết và cảm động một cách lạ thường.
Lần đầu đọc, trên net,
Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học
của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được
cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít,
cùng mê, và 1 thằng đã "làm
thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên
nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang thang
xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn,
và thấy "Những Ngày Ở Sài Gòn",
nằm trên bàn! (1)
THE INTRUDER
2 Samuel 1:26
[JLB 98]
They claim (improbably) that
the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen
brothers, at the wake for Cristian, the elder, who died
of natural causes at some point in the 1890s, in the district
of Moron. Someone must certainly have heard it from someone
else, in the course of that long, idle night, between servings
of mate, and passed it on to Santiago Dabove, from whom I learned it.
Years later, they told it to me again in Turdera, where it had all
happened. The second version, considerably more detailed, substantiated
Santiago's, with the usual small variations and departures. I write
it down now because, if I am not wrong, it reflects briefly and tragically
the whole temper of life in those days along the banks of the River
Plate. I shall put it down scrupulously; but already I see myself
yielding to the writer's temptation to heighten or amplify some detail
or other.
In Turdera, they were referred
to as the Nilsens. The parish priest told me that his
predecessor remembered with some astonishment seeing in
that house a worn Bible, bound in black, with Gothic characters;
in the end pages, he glimpsed handwritten names and dates. It
was the only book in the house. The recorded misfortunes of the
Nilsens, lost as all will be lost. The old house, now no longer in existence,
was built of unstuccoed brick; beyond the hallway, one could make
out a patio of colored tile, and another with an earth floor. In any
case, very few ever went there; the Nilsens were jealous of their privacy.
In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their indulgences
were horses, riding gear, short-bladed daggers, a substantial fling
on Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall,
with red hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would
never hear tell of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood
feared them, as they did all red-haired people; nor is it impossible
that they might have been responsible for someone's death. Once, shoulder
to shoulder, they tangled with the police. The younger one was said
to have had an altercation with Juan Iberra in which he did not come
off worst; which, according to what we hear, is indeed something. They
were cowboys, team drivers, rustlers, and, at times, cheats. They had
a reputation for meanness, except when drinking and gambling made them
expansive. Of their ancestry or where they came from, nothing was known.
They owned a wagon and a yoke of oxen.
Physically, they were quite distinct
from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their own bad
name. This, and other things we do not know, helps to explain how close they
were; to cross one of them meant having two enemies.
The Nilsens were roisterers,
but their amorous escapades had until then been confined
to hallways and houses of ill fame. Hence, there was no lack
of local comment when Cristian brought Juliana Burgos to live
with him. True enough, in that way he got himself a servant; but
it is also true that he showered her with gaudy trinkets, and showed
her off at fiestas-the poor tenement fiestas, where the more intimate
figures of the tango were forbidden and where the dancers still
kept a respectable space between them. Juliana was dark-complexioned,
with large
wide eyes; one had only to look at her to make her smile. In
a poor neighborhood, where work and neglect wear out the women,
she was not at all bad looking.
At first, Eduardo went about
with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some
business or other; he brought back home with him a girl he
had picked up along the way. After a few days, he threw her
out. He grew more sullen; he would get drunk alone at the local bar,
and would have nothing to do with anyone. He was in love with Cristian's
woman. The neighborhood, aware of it possibly before he was, looked
forward with malicious glee to then subterranean rivalry between the
brothers. One night, when he came back late from the bar at the corner,
Eduardo saw Cristian's black horse tethered to the fence. In the patio,
the elder brother was waiting for him, all dressed up. The woman came
and went, carrying mate. Cristian said to Eduardo:
"I'm off to a brawl at the Farias'.
There's Juliana for you. If you want her, make use of
her."
His tone was half-commanding,
half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did
not know what to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo
but not to Juliana, who was an object to him, mounted, and trotted
off, casually.
From that night on, they shared
her. No one knew the details of that sordid conjunction,
which outraged the proprieties of the poor locality. The
arrangement worked well for some weeks, but it could not last.
Between them, the brothers never uttered the name of Juliana,
not even to summon her, but they sought out and found reasons
for disagreeing. They argued over the sale of some skins, but they
were really arguing about something else. Cristian would habitually
raise his voice, while Eduardo kept quiet. Without realizing it,
they were growing jealous. In that rough settlement, no man ever
let on to others, or to himself, that a woman would matter, except
as something desired or possessed, but the two of them were in love.
For them, that in its way was a humiliation.
One afternoon, in the Plaza de
Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful
"dish" he had fixed up for himself. It was then, I think,
that Eduardo roughed him up. No one, in his presence, was
going to make fun of Cristiano
The woman waited on the two of
them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference,
unquestionably for the younger one, who, although he had
not rejected the arrangement, had not sought it out.
One day, they told Juliana to
get two chairs from the first patio, and to keep out of
the way, for they had to talk. Expecting a long discussion,
she lay down for her siesta, but soon they summoned her. They
had her pack a bag with all she possessed, not forgetting the
glass rosary and the little crucifix her mother had left her. Without
any explanation, they put her on the wagon, and set out on a wordless
and wearisome journey. It had rained; the roads were heavy going
and it was eleven in the evening when they arrived at Moron. There
they passed her over to the patrona
of the house of prostitution. The deal had already been made; Cristian
picked up the money, and later on he divided it with Eduardo.
In Turdera, the Nilsens, floundering
in the meshes of that outrageous love (which was also
something of a routine), sought to recover their old ways,
of men among men. They went back to their poker games, to fighting,
to occasional binges. At times, perhaps, they felt themselves
liberated, but one or other of them would quite often be away,
perhaps genuinely, perhaps not. A little before the end of the year,
the younger one announced that he had business in Buenos Aires. Cristian
went to Moron; in the yard of the house we already know, he recognized
Eduardo's piebald. He entered; the other was inside, waiting his turn.
It seems that Cristian said to him, "If we go on like this, we'll wear
out the horses. It's better that we do something about her."
He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went
off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred
his horse so as not to see them. They returned to what has
already been told. The cruel solution had failed; both had given
in to the temptation to dissimulate. Cain's mark was there,
but the bond between the Nilsens was strong-who knows what trials
and dangers they had shared-and they preferred to vent their
furies on others. On a stranger, on the dogs, on Juliana, who had
brought discord into their lives.
March was almost over and the
heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom
to retire early), Eduardo, coming back from the corner bar,
saw Cristian yoking up the oxen. Cristian said to him, "Come
on. We have to leave some hides off at the Pardos'. I've already
loaded them. Let us take advantage of the cool."
The Pardo place lay, I think,
to the south of them; they took the Camino de las Tropas,
and then a detour. The landscape was spreading out slowly
under the night. They skirted a clump of dry reeds. Cristian threw
away the cigarette he had lit and said casually, "Now, brother,
to work. Later on, the buzzards will give us a hand. Today I killed
her. Let her stay here with all her finery, and not do us any more
harm."
They embraced, almost in tears.
Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully
sacrificed and the obligation to forget her.
Note:
Đọc lại, thì lại nhớ đến em Phương, trong Nỗi
Buồn Chiến Tranh: Mi ngu quá, còn đêm nào
như đêm nay.
“Chẳng còn đêm
nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến
đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn
em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt
nó trong cuộc chiến này".
http://www.tanvien.net/ds/noi_buon_war.html
I owe the discovery
of Laszlo Foldenyi to Cees Nooteboom, who, in one
of his epistolary assaults, insisted that I should read
him and sent me a Spanish translation of one of his essays, Dostoyevsky
reads Hegel in Siberia and bursts into tears. Among the many
paths that lead us to read a book (all of which have something
mysterious about them) is that of the title. We may not be immediately
attracted to a book called The Divine Comedy or Les contemplations,
but only a soul of stone can resist Dostoyevsky reads Hegel
in Siberia and bursts into tears. I read it immediately in one
sitting, and then again, and then once again, for luck. The contents
amply justified the magnificent title. My ignorance of Hungarian
is word-perfect: my reading was therefore limited to only a few
of Foldenyi's works in Spanish and German, and yet it was enough
to judge him, in my view, a brilliant, original, clear-cut thinker
whose illuminations I gladly followed through philosophical, historical,
and aesthetic considerations. His books on melancholia, art, and
criticism are masterworks.
Long ago, Copernicus's
discoveries shifted the self-centered vision of
our world to a corner that has since constantly shifted
further…
[suite]
Alberto Manguel:
On Foldenyi
[In Table Talk, The Threepenny Review]
Kẻ khiêu vũ trong bóng
tối
Tại sao Âu Châu
lại có thể là lò cừ văn hóa
và một sàn diễn của cái man rợ tồi tệ
đến như thế?
Tại làm sao lại
có 1 giống dân ưu việt đến như thế. Hitler
đã từng phán, Do Thái phịa ra ý
thức, lương tâm (1)
(1)
Exemple : « Ce qui
me fascine, c'est le mystère de l'excellence
intellectuelle juive. II ne faut pas être hypocrite:
en sciences, le pourcentage de Nobel est écrasant. II
y a des domaines dans lesquels il y a presque un monopole juif.
Prenez la création du roman américain moderne
par Roth, par Bellow, par Heller et tant d'autres. Les sciences,
les mathématiques, les médias aussi. ..
Est-ce qu'il y a le fruit de la pression terrible du danger?
Est-ce que le danger est le père de l'invention et de
la création? J'ose le croire. Le judaisme est la seule
religion qui ait une prière spéciale pour les
families dont les enfants sont des savants. Cela me remplit
d'une joie et d'un orgueil fou. [ ... ] Non vraiment, quand Hitler
déclare "le Juif a inventé la conscience", il
a parfaitement raison. [ ... ] Le mystère de ce qui attise
la haine chez le non-Juif, c'est je crois que le Juif a signé
un pacte avec la vie. II semble y avoir une négociation
millenaire entre le Juif et la vie elle-même, le rnystère
de la vitalité humaine. "
Thầy của Gấu phán về Do
Thái của Thầy mới bảnh làm sao. Trò cũng có những
ý nghĩ tương tự về gốc Bắc Kít của nó, nhưng cái
kết luận của Thầy và của Trò ngược hẳn
nhau:
Những tên Bắc Kít
cực kỳ thông minh, là thể nào
não của chúng cũng bị thiến mất 1 mẩu,
đúng mẩu có lương tri của con người.
Thầy, Do Thái đã
ký 1 hòa ước với đời sống, và
chính vì thế mà dân Do Thái
bị thù ghét!
Cái
từ “Hội Nhà Thổ”, 1 vị độc giả trên Blog
NL, trách GCC, là miệt thị HNV/VC, gốc của
nó, là từ Walter Benjamin:
Sách
và Bướm - thứ nào có đàn
ông của thứ đó, những kẻ sống trên
lưng họ - tính viết, "sống trên trôn
họ", nhưng đểu cáng quá - và hành
hạ họ.
Les livres
et les putains - ils ont chacun leur genre d'homme,
qui vivent sur leur dos, et les maltraitaient
Walter Benjamin,
Sens unique
Walter Benjamin: A Tribute
Hai tác phẩm sử thi của
thế kỷ 20 là hai tác phẩm lớn lao
về điêu tàn.
Thi khúc
[Cantos ] của
Pound, và Thương Xá, [The Arcades Project],
của Benjamin.
Từ một khoảng cách, tuyệt
tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một
điêu tàn lớn lao khác của văn
học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound.
Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng
đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả
hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích
dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện
đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng.
Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới
sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên
là Marx, và một bên là Gesell và
Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào
trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh
giá quá cao sự thích nghi của chúng
đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết,
khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng
đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa
phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi
đát. Với Pound, ô nhục.
Coetzee: Những Kỳ
Tích Về Benjamin
Nói gần nói xa,
chẳng qua nói thẳng:
Mít chúng
ta cần 1 tác phẩm, về “Điêu Tàn
ư, đâu chỉ điêu tàn”.
Hay 1 thứ, cẩm như
“Ô Nhục” của Coetzee!
I owe the discovery of Laszlo Foldenyi
to Cees Nooteboom, who, in one of his epistolary assaults,
insisted that I should read him and sent me a Spanish translation
of one of his essays, Dostoyevsky reads Hegel in Siberia
and bursts into tears. Among the many paths that lead us to
read a book (all of which have something mysterious about them)
is that of the title. We may not be immediately attracted to a
book called The Divine Comedy or Les contemplations, but only a soul
of stone can resist Dostoyevsky reads Hegel in Siberia and bursts
into tears. I read it immediately in one sitting, and then again, and
then once again, for luck. The contents amply justified the magnificent
title. My ignorance of Hungarian is word-perfect: my reading was therefore
limited to only a few of Foldenyi's works in Spanish and German, and yet
it was enough to judge him, in my view, a brilliant, original, clear-cut
thinker whose illuminations I gladly followed through philosophical,
historical, and aesthetic considerations. His books on melancholia,
art, and criticism are masterworks.
Long ago, Copernicus's discoveries
shifted the self-centered vision of our world to a
corner that has since constantly shifted further…
[suite]
Alberto Manguel: On Foldenyi
[In Table Talk, The Threepenny
Review]
Note: Bài viết này,
về Foldenyi nhưng thực sự là về Dos.
Alberto Manguel, dân
Canada, là tác giả đầu tiên GCC
biết tới, khi ra được hải ngoại, qua sự giới thiệu của Nguyễn
Tiến Văn.
Qua Manguel, Gấu biết tới
Kafka, Borges...
Những tác giả Đông
Âu, như Milosz, Manea, là qua tờ Partisan
Review...
http://www.bbc.com/vietnamese/media-40423475
Tuy nhiên, việc cuốn
Hồi ký 'Một cơn gió bụi' với cách
thức in lại như vừa qua ở Việt Nam có thể sẽ gây
'mất uy tín' cho chính học giả này,
theo ông.
Mất uy tín, là
sao?
Trần
Trọng Kim trong thư
gửi Hoàng Xuân Hãn, nhận xét,
công Vẹm đầu, mà tội cũng đầu, đúng,
chỉ có 1 nửa, là vì ông chết
sớm, khác GCC, do sống sau ông, nên giải
ra được 1 nửa còn lại.
Giá đừng đánh
Tây, thì xứ Mít thoát mọi tai ương.
Phạm Quỳnh, trước
khi bị Vẹm dùng
đá đập chết, để tiết kiệm 1 viên đạn,
đã nói ra điều này. Không
có thằng Tây, là thằng Mít chết
[vì thằng Tầu, GCC thêm vô]
Nhưng người phán
bảnh nhất, là Hannah Arendt. Không
có lũ tư bản, chủ nghĩa thực dân, là không
thể nào hiểu nổi bộ mặt thế giới bây
giờ ra sao.
Thư
gửi HXH trên Tin Văn có post, nhưng không
biết nằm ở đâu. Có post ở trên FB nữa
http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/sinh_nhat_bac.html
By Jason Beerman
Wed., Dec. 26,
2012
Think of literature
written in or translated into English about Vietnam
and a handful of writers come to mind: Marguerite Duras,
Graham Greene, and Tim O’Brien. Giller Prize-winning author
Vincent Lam also based his recently published first novel,
The Headmaster’s Wager, in Vietnam, from where his Chinese
parents emigrated.
While these authors
each evoke a Vietnam of their choosing — a Vietnam
steeped in war, a Vietnam seen through the lens of colonialism
or the eyes of American soldiers — none can claim the unique
perspective of Duong Thu Huong, a former Vietnamese Communist
cadre who was kicked out of the Party and jailed in 1991
after writing two novels — both bestsellers in Vietnam — that
depicted the Vietnamese government as corrupt and abusive.
Since then, her work has been banned in Vietnam, but has appeared
in translation in several languages abroad, likely making her
the most widely read Vietnamese novelist in the world.
Huong currently
lives in exile in Paris, where she wrote The Zenith,
her sixth novel to be translated into English. Like
her previous work, this is an overtly political novel
— it traces, through several tangentially related narrative
threads, Ho Chi Minh’s final days spent in an isolated mountaintop
temple, where he languishes under the watchful gaze of a coterie
of guards, cooks and a doctor.
To this day, the
Vietnamese government cultivates a carefully constructed
image of “Uncle Ho” as a celibate saint-like figure who
is a revolutionary father to all of Vietnam. Writing
about him in a way that does not conform to Party mythology
is not permitted, which makes Huong’s version of Ho inherently
blasphemous.
When the book
begins, it is 1969, and Ho lives an imprisoned and
monastic life timed to the temple bells, the chanting of
Buddhist prayers and the whims of his guards. He ponders
the past in a series of conversations with himself, moments
of reflection, and hallucinations, one of which includes
a cameo by Chairman Mao, who tells him, “Power cannot be harmonized
with ordinary feelings of conscience.”
This idea of power
clashing with conscience forms the core of the novel.
Surprisingly, it is Huong’s fictionalized Ho Chi Minh
for whom conscience overrides the desire for power, to the
point where he is powerless to do anything while his erstwhile
comrades plunder.
In the novel,
Ho is haunted by memories of a love affair he had in
the 1950s with a woman forty years younger. The relationship,
which resulted in a son and a daughter, was kept out
of sight, and when Ho wanted to make it public, the Politburo
voted against it and eventually set into motion the woman’s
brutal torture, rape and murder.
Ho is tormented
by his inaction, but realizes that he is fated to
become “a hand-carved wooden puppet to these murderers.”
Indeed, he had already ceded power long before. His conscience
— his idealism rooted in socialist doctrine — gave rise to a
liberated Vietnam, but in the subsequent grab for power, he is
turned into a figurehead, “his authority no more than the fleeting
enchantment thrown by an opera-house lantern.” As a result,
those who are really in power remain huddled in the shadows,
pulling tautly on the marionette strings.
The Zenith, lyrically
translated by husband-wife translators Stephen
B. Young and Hoa Pham Young, is part modern Vietnamese fable,
part tragedy. Huong, who says she spent 15 years researching
the novel, has written what amounts to a eulogy for Uncle Ho.
Amidst the simmering anger directed toward “the state machine,”
there is a modicum of sympathy for Ho, who dances under strings
manipulated by men without conscience.
Jason Beerman
lives and writes in Hong Kong.
“The politics of a country can only
be an extension of its idea about human relationships”
Naipaul. Pankaj
Mishra trích dẫn trong The Writer and the World. Introduction.
Nền chính
trị của một xứ sở chỉ có thể là sự
mở rộng ra, ý nghĩ của xứ sở đó, về những
liên hệ, giao tiếp giữa con người với con người.
Muốn hay không,
thì Hồ Chí Minh cũng là người
lãnh đạo thành công Cách mạng
Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày
dài nô lệ. Còn những người bảo vệ Hồ Chí
Minh thì cũng không phải vì Hồ Chí
Minh mà vì họ bảo vệ quyền lợi của họ. Bởi vì
dù sao ông Hồ trong lịch sử vẫn còn để
lại một hình ảnh tốt đẹp trong dân chúng.
Dương Thu Hương BBC
*
“The politics
of a country can only be an extension of its idea about
human relationships”.
Câu này,
của Naipaul, thật tuyệt, và sử dụng nó,
vào xứ Mít, thì lại càng
tuyệt.
Xứ Mít
- ở vào cái thời chỉ có giống
dân Yankee mũi tẹt – cái gọi là chính
trị của nó, chỉ là cách đối xử, ý
nghĩ của nó, đối với cõi bên ngoài
luỹ tre làng, tức cõi mà Tô
Hoài gọi là Quê Người.
Gần gụi nhất,
là Làng Kế Bên, và xa
hơn, Nam Kỳ, tức Đàng Trong, về phía Nam, và
Trung Quốc, ở phía Bắc.
Đối xử với làng
kế bên thì sao? Thì đánh
cho nó bỏ mẹ, nếu chàng màng đến gái
làng ta.
Đàng Trong?
Phải cướp cho bằng được.
Trung Quốc ?
Xứ này đúng là cái họa
muôn đời của Yankee mũi tẹt. Chính vì
đánh không được nó, nên phải
lấn về phía Nam.
Cái politics
của xứ Mít thật rõ như ban ngày,
ngay cả cái vụ đánh Tây, thì
cũng phải được nhìn qua tổng thể trên.
Thành thử
khó mà nói như DTH nói
được: Muốn hay không,
thì Hồ Chí Minh cũng là người
lãnh đạo thành công Cách mạng
Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi
ngày dài nô lệ.
Bởi vì
bạn không thể nào tách nó
ra khỏi tổng thể được. Cuộc đánh Tây, phải
được nhìn như là một “tổng diễn tập” cho
cuộc đánh Mỹ cướp Miền Nam
sau này. Cuộc đánh Tây xẩy ra, khi ông
Hồ đã được Đảng Mác Xít Liên
Xô rửa tội, bởi thế mà khi điệp viên OSS
nhẩy dù xuống Miền Bắc gặp ông Hồ, nhìn rõ
"chân lý" [chữ của DTH] về Người, đã rút
dù bỏ chạy. Điều này được kể ra trong Tạp Chí
CS của Đảng, như là một bằng chứng cho thấy, VC không
hề muốn theo Liên Xô, mà thực tâm muốn
theo Mẽo, nhằm xóa tội gây cuộc chiến lần thứ nhì,
và nhằm xoa dịu Mẽo, mời Mẽo trở lại VN.
Có lần
Gấu phán ẩu, nếu không có thằng
Tây, thì Đàng Trong bị Đàng
Ngoài nuốt chửng từ lâu rồi, là cũng
theo "tầm nhìn" này. Thằng Tây, không
phải tự nhiên mà cho Nam Kỳ tự trị. Không
phải đây là chính sách chia để trị
của tụi Tây mũi lõ. Thằng Tây cố bảo vệ Miền
Nam, đối với Miền Bắc, bởi vì theo thằng Tây, cái
gọi là liên hệ người với người của miền đất này,
dù sao cũng gần gụi với của Tây mũi lõ hơn,
hẳn thế?
Nhìn theo
"tổng thể" như thế, thì còn giải thích
được cái gọi là politics của VC trong vụ
Bô Xịt [Bullshit] hiện đang xẩy ra tại Tây Nguyên.
Nhưng khi Tô
Hoài sử dụng cái tít Quê
Người, viết về một cái làng quê Bắc
Kít, làng Nghĩa Đô, trong thâm
tâm ông, là để chỉ điều Conrad gọi
là Trái Tim Của Bóng Đen, tức chính
cái xứ Đàng Ngoài khốn nạn.
Chính
Làng Ta là Quê Người!
Thảm thế!
Note: Quê
Người!
Thần sầu!
Đúng là
số 1 trong cõi Bắc Kít!
NQT
Cái công
ơn đánh Tây, xóa nô lệ của
ông Hồ và Vẹm, như bà DTH phán,
theo GCC, sai.
Tất cả tội ác
của Vẹm, tức VC, là do đánh Tây
mà ra.
Vẹm mượn cớ đánh
Tây, nhân đó làm thịt
sạch những người không theo Vẹm.
Trần Trọng Kim trong thư gửi Hoàng
Xuân Hãn, nhận xét, công
đầu, mà tội cũng đầu, đúng, chỉ có 1
nửa, là vì ông chết sớm, khác
GCC, do sống sau ông, nên giải ra được 1 nửa
còn lại.
Giá đừng
đánh Tây, thì xứ Mít
thoát
mọi tai ương.
Phạm Quỳnh, trước
khi bị Vẹm dùng
đá đập chết, để tiết kiệm 1 viên đạn,
đã nói ra điều này. Không
có thằng Tây, là thằng Mít chết
[vì thằng Tầu, GCC thêm vô]
Nhưng người phán
bảnh nhất, là Hannah Arendt. Không
có lũ tư bản, chủ nghĩa thực dân, là không
thể nào hiểu nổi bộ mặt thế giới bây
giờ ra sao.
Cái gì làm
cho Cựu Lục Địa không bị nhuộm đỏ?
Bà Applebaum
cho rằng, nhờ, chỉ,
hai cuốn Bóng Đen Giữa Ban Ngày,
của Koestler, và Trại Loài Vật &
1984 của Orwell.
Không hẳn
như thế, theo GCC.
Nhờ vắc xin Lò
Thiêu.
Chính tội
ác Lò Thiêu làm Âu
Châu thoát nhuộm đỏ.
Bởi vậy thằng Tây
vẫn tự hào, gốc CS của xứ Mít, là
từ Tẩy, không phải từ Moscow.
Chỉ 1 khi ông
Hồ thoát Paris, qua Moscow, là xứ Mít...
chết!
https://boxitvn.blogspot.ca/2013/09/thu-but-cua-tran-trong-kim-thu-gui.html
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=2404&rb=08
Viết
mỗi ngày
Cái văn học của lũ mũi lõ,
theo GCC, khác hẳn văn học
của lũ Á Châu mũi tẹt, và
nếu như thế, cái chuyện sống chết của chúng
cũng khác nhau.
Steiner tin rằng văn học Âu Châu
có mùi thần học, khác
hẳn Á Châu.
Đúng như thế.
Kitô giáo
và chủ nghĩa Mác-xít: Đó là
hai chuyện lạc đạo lớn nhất của Do thái giáo,
nói theo Freud, đó là con quay lại giết cha.
Chủ nghĩa Mác-xít gần như biến mất, tôi nói
“gần như” vì chúng ta sẽ có thể ngạc nhiên
với nó trong tương lai. Còn về Kitô giáo,
đạo này đang qua một cơn khủng hoảng ở Âu châu.
Riêng ở nước Anh, sẽ có cả ngàn nhà thờ được
dùng vào việc khác vì không còn
tín hữu và ơn gọi. Không phải là tôi
không biết thế nào là trại tập trung Goulag nhưng
tôi ngửi không nổi những người bây giờ từ chối cái
quá khứ đi theo Stalin của họ, hồi đó Cộng sản là
niềm hy vọng vô biên. Trong chủ thuyết Mác-xít
có tầm đánh giá con người rất cao, rất ngông
mà đó cũng là một tính chất rất Do thái.
Nó làm cho chúng ta tin chúng ta là
những con người có khả năng đem đến công bằng cho xã
hội. Một sai lầm khủng khiếp đã giết hại mười mấy triệu người,
nhưng đó là một tư tưởng rất quảng đại và một lời
khen ngợi rất lớn cho con người. Kitô giáo thì bị
lấm vết nhơ hận thù do thái quá sớm, huyền nhiệm
của Kitô giáo quá thô sơ nhưng nền nghệ thuật
phương Tây của chúng ta không thể có được mà
không có Kitô giáo.
Những
gì mà Steiner viết, về Do Thái,
có thể áp dụng cho xứ Bắc Kít,
nơi khởi thuỷ của giống Mít. Chúng
được Thượng Đế cho ra đời, là để hoàn thành
giấc mơ hoành tráng, ngông cuồng,
là thực hiện cuộc chiến vừa qua, biến mảnh đất
hình chữ S thành liền 1 dải. Có điều, chúng
không nghĩ đến Cái Ác Bắc Kít
sẽ huỷ hoại tất cả.
Vẫn
áp dụng câu phán của Steiner
vào giống Mít, cái gì có
thể chống lại được Cái Ác Bắc Kít:
một niềm tin tôn giáo, theo GCC. Ky Tô
giáo đã cứu Âu Châu ra khỏi
thảm họa Đỏ. Cái chết của Bắc Kít, là
chúng không có một niềm tin tôn
giáo. Bốn ngàn năm văn hiến của xứ Mít
dậy chúng, đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
Đến thời Cái Ác Bắc Kít lên ngôi,
với chiến thắng 30 Tháng Tư, biến thành: Hi
sinh đời bố củng cố đời con!
Đời
con của chúng, là 1 tương lai ở nước
ngoài, ở hải ngoại.
Trên
tờ NYRB số mới nhất, có bài viết của
Charles Simic, điểm mấy cuốn thơ của 1 nhà thơ mới
mất. Bài này cho đọc free. Post ở đây.
Tiếng nói cho người không có tiếng
nói. Cái thứ văn chương được Nobel những
năm gần đây, đúng là thứ này.
Văn
học Mít đã chết, đúng là
như vậy.
Viện Hàn
lâm Thụy Điển thì đã làm
gì? Từ khi sang thiên niên kỷ mới họ
không còn trao Nobel văn học cho những
nhà văn xịn và những tác phẩm văn
học hư cấu đỉnh cao (theo tiêu chí của giới
văn chương “thượng thặng”). Đã lâu, văn giới
khắp nơi thường chờ họ liếc mắt tới những là Philip
Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas Pynchon, Ko Un, Javier
Marías, Umberto Eco (vừa chết), Don DeLillo… Nhưng không,
họ chả hạp với tâm tính Bắc Âu. Không
phải là ý chính bài này,
nhưng trong những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít
năm ngay trong thế kỷ này thôi thì không
biết bạn có còn nhớ tên họ hay cuốn sách
nào của họ, như là Elfriede Jalinek, Harold Pinter,
Jean-Marie Gustave Le Clézio, Herta Müller… chứ chưa
thèm nói đến thế kỷ trước (Có điều nghe chừng
khốn nạn, ấy là trường hợp khi trao Nobel 2014 cho Patrick
Modiano, Thư ký Thường trực Viện Hàn lâm Thụy
Điển lúc đó là Peter Englund nhận định: “Patrick
Modiano có thể được coi là Marcel Proust của thời
đại chúng ta.” Chà, Marcel Proust chính là
“kẻ kinh tởm” mà Thụy Điển trước đây cương quyết
không trao Nobel!!) Và gần đây, bằng việc trao
giải cho một nhà báo (Svetlana Alexandrovna Alexievich)
vào năm 2015, và một ca-nhạc sỹ (Bob Dylan) vào
năm 2016, ý đồ khai tử văn học của họ dường như đã
trở nên lộ liễu. Có người đùa rằng, đó
là những giải Nobel “vắn học”. Rất có thể, sắp tới
“giải Nobel văn học” sẽ được trao cho bất cứ tác giả nào
sản sinh ra những gì có “tính thơ”: nhà
thiết kế thời trang, nghệ sỹ thị giác, nhà hoạt động
môi trường… Phải chăng, văn học đã từ “kinh điển”
chuyển sang “kinh hãi”?
ĐT
Cái
gì làm cho đấng này dõng
dạc phán, về thế giá xứng đáng
Nobel, của những Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera...
?
Theo
GCC, họ là những tác giả ăn khách,
nhất là ở xứ Mít.
Cái
gì làm cho họ ăn khách ở xứ
Mít?
Tất cả
đều "thờ ơ, vô cảm" trước cái tình
hình chính trị, “nhạy cảm cái
con mẹ gì đó" của xứ Mít.
Có
thể, tất nhiên, dúng hơn, họ không
hề thờ ơ vô cảm với thời của họ, nhưng những
tác phẩm mà được xứ Mít của Vẹm chọn
dịch không có cái khúc xương
khó gậm này. Chúng đều vô hại, đối
với Vẹm.
Họ không
chỉ ăn khách ở trong nước, mà còn
trên thế giới, thí dụ [nhất là]
Murakami, trong khi những tác giả được Nobel
đều rất ít độc giả. Ngay chính họ, cũng ngỡ
ngàng, khi biết tin được Nobel.
Đây
cũng là 1 sắc thái đặc biệt của Nobel
những năm gần đây.
V/v thờ
ơ, vô cảm. Trường hợp tuyệt tác của Paul
Valéry, "La Jeune Parque".
Paul Valery
spent the First World War chiefly in Paris, although
he occasionally left for the provinces with his employer
at the time, the wealthy Monsieur Lebey; Valery served
as a kind of secretary with ill-defined duties (he mainly
spent his time preparing something along the lines of refined
press briefings for his employer). And he wrote and published his
poem "La jeune Parque," which was well received by the critics
so well that his position as a writer changed completely from
one day to the next: he suddenly became a well-known poet. It
never occurred to him that the sufferings of war might form the
subject of his work. The thought never crossed his mind. It can't
even be said that he rejected it; it simply didn't "register,"
it was completely foreign. The very act of writing "La jeune
Parque" constituted a kind of challenge to the drama of war, but
only by contrast, through the creation of pure, crystalline beauty,
the work of a free intellect. I suspect he would have been shocked
to find that later poetry might approximate historical reflection,
that the pain of history could saturate a line of verse, that
a certain dry theoretician would openly question the status and sense
of poetry after Auschwitz. He would have been even more startled to
learn that the nature of Rilke's poetry could be questioned: How might
his poems have look
ed if he'd actually reckoned with the horrors
of trench warfare? The two great poets seemingly viewed the World War
simply as the next act in an age-old drama, the eternal clash of battle,
which might spare a generation or two, but inevitably returned in full
force; it was not a new, slow-acting, and deadly poison injected into
European civilization. Paris was bombarded, the boundary between military
action on the front and the civilian population grew ever slimmer,
but for all that, the scholar's or poet's tranquil study remained worlds
apart from the trenches’ muck. But Valery did in fact write a piece called
“Une conquête méthodique," which dealt precisely with a
new element in history-the widespread militarization of German life.
And of course just after the war, he published an even better-known essay,
"La crise de l'esprit," which contained the famous phrase "Nous autres,
civilisations, nous savons maintenant que nous sommes mortelles."
In other essays he traced the impact of modernity
on the human mind. One splendid sentence reads, "Adieu,
travaux infiniment lents," "Farewell, infinitely slow
works, cathedrals, whose endlessly slow growth lent itself
astonishingly well to whatever changes and variations
might occur-and which they them-selves seemed to create on
high." In such essays, Valery proved to be a remarkably astute
critic of the changes that had scarred the face of European
civilization, as he thought. But poetry was another matter: here
he sought to prove that time could have no impact on a poem's lines,
imagery, and subject.
ADAM ZAGAJEWSKI:
SLIGHT EXAGGERATION
http://damau.org/archives/46728
V/v "Secondhand
time". Từ này có thể gọi là
từ chìa khoá của Nobel 2015.
Không
thể dịch là thời đại cũ, mà là,
thời xài rồi, thời qua tay 1 thời khác.
Cái xứ Mít đang bị Bắc Kít đô
hộ, với người dân Bắc Kít, là thời xài
rồi, như nước Nga dưới thời Putin.
Trong diễn
từ Nobel bà giải thích rất rõ
cái từ này. Cái thứ văn học của
xứ Mít bây giờ là lập lại thời Bắc
Kít trước 1975, kể từ 1954, khi lũ Vẹm ra khỏi hang
Pác Bó, và sau đó về Hà
Nội, làm chủ 1 nửa đất nước, áp dụng thứ văn học
này, như GCC đã từng giải thích trong
bài viết về Võ Phiến, nhà văn Bình
Định.
Khi cướp
được cả đất nước, chúng bèn lập lại
cái thời văn học chỉ có 1 cửa tử, viết dưới
ánh sáng của Đảng, viết & dịch &
đọc thứ văn chương vô hại, cấm đụng vô những
vấn đề nóng bỏng của đất nước...
Nobel laureate Svetlana
Alexievich at the Swedish Academy in
Stockholm. Photograph: Fredrik Sandberg/TT
Photography/EPA
The Belarusian journalist said in her Nobel lecture
that former Soviet countries were ‘again living
in an era of power’, and recounted her time reporting
the Chernobyl disaster from the radiation
zone.
The 2015
Nobel literature laureate Svetlana Alexievich
has said that Russia “missed the chance”
it had in the 1990s to become a country “where
people can live decently”, choosing instead
to become “a strong country”.
During her
Nobel lecture on Monday, the Belarusian
journalist said “a time full of hope has been
replaced by a time of fear”. Alexievich,
whose oral histories tell the stories of thousands
of individuals from the Soviet Union, said that
“the era has turned around and headed back in time.
The time we live in is secondhand.”
Thời mà chúng ta đang sống là
thứ thời xài rồi, khi mà thay vì
tràn trề hy vọng, thì là tràn
trề sợ hãi.
Từ cũ, có
nghĩa là xài rồi, cũ người mới ta,
nhưng secondhand, ở đây, với bà Nobel, mạnh
hơn nhiều, thời qua tay một thời, y chang thòi kỳ
văn học hiện nay ở trong nước.
Thê thảm
thực.
Vậy mà
có thứ văn học "siêu văn học" được ư?
Metalitterature?
Viết ra 1 phát,
là phải trình Đảng, phải qua kiểm
duyệt, làm sao là thứ tiếng nói
cho những người không có tiếng nói?
May mà
có Ngụy: Sở dĩ Vương Đại Gia tức nhà
phê bình nhớn xứ Bắc Kít Vương Trí
Nhàn, phán như thế, là vì
văn chương Ngụy chưa từng bị lũ Ngụy quản lý, như sau
1975, được Bắc Kít quản lý!
Vậy mà
lũ Mít lưu vong mang tác phẩm về trong
nước in, rồi khoe loạn cả lên, được Vẹm chiếu
cố!
Chúng không
biết nhục là gì hết.
GCC thực sự không
tin, văn học Mít lại có được 1 thời
hiển hách như thời có GCC, tức, cái
gì gì, Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam!
Đừng có nghĩ
là GCC tự sướng, như 1 tên Lang Băm
khốn nạn nghĩ.
Note: Có
vẻ như bài thơ "Gate" của AZ, trên, viết
về thời kỳ đó, nếu cái liên tưởng của
bạn, mách bảo bạn:
What courage to
catch sight of us again?
Mi có dám
lại nắm bắt mi?
We lived only once.
Chúng ta
sống, chỉ 1 lần
My Old Saigon
Note: Bài “tóm tắt”, bài
viết của Người Kinh Tế, trên BBC, đọc cũng tạm được, nhưng
do không rành mấy thuật ngữ giang hồ, như no man's
land, vùng đất không người, hay, câu kết, như
1 lời chúc dữ, "ôi, ôm em trong tay mà đã
nhớ em, expect more battles to come, hy vọng có nhiều ĐT những
ngày sắp tới", nên làm mất cái tính
nghẹt thở Hít Cốc của nó.
Bài
viết của Người Kinh Tế còn nhắc tới cú
cải cách ruộng đất ngay sau khi Vẹm ra khỏi
hang Pác Bó, và như thế, nhắc
lại, giấc mơ của Hồ Hữu Tường, Đức Phật sẽ trở lại xứ Mít,
và vưỡn như thế, nhắc lại lời tiên tri
của TTT, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến
thắng này!
Khủng
khiếp thay, chỉ 1 bài viết có tính
thời sự!
Cái
tít bài viết của GCC, là cũng
tính coi bài viết của Người Kinh Tế như
1 bi khúc tưởng niệm ông anh nhà
thơ TTT, khi nhắc tới Ung Thư, cuốn tiểu thuyết đã
hoàn tất, tiếp theo Bếp Lửa, nhưng không
cho xb.
"Nỗi
chết không rời" của cả xứ Mít!
Comme
un cancer,
Vivre
avec cette tièdeur de mort dans la main
Malraux
Như
cục ung thư,
Sống
với cái ấm áp của nỗi chết ở trong
lòng bàn tay!
Viết
mỗi ngày
Cái văn học của lũ mũi lõ,
theo GCC, khác hẳn văn học của
lũ Á Châu mũi tẹt, và nếu như
thế, cái chuyện sống chết của chúng
cũng khác nhau.
Steiner tin rằng văn học Âu Châu
có mùi thần học, khác hẳn
Á Châu.
Đúng như thế.
Kitô giáo và chủ nghĩa Mác-xít:
Đó là hai chuyện lạc đạo lớn nhất của Do thái
giáo, nói theo Freud, đó là con quay
lại giết cha. Chủ nghĩa Mác-xít gần như biến mất, tôi
nói “gần như” vì chúng ta sẽ có thể ngạc
nhiên với nó trong tương lai. Còn về Kitô
giáo, đạo này đang qua một cơn khủng hoảng ở Âu châu.
Riêng ở nước Anh, sẽ có cả ngàn nhà thờ được
dùng vào việc khác vì không còn
tín hữu và ơn gọi. Không phải là tôi không
biết thế nào là trại tập trung Goulag nhưng tôi ngửi
không nổi những người bây giờ từ chối cái quá
khứ đi theo Stalin của họ, hồi đó Cộng sản là niềm hy vọng
vô biên. Trong chủ thuyết Mác-xít có
tầm đánh giá con người rất cao, rất ngông mà
đó cũng là một tính chất rất Do thái.
Nó làm cho chúng ta tin chúng ta là
những con người có khả năng đem đến công bằng cho xã
hội. Một sai lầm khủng khiếp đã giết hại mười mấy triệu người,
nhưng đó là một tư tưởng rất quảng đại và một lời
khen ngợi rất lớn cho con người. Kitô giáo thì bị
lấm vết nhơ hận thù do thái quá sớm, huyền nhiệm
của Kitô giáo quá thô sơ nhưng nền nghệ thuật
phương Tây của chúng ta không thể có được mà
không có Kitô giáo.
Những gì
mà Steiner viết, về Do Thái, có
thể áp dụng cho xứ Bắc Kít, nơi khởi thuỷ
của giống Mít. Chúng được Thượng Đế cho
ra đời, là để hoàn thành giấc mơ
hoành tráng, ngông cuồng, là thực
hiện cuộc chiến vừa qua, biến mảnh đất hình chữ S thành
liền 1 dải. Có điều, chúng không nghĩ đến
Cái Ác Bắc Kít sẽ huỷ hoại tất cả.
Vẫn áp
dụng câu phán của Steiner vào
giống Mít, cái gì có thể
chống lại được Cái Ác Bắc Kít:
một niềm tin tôn giáo, theo GCC. Ky Tô
giáo đã cứu Âu Châu ra khỏi thảm
họa Đỏ. Cái chết của Bắc Kít, là chúng
không có một niềm tin tôn giáo.
Bốn ngàn năm văn hiến của xứ Mít dậy chúng,
đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Đến thời Cái
Ác Bắc Kít lên ngôi, với chiến
thắng 30 Tháng Tư, biến thành: Hi sinh đời bố củng
cố đời con!
Đời con của chúng,
là 1 tương lai ở nước ngoài, ở hải
ngoại.
Trên tờ NYRB
số mới nhất, có bài viết của Charles
Simic, điểm mấy cuốn thơ của 1 nhà thơ mới mất. Bài
này cho đọc free. Post ở đây.
Tiếng nói cho người
không có tiếng nói. Cái
thứ văn chương được Nobel những năm gần đây, đúng
là thứ này.
Văn học Mít
đã chết, đúng là như vậy.
Viện Hàn lâm
Thụy Điển thì đã làm gì? Từ
khi sang thiên niên kỷ mới họ không còn
trao Nobel văn học cho những nhà văn xịn và
những tác phẩm văn học hư cấu đỉnh cao (theo tiêu
chí của giới văn chương “thượng thặng”). Đã
lâu, văn giới khắp nơi thường chờ họ liếc mắt tới
những là Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera,
Thomas Pynchon, Ko Un, Javier Marías, Umberto Eco
(vừa chết), Don DeLillo… Nhưng không, họ chả hạp với
tâm tính Bắc Âu. Không phải là
ý chính bài này, nhưng trong
những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít năm
ngay trong thế kỷ này thôi thì không
biết bạn có còn nhớ tên họ hay cuốn sách
nào của họ, như là Elfriede Jalinek, Harold Pinter,
Jean-Marie Gustave Le Clézio, Herta Müller… chứ chưa
thèm nói đến thế kỷ trước (Có điều nghe chừng
khốn nạn, ấy là trường hợp khi trao Nobel 2014 cho Patrick
Modiano, Thư ký Thường trực Viện Hàn lâm Thụy
Điển lúc đó là Peter Englund nhận định: “Patrick
Modiano có thể được coi là Marcel Proust của thời đại
chúng ta.” Chà, Marcel Proust chính là
“kẻ kinh tởm” mà Thụy Điển trước đây cương quyết không
trao Nobel!!) Và gần đây, bằng việc trao giải cho một
nhà báo (Svetlana Alexandrovna Alexievich) vào
năm 2015, và một ca-nhạc sỹ (Bob Dylan) vào năm
2016, ý đồ khai tử văn học của họ dường như đã trở
nên lộ liễu. Có người đùa rằng, đó là
những giải Nobel “vắn học”. Rất có thể, sắp tới “giải Nobel
văn học” sẽ được trao cho bất cứ tác giả nào sản sinh
ra những gì có “tính thơ”: nhà thiết
kế thời trang, nghệ sỹ thị giác, nhà hoạt động môi
trường… Phải chăng, văn học đã từ “kinh điển” chuyển
sang “kinh hãi”?
ĐT
Cái gì
làm cho đấng này dõng dạc phán,
về thế giá xứng đáng Nobel, của những
Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera... ?
Theo GCC, họ là
những tác giả ăn khách, nhất là
ở xứ Mít.
Cái gì
làm cho họ ăn khách ở xứ Mít?
Tất cả đều "thờ ơ,
vô cảm" trước cái tình hình
chính trị, “nhạy cảm cái con mẹ gì
đó" của xứ Mít.
Có thể, tất nhiên,
dúng hơn, họ không hề thờ ơ vô
cảm với thời của họ, nhưng những tác phẩm mà
được xứ Mít của Vẹm chọn dịch không có cái
khúc xương khó gậm này. Chúng
đều vô hại, đối với Vẹm.
Họ không chỉ ăn
khách ở trong nước, mà còn trên
thế giới, thí dụ [nhất là] Murakami, trong
khi những tác giả được Nobel đều rất ít độc
giả. Ngay chính họ, cũng ngỡ ngàng, khi biết
tin được Nobel.
Đây cũng là
1 sắc thái đặc biệt của Nobel những năm
gần đây.
V/v thờ ơ, vô
cảm. Trường hợp tuyệt tác của Paul Valéry,
"La Jeune Parque".
Paul Valery spent the
First World War chiefly in Paris, although he occasionally
left for the provinces with his employer at the time, the
wealthy Monsieur Lebey; Valery served as a kind of secretary
with ill-defined duties (he mainly spent his time preparing
something along the lines of refined press briefings for his employer).
And he wrote and published his poem "La jeune Parque," which was
well received by the critics so well that his position as a writer
changed completely from one day to the next: he suddenly became
a well-known poet. It never occurred to him that the sufferings
of war might form the subject of his work. The thought never crossed
his mind. It can't even be said that he rejected it; it simply didn't
"register," it was completely foreign. The very act of writing
"La jeune Parque" constituted a kind of challenge to the drama
of war, but only by contrast, through the creation of pure, crystalline
beauty, the work of a free intellect. I suspect he would have been
shocked to find that later poetry might approximate historical
reflection, that the pain of history could saturate a line of verse,
that a certain dry theoretician would openly question the status
and sense of poetry after Auschwitz. He would have been even more startled
to learn that the nature of Rilke's poetry could be questioned: How
might his poems have looked if he'd actually reckoned with the horrors
of trench warfare? The two great poets seemingly viewed the World War
simply as the next act in an age-old drama, the eternal clash of battle,
which might spare a generation or two, but inevitably returned in full
force; it was not a new, slow-acting, and deadly poison injected into
European civilization. Paris was bombarded, the boundary between military
action on the front and the civilian population grew ever slimmer,
but for all that, the scholar's or poet's tranquil study remained
worlds apart from the trenches’ muck. But Valery did in fact write
a piece called “Une conquête méthodique," which dealt
precisely with a new element in history-the widespread militarization
of German life. And of course just after the war, he published
an even better-known essay, "La crise de l'esprit," which contained
the famous phrase "Nous autres, civilisations, nous savons maintenant
que nous sommes mortelles."
In
other essays he traced the impact of modernity on
the human mind. One splendid sentence reads, "Adieu, travaux
infiniment lents," "Farewell, infinitely slow works, cathedrals,
whose endlessly slow growth lent itself astonishingly
well to whatever changes and variations might occur-and
which they them-selves seemed to create on high." In such
essays, Valery proved to be a remarkably astute critic of the
changes that had scarred the face of European civilization,
as he thought. But poetry was another matter: here he sought to
prove that time could have no impact on a poem's lines, imagery,
and subject.
ADAM ZAGAJEWSKI: SLIGHT
EXAGGERATION
http://damau.org/archives/46728
V/v Secondhand Time.
Từ này có thể gọi là từ chìa
khoá của Nobel 2015.
Không thể dịch
là thời đại cũ, mà là, thời xài
rồi, thời qua tay 1 thời khác. Cái xứ Mít
đang bị Bắc Kít đô hộ, với người dân Bắc
Kít, là thời xài rồi, như nước Nga dưới
thời Putin.
Trong diễn từ Nobel bà
giải thích rất rõ cái từ này.
Cái thứ văn học của xứ Mít bây giờ
là lập lại thời Bắc Kít trước 1975, kể từ
1954, khi lũ Vẹm ra khỏi hang Pác Bó, và
sau đó về Hà Nội, làm chủ 1 nửa đất nước,
áp dụng thứ văn học này, như GCC đã từng
giải thích trong bài viết về Võ Phiến, nhà
văn Bình Định.
Khi cướp được cả đất
nước, chúng bèn lập lại cái thời
văn học chỉ có 1 cửa tử, viết dưới ánh sáng
của Đảng, viết & dịch & đọc thứ văn chương vô
hại, cấm đụng vô những vấn đề nóng bỏng của đất
nước...
Nobel laureate Svetlana Alexievich
at the Swedish Academy in Stockholm.
Photograph: Fredrik Sandberg/TT Photography/EPA
The Belarusian journalist said in her Nobel lecture
that former Soviet countries were ‘again living
in an era of power’, and recounted her time reporting
the Chernobyl disaster from the radiation zone.
The 2015 Nobel literature
laureate Svetlana Alexievich has said that
Russia “missed the chance” it had in the 1990s to
become a country “where people can live decently”,
choosing instead to become “a strong country”.
During her Nobel lecture
on Monday, the Belarusian journalist said
“a time full of hope has been replaced by a time
of fear”. Alexievich, whose oral histories
tell the stories of thousands of individuals from
the Soviet Union, said that “the era has turned around
and headed back in time. The time we
live in is secondhand.”
Thời
mà chúng ta đang sống là thứ
thời xài rồi, khi mà thay vì tràn
trề hy vọng, thì là tràn trề sợ hãi.
Từ cũ, có nghĩa là
xài rồi, cũ người mới ta, nhưng secondhand,
ở đây, với bà Nobel, mạnh hơn nhiều, thời qua
tay một thời, y chang thòi kỳ văn học hiện nay ở trong
nước.
Thê thảm thực.
Vậy mà có
thứ văn học "siêu văn học" được ư?
Metalitterature?
Viết ra 1 phát, là
phải trình Đảng, phải qua kiểm duyệt, làm
sao là thứ tiếng nói cho những người không
có tiếng nói?
http://tanvien.net/Ky/Cali_13.html
Tôi
và N. ngồi giữa vườn cây
trong lúc hai bà len lỏi
giữa lối đi thời gian dẫn về một làng da đỏ
tại vùng Bắc Mỹ 500 năm trước đây với
tất cả nền văn minh, lối sống của họ, nay được thu
nhỏ lại để trình bày cho du khách. (1)
Cái
văn học của lũ mũi lõ, theo GCC, khác
hẳn văn học của lũ Á Châu mũi tẹt, và
nếu như thế, cái chuyện sống chết của chúng
cũng khác nhau.
Steiner
tin rằng văn học Âu Châu có mùi
thần học, khác hẳn Á Châu.
Đúng
như thế.
Kitô giáo và chủ nghĩa Mác-xít:
Đó là hai chuyện lạc đạo lớn nhất của Do thái
giáo, nói theo Freud, đó là con quay lại
giết cha. Chủ nghĩa Mác-xít gần như biến mất, tôi
nói “gần như” vì chúng ta sẽ có thể ngạc
nhiên với nó trong tương lai. Còn về Kitô giáo,
đạo này đang qua một cơn khủng hoảng ở Âu châu. Riêng
ở nước Anh, sẽ có cả ngàn nhà thờ được dùng
vào việc khác vì không còn tín
hữu và ơn gọi. Không phải là tôi không
biết thế nào là trại tập trung Goulag nhưng tôi ngửi
không nổi những người bây giờ từ chối cái quá
khứ đi theo Stalin của họ, hồi đó Cộng sản là niềm hy vọng
vô biên. Trong chủ thuyết Mác-xít
có tầm đánh giá con người rất cao, rất
ngông mà đó cũng là một tính
chất rất Do thái. Nó làm cho chúng
ta tin chúng ta là những con người có
khả năng đem đến công bằng cho xã hội. Một sai lầm
khủng khiếp đã giết hại mười mấy triệu người, nhưng đó
là một tư tưởng rất quảng đại và một lời khen ngợi
rất lớn cho con người. Kitô giáo thì bị lấm
vết nhơ hận thù do thái quá sớm, huyền nhiệm
của Kitô giáo quá thô sơ nhưng nền nghệ
thuật phương Tây của chúng ta không thể có
được mà không có Kitô giáo.
Thuật ngữ "siêu
ngôn ngữ", như GCC được biết, là từ
Roland Barthes, khi ông coi phê bình
là 1 thứ siêu ngôn ngữ, hay ngôn
ngữ bậc nhì, hay ngôn ngữ của ngôn
ngữ. Trên Tin Văn có giới thiệu.
Nghe nói,
vị ĐT này, viết thứ văn chương siêu
văn chương, siêu giả tưởng.
Không
biết ông sử dụng thứ ngôn ngữ gì,
khi viết?
Phê Bình Là
Gì?
Phê bình
là bài viết/nói về một
bài viết/nói; nó là một
ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu ngôn
ngữ (như những nhà lý luận gọi). Cái
ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate)
trên ngôn ngữ bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự
vật, language object).
“Language object”
không thể dịch là “ngôn ngữ
đối tượng” được, mà phải dịch là "ngôn
ngữ sự vật". Người nào dịch không nắm được
tinh thần & nội dung bài viết của Barthes.
Ông phân
biệt hai ngôn ngữ.
Một, của văn
chương, đối tượng của nó là đời sống,
sự vật, object. Bởi vậy Gấu mới đề nghị dịch là
ngôn ngữ bậc 1.
Một, của phê
bình, đối tượng của nó không
phải là đời sống, sự vật, mà là
ngôn ngữ. Nó là "ngôn ngữ
của ngôn ngữ", thành ra mới có cụm
từ "diễn ngôn về diễn ngôn", nghe lôi thôi
quá, thành ra lòi ra từ "siêu ngôn
ngữ".
Và
Gấu mới phịa ra từ “ngôn ngữ bậc hai”.
Bậc 1, bậc 2,
thú thực là chôm từ toán
học, phương trình bậc 1, phương trình
bậc 2.
Theo GCC, ở 1 đất nước như Xứ Mít
của VC, như hiện nay, nhà văn chỉ 1 thứ
ngôn ngữ để viết, là sự can đảm.
Tình
trạng này, trước 1975, chỉ xẩy ra ở xứ Bắc
Kít. Bây giờ, ở cả nước.
Nói văn học đã chết,
thì phải chỉ rõ ra, 1 cách
cụ thể. Nó chết, OK, nhưng "nó" ở đây,
là văn học xứ Mít.
Văn học Bắc Kít
chết, sau khi tầng lớp tinh anh của nó gục
ngã trước 1 anh thi sĩ nhà quê Tố Hữu.
Bạn thử chỉ cho Gấu 1 tác phẩm văn học của Bắc Kít
sau cú Nhân Văn Giai Phẩm?
Ngay sau khi ra được hải ngoại, thời
gian viết cho tờ Văn Học của Nguyễn Mộng Giác,
Gấu đã chỉ ra điều này, khi viết về Võ
Phiến, nhà văn Bình Định, và nhân
đó phân biệt sự khác biệt giữa văn học Bắc Kít và
văn học Ngụy. Một nhà văn ra đi từ Miền Bắc nhận
xét:
Chú chỉ ra tính
chất văn chương miền Nam
và miền Bắc hay quá.
Bởi vì Võ Phiến đã từ chối
con đường của những bậc thầy của ông, như
Chế Lan Viên, hay Đào Duy Anh: chấp nhận
văn hóa Pháp, như một tiền đề, một "cái
cớ" để đi làm cách mạng. (Cách
Mạng Nga chẳng đã một thời chỉ mong được như Cách
Mạng Pháp, chỉ thiếu cái máy chém!)
Võ Phiến nhận ra bóng ma ám ảnh, của "cái
mã tấu" ở phía sau những người Cộng Sản cuồng
tín, như trong phần tiểu sử đã dẫn, "sau Cách
Mạng Tháng Tám, ở Huế, Võ Phiến gia nhập
bộ đội một thời gian ngắn, rồi vào đội Tuyên Truyền
Xung Phong, hoạt động khắp các tỉnh miền Trung. Giữa 1946,
từ Bình Định ông ra Hà-nội học trường trung
học Văn Lang. Tháng Chạp, 1946, cuộc kháng chiến
chống Pháp bùng nổ, Võ Phiến về lại Bình
Định, tham gia sinh hoạt văn hóa kháng chiến...
dạy học... sinh hoạt chung với lớp cán bộ cuồng tín
ấy, càng ngày ông càng chán
ngán, cuối cùng thành ‘phản động’ hẳn...".Chi
tiết về phản động hẳn, Võ Phiến chưa từng viết lại, theo
như tôi biết, nhưng tác phẩm ông viết trong thời
gian này không dính tới "khí hậu chung
của thời cuộc".
Vả chăng, nấp
sau chiêu bài kháng chiến chống
Pháp, trong không khí bừng bừng của
cả nước thời kỳ 1945, ít người nhận ra con quỉ hận
thù, nhưng những tác phẩm "không dính
đến khí hậu chung của thời cuộc" cho thấy một điều: bằng
trực giác của một nhà văn, Võ Phiến đã
nhận ra, nơi bạo lực tổn thương con người, cũng tổn thương ngôn
ngữ [where violence is inflicted on man it is also inflicted on
language. Cynthia Ozick: Mẩu giấy tuyệt mệnh của Primo Levi (3)]
Những lời dối trá, và sự độc ác không
thể gói trọn cuộc đời. "Một điều gì đó
sẽ xẩy ra cho những con chữ" (Something will happen to the words),
Steiner cảnh cáo, trong bài viết Phép Lạ
Hổng, The Hollow Miracle, về thời kỳ hậu-Lò Thiêu tại
Đức.
Bất cứ một người
Việt nào cũng hiểu "nói như Vẹm" nghĩa
là gì; Võ Phiến là một
trong những người đầu tiên đau nỗi đau này.
Có thể ông đã toan tính
vượt qua nó, như trong tiểu sử cho thấy, khi ông
dính líu đến một tổ chức chống Cộng. Và
khi từ bỏ những người Cộng Sản, Võ Phiến tìm một
thứ tự do thoát khỏi sợ hãi (freedom from fear),
không chỉ cho bản thân, mà còn cho ngôn
ngữ. Ông tin rằng con đường văn chương, là "tối
ưu" và có thể, độc nhất, đối với ông, trong
cuộc chiến Quốc-Cộng.
Võ Phiến rời Việt
Nam
ngay 1975, ông không có "cơ hội" ở lại chịu
chung với cả miền Nam
những cay đắng khổ nhục sau đó. Ở lại là chết, nhưng do
bỏ đi "sớm", ông không cảm nhận được nỗi vinh quang
và nhục nhằn của kẻ ở lại: một cách nào
đó, ông không cảm nhận sự thực, về "thất bại
trong chiến thắng", đối với những người Cộng Sản, và do đó
ông không "trực giác" cơ hội thống nhất đất
nước, không phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ ở trong
nhục nhã cay đắng của Miền Nam thất trận, chúng ta
mới có thể hiểu những năm tháng ghê rợn cả một
miền đất sống dưới tai trời ách nước là chủ nghĩa Cộng
Sản; và ôm lấy những đồng bào ruột thịt Miền
Bắc (6).
Đây
là một tất yếu lịch sử. Những chuyện Bắc Tiến,
giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ
để nói cho vui, để lên tinh thần... tại sao vậy?
Bởi vì nếu coi ngôn ngữ mới là căn phần
của con người, văn chương Miền Nam
không hề mang chất đế quốc, không hề nhắm tới quyền lực.
Từ một văn chương như thế làm sao có thể đi xâm
chiếm Miền Bắc, cho dù là để giải phóng?
Văn Học
Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền
Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút hiệu khác
nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá
tếu và không hiểu cả hai miền, còn hạ giá (hay
quá đề cao?)nhà văn Miền Nam. Bởi vì, văn
chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì
đến tinh thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm
trong dạng khai hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính
thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và
phải trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý
nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một cách nào đó,
nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má,
giữa Cách Mạng Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản, cùng
lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn
học hiện thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ
văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế đó, chúng
ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương
phản kháng ở trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người
với ngôn ngữ, những lời nói lành lặn của nó...
Cái
tự do mà nhà văn xứ Mít cần,
đúng là thứ "freedom from fear", như GCC
phán, từ những ngày mới ra được hải ngoại!
Những nhà văn được Nobel
gần đây, người nào người nấy, đều can đảm
cùng mình. Họ viết văn trong tư thế đó.
Và họ đụng với vấn đề đó: Viết từ đáy,
từ đống bùn, từ sự man rợ của giống người.
Cao Hành
Kiện, một mình ta chống lại cả 1 chế độ, cả
1 thứ lịch sử nhân danh đám đông, để hủy
diệt con người.
Jelinek, cũng không
thua, một mình chống lại cả 1 đất nước Áo
đã từng đầu hàng chế độ Nazi.
Không vị nào
mà không viết văn với sự can đảm,
với sự tự do của ngòi bút cả.
Ngay cả Pamuk, chuyên
viết thứ văn chương, thứ thiệt, không mắc
mớ gì tới chính trị, vậy mà khi cần là
ông bèn tố cáo trước nhân loại
tội ác Mậu Thân Thổ của đất nước của ông
Vậy mà đấng ĐT này chê,
không đáng xách dép cho những
Murakami, Philip Roth…
*****
Cái chuyện mấy đấng trên
không được Nobel, thì rõ như ban
ngày, nếu chúng ta đọc ra câu phán
của David Grossman, người mới được Man Booker:
Ai, ngoài
Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà
kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh
hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không
viết cùng một cái văn phong như của
Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn
bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to
go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra
cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn
bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như
thể ông nhìn ra phía bên ngoài
từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống.
Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà
văn nào khác.
Trong Chết như là Cách
Sống, Death as a Way of Life, ông
phán: “Tôi không thuộc
về số người coi Lò Thiêu là một
sự kiện đặc thù Do Thái”.
Grossman: Tôi không nghĩ,
người ta có thể tách
"tính Do Thái", the Jewishness,
ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng
đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn
nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng
nên đặt ra cho chính mình, một vài
câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
Trường hợp Israel vs Palestine
có gì tương tự Ngụy [Miền
Nam] vs Vẹm [Bắc Kít], tếu thế!
Mọi người, bất cứ một người, ai
cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu
hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
Câu
này, nhà văn Mít phải thuộc
nằm lòng, và Lò Thiêu
đối với chúng, là Trại Cải Tạo.
Chưa
từng có đến 1 tên, đau cái đau,
làm thịt cả 1 miền đất ruột thịt, và
sau đó, như cục ung thư, làm thịt cả nước.
*****
"Tại
sao ta không thể yêu, những gì
chúng yêu, nếu chúng chiếm được cuộc
đời, ta đành chọn hư vô", mê cung
dành cho nhân vật trong Cát Lầy của
Thanh Tâm Tuyền là vậy. Đừng nhìn thơ tự do,
dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm
Hư Vô (Huỳnh Phan Anh), như là một "cái đuôi"
của dòng văn chương hiện sinh Pháp. Chúng
là những con chim báo bão, cho một hư vô
huỷ diệt, của những trại tù sắp tới... Khi bị những nhà
phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi họ xây
dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi
mọi nô lệ này đi đâu?) tác giả Bếp Lửa đã
"nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu
hỏi đó ra cho chính các ông. Nên
nhớ, những nhà văn Miền Nam, những tác
phẩm "chống Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn":
Giải khăn sô cho Huế, Địa Ngục Có Thực, Mùa
Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ
Phiến cũng vậy; sợ Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông
mới la làng, còn nhẩn nha được là ông
lại nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm
cội rễ của một bài chòi!
Chúng
ta đã lầm một cách thê thảm,
Mac Namara nói vậy, không đúng mà
cũng không sai: người lính Việt Nam Cộng
Hòa không thua trên chiến trường, mà
thua vì tính người: họ chưa bao giờ coi người
lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối.Họ không
hề được trang bị bằng một thứ văn chương quyền lực.
Nhìn
theo cách đó, chúng ta mới thấm
được những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái,
tráng sĩ "biên đình" của những Nguyễn
Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca
"đồn anh đóng bên rừng mai, nếu mai nở làm
sao biết mùa xuân đã về". Đánh giặc,
súng nổ ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng
phút, bất cứ lúc nào, nhưng cứ hở ra được một
chút là lại "thiền"! Vinh danh người lính
Việt Nam Cộng Hòa là đúng, chẳng có
gì chuế cả, nhưng cố vực họ dậy, giữa vòng dây
oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại,
là tự hài lòng với nỗi bi thảm: nạn nhân
của phi nhân. Thua trận, nhục nhã thật, nhưng thà
rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người
lính thiền, chắc chắn là hơn làm đao phủ thiền!
Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J. Brodsky).
Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy
Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại Châu, Luân Hoán...
là một nhà thơ, người lính bảo vệ ngôn
ngữ, và trong khi bảo vệ ngôn ngữ, chống lại những điều
dối trá, phi nhân, họ bảo vệ con người. Nhà văn
một kẻ sống sót, là vậy.
Note: Bao nhiêu nước chảy qua
cầu, 20 năm sau, đọc lại, Gấu bèn ngộ ra, đây
là bản manifest, tuyên ngôn, của trang
Tin Văn!
http://tanvien.net/Ky/Cali_13.html
Tôi
và N. ngồi giữa vườn cây trong
lúc hai bà len lỏi giữa lối đi thời
gian dẫn về một làng da đỏ tại vùng Bắc
Mỹ 500 năm trước đây với tất cả nền văn minh, lối sống
của họ, nay được thu nhỏ lại để trình bày cho
du khách. (1)
Quà tặng của Ngạc trước
khi té xuống, trong khi chờ tô
phở, một buổi sáng, tại bếp nhà
của chàng.
Nhờ quà tặng trước khi
đi xa của bạn ta mà độc giả TV được
đọc free, tác phẩm, đúng 1 cuốn
tiểu thuyết, và có lẽ, độc nhất, của TTT.
Bếp Lửa
hỏng, chính tác giả cũng nhận ra, và
cứ loay hoay hì hục viết lại nó. Nhưng,
1 cách nào đó, cái hỏng của
Bếp Lửa lại làm cho nó
trở nên 1 thứ tiên tri, về sự sa đọa của VC
Bắc Kít: Bạn có nhớ cái xen, ông
bạn quí của Tâm, trước khi lên rừng
theo Cụ Hồ, bèn làm thịt cô con gái
riêng của ông Chính. Nó chẳng tiên
đoán những HPNT, đám VC nằm vùng ở Miền
Nam sau đó?
Bạn có
thể bật cười, và chửi Gấu, mi lấy “kết quả”
làm “giả thiết”, thì làm sao mà
không đúng!
Hà,
hà!
Nhưng, thú
thực Gấu chưa gặp được 1 tên VC nằm vùng
nào ra hồn!
Đám
bợ đít VC nằm vùng, trơ trẽn mở miệng:
Ngày trước chúng tôi khâm phục
các anh, bây giờ chúng tôi thông
cảm!
Kít!
Có thể, anh tính
đem cho Gấu, nhưng chưa kịp thì đã
té xuống. Bởi vì bà xã
nói, anh Ngạc dặn đưa cuốn này cho anh.
Nguyên
mẫu ngoài đời của ông già của
Trung Uý Kiệt, trong truyện, là ông
già của BHD.
Bắc Kít.
Khôn tổ cha.
Kiệt sống ở ngoại quốc trên
mười năm. Mười tám tuổi đỗ tú
tài, ông bố vận động cho đi du học.
Bố Kiệt, một người thức thời, hồi cư về đến Hà
Nội đã bán hết cơ nghiệp mấy đời tạo lập ở Hải
Dương, đưa gia đình vào Sàigòn
kinh doanh trước năm 54. Kiệt thật tâm không
thích đi xa, mẹ chàng cũng không muốn
rời đứa con độc nhất của bà. Nhưng cả hai không
thể cưỡng ý ông bố. Ông không muốn con
trai ông đi lính. Ngày Kiệt đi, hai mẹ con
cùng khóc sụt sùi. Là con một
nên từ bé đến năm mười tám tuổi (bình
yên ở nhà quê đã có thể lấy vợ
đẻ con rồi) Kiệt chỉ sống quẩn bên gấu quần mẹ.
Kiệt học
cơ khí ở Đức, học Quản Trị ở Mỹ. Việc học hành
của chàng tuân theo sự chỉ dẫn của ông
bố. Chàng không hề bầy tỏ ý kiến riêng.
Kiệt là đứa con chí hiếu. Nếu được tự lựa
chọn, chắc Kiệt học Canh Nông và Âm Nhạc.
Trong những năm tản cư chạy loạn, chàng thích
đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối
đam mê suốt thời thơ ấu mà chàng phải giấu
ông bố. Chỉ mẹ biết mà thôi. Nhưng người
đàn bà ấy, bình lặng đơn sơ như chiếc
bóng bên con, không hiểu gì về những
cõi xa xôi ngoài thực tế. Yêu con nhưng
sợ chồng, bà không dám chia sẻ mối đam mê
của Kiệt. Ngày nhỏ, Kiệt chỉ hát khi nhà
vắng bố. Kiệt có một cây kèn harmonica, thường
thổi cho mẹ nghe những buổi chiều tối hiu quạnh thui thủi hai mẹ
con với nhau.
Ngày
Kiệt đang ở Đức, mẹ chàng mất. Chàng
chỉ được bố báo tin sau khi chôn cất bà
xong xuôi. Ông không muốn chỉ vì
những lễ nghi hình thức bắt Kiệt về chịu tang, và
dù về cũng chẳng kịp - bà chết vì
bệnh cảm mạo mau lẹ, bất ngờ. Kiệt thương mẹ, lòng cảm
thấy bất nhẫn, nhưng chàng chẳng có lý lẽ
nào để chê trách bố. Ông cũng đau
khổ chứ?
Ngày
ấy, nơi xứ người, lần đầu trong đời, Kiệt một mình
dến quán rượu uống say bí tỉ, khóc
mẹ. Cũng lần đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận
những lo lắng, tính toán quá sáng
suốt lạnh lùng của ông bố. Mẹ chàng
đã đau khổ những năm chàng ở xa, đau khổ hơn
nữa, lúc nhắm mắt lìa đời cũng không
được nhìn mặt chàng. Nếu như Kiệt nhất
định không chịu rời mẹ, chàng không
đi học nước ngoài? (1)
Nhờ “đảo xa”, chúng ta
được biết, tên cái ông
có cái nhà cho Kiệt ở, là
Kiệt.
Trước, tưởng,
từ Kiệt Tấn!
Có
thể, từ cả hai.
Ông già của BHD
còn xuất hiện trong 1 truyện ngắn
của TTT. Cái này thì chỉ
Gấu biết, bởi vì có lần ông già
BHD kể, gặp TTT, say mèm ở ngoài bến
tầu Sài Gòn. Thế rồi, Gấu đọc 1 truyện ngắn
của TTT, có tả 1 cảnh tương tự
Một lần, 1 buổi tối, ở nhà
bạn C, có Gấu, bạn C, và bà
cụ; cả ba buồn quá, quay qua đánh
“cạc tê”, hình như vậy. Thế rồi ông
già BHD tới, có công chuyện gì
đó, hai gia đình quen nhau từ Hà Nội.
Ông cụ ngạc nhiên hết sức, hỏi đi hỏi lại hoài,
tối nào cũng vậy hả?
Bà cụ C không ưa
gia đình BHD. Sau này, Gấu
nghe nói, có họ hàng gì
đó, nhưng chẳng bao giờ Cụ nói. Cụ rất
bực, và nói thẳng, gia đình đó
không chịu nổi mi đâu.
Ông
anh bèn phán, nó lấy con H chứ
đâu lấy gia đình con H.
Gia đình
BHD thì tính nhắm Gấu cho cô
cháu, tên Vy, phải gọi BHD là chị,
ở Đà Lạt, lâu lâu về Sài Gòn.
Khi Gấu đậu vô Bưu Điện, ông bà bàn
với bà cụ C. Cụ buột miệng:
Thằng đó
nó muốn làm con rể ông bà,
chứ không phải làm cháu!
Cả hai chết sững. Ngay bữa đó,
Gấu tới, bị cấm cửa. Lủi thủi ra về.
Phải vài
năm sau đó, khi Gấu đã đi làm
Bưu Điện, một buổi sáng, lạnh, dậy sớm, bất
thình lình nhớ BHD đến điên lên
được. Thế là lấy xe chạy ra đầu vườn Tao Đàn,
chờ em đi học. Gặp, em tự nhiên ngồi lên sau
xe, như vẫn ngồi, từ hôm qua, từ mỗi ngày!
Đặng
Thân:
"Văn
học" đã chết (viet-studies
18-6-17) --
Nhiều người sẽ cho rằng tác giả
hơi "nặng lời", nhưng theo tôi thì
còn khá nhẹ!◄◄◄
Đấng kỹ sư này,
biết gì về văn học, chuyên "link",
những bài vết trên mạng, cộng thêm còm,
thường là thật nhảm, theo GCC.
Viện Hàn
lâm Thụy Điển thì đã làm
gì? Từ khi sang thiên niên kỷ mới họ
không còn trao Nobel văn học cho những nhà
văn xịn và những tác phẩm văn học hư cấu đỉnh cao
(theo tiêu chí của giới văn chương “thượng thặng”).
Đã lâu, văn giới khắp nơi thường chờ họ liếc mắt tới
những là Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas
Pynchon, Ko Un, Javier Marías, Umberto Eco (vừa chết),
Don DeLillo… Nhưng không, họ chả hạp với tâm tính
Bắc Âu. Không phải là ý chính
bài này, nhưng trong những chủ nhân Nobel vừa
mới được trao ít năm ngay trong thế kỷ này thôi
thì không biết bạn có còn nhớ tên
họ hay cuốn sách nào của họ, như là Elfriede
Jalinek, Harold Pinter, Jean-Marie Gustave Le Clézio, Herta
Müller… chứ chưa thèm nói đến thế kỷ trước (Có
điều nghe chừng khốn nạn, ấy là trường hợp khi trao Nobel
2014 cho Patrick Modiano, Thư ký Thường trực Viện Hàn
lâm Thụy Điển lúc đó là Peter Englund
nhận định: “Patrick Modiano có thể được coi là Marcel
Proust của thời đại chúng ta.” Chà, Marcel Proust
chính là “kẻ kinh tởm” mà Thụy Điển trước
đây cương quyết không trao Nobel!!) Và gần
đây, bằng việc trao giải cho một nhà báo (Svetlana
Alexandrovna Alexievich) vào năm 2015, và một ca-nhạc
sỹ (Bob Dylan) vào năm 2016, ý đồ khai tử văn học của
họ dường như đã trở nên lộ liễu. Có người đùa
rằng, đó là những giải Nobel “vắn học”. Rất có
thể, sắp tới “giải Nobel văn học” sẽ được trao cho bất cứ tác
giả nào sản sinh ra những gì có “tính
thơ”: nhà thiết kế thời trang, nghệ sỹ thị giác, nhà
hoạt động môi trường… Phải chăng, văn học đã từ “kinh
điển” chuyển sang “kinh hãi”?
ĐT
Vị này than,
thời của internet, vì nó mà
văn học chết. Nhưng, nếu thế, thì ông nên
cho biết, vị thư ký Nobel phán, nguyên
văn ra sao, và trong trường hợp nào. Cả
cái chuyện "kinh tởm" nữa.
Phán khơi
khơi như vậy, thật khó mà căn cứ vô
đó, để mà lèm bèm tiếp.
Đã xẩy trường
hợp 1 ông thi sĩ Mít, nhà thơ
Võ Chân Cửu, nhét vào miệng
ông thư ký này một câu mà
ông ta chưa từng nói!
V/v Jalinek. Tên
của bà này, viết trật. Cũng chuyện
thưòng xẩy ra, nhưng điều này có thể
cho thấy, vị này có thể chưa từng đọc Jelinek.
Còn Modianio,
tại sao ông được Nobel, theo GCC, là
cũng từ cái chuyện “viết lịch sử từ đáy, thay
vì từ đỉnh”.
Đáy, với
ông này, là thời kỳ đen tối của
Paris khi bị Nazi đô hộ.
Với bà ký
giả gốc Nga, thì là thảm họa Chernobyl
mà Nga xô cố tình bưng bít.
Cả hai đều được
Nobel văn chương, tất nhiên, nhưng thứ văn chương
của họ, được viết về 1 thứ lịch sử được viết từ đáy.
Có 1 thứ
văn học đã chết, và độc giả Mít
rất mừng, và đó là thứ văn học của
Bắc Kít, dòng dã suốt 1 thời họ,
Vẹm, chiếm được 1 nửa xứ Mít.
Bây giờ, cũng
thứ văn học đó,1 cách nào đó.
Và nếu như
thế, thì thời của nó, cũng là
"secondhand"
[Alexievich,
whose oral histories tell the stories of thousands
of individuals from the Soviet Union, said that
“the era has turned around and headed back in time.
The time we live in is secondhand.”]
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/patrick-modiano-doat-giai-nobel-van-hoc-2014-3091281.html
Note: Câu phán
của viên cựu thư ký Nobel, GCC tò
mò gõ Gúc, là từ 1 bài
viết trên báo Mít.
Tra tiếp, thấy trên
tờ Guardian
Vị này nối
kết Proust với Modiano, vì là cùng
1 thứ "nghệ thuật của hồi ức".
https://www.theguardian.com/books/2014/oct/09/nobel-prize-literature-winer-patrick-modiano-hailed-modern-marcel-proust
Nobel prize winner
Patrick Modiano hailed as modern Marcel Proust
Swedish Academy praises ‘art of
memory’ in French novelist known for short works marked
by sophisticated simplicity.
Như thế, không
có sự kinh tởm ở đây.
Nobel laureate Svetlana Alexievich
at the Swedish Academy in Stockholm. Photograph:
Fredrik Sandberg/TT Photography/EPA
The Belarusian journalist said in her Nobel lecture
that former Soviet countries were ‘again living in an era
of power’, and recounted her time reporting the Chernobyl
disaster from the radiation zone
The 2015 Nobel literature
laureate Svetlana Alexievich has said that
Russia “missed the chance” it had in the 1990s to
become a country “where people can live decently”,
choosing instead to become “a strong country”.
During her Nobel lecture
on Monday, the Belarusian journalist said
“a time full of hope has been replaced by a time
of fear”. Alexievich, whose oral histories tell
the stories of thousands of individuals from the
Soviet Union, said that “the era has turned around and headed
back in time. The time we live in is secondhand.”
Thời mà
chúng ta đang sống là thứ thời xài
rồi, khi mà thay vì tràn trề
hy vọng, thì là tràn trề sợ hãi!
http://www.tanvien.net/thoi_su/2014_Nobel.html
Did Patrick Modiano Deserve
It?
Liệu Modiano xứng đáng
đợp Nobel?
Anka Muhlstein
December 18, 2014
Issue
This fog that envelops people
and places explains a lack of depth and individuality
in Modiano’s characters. The author, and therefore
the reader, are left on the outside, giving rise to
the feeling that one is always rereading the same book. This
is doubtless the reason why Modiano, in spite of his remarkable
talent, and a success that has never flagged in the past forty
years, has not acquired the indisputable stature of very great
novelists.
Suốt đời cày chỉ một
rãnh cày, vậy mà được Nobel ư?
Có một "thềm sương mù"
- thuổng TTT - bao phủ người và vật,
khung cảnh và nơi chốn... Nó giải
thích cái sự thiếu chiều sâu và
tính khí cá nhân của những
nhân vật của Modiano. Tác giả, và sau
tới người đọc bị gạt ra bên ngoài, làm tăng
lên cái cảm nghĩ, cái tên đó
- tác giả & độc giả - đọc đi đọc hoài, chỉ
1 cuốn sách.
Điều này
giải thích Modiano mặc dù tài
năng có thừa, vậy mà chưa có được
cái thế giá của 1 tiểu thuyết gia nhớn.
Ui chao, bèn nhớ ngay
ra... Gấu Cà
Chớn, cũng bị chúng chửi hoài, có
thằng em tử trận, có một BHD, thế là
ca cẩm hoài!
Note: Bài này
không cho đọc free, nguyên tác tiếng Tẩy, ra ý,
tụi Tẩy chửi mi nhe, không phải Mẽo!
Khi Gấu Cà Chớn phán
ẩu, chính nhạc sến mới là nơi cất giữ
linh hồn Miền Nam trước khi bị Bắc Kít chiếm đóng,
đô hộ, được CM gật gù khen, đã thú,
nhưng chính Modiano cũng phán như thế, về tác
phẩm của mình, và về thời kỳ Tẩy bị Nazi đô
hộ: Những dấu vết để lại một thứ nhạc sến. Cái đó
mới cần tìm, thay vì một mô tả.
(1)
Cháu đọc entry của bác
từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi
còn là "SG mùa này thì
cứ triền miên buổi chiều và rả rích
đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không
biết nói gì thêm, hihi :D.
Hôm nào
cháu viết tặng bác 1 entry nhé,
vì cháu rất thích cái nhận
xét của bác "cái hồn của văn chương Miền
Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
CM
Mấy ông Hàn Lâm
phán, cho mi Nobel là vì cái
"nghệ thuật hồi tưởng mà với nó mi vén
cái màn che phủ cái thế giới thời
Đô Hộ". Tóm tắt như thế, liệu có bảnh
không, về tác phẩm của mi?
Thì cũng được thôi.
Nhưng cái quên lãng khủng hơn
nhiều, và đó mới là đề tài
của tôi.
Đô Hộ với tôi,
là Tội Tổ Tông, là Đêm
Uyên Nguyên, la nuit originelle.
Les jurés du Nobel ont
précisé qu'ils vous récompensaient
pour "l'art de la mémoire avec lequel vous avez
devoilé le monde de l'Occupetion». Est-ce
un bon résumé de votre oeuvre ?
Modiano:
C'est un peu elliptique ... Mais
oui ... En un sens ... De toute facon, les lecteurs savent mieux que moi
ce que j'ai écrit. La mémoire, oui, mais il faudrait insister
sur le fait qu'il s'agit, au fond, de la mémoire
sur fond d'oubli. La toile de fond de tous mes romans,
c'est l'oubli. Les nappes d'oubli. La mémoire parvient
à les percer, ces nappes, par petites trouées,
bien sur, Mais mon véritable sujet, c'est l'oubli
plus que la mémoire. L'oubli est cette couche qui recouvre
tout ce qu'on a vécu. La mémoire est ce qui tente
de percer cette couche. Mais la couche est toujours là.
Quant à l'Occupation, c'est différent. Je suis né
en 1945. Tous ceux qui sont nés à cette date, après
le chaos de la guerre, en sont le produit. Même s'ils ne
l'ont pas vécue. Donc je ne me distingue pas tellement de
la plupart des gens de ma génération: beaucoup ont
exprimé le malaise qui consiste à être le fruit
de cette époque. Si ce n'avait pas été moi qui
avais exprimé cela par des romans, d'autres l'auraient fait,
je pense. L'Occupation est pour moi la nuit originelle.
Thì cũng hơi e-líp,
nhưng quả là thế, theo 1 nghĩa nào đó.
Nhưng nói cho cùng, độc giả rành
hơn tôi, về cái gì mà tôi
viết ra. Hồi ức, OK, nhưng đúng ra là, hồi
ức trên cái nền quên lãng. Cái nền
của tiểu thuyết của tôi là quên lãng.
Những cái thảm quên lãng. Hồi ức bèn
chọc thủng chúng. Đề tài chính của tôi
đúng là quên lãng, tức, quá
cả hồi ức... Còn về Đô Hộ, có khác. Tất
cả lũ chúng tôi là sản phẩm của nó.
LIRE NOVEMBRE 2014
Câu này thật tuyệt,
và cho thấy, cái chất Simenon, ở tiểu
thuyết của Modiano: Trở về quá khứ, thì
cũng cẩm như trở về những nơi chốn của 1 tội ác.
"Revenir sur le passé, c'est toujours un peu comme
retourner sur les lieux d'un crime."
Cái tên kỹ sư, cũng 1 thứ
VC nằm vùng, đi du học nhờ Ngụy, bố là bác sĩ riêng
của ông Hồ, mù tịt về văn học, không
nói, nhưng vị ĐT, nghe nói, 1 nhà
văn sừng sỏ ở trong nước, rất rành sinh ngữ, vậy
mà phán rất ư là nhảm nhí về văn
học, cái đó khó hiểu.
GCC, vào những
ngày liền mới đây, do không vô
được Tin Văn, chính cái trang viết của mình,
đành viết trên FB, và kết bạn với
rất nhiều bằng hữu, tự ý, không cần yêu
cầu, theo cái kiểu mặt dày, như hồi mới ra hải
ngoại, là nghĩ, mình, ngày 1 ngày
2, ngỏm, thử làm 1 Zarathustra xuống núi Tản
Viên 1 lần chót, tuyên bố, Thượng Đế [Văn
Học] chưa chết!
Cái văn học của
lũ mũi lõ, theo GCC, khác hẳn văn học
của lũ Á Châu mũi tẹt, và nếu như thế,
cái chuyện sống chết của chúng cũng khác
nhau.
Steiner tin rằng văn
học Âu Châu có mùi thần học,
khác hẳn Á Châu.
Đúng như thế.
Kitô giáo và chủ
nghĩa Mác-xít: Đó là hai
chuyện lạc đạo lớn nhất của Do thái giáo,
nói theo Freud, đó là con quay lại
giết cha. Chủ nghĩa Mác-xít gần như biến mất,
tôi nói “gần như” vì chúng ta
sẽ có thể ngạc nhiên với nó trong tương lai.
Còn về Kitô giáo, đạo này đang
qua một cơn khủng hoảng ở Âu châu. Riêng
ở nước Anh, sẽ có cả ngàn nhà thờ được
dùng vào việc khác vì không
còn tín hữu và ơn gọi. Không phải
là tôi không biết thế nào là
trại tập trung Goulag nhưng tôi ngửi không nổi những
người bây giờ từ chối cái quá khứ đi theo Stalin
của họ, hồi đó Cộng sản là niềm hy vọng vô biên.
Trong chủ thuyết Mác-xít có tầm đánh
giá con người rất cao, rất ngông mà đó
cũng là một tính chất rất Do thái. Nó
làm cho chúng ta tin chúng ta là những
con người có khả năng đem đến công bằng cho xã
hội. Một sai lầm khủng khiếp đã giết hại mười mấy triệu người,
nhưng đó là một tư tưởng rất quảng đại và một
lời khen ngợi rất lớn cho con người. Kitô giáo thì
bị lấm vết nhơ hận thù do thái quá sớm, huyền
nhiệm của Kitô giáo quá thô sơ nhưng nền nghệ
thuật phương Tây của chúng ta không thể có
được mà không có Kitô giáo.
Trưòng
hợp mới nhất, cho Bob Dylan, trên Tin Văn cũng
có bài viết, của Prospero, giải thích
tại sao ông xứng đáng.
Bob Dylan
wins a Nobel Prize
http://khoia0.com/PDF-Files/Chan_zung_100_nha_van_Xuan_Sach.pdf
Chân
dung nhà văn by Xuân Sách
Trước
khi khăn gói quả mướp, với 10 ngày lương
thực lận lưng, cho cuộc cải tạo kéo dài
chỉ có 10 ngày phù du, ông
anh nhà thơ phán, thay cho lời từ biệt thằng
em GCC, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến
thắng này.
GCC không
tin, ông “tiên tri đến mức tối hậu”,
của câu phán, của chính ông,
bởi là vì, không phải chỉ Miền Bắc,
mà cả xứ Mít bị chấn thương nặng nề, và
mấp mé bờ huỷ diệt, bởi chiến thắng của Bắc Kít.
Xuân
Sách, khi xem tướng tầng lớp tinh anh Bắc
Kít, bằng 1 cách nào đó, “cùng
lúc”, ông tiên tri ra được số phận
xứ Mít, như bây giờ.
Chứng
cớ: ông hỏi Chế Lan Viên, điêu
tàn ư?
Và
ông hỏi thêm:
Đâu
chỉ điêu tàn?
Đâu
phải vô tư mà 1 vài đấng thuộc
loại cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít, như Đặng
Thai Mai tỏ ra rất ư bực mình, khi không được
XS xem tướng.
Cái
gì làm họ bực mình?
Theo GCC,
họ muốn hậu thế sẽ xét xử họ, như thế nào,
qua XS.
GCC đã
từng đề nghị, phải đọc XS, qua tinh thần của Beckett:
"One of
the [Calvary] thieves was saved. It's a reasonable
percentage".
"Một trong
những tên trộm được cứu vớt. Vậy là
được rồi."
Trong
khi chờ Godot
Hay của
Kertesz, khi viết:
"Si l’Holocauste
a créé une culture – ce qui est incontestablement
le cas –, le but de celle-ci peut être seulement
que la réalité irréparable
enfante spirituellement la réparation, c’est-à-dire
la catharsis. Ce désir a inspiré tout
ce que j’ai jamais réalisé".
"Nếu Lò
Thiêu đẻ ra văn hóa, làm sao
không?, thì mục đích của nó là,
chỉ cái thực tại vô phương sửa chữa đó
mới đẻ ra được sự cứu rỗi, và đây là
tinh thần thanh tẩy, mà tất cả những cái gì
tôi viết ra đều được gợi hứng từ đó."
Lạ, là
Kafka, qua một số “truyện ngắn”, ngụ ngôn,
ẩn dụ của ông, đã cảnh cáo Bắc
Kít, về cái chuyện làm thịt Đàng
Trong.
Trong
ngụ ngôn "Tháp Babel", ông phán,
xây được, nhưng chớ có trèo lên!
Hay trong
Làng Kế Bên, tức Đàng Trong,
dù nó "kế bên", nhưng chớ có
làm thịt nó! (1)
Hà,
hà!
(1)
Chưa
có tên nào, bị Tên
Khùng Già, là Lão Tặc
Thiên, bắt phải trải qua những khổ nạn, khổ kiếp thê
lương, như Gấu [trong những khổ nạn, có cái
chuyện cho mi hưởng trái cấm nè, thích
không?], nhưng, 1 khi, đã
qua được rồi, Tên Khốn mới "care" GCC một cách chu
đáo như thế nào, nhất là cái
lần thưởng thức đại tiệc thịt chuột, cùng lúc
cho nghe bản Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.
Về già, nhớ lại,
Gấu mơ hồ hiểu ra, ý nghĩa cái truyện
ngắn “K”, của Buzzati, mi hãy sống đời của
mi cho thật đàng hoàng, thì
thể nào cũng có ngày mi
gặp con K, và tới lúc đó, mi chẳng
cần đến nó nữa!
Ngụ ngôn về tháp
Babel của Kafka, cũng hàm ý
này. Xây tháp Babel ư, OK, nhưng
chớ có trèo lên nhe.
Lũ Bắc Kít tìm đủ mọi cách
ăn cướp Miền Nam, và trong những cách
đó, là nhử Mẽo vô, rồi vận động
cả nước chống Mẽo kíu nước, với giấc mơ thống nhất, Nam
Bắc 1 nhà, Xuân này xum họp Xuân
nào vui hơn cái con mẹ gì đó;
Kafka phán, OK, nhưng chớ có trèo
lên.
Nhưng làm sao không
trèo?
Cái Ác Bắc
Kít xúi chúng trèo,
nhà Ngụy chúng cướp, Ngụy, chúng
tống đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ,
vợ Ngụy, chúng hiếp, con Ngụy, cấm đi học,
nếu có học, cấm vô Đại Học.
Đã cảnh cáo
rồi, đừng có trèo mà
cứ trèo, thế là ô hô ai tai cả
nước Mít!
Thằng Tẫu, kẻ thù muôn
đời của Mít, lũ Bắc Kít thèm
Miền Nam quá, thế là mời Tẫu vô...
giường, nhường cả vợ con cho chúng, cốt sao lấy
được Miền Nam, thoát Trung cái con khỉ
Tầu!
Đau thương nhất, là người
dân Miền Bắc bây giờ chịu đúng
cái nhục của Miền Nam. Lũ Bắc Bộ Phủ, những
Trọng Lú, tân thủ tướng Bắc Kít,
Fuck Fuck gì đó, chúng đâu
có tha đám Bắc Kít nghèo
khổ. Chúng cũng ăn cướp, bóc lột họ, y chang
đã từng với Miền Nam.
GCC tự hỏi, những tên Bắc Kít
cực kỳ thông minh, não bị thiến
một mẩu, chúng đâu hết rồi?
Bỏ chạy hết ra nước ngoài rồi.
Hay thế!
Sến, ở Đức, Nobel Toán, Mẽo,
“Hồng Béo” gì đó, Mẽo…
Làng
kế bên.
Nội tôi
thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội
đây, nhìn lại nó, thấy đời như
co rút lại, thành thử nội không
hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ qua
chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có
thể quyết tâm rong ruổi sang làng kế bên,
mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc
như thế, cũng không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến
đi như vậy."
Bản tiếng
Anh: The next village.
My grandfather
used to say: "Life is astoundingly short. To me,
looking back over it, life seems so foreshorthened that
I scarcely understand, for instance, how a young man
can decide to ride over to the next village without being
afraid that – not to mention accidents – even the span of a normal
happy life may fall far short of time needed for such a journey".
V/v Vưỡn chuyện Cái Ác
Bắc Kít:
Marlene Dietrich by David Levine
GABRIELE ANNAN
Girl From Berlin
Originally published February
14,1985, as a review of Marlene Dietrich's
ABC, Ungar Marlene D. by Marlene Dietrich.
Grasset (Paris) Sublime Marlene by Thierry de Navacelle.
St. Martin's
Marlene Dietrich: Portraits
1926-1960, introduction by Klaus-Jurgen
Sembach, and epilogue by losefvon Sternberg.
Schirmer/Mosel; Grove Marlene a film directed by Maximilian
Schell, produced by Karel Dirka. Dietrich by Alexander
Walker. Harper and Row
Among the rarities Schell has
to show is a scene from Orson Welles's Touch of Evil (1958), in which Dietrich
was only a guest star. She plays the madame of a Texas brothel, Welles a
corrupt, alcoholic police chief on the skids. He comes into the brothel and
finds her alone at a table in the hall.
"You've been reading the cards, haven't you?"
[he says].
"I've been doing the accounts."
"Come on, read the future for me."
"You haven't got any."
"Hm ... what do you mean?"
"Your future's all used up. Why don't you go
home?"
Dietrich's voice is deadpan, but it breaks your
heart all right with a Baudelairean sense of
the pathos of human depravity, degradation, and doom.
“Cô gái từ Berlin”
là 1 bài viết về nữ tài
tử điện ảnh người Đức, Marlene Dietrich.
Trong phim “Cánh Đồng
Bất Tận", em đóng vai 1 bướm
Xề Gòn, buồn buồn ngồi bói Kiều.
Một tên cớm Bắc Kít bước vô, ra
lệnh:
-Coi cho ta 1 quẻ về tương lai.
Ngài đâu còn?
-Mi nói sao?
Tương lai của Ngài xài hết rồi,
sao Ngài không về lại xứ Bắc Kít
của Ngài đi?
Giọng em bướm trong Cánh Đồng Bất Tận
mới dửng dưng, bất cần đời làm sao, nhưng bất cứ 1 tên Mít
nào nghe thì cũng đau thốn dế, khi nghĩ
đến 1 xứ Mít tàn tạ sau khi
Bắc Kít chiếm trọn cả nước.
Đúng là
THNM!
Cục Ung Thư Đồng
Tâm
No man’s land
Property disputes are Vietnam’s biggest political
problem
The Communist party does not know how to handle
them
Miền đất không người
[Thuật ngữ này, cũng cực đểu,
với tờ báo cực đểu - dưới con mắt của Vẹm,
tờ báo đã từng ví đại hội Đảng
như là của 1 loài bò sát,
nhớ đại khái (1) – và thường dùng
trong văn học, để chỉ một miền đất còn trinh nguyên,
chờ con người khai phá]
Những cuộc tranh luận về tài sản là
vấn đề chính trị lớn lao nhất của Việt Nam
Đảng CS không biết làm sao “xử lý”
chúng.
Trong nhiều năm những cư dân Đồng Tâm,
một làng ở bìa của thủ đô
Việt Nam, đã chiến đấu cho cái quyền
được tiếp tục chăm nom những mảnh vườn, thửa đất của họ,
trên 1 vùng đất được khoanh vùng
là thuộc quyền sở hữu của quân đội, cho mục
đích phát triển của họ. Sự nhẫn nại của họ
“bốc hơi” vào Tháng Tư khi nhà cầm quyền
bắt giữ một nhóm người già cả mà được
dân làng tin cậy, và chọn họ là
những người đại diện cho họ để “thúc đẩy, nài
ép” trường hợp của họ với nhà cầm quyền. Dân
làng bèn áp đảo chừng trên chục cớm
VC được phái tới để bảo đảm công cuộc định
cư, và giam giữ họ ở nhà hội của làng (như
trong hình). Những người ủng hộ dựng chướng ngại vận, ngăn
chặn mọi con đường tới nhà hội, và đe doạ sẽ nổi lửa,
thiêu sống Cớm VC!
Hà, hà!
(1)
http://www.tanvien.net/thoi_su/Trong_Lu_by_Nguoi_Kinh_Te.html
Carry on, Nguyen Phu Trong
Cứ thế tiếp tục, Trọng Lú!
A colourful
prime minister goes, as the grey men stay
Chính trị xứ Mít VC
Politics in Vietnam
Reptilian manoeuvres
Trò ma nớp của loài bò sát
A colourful prime minister goes, as the grey men
stay
Một tên thủ tướng màu mè ra
đi, một lũ muối tiêu ở lại
Cuộc vây
hãm kéo dài cả tuần lễ tiếp theo,
đánh dấu cú leo thang mới, trong những
trận đánh vô phương kết thúc - endless
battles - ở Việt Nam, về đất đai - duyên do đầu tiên
của những khiếu nại- dùng danh từ lịch sự thì
là "nguyện vọng" của nhân dân - ở xứ Mít,
và là 1 trong những cơn nhức đầu to đầu nhất,
của Đảng CS. Người dân Mít theo dõi "bi
kịch của chúng ta", trên từng cây số trên
mạng xã hội, và sau cùng thì mới
ghé mắt nhòm báo chí nhà
nước.
Bi kịch vươn
tới bưóc ngoặt sững sờ nhất, với màn
ông Trùm Thủ Đô, để giải thoát
con tin, đã hứa lèo, sẽ không truy
cứu hình sự dân làng, và sẽ
tái cứu xét nguyện vọng của họ.
Note: BBC đi
bài này, ở đây:
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-40285093
Bài
thơ sau đây, đã đăng trên
Tin Văn, có trong số báo Sợ
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/24.html
Fear
Fear passes from man to man
Unknowing,
As one leaf
passes its shudder
To another.
All at once the whole tree is
trembling,
And there
is no sign of the wind.
Sợ
Sợ chuyền từ người này
qua người khác
Không
biết
Như chiếc
lá chuyển cú rùng
mình của nó qua chiếc lá
khác
Tất cả, liền lập tức, cùng
một lúc, trọn cái cây
run rẩy
Đếch thấy 1 tí gió
Và
sau đây là nhưng dòng về ông,
của số báo.
Charles
Simic, from Dismantling the Silence.
Born in Belgrade
in 1938, Simic moved to Chicago in 1954 and began publishing
poetry in English five years later. In 2007 he was appointed
US poet laureate. "The world seems to be divided today
between those horrified to see history repeat itself and
those who eagerly await its horrors," Simic wrote in November
2016. “I bet the fortune-tellers in their storefronts
are all depressed, since their prospective clients already know
what the future holds."
Sinh tại Belgrade
năm 1938 [thua GCC 1 tuổi], Simic tới Chicago năm 1954 [GCC vô Saigon]và
bắt đầu cho in thơ bằng tiếng Anh, năm năm sau đó. Năm 2007 ông
được phong Thi sĩ Nhà nước Mẽo.
Thế giới
như được chia thành hai phe, ngày này;
một, là những kẻ khiếp sợ vì cái
chuyện lịch sử cứ tự nó lập lại chính
nó, và một, hăm hở chờ sự ghê rợn
của lịch sử. Simic viết, tháng 11, 2016
"Tôi
nghi rằng những mụ bói toán hết đưòng
làm ăn, vì khách hàng
của họ rành hơn họ, về cái chuyện sờ mu rùa!"
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|