nqt
Old


Viết Mỗi Ngày


Viết Mỗi Ngày

Lê Công Định replied to a comment on this.
Lê Công Định
8 mins ·

Nói thật mất lòng, cho đến nay tôi không tham gia bất kỳ tổ chức, hội, nhóm nào trong và ngoài nước, là bởi sự đoàn kết và tầm nhìn của người Việt mình nói chung khá hạn chế.

Mặt khác, dù bị mọi người chỉ trích vì các chính sách trong quá khứ và hiện tại, thú thật Đảng Cộng sản vẫn là tổ chức hùng mạnh nhất. Do đó, để giải quyết các vấn nạn của xã hội ngày nay, vai trò của họ vẫn còn rất quan trọng. Đây là sự thật không thể bác bỏ.

Trong lúc thời cuộc còn đầy nhiễu nhương thế này, và giữa cảnh lòng người chưa thu về một mối thế này, thà mỗi ngày làm nghề tư vấn luật, rồi ngao du đó đây, chắc chắn tôi sẽ thấy vui hơn. Có lẽ con đường tôi đi chỉ là thế!

Note:

Mặt khác, dù bị mọi người chỉ trích vì các chính sách trong quá khứ và hiện tại, thú thật Đảng Cộng sản vẫn là tổ chức hùng mạnh nhất. Do đó, để giải quyết các vấn nạn của xã hội ngày nay, vai trò của họ vẫn còn rất quan trọng. Đây là sự thật không thể bác bỏ.

LCD

Viết như thế này, thì đành chờ VC ban cho tí tự do nào thì được tí đó vậy.
Có khi nào vị này nghĩ, như Solzhenitsyn đã từng nghĩ, và làm, 1 mình ta, đủ rồi, một mình ta đủ sức đạp đổ cái chế độ khốn kiếp đó?
NQT

Nói ra thì bị chửi là phách lối, 20 năm nay, Gấu làm trang Tin Văn, một mình, là cũng bắt chước Solzhenitsyn, "1 cách nào đó"!

Trường hợp Lê Công Định

Nói thật mất lòng, cho đến nay tôi không tham gia bất kỳ tổ chức, hội, nhóm nào trong và ngoài nước, là bởi sự đoàn kết và tầm nhìn của người Việt mình nói chung khá hạn chế.

LCD

Nhận xét của LCD về Đảng CS, theo Gấu, xưa rồi, quá đát rồi, sau khi “yếu tố Tẫu” xuất hiện, và đây là phát giác lịch sử mà độc nhất Solzhenitsyn nhìn ra được, khi không coi cuộc chiến chống Pháp của Mít, là cuộc chiến giành độc lập của 1 dân tộc thuộc địa của Tẩy. Trên Tin Văn đã nhiều lần nói về sự kiện này, khi viện ra, lời chỉ trích của Paz. (1) Ông này chê Solz không hiểu lịch sử Mít, nhưng bây giờ chúng ta thấy Solz đúng. Cuộc chiến chống Pháp, là cơ hội mà Vẹm sử dụng nó vào công cuộc làm cỏ sạch những đảng phái quốc gia nào không theo chúng, dù chống Tây. Khi cuộc chiến nổ ra, các đám đảng phái quốc gia, những vị đầu lĩnh của họ, tò mò, muốn chứng kiến tận mắt cuộc chiến, rời thành phố, tới mấy vùng địa phương, tới đâu là bị giết tới đó, và sau này Vẹm đổ tội cho địa phương giết, không phải chủ trương của Đảng! Địa phương nào dám giết những đấng như Phan Văn Hùm, thí dụ. Bắt được 1 phát, là hoả tốc cho ngựa phi ra Bắc Bộ Phủ.
Thịt liền cho ta, Bác Hồ phán! 

Trong lịch sử Mít, chưa có 1 tổ chức nào tàn ác như Vẹm cả. Chúng giết sạch bất cứ 1 người nào không theo chúng.
Cái gì làm cho chúng độc ác đến như thế? Cái Ác Bắc Kít. Chẳng có cái gì khác ở đây. Chủ nghĩa CS cũng là 1 “cơ may” để chúng dựa vào đó, cho có “cái cờ” mà thôi.

Có thể nói, chưa bao giờ lịch sử Mít hiện rõ ra như ban ngày, như những ngày này cả!
Một khi yếu tố Tẫu xuất hiện, là mọi lời dối trá lộ ra hết.
Vai trò của họ rất quan trọng, nghĩa là sao?
Một hội nghị Thành Đô nữa?
Cái lập luận của LCD về Đảng CS chính là cái lập luận của chính chúng. Những tên khốn Bắc Kít, dư luận viên cái con mẹ gì đó, phán, y hệt LCD, không có Bác Hồ, không có Đảng thì tụi mi bốc cứt bỏ vô miệng, tại làm sao mà dám phản động, lấy tiền ngoại bang, chống Nhà Nước Vẹm. Vẹm là tất cả, hiểu chưa?

(1)

Trong Về những nhà thơ và những người khác, On poets and Others, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài Gulag, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước. Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.

Note:

Không hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê Solz?
GCC sợ rằng, Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú…  ăn cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!

Khi có dịp trở lại đất Bắc, Gấu bèn mò về, và cũng phải tính toán thật chi ly. Không dám về thẳng Sài Gòn, mà phải tới Hà Nội, và phải phôn ông cậu, Cậu Toàn, em trai bà cụ Gấu, một người theo CS từ những ngày đầu, và là 1 ký giả phải nói là khá nổi tiếng, đích thân ra phi trường đón.
Phải phôn cho ông bạn quí HPA, nhờ giới thiệu 1 đấng nhà văn nhà thơ nổi tiếng, phòng hờ.
Anh giới thiệu 1 tay thật hách là thi sĩ Nguyễn Quang Thiều. NQT và 1 số bạn bè quen biết sau đó,
lo lắng cho Gấu đủ thứ, nhân tiện đây, xin đa tạ tất cả.
Một trong những điều Gấu canh cánh trong lòng, là, tại sao ông cụ Gấu, bị VNQDD thủ tiêu, ngay những ngày đầu nổ ra cuộc chiến chống Pháp, vậy mà bà chị ruột, đứa em trai ruột còn ở lại, không được nhà nước VC công nhận là con của liệt sĩ. Cái gì khiến ông bố của Gấu không được coi là 1 tên Việt Minh?
Về, hỏi han đầu này mối nọ, hóa ra là ông cụ nhất quyết không theo Vẹm.
Dù là hiệu trưởng 1 trường tiểu học, chống Tây, bị chúng chuyển đổi khắp mọi nơi, kể cả Lục An Châu, nổi tiếng nước độc, thuốc phiệ
n ê hề!
Bà cụ Gấu, khi thấy thằng con lậm Cô Ba, chửi, mày thua xa Bố của mày!
Chỉ là 1 cảm tình viên của Đảng, như 1 ông chú, 1 tỉnh uỷ viên, cho biết.

Có thể, ông đã từng chứng kiến,
cảnh VM thủ tiêu những người chống Pháp, nhưng không theo chúng.
Ông không muốn con cái sau này phải mang nhục, bố của chúng là 1 tên giết người! 

Phạm Quỳnh, ngay cả vào những giây phút cuối cùng của đời mình, bị Vẹm dùng đá đập cho tới chết, vì tiếc 1 viên đạn, vẫn khư khư với ý nghĩ, không có thằng Tây, là thằng Mít chết. Gấu thực sự không tin, ông giải ra được cái thai đố, giặc ngồi ngay sau lưng nhà vua, tức “yếu tố Tẫu”. Cuộc chiến chống Pháp là cơ hội bằng vàng cho Vẹm làm thịt sạch những ai không theo chúng. Đến cả những kẻ theo chúng, như Nguyễn Hữu Đang, thí dụ, mà chúng còn giết, nữa là!
Tuy nhiên, phải đến khi Âu Châu sống sót Lò Thiêu, và thoát bị nhuộm Đỏ, nhờ nó,
thì chúng ta mới hiểu được, giả như vẫn còn thằng Tẩy, là Mít thoát hết,  ba bốn Cái Ác: Ác Mốt Cu, Ác Bắc Kinh, và Ác Bắc Kít.
Và một Miền Nam không nhiễm 1 thứ Ác nào hết, vẫn còn.


Mit Critic


Jean Améry


My Old Saigon

*


Số phận 1 cuốn sách, cuốn MCNK, thật là ly kỳ. Theo như Đinh Cường, nó được họa sĩ Ngọc Dũng vội vã nhét vào valise, khi rời bỏ Sài Gòn, vào những ngày 30 Tháng Tư.
Nhờ vậy Mai Thảo bèn in nó, nhưng kể như tuyệt bản.
Thế rồi Gấu ra được hải ngoại, và nghe Nguyễn Đông Ngạc nói, tao có 1 bản, thế là bèn hỏi mượn, và trước khi đi, anh bèn “trăn trối” vợ, đưa cho GCC.
Bà vợ còn bonus, cặp kiếng mát của ông chồng
Nhờ vậy, mà độc giả Tin Văn được đọc nó.
Lần ông anh mất, gặp bạn Chất, bạn nói, bà Hoa cằn nhằn hoà
i cái vụ mày tự động post truyện của ông Tâm, thế là bèn lấy xuống, nhưng nghĩ lại, nếu ông Tâm bực, thì ông đã nói rồi, thế là lại post lên lại.
Cuốn "Những Ngày Ở Sài Gòn", cũng ly kỳ chẳng kém.
Nhờ 1 anh lái sách, chắc nghi, cái tít như thế
chắc ăn khách, bèn mang theo.
Tay này hình như cùng quê Gấu Cái. Còn mấy cuốn sách dịch của Gấu, hắn cũng mang theo luôn. "Ngày Dài Nhất", thí dụ. Ra hải ngoại, nhìn thấy chúng, cảm khái chi đâu, tụi mi may hơn tao, xém 1 tí là hết gặp lại nhau!

*

Va, petit livre, et choisis ton monde. Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.
Lien Hoang Nguyen replied to a comment on this.
Lien Hoang Nguyen shared Kafka Bookstore's photo.
18 mins ·

Viết xong sợ bị tác giả bảo xời đây không phải là Đà Lạt của tui :((
Phải của anh không anh Nguyên ?

No automatic alt text available.
Kafka Bookstore
2 hrs ·

Mỗi người đều có những thành phố cho riêng mình.Thành phố không được xây từ gạch đá, vôi vữa mà được xây bằng khao khát về một nơi chốn êm đềm cho tâm hồn cư ng...

See More
LikeShow more reactions
CommentShare
5 5
Comments
Nguyễn Vĩnh Nguyên
Nguyễn Vĩnh Nguyên Còn bánh bột lọc không?
Like · Reply · 17 mins
Lien Hoang Nguyen
Lien Hoang Nguyen Hỏi tu từ thế làm sao giả nhời :((
Like · Reply · 15 mins
Quoc Tru Nguyen
Quoc Tru Nguyen Đọc, thấy thiếu, nếu nói về hương xa: Đà Lạt là nghĩa địa của voi. Và nếu như thế, thiếu Romain Gary, Les Racines du Ciel, thiếu Một Chủ Nhật Khác, thiếu đám Triết Mít trốn lính, lên làm giáo sư dạy DHDL... Được phần nổi, thiếu phần chìm của Đả Lạt
Like · Reply · 1 min



* * *


Thiếu cả 1 lô trên đây, chưa nói tới Cội Rễ Nhà Trời. Thiếu những trang tuyệt vời về Đà Lạt, trong MCNK

Một Chủ Nhật Khác



http://huyvespa.blogspot.com/2016/10/dalat-cung-em-bao-nhieu-ngay-hoang.html

https://phamcaohoang.blogspot.ca/

2515. Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013 do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện


http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/da_lat_4.html

Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cầm Dương Xanh

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.
Ai cho phép mi là thi sĩ?
*

Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương thất lạc, không còn tìm thấy mình, thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.

Borges đã từng suýt soa, dịch bản bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn của nó.
Ở trong dịch bản!

Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia, của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!

Mình là cái quái gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
 *

Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp chết, là bò về nghĩa địa...

"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"

"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".


Một Chủ Nhật Khác

Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, giống như một bài toán đố. Những chi tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm cách chứng minh bài toán, tìm ra cái định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng, tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào, người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người tìm có tí dấu vết mà lần mò.

Hai Lúa còn nhớ, có lần, tác giả Một Chủ Nhật Khác kể là, hình như trong một bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!

Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?

Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó, sao mà... thảm thế!














Lê Công Định replied to a comment on this.
Lê Công Định
8 mins ·

Nói thật mất lòng, cho đến nay tôi không tham gia bất kỳ tổ chức, hội, nhóm nào trong và ngoài nước, là bởi sự đoàn kết và tầm nhìn của người Việt mình nói chung khá hạn chế.

Mặt khác, dù bị mọi người chỉ trích vì các chính sách trong quá khứ và hiện tại, thú thật Đảng Cộng sản vẫn là tổ chức hùng mạnh nhất. Do đó, để giải quyết các vấn nạn của xã hội ngày nay, vai trò của họ vẫn còn rất quan trọng. Đây là sự thật không thể bác bỏ.

Trong lúc thời cuộc còn đầy nhiễu nhương thế này, và giữa cảnh lòng người chưa thu về một mối thế này, thà mỗi ngày làm nghề tư vấn luật, rồi ngao du đó đây, chắc chắn tôi sẽ thấy vui hơn. Có lẽ con đường tôi đi chỉ là thế!

Note:

Mặt khác, dù bị mọi người chỉ trích vì các chính sách trong quá khứ và hiện tại, thú thật Đảng Cộng sản vẫn là tổ chức hùng mạnh nhất. Do đó, để giải quyết các vấn nạn của xã hội ngày nay, vai trò của họ vẫn còn rất quan trọng. Đây là sự thật không thể bác bỏ.

LCD

Viết như thế này, thì đành chờ VC ban cho tí tự do nào thì được tí đó vậy.
Có khi nào vị này nghĩ, như Solzhenitsyn đã từng nghĩ, và làm, 1 mình ta, đủ rồi, một mình ta đủ sức đạp đổ cái chế độ khốn kiếp đó?
NQT

Nói ra thì bị chửi là phách lối, 20 năm nay, Gấu làm trang Tin Văn, một mình, là cũng bắt chước Solzhenitsyn, "1 cách nào đó"!

Cần gì ai đọc!


Hoang Nguyen
3 hrs ·

Kafka hình như chỉ để lại trên đời 3 q tiểu thuyết ( và vài truyện ngắn ), còn lại đốt sạch. Nhưng mình nghĩ nếu ổng có để lại thêm quyển tiểu thuyết nữa thì chắc cũng giống vậy thôi. Cả 3 ( Amerika, Lâu đài, Vụ án) có vẻ như là một, đều là một kiểu phiên tòa và anh K nào đó là bị cáo. Từ đầu đến cuối anh bị buộc tội mà anh không biết không làm, nhưng toàn bộ hành trình của anh không phải là để chứng minh mình vô tội mà đi tìm tội danh của mình. Kafka mà hiện thân là 3 anh K kia đều luôn tin mình có tội, chỉ có điều là không biết mình có tội gì thôi. Không thích nghi được cũng là tội, không hành xử lý tính là tội, không theo kịp kỳ vọng cũng là tội. Hoặc là có mặt trên đời này chính là cái tội to nhất mà không tài nào bào chữa được.

* *

Tất cả những gì được xb khi Kafka còn sống, là ở trong cuốn này. Mấy cuốn tiểu thuyết thì đều dở dang, và được xb sau khi ông mất. Trên blog NL cũng có 1 bài mới, về Kafka.
Theo GCC, khủng nhất của Kafka, đúng là Thuộc địa Trừng giới, và quái làm sao. nó được viết ra là cho xứ Mít, tương tự Y Sĩ Đồng Quê, cũng là cho xứ Mít, tếu thế!
Viên y sĩ đồng quê ngồi bên lề đường Xề Gòn, khóc ròng, ngày 30 Tháng Tư 1975, "ta bị lừa", đúng là hình ảnh DTH.

Điều này giải thích Mít mê Kafka, chăng?

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/06/doc-va-doc-lai-kafka.html?showComment=1478945727886

http://www.tanvien.net/TG_TP/Other_Kafka.html

Of course, Kafka is not the first writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness with which he conceived of his role. Who else could have invented the torture machine at the center of his frightful story “In the Penal Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le mot juste!—with a metal stylus into their very flesh?

Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC vô!]. Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có mỗi cú đó, với “cái mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái tên của nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot just], vô da vô thịt họ.


http://www.tanvien.net/Souvenir/9.html

*

Paris Review 4

David Grossman

Nghệ thuật giả tưởng

Ai, ngoài Sshulz ra, ảnh hưởng tới ông?

Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.

Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
 
Chúng ta phải đọc Kafka, nhất là Mít, đúng như Grossman phán.
Kim Dung, khi ph
ịa ra nước cờ Hư Trúc, không tin có ai phá được, vì phải giết, chính mình, trước đã!
Một cách nào đó, câu phán khủng khiếp của Kafka, có gì tương tự. Người phán, trong cuộc đấu tay đôi, sinh tử, duel, giữa mi và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới.
Sở dĩ khó đọc Kafka, là do đạo hạnh chưa đủ đô, theo GCC.
Có những tác giả, bạn muốn đọc họ, là phải tu thân, dọn mình, không gần đàn bà, tịnh khẩu, ăn chay trường....
Kafka là thứ tác giả như thế!

Kafka's Answer
In the duel between you and the world, back the world.
Kafka  


http://www.tanvien.net/Viet/Surf_Tinvan.html

*

F. Kafka, Everyman
Zadie Smith
The Tremendous World I Have Inside My Head:
Franz Kafka: A Biographical Essay by Louis Begley.
Atlas and Co., 221 pp., $22.00

1.
How to describe Kafka, the man? Like this, perhaps:
It is as if he had spent his entire life wondering what he looked like, without ever discovering there are such things as mirrors.
A naked man among a multitude who are dressed.
A mind living in sin with the soul of Abraham.
Franz was a saint.
Kafka: Một người như mọi người

Zadie Smith đọc Franz Kafka: Một tiểu luận mang tính tiểu sử, tác giả Louis Begley.
Một bài tuyệt vời về Kafka, “với riêng Gấu”! 

Có vẻ như Gấu mê Kafka, vì ông rất thù ông bố "Bắc Kít" của ông!
Cái tay Begley tả cuộc tình của Kafka với Felice mới thú vị làm sao, và làm Gấu ngộ ra, về tất cả những mối tình của Gấu với Đất Bắc, qua Cô Hồng Con, BHD, và chừng vài em nữa….!

*

Kafka điên cuồng chạy theo em [ôi, lại nhớ cái xen ở cổng trường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn], rồi cố chạy trốn em, Begley viết, ‘với một mục đích và đam mê thui thủi [single-minded], của một con chồn, cố cắn nát cái chân của chính nó, để thoát ra khỏi cái bẫy’!

Zadie Smith viết về nỗi đau Do Thái của Kafka:
Tính Do Thái của Kafka thì là một thứ mộng mơ, khoảnh khắc đích thật của nó luôn ngụ trong quá khứ hoài nhớ [Kafka’s Jewishness was a kind of dream, whose authentic moment was located always in the nostalgic past.]

Kafka Early Years

Kafka: The Early Years. By Reiner Stach. Translated by Shelley Frisch. Princeton University Press; 564 pages; $35.

POOR Franz Kafka. His lifetime being misunderstood by his family has been followed by an even longer literary afterlife being misunderstood by the world. According to a new biography by Reiner Stach, Kafka was not the neurotic, world-removed writer of, say, Isaac Bashevis Singer’s 1960s story, “A Friend of Kafka”, in which a friend says Kafka’s inhibitions “impeded him in everything”. Nor was he scarred solely by a difficult relationship with his overbearing father, an idea that Alan Bennett’s play “Kafka’s Dick” toyed with in the 1980s. 


In “Kafka: The Early Years”, the last instalment of a mighty, three-volume biography, Mr Stach pursues close description of Kafka’s life and times rather than the “critical biography” approach combining biography and textual interpretation. What Mr Stach uncovers in this volume—written last because of a long struggle over access to documents—are the formative experiences of a Kafka who becomes new and surprisingly relevant.

“Readers…will find myths about Kafka exploded,” writes Shelley Frisch in her translator’s preface. Mr Stach himself lauds “the many pieces of the mosaic discovered by others”, a half-century of academic discovery (about Kafka’s first-rate work as an insurance clerk, for example) that Mr Stach now brings to a wider audience. Yet even those immersed in the specialist work benefit from the illumination that Mr Stach’s detailed digging brings.

Kafka wrote his famous “Letter to His Father” in 1919, in which he took his father, Hermann, to account for his boorish ways with his son, who became beset by guilt and fear of punishment. But, as Mr Stach vividly shows, loneliness, not humiliation, was Kafka’s first formative experience. Until he was four, his father and mother were busy in the family haberdashery shop 12 hours a day, six and a half days a week. Kafka learned that social relations were fraught and unstable—with great consequence for literature.

In Mr Stach’s telling, this insecurity was compounded by threats that the observant and highly sensitive Kafka found in the world: an education system based on rigorous exams, and the risk of failing them; a society beset by tensions between Czechs and Germans, in which Jews were often the scapegoats; and new-fangled machines like aeroplanes, which both delighted and terrified the young author.

According to Mr Stach, guilt and punishment preoccupied Kafka from 1912—the year he wrote “The Metamorphosis”, a groundbreaking story—until early 1915. But later works posed a new question: “What do people have to do to be accepted by a group—and why are some never accepted?” For the biographer, this is precisely the theme of “The Castle”, an unfinished novel that Mr Stach calls Kafka’s most brilliant work, written two years before he died of tuberculosis in 1924, aged 40.

In today’s age of backlash against globalisation, the arc that Mr Stach draws between “The Early Years” and Kafka’s later life takes on a new significance. It traces the life of a misunderstood German-speaking Jew in a city run first by an Austrian emperor, then by assertively nationalist Czechs. “We move from guilt to the question of identity,” Mr Stach says. “The question, ‘Who am I?’ is, after all, closely linked to, ‘Where do I belong?’”

The bloody climax of nationalism that followed makes Kafka’s story not a little poignant: he found a true home neither in life nor in death. The difficulty of writing “The Early Years” was a symptom of this. Mr Stach spent years trying to persuade the Israeli heirs of Max Brod, Kafka’s friend and literary executor, who left Prague for Palestine in the 1930s, to let him read Brod’s diaries. Though he will not say how, Mr Stach got hold of copies of three volumes, rendering new insights about Brod’s and Kafka’s world.

The Israeli Supreme Court recently ruled that the Brod manuscripts should be placed in the National Library. This is good news for the public, but ensures that Kafka will remain rootless: his and Brod’s manuscripts will be scattered between Germany, Britain and Israel. And rootlessness breeds indifference. Vienna has neglected the sanatorium where Kafka died. Berlin has left commemoration of Kafka’s time there to private initiatives. And the Czech government sees Kafka more as a tourist magnet than as a cultural icon. Mr Stach concludes that “No state feels responsible for him. That’s absurd.”

This article appeared in the Print Edition with the headline: Refugee avant la lettre

Tờ Người Kinh Tế số mới nhất, điểm cuốn tiểu sử của Kafka, Những năm đầu đời, trong khi cuốn “Những năm đốn ngộ” thì đã điểm từ hồi Diễm Xưa lận. Tin Văn đi cả hai, ở đây, rồi lèm bèm tiếp. Bộ này, bạn NL chê thấu trời, pháo xịt.
Xịt hay không, từ từ tính.

Một Kafka Khác

Kafka's Prague

A Different Kafka

Is That Kafka?

* *

Note: Số báo cũ về Kafka, ML 2002. Có bài phỏng vấn Reiner Stach, tác giả cuốn tiểu sử mới nhất về ông. Bài Kafka/Walser: Un air de parenté, tuyệt. Không ảnh hưởng lên nhau, có vẻ anh em, 1 hội tụ, convergence, xa và tối, lointaine et obscure, trong 1 tiền giả dụ chung, dans un présupposé commun. Cùng tách ra khỏi thế giới. Walser thảm hơn nhiều, thèm đi xa, avide de se perdre. TV sẽ đi bài này.

Cùng lúc, đi luôn 1 đường, trên tờ NYRB, của  Francine Prose, điểm cuốn "Phải Kafka đó không đấy"?

*

Nhị LinhNov 14, 2016, 1:34:00 PM

à quên mất đấy, còn có hai nhà văn thuộc hàng kiệt xuất nhất trong "lĩnh vực" này, đều có tên là Raymond: Raymond Queneau và Raymond Carver

Reply


Note: C
òn tay này.


*

Pavese

Đúng hơn, dịch Faulkner, nhưng, do viết văn, cho nên bị ảnh hưởng. Trong “Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino có 1 bài thần sầu về ông. Gấu tính dịch hoài, quên hoài.
Tay Pavese này bảnh hơn Gấu nhiều lắm, ổng dám đi luôn, còn Gấu, xin làm đệ tử Cô Ba, mấy lần năn nỉ, xin cho theo hầu luôn, cổ lắc đầu, mi còn phải trả nợ nhiều lắm, chưa đi được.
“Trăng & Lửa” có lẽ là cuốn tiểu thuyết “Mẽo ơi là Mẽo”, the most American novel, đã được viết bởi một ngôn ngữ nước ngoài.
Mẽo nhất, Mẽo ơi là Mẽo, 1 phần là nhờ Faulkner.
TV sẽ đi bài của Italo Calvino.
Tuyệt.
Hé tí, sơ sơ, theo kiểu sex appeal:
Mỗi cuốn tiểu thuyết của Pavese thì lòng dòng [resolve] quanh 1 đề tài ẩn [hidden theme], một điều gì không nói ra, và đúng là điều ông muốn nói, và điều này chỉ có thể diễn tả bằng cách đừng nhắc đến [… which can be expressed only by not mentioning it]

Nơi chốn không làm sao sống nổi là nơi chốn con người cảm thấy hạnh phúc!
Một lý do tốt lành để tự tử thì không hiếm hoi ở bất cứ một con người
Nỗi buồn lớn lao nhất một con người cảm thấy, đó là khi những lý tưởng thất bại của người đó, biến thành hiện thực!

Những nhà văn trở thành huyền hoặc thì ít khi hạnh phúc. Vào năm 1950, khi đợp giải Strega nhờ "Trăng & Lửa", và xb cuốn tự thuật, Nghề sống, Cesare Pavese bèn tự làm thịt chính mình…. Điều mà Nhật Ký của Kafka giáng lên văn hóa Đức, thì cũng là điều Pavese mang tới cho văn hóa Ý.


“Cái nón nhà văn DoThái Mẽo chẳng có nghĩa gì đối với tôi”, Roth phán, trong bài viết "America Amok", “Mẽo Khùng”, hay “Khùng Mẽo”, khi trả lời phỏng vấn liền sau khi cho xb American Pastoral. “Nếu tôi không phải là nhà văn Mẽo, tôi đéo là cái gì hết.”

Một nhà văn Mít, thì cũng phải như thế.
Mít, Mít Mít, đéo có Bắc Kít, Nam Kít, trước sau 1975..... cái con mẹ gì hết!
Gấu chửi Bắc Kít để nó trở thành thứ Mít như thế, chứ không thù hằn gì Bắc Kít!

Có lần Gấu phán nhảm. Mít không cần sự thực về cuộc chiến, mà cần giả tưởng, bởi, chỉ giả tưởng mới làm nổi chuyện này.
Đừng hiểu theo nghĩa chung chung, cái kiểu, bằng lời dối trá tôi nói lên sự thực, mà hiểu theo nghĩa cụ thể. Không 1 thứ gì khác làm được điều này, nhất là ba thứ hồi ký, kể cả hồi ký tù, Chuyện Kể Năm 2000, hay Bên Thắng Nhục, Đêm Hay Ngày….
TTT, khi viết Một Chủ Nhật Khác, trước khi cuộc chiến chấm dứt, chẳng đã nói về những người bỏ nước ra đi rồi trở về ư.
Đọc bài viết về cuốn American Pastoral, trong có nhắc lại 1 ý của Roth: Giả tưởng phịa ra ý thức, Fictions invents consciousness.
Tuyệt.
MCNK chẳng là ý thức được phịa từ giả tưởng ư? Cái ý thức [niềm ao ước, giấc mộng...] mà Steiner đã từng mơ ước, được chết ở Lò Thiêu cùng với những người cùng thế hệ ông.
Một cách nào đó, suốt cuộc chiến, Gấu đếch dám bỏ nước ra đi là vì thế!
Bà cụ Gấu cũng phán như thế: Chết cả đống còn hơn sống một người!

A[merican] P[astoral] là 1 cuốn tiểu thuyết mà đề tài của nó là cuộc chiến Mít. Nhân vật chính, 1 người đàn bà, đã cho nổ tung 1 tòa nhà để phản đối nó.

*

Tập tiểu luận, essays, được viết theo kiểu hồi ký, về Roth. Tác  giả, Claudia Roth Pierpont, là staff writer của tờ “Người Nữu Ước”
Đọc loáng thoáng bài "Những đứa trẻ của Kafka", nơi tiệm sách, thế là bèn bệ về.

Roth đụng vấn đề Do Thái, y chang Gấu đụng vấn đề Bắc Kít.
Bị chúng tấn công, "mi vưỡn viết những tác phẩm như thế, nếu mi sống ở Đức Nazi?", ông thề, tao đéo bao giờ viết về Do Thái nữa!

Trong cuốn này GCC tính giới thiệu với độc giả TV, "Những đứa trẻ của Kafka".
Roth viết, Kafka chết “sớm quá, đối với Lò Thiêu”, Kafka died “too soon for the holocaust”.

*

Cả 1 nền văn học VC, được, chỉ có cuốn này, [dù những chi tiết sai lầm về thám báo của nó, như THT chỉ ra!]
Nó đánh dấu chấm hết thật là đáng mừng, cái thứ văn chương chỉ có siêu nhân, hay quái vật, như anh hùng Núp của Nguyên Ngọc.
Trong khi Miền Nam, có muôn vàn thứ OK, nào truyện ngắn, nào truyện dài, chưa kể những thứ tạp nhạp như của THT!
Đó là sự thực.
Văn chương đâu phải trò đàn đúm!
GCC đâu có thù hằn gì ông THT?
Bài điểm sách của Gấu, ngày nào, viết về ông ta, và những nhà văn cầm súng như ông, là cả 1 hoài bão về 1 văn tài, về cả 1 thế hệ văn chương.

http://www.tanvien.net/Viet/8.html

Gấu đọc Kafka rất sớm, từ ngay vào lúc vừa có tiền, do làm thêm cho UPI, và ti toe viết. Trong Những Ngày Ở Sài Gòn, còn bệ 1 câu của Kafka, hình như là đọc qua nhóm Tel Quel, cụ thể hơn nữa, qua 1 bài viết nào đó, của Sollers. Nhà văn, dê tế thần, bouc-émissaire, thì dùng từ này, để phạng Nguyên Sa, trong bài viết về Nguyễn Du!

 *

'I am memory come alive' … Franz Kafka. Photograph: Culture Club/Getty Images

Kafka: The Years of Insight by Reiner Stach review – a triumph of literary scholarship

http://www.theguardian.com/books/2015/jul/31/kafka-years-of-insight-franz-reiner-stach-review-shelley-frisch

Note: Câu của Kafka, I am memory come alive, Gấu đã từng chôm, khi còn Sài Gòn, trước 1975, qua bản tiếng Tây, "Je suis une mémoire devenue vivante d’où l’insomnie", và đặt lên đầu truyện ngắn Kiếp Khác.


*

http://www.tanvien.net/thoi_su/kier_1.html

 *

Tờ Văn học Pháp, Tháng Tư, 2007, đặc biệt về triết gia hiện sinh Ky Tô Kierkegaard, nhân phát hành toàn bộ Nhật Ký của ông, được dịch lại hoàn toàn.

Je suis une mémoire devenue vivante d'où l'insomnie
Tôi là cái hồi ức trở nên sống động, thành ra không làm sao ngủ được.


Kafka’s Metamorphosis: 100 thoughts for 100 years
http://www.theguardian.com/books/2015/jul/18/franz-kafka-metamorphosis-100-thoughts-100-years
Hóa Thân, 100 tư tưởng cho 100 năm
Mây Bay Đi
Nguyễn Du giữa chúng ta


Báo chí quốc tế - không chỉ Mẽo - vưỡn còn nguyên si nỗi đau Xì Trum:
The age of Trump needs his brutal dismantling of human stupidities.
Đây là lúc cho Saki sống dậy!

https://www.theguardian.com/books/booksblog/2016/nov/14/why-sakis-stories-are-due-a-revival

Why Saki’s stories are due a revival

With their dismantling of stupidities, Saki’s macabre tales are due a revival 100 years after his death

Always relevant … Hector Munro, who wrote under the pen name Saki
Always relevant … Hector Munro, who wrote under the pen name Saki. Photograph: Alamy
Monday 14 November 2016 07.00 GMT

Last modified on Monday 14 November 2016 07.02 GMT

If only Saki – the pen name of Hector Hugh Munro – were still alive. The age of Trump needs his brutal dismantling of human stupidities. Despite a coterie of literary fans, Saki’s icy, perfectly constructed short stories have been relatively little read over the past 50 years – years of smug belief in endless progress – but his tales, by turns malevolent and macabre, may be due a revival in our new age of exigency.
George Saunders's funny, sad stories from a divided nation

An anniversary always helps, and Monday marks the centenary of his death – in the Battle of the Ancre, the fag end of the Battle of the Somme. Fag end really is the phrase, because, hunkered down in a shell crater with his fellow fusiliers, his last recorded words were “Put that bloody cigarette out!” Too late, sadly – the light had already attracted the attention of a German sniper. An end Saki would surely have appreciated: his stories often culminate with an unexpected, untimely death.

Saki shouldn’t even have been at the front. He was 43 when war broke out, too old to enlist. But a proud son of empire – he was born in British-ruled Burma to a father who was an inspector-general in the Indian imperial police –he joined up anyway, turning down a commission because he didn’t think soldiers should serve under an officer who had gained no military experience.
The imperial, high Tory side stands in stark contrast with his anarchistic temperament and pitch-black literary imagination, as exemplified in his numerous short stories and two novels. He was a glorious pyromaniac let loose in the genteel upper-middle-class Edwardian world he knew so well. In many of his stories, stuffy authority figures are set against forces of nature – polecats, hyenas, tigers. Even if they are not eaten, the humans rarely have the best of it.
One can be too reductive in tracing the links between a writer’s life and his work, but in Saki’s case it is impossible not to. His mother died after a collision with a runaway cow; he was brought up in a village in Devon by tyrannical aunts determined to beat some sense in to him; and, as a gay man in a post-Wildean age, he was forced to lead the closeted life of the outsider (the sexual significance of the squiggles in a notebook unearthed by one of his biographers have been much argued over).
Despite uneven popular appeal, Saki has had many devotees over the past century – Graham Greene, Noël Coward, PG Wodehouse, Roald Dahl. “In all literature, he was the first to employ successfully a wildly outrageous premise in order to make a serious point,” said Dahl, who wasn’t just influenced by Saki’s style but occasionally borrowed one of those outrageous premises, too. Among modern writers, Will Self is a champion, doing his bit to ensure a blue heritage plaque was installed outside Saki’s former flat in central London. “Saki’s stories are highly relevant to any society in which convention is confused with morality,” says Self, “and all societies confuse convention with morality, so he’ll always be relevant.”
But why “Saki”, I hear you ask? It is one of the mysteries about him – and his sister Ethel helpfully burned most of his papers after his death. There are two theories about the nom de plume: that it is taken from a cupbearer who appears in the Rubaiyat of Omar Khayyám, and that it is the name of a South American monkey which appears in one of his stories. A very Sakian choice.

*

'Bored to the point of murder' ...
HH Munro. Photograph: Time Life Pictures/Mansell Collection
Saki

Trong Gánh Nặng Tuổi Thơ,  Greene nhắc tới Munro, [một trong ba ông, mỗi ông tìm mỗi cách hất bỏ gánh nặng tuổi thơ, hai ông kia là Kipling, và Dickens], và tự hỏi, không biết ông lấy ở đâu ra bút hiệu Saki.

Bài viết trên Guardian giải thích:

Hector Hugh Munro's pen-name refers either to the cupbearer in the Rubáiyát of Omar Khayyam, which is spoken of disparagingly in more than one of his stories, or a type of South American monkey. I prefer to think it was the latter: not only did Saki have an abiding love for animals, but his mischievousness and capability for sudden viciousness are traits that seem, at least to my limited zoological knowledge, eminently monkey-like. [Saki là từ tác phẩm của Omar Khayyam, chỉ một sĩ quan hầu rượu, hoặc, một thứ khỉ Nam Mỹ]
*
Greene viết, bất hạnh, tuyệt vời thay, trợ giúp, aid, hồi ức, [Gấu đã từng dịch ẩu là, bất hạnh là thuốc bổ của hồi ức]. Và những truyện ngắn hay nhất của Munro thì tất cả đều là về thơ ấu, sự hóm hỉnh, ẩu tả, anarchy, cũng như là sự độc ác, và bất hạnh của nó.
Even when Saki is not writing explicitly "horrific" stories, however, the unease is present. His stories are more subtle variations on what William Burroughs, writing of Naked Lunch, described as the "frozen moment when everyone sees what is on the end of every fork". Or as VS Pritchett put it, "Saki writes like an enemy. Society has bored him to the point of murder. Our laughter is only a note or two short of a scream of fear."
Saki
Ngay cả khi Saki không viết về [tuổi thơ] kinh dị, thì vẫn thật nhức nhối khi đọc ông... Saki viết như một kẻ thù. Xã hội làm ông buồn bực đến nỗi chỉ muốn làm thịt một kẻ nào đó. Độc giả đọc ông, "thi thoảng" bật ra một tiếng cười, ấy là do quá sợ!
*
-Sơ Dạ Hương, tại sao?
-Một cái tên mượn từ Lâu Đài Họ Hạ, truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch. Trong đó chỉ có một từ, là thực.

Phỏng vấn Gấu
*
Có nhiều những hao hao rất giống nhau trong quãng đầu đời giữa Kipling và Saki, và phản ứng của Saki đối với sự cơ cực, thì gần Kipling hơn là Dickens. Kipling sinh ở Ấn Độ. H.H. Munro, [tôi không khoái cái bút hiệu Saki không biết lấy ở đâu ra của ông, nghe vô duyên làm sao!], sinh ở Burma, [Miến Điện]. Cuộc sống gia đình của những đứa trẻ như thế thì luôn bị đổ vỡ. Những nỗi cơ cực Kipling và Munro ghi lại cũng là những kinh nghiệm của đám con cái nhân viên dân sự, hay sĩ quan phục vụ tại những xứ sở thuộc địa tại Đông phương: một chiếc tắc xi đưa đến một căn nhà bà con lạ hoắc, đồ đạc lỉnh kỉnh khui ra, miếng ăn nước uống không làm sao nuốt trôi, và 4 năm trời xa cách bố mẹ, thiếu vắng sự thương yêu vỗ về chăm sóc, chỉ 4 năm thôi mà dài bằng cả một thế hệ [4 tuổi, thì là một đứa bé, 8 tuổi, đã là một cậu con trai]. Kipling tả nỗi ghê rợn của thời gian này ở trong những cuốn như Baa, Baa Black Sheep - một câu chuyện mặc dù cái vẻ tình cảm của nó, nhưng thật khó mà đọc nổi: Những lời cầu nguyện của bà cô, những trận đòn, lá bài với từ “LIAR” [Tên Nói Dối] ở mặt sau, sự quờ quạng do bị bỏ mặc không biết bấu víu vào đâu cứ thế lớn dần và sau cùng, là nổi loạn
Có một điều gì thật hao hao giống tuổi thơ của Gấu, ở những dòng trên.
Quái thế.
Gấu cũng từng có những chuyến di chuyển như thế, tuy có tí khác: Ông cụ hồi còn sống, làm hiệu trưởng một trường tiểu học, không ưa Tây, nên bị chúng đì, không bao giờ được ở yên chỗ, di chuyển liên tục. Trong những kỷ niệm của Gấu, có những cảnh nằm ngủ tại nhà ga, chờ xe lửa giữa đống hành lý.
Thế rồi ông cụ bị một đấng học trò làm thịt, và những năm tháng bất hạnh sau đó chính là cái tuổi thơ mất mát của Gấu, y chang những dòng trên đây.


Gánh Nặng Tuổi Thơ

*

*

JOANNA KAVENNA
Dino Buzzati & 'The Tartar Steppe'

https://literaryreview.co.uk/dino-buzzati-the-tartar-steppe

JOANNA KAVENNA
Dino Buzzati & 'The Tartar Steppe'

FROM THE SIBILLINI

'I was working at Corriere delia Sera in those days. It often occurred to me that that routine would never end and so would eat up my whole life quite pointlessly.' This cheerful sentiment comes from Dino Buzzati, the Italian novelist and journalist. In the Sibillini Mountains of Italy, I have been rereading Buzzati's Il deserto dei Tartari ('The Desert of the Tartars', translated into English as The Tartar Steppe). Written in 1938, this prescient and disturbing novel relays the trials of Giovanni Drogo, a young soldier who is posted to a remote mountain outpost, Fort Bastiani, where he must watch for the Tartars to invade. Each day, Drogo waits, scouring the barren landscape for a glimpse of his enemy. 'To right and left the mountains stretched out as far as the eye could see in precipitous and apparently inaccessible ranges ... from the invisible north a thick cloud was rising over the glacis and imperturbably the sentries walked up and down under the high sun.' Time passes. Each day Drogo paces the ramparts and, each day, nothing happens. After several decades, Drogo becomes ill and is dismissed from the fort. He dies alone, in a little inn, on the eve of the long-awaited invasion. This might sound like the most depressing novel in literary his- tory. Yet, as with Kafka or Beckett, Buzzati derives bleak comedy from uncertainty, suffering and even death. In the Northern Sibillini, clouds obscure the highest peaks, evening shadows seep across the lowlands. These mountains are named after an allegedly once-resident sibyl, prophetic denizen of a magical kingdom that could only be reached through a cave. There is also a story that Pontius Pilate, after being sentenced to death by Emperor Tiberius, was stuffed into a sack and dragged into a lake - now called Lake Pilate. Wolves and wildcats roam the tangled forests; goshawks, eagles and peregrine falcons soar across dappled skies. Mountains were a retreat for Buzzati; he walked in the Dolomites whenever he could. In fiction, mountains are places of enchantment, as Hans Castorp discovers in The Magic Mountain, when he goes to an Alpine sanatorium for a brief visit and stays for a mythical seven years. Equally, Drogo tries to leave Fort Bastiani, but is drawn back to its dreamlike repetitions. As Buzzati knew, mountains are beautiful and terrible at the same time: 'ice and stones speaking a strange language', the 'desolation of an uninhabited waste'. As this article goes to press, the volcanic Apennines have been struck by another devastating earthquake. During the First World War, the bloody carnage even reached the Dolomites; battles were fought in treacherous storms at high altitude. More than a million were killed, on both sides, and more than two million were injured. In The Black Swan, Nassim Nicholas Taleb cites Giovanni Drogo as a significant exception to his theory of the significant exception. Drogo is told from the start that Fort Bastiani is never attacked. Yet he has been enchanted and so he awaits the unexpected, even urgently. For Taleb, Drogo is blessed with 'the cathartic simplicity of a single purpose'. He is saved from futility and absurdism and, in the end, it turns out that he was right. Drogo has been enchanted and yet he is more awake than everyone else; he does not believe that things will continue as they are, forever. Drogo fully inhabits his grinding routine; each day is imbued with significance because it might be the day when the Tartars attack. Because of this, he surrenders to the ineluctable passing of years, even with equanimity: 'Meanwhile time was slipping past, beating life out silently and with ever-increasing speed; there is no time to halt even for a second, not even for a glance behind. "Stop, stop," one feels like crying, but then one sees it is useless ... Then there was the secret hope whereby Drogo looked forward to what should be the best part of his life. In order to nurse it he sacrificed month upon month without a thought.' Buzzati, like Mann and like Woolf, under-stands that the waiting is all, and all that matters is how you wait. And there is no grail, however enchanted your mountain, just the mesmerizing, tortuous quest. Camus argued that novels are intrinsically philosophical. In novels people live (and wait). They engage, as we all must, in this weird experiment of being alive, just once, and they ask what it means, this exquisite madness, glory and peril. As I stand in the forests at night, watching meteors burning out in the atmosphere, I understand that the stars represent the past, that they are illuminated ghosts of a former reality. I am looking at Time, which looks like Space. Faced with such perplexities, you might run screaming from the olive groves,
the mountain, the fortress. Or you might clutch at some consoling single purpose. We are all as doomed as Drogo, and yet we get up each day, we adopt our routines, we continue. We expect and hope. There is a further irony intrinsic to The Tartar Steppe, the most hopeful irony of all: Buzzati converted his daily grind, the tedious regime that was devouring his life, into a beautiful and elusive work of art.

Literary Review, Sept 2016
Nước Nam Kỳ

http://www.tanvien.net/Tac_gia_ngoai/dino_buzzati.html

Gấu đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có “Sa mạc Tartares” của Dino Buzzati.

Mới đây, đọc A Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông nói là đọc nó vào thời mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam Kỳ, tại Sài Gòn, khi có BHD.

*

Gấu mua cuốn A Reading Diary Nhật Ký Đọc, cũng lâu rồi. Quăng vào một xó, rồi quên luôn, cho tới khi dọn nhà, nhặt nó lên…

Buzzati notes that, from the very beginning of his writing career, people heard Kafka's echoes in his work. As a consequence, he said, he felt not an inferiority complex but "an annoyance complex." And as a result, he lost any desire to read Kafka's work

Buzzati and Kafka: Perhaps it is not only impossible to achieve justice. Perhaps we have even made it impossible for a just man to persevere in seeking justice.

Buzzati cho biết, vào lúc khởi nghiệp, người ta nói, có mùi Kafka ở trong những gì ông viết ra. Nghe vậy, ông cảm thấy, không phải mặc cảm tự ti, mà là bực bội. Và sau cùng, ông mất cái thú đọc Kafka!

Buzzati và Kafka:

Có lẽ không phải chỉ là bất khả, cái chuyện đi tìm công lý.

Nhưng bất khả còn là vì: Chúng ta làm cho nó trở thành bất khả, để chỉ cho có một thằng cha, cố đấm ăn sôi, cứ đâm sầm vào cái chuyện tìm công lý!

"Không con, thì ai bi giờ hả mẹ?"

[Gửi NTT. NQT]

Gấu đọc Sa mạc Tác Ta [Tartar là một giống dân], bản tiếng Pháp, và không hiểu làm sao, bị nó ám ảnh hoài, câu chuyện một anh sĩ quan, ra trường, được phái tới một đồn biên xa lắc, phòng ngừa sự tấn công của dân Tác Ta từ phía sa mạc phía trước. Chờ hoài chờ huỷ, tới khi già khụ, ốm yếu, hom hem, sắp đi, thì nghe tin cuộc tấn công sắp sửa xẩy ra....

Đúng cái air Kafka!

Trên tờ Bách Khoa ngày nào còn Sài Gòn có đăng truyện ngắn K. của Buzatti. Đây là câu chuyện một anh chàng, sinh ra là bị lời nguyền, đừng đi biển, đi biển là sẽ gặp con quái vật K, nó chỉ chờ gặp mày để ăn thịt. Thế là anh chàng chẳng bao giờ dám đi biển, cho đến khi già cằn, sắp đi, bèn tự bảo mình, giờ này mà còn sợ gì nữa.

Thế là bèn ra Vũng Tầu, thuê thuyền đi một tua, và quả là gặp con K thật. Con quái vật cũng già khòm, sắp đi, nó thều thào bảo, tao có viên ngọc ước quí, chờ gặp mày để trao, nó đây này... 

Ui chao Gấu lại nhớ đến Big Minh, thều thào, tao chờ chúng mày để bàn giao viên ngọc quí Miền Nam, và con K bèn biểu, tao lấy rồi, cám ơn lòng tốt của mày! 

Doãn Quốc Sĩ, có chuyện Sợ Lửa, tương tự. Đây là câu chuyện một anh chàng sinh ra đời là bị thầy bói nguyền chớ có đến gần lửa. Thế rồi, một ngày đẹp trời, thèm lửa quá, bèn đến gần nó, và ngộ ra một điều, sao mà nó đẹp đến như thế. 

Thế là về, và chết! 

Gấu cũng thấy lửa rồi. Và đang sửa soạn về... 

Sự thực, Gấu không gặp lửa, mà gặp… xác của Gấu, trôi lều bều trên dòng Mékong, lần tá túc chùa Long Vân, Parksé, chờ vuợt sông qua trại tị nạn Thái Lan. Gấu đã kể chuyện này nhiều lần rồi.
 

Như nhiều cuốn sách yêu thích, cuốn của Buzzati tôi đọc thuở mới lớn, câu chuyện của Drogo, một sĩ quan trẻ được phái đi trấn giữ“Đồn Xa”, ở tận mép bờ sa mạc Tác Ta, và năm này qua tháng nọ, anh bị ám ảnh bởi cái chuyện là, phải chứng tỏ mình là một tên lính xứng đáng trong cuộc chiến đấu chưa hề xẩy ra, với rợ Tác Ta. 

Đồn Xa quả là một tiền đồn heo hắt. Và chẳng giống ai. Nó có một hệ thống rắc rối, của những mật ngữ dùng để kiểm tra, khi vô cũng như khi ra. 

Tôi [Alberto Manguel] nhớ là đã từng cảm thấy khiếp sợ [và lúc này đang bị] đẩy vào trong một cơn ác mộng của Drogo, gồm đầy những bí mật của những bí mật, của những mật mã, được trao cho, chỉ một vị sĩ quan chỉ huy, và vị này có thể bị mất trí nhớ, hoặc quên mẹ mất đường. Một mạng nhện, của những luật lệ phi lý, sự đe dọa của một kẻ thù vô hình, chúng âm vang, vọng đi vọng lại, rền rền rĩ rĩ, tất cả những nguồn cơn ai oán, những bực bội không lối thoát, vô hy vọng, của một thời mới lớn, và bây giờ, của một người đàn ông đi quá nửa đời người.

* 

Ui chao, đọc một cái là nhớ ra, đúng rồi, đúng rồi, đúng là tình cảnh của… Gấu, những ngày ở Sài Gòn! 

Nào thử so sánh: 

... Bao nhiêu năm, quãng đời vẫn bám cứng. Những giây phút tuy chết chóc, tuy kinh hoàng nhưng sao vẫn có vẻ chi quyến rũ, chi kỳ cục. Cảm giác của một người tuy biết rằng có thể chết bất cứ lúc nào nhưng vẫn loay hoay, cựa quậy: Gã chuyên viên trẻ lui cui chỉnh tín hiệu máy chuyển hình, như đây là tấm cuối cùng, đặc biệt nhất, chất lượng nhất. Gã phóng viên người Mẽo cao như cây sào, chẳng biết một chút gì về máy móc, kỹ thuật, nhưng cũng chăm chú theo dõi, như để nhắc nhở nếu có gì sai sót, và không quên lom khom, cố thu gọn cái thân xác kềnh càng sao cho bằng gã chuyên viên người Việt, ý như vậy là đồng đều nếu chẳng may có một viên đạn bất ngờ. Cả hai cùng lúc nhoài người xuống sàn nhà, có khi còn trước cả một tiếng nổ lớn ngay phía dưới chân building, hay ở Đài Phát Thanh liền bên. Những lúc tiếng súng tạm ngưng, trong khi chờ Tokyo xác nhận chất lượng buổi chuyển hình, và quyết định tấm nào cần lập lại, cả hai chăm chú theo dõi biến động trên bản tin AP, UPI qua máy viễn ký, có cảm giác vừa ở bên trong vừa bên ngoài những giây phút nóng bỏng, và chiến tranh cho đến lúc này, vẫn còn thuộc về những kẻ kém may mắn hơn mình. 

... Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.

…. Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy... 

 ... Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe... 

Cho người chết gật đầu thông cảm. 

Cõi Khác


*

*

ML Avril 2005

Mit Critic

Một Kafka Khác

A Different Kafka
by John Banville 

Note: Tay này, John Banville , nhà văn số 1, phê bình, điểm sách cũng số 1.
Phê bình gia Mít, ít khi viết điểm sách, vì lười đọc, và đọc, cũng đếch biết viết 1 bài điểm sách cho ra hồn!
Đó là sự thực.

Thử đếm coi, Thầy Kuốc điểm sách của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng không, mà mũi tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng rứa.
Nữ phê bình gia viết bằng tiếng Tẩy, DCT, cũng thế.
TK y chang.

GCC ư? Nhiều lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu phát giác ra, ở hải ngoại, và cái ông BN mà Gấu viết, cũng khác ông ở trong nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ ra.

Nhà dzăng đang lú lên, Bà Tám nào đó, cũng GCC phát giác! (1)

Hà, hà!

Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh Hà, Trần Thị NgH... Gấu đều trân trọng viết về họ.


(1)

Ông cũng chả có công mẹ gì trong cái vụ bà Tám ló ra ló vào văn chương này cả. Lý do là trang của ông chỉ một mình ông tự sướng. Bà Tám thì gửi bài cho nhiều nơi khác như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu cùng một lúc, mà ông nào có phải là nhà phê bình và là chủ bút một tờ báo nào đâu mà ông bảo là ông xúc bà Tám lên.

LB

Tên LB này quả là 1 độc giả hết sức “cần mẫn” của TV.
Trong 1 dịp tự hào về cái chiều dài 20 năm làm trang TV, Gấu quả có khoe, đã khám phá ra khá nhiều tác giả, trong có vị chủ trang blog Bà Tám nói trên, và Gấu thú thực, rất hãnh diện về chuyện này.
Nhưng cái sự nổi tiếng của Bà Tám, không có Gấu ở trỏng.
Thú thực cái trò có bài đăng búa xua ở những nơi như trên, chỉ làm bẩn mắt độc giả, vì, vừa mới đọc ở đây, lại phải đọc ở kia, hay đã khổ, mà dở thì thực là khốn nạn.

Steiner, trong 1 lần xoa đầu Sartre, lôi đúng câu mà Gấu trích dẫn, trong bài viết về LMH, “Bếp Lửa” trong văn chương:
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình yêu."

LMH. Lần đầu tiên vợ chồng Gấu gặp gỡ gia đình, trong chuyến ngao du Paris cuối thiên niên, Bà nhắc tới bài biết của Gấu đăng trên Văn Học, và nói, làm sao mà ông lại kiếm ra đúng câu văn cháu giấu thật kỹ ở trong đó, không hề tin rằng có người tìm ra nó, để mà khen?

Cũng thế, là với Bà Tám. Câu văn mà Gấu, đọc 1 phát, đúng là bị chấn động khủng khiếp, nhưng khác câu của LMH, ai cũng đọc nó, không thể bỏ qua, nhưng thực sự, chưa đọc:

Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.

Bà Tám này, đúng ra là rất sợ nổi tiếng, theo Gấu.
Có lần chính Bà thú nhận, tôi sợ đau, nên không dám đụng vô những chỗ đau.
Và mỗi lần lỡ đụng vô, là có 1 bản văn thật được!
GCC mới đọc 1 truyện, đúng thứ đó.

Mời bạn nghe truyện ngắn Màu Mắt Chưa Quên qua giọng đọc của Ngọc Phụng. Cám ơn chị Ngọc Phụng và Gió O.  Nhắn nhỏ: Truyện hoàn toàn là tưởng tượng.

https://chuyenbangquo.wordpress.com/2016/09/06/mau-mat-chua-quen/

Thời gian viết cho Văn Học của NMG, Gấu được Thấm Vân gửi cho mấy tác phẩm của Bà, chắc cũng có ý nhờ đi 1 đường điểm sách.
Thú thực, lúc đó, Gấu không đọc được, do cái khẩu vị của mình không hợp.
Phải đến những ngày mới đây, tò mò theo dõi, khi được Bà yêu cầu/ra lệnh, ta cho phép mi là bạn FB của ta, thì mới nhận ra cái phần “ngộ nhận” của Gấu về chuyện sex của Thấm Vân: Tác giả cũng có “giấu”, khi đụng vô nỗi đau này.

Quái “1 phát”, là đây chính là nội dung “thư toà soạn” của tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Lò Thiêu, lấy từ 1 câu của Melville, “Tôi chọn đừng”.
Đây cũng là câu TTT viết, khi “ngừng viết”, sau khi ra khỏi Trại Tù VC, qua 1 ấn bản khác của nó:

Tôi tự hỏi khi nào tôi lại-viết?

Truyện ngắn của HH, theo tôi, đúng là thứ "tôi chọn đừng", như vậy, khi viết về nỗi đau/hạnh phúc:

Tôi không tiến tới dù chưa có người đàn ông nào làm tôi cơ thể thèm muốn đến thế. Tôi nhớ cái mùi đàn ông của anh đến ngây ngất. Tim tôi vẫn đập rộn ràng khi nghĩ đến buổi sáng dưới chân cầu. Scott thích mái tóc dài, dáng dấp nhỏ nhắn, nước da màu mật của tôi. Anh không ngần ngại nói với tôi điều này và ngạc nhiên khi tôi nói thật là tôi vẫn thường mang mặc cảm xấu xí. Màu da của anh và màu da của tôi thường làm tôi liên tưởng đến cà phê sữa và kem vanilla hay con ong bầu đậu trên hoa lan trắng. Anh thường bảo, “mỗi sáng em phải soi gương và tự bảo mình là Scott thấy em rất là xinh xắn.” Tôi nói xa xôi, “quan hệ làm việc không nên để lẫn tình cảm cá nhân. Những người làm việc chung dễ ghét nhau vì tranh tài giành chức giành quyền, tình cảm riêng tư thường bị tổn thương và chết sớm.” Anh hay nói đùa là tôi là hiện thân của sắt (thành cầu) và đá (chân cầu). Anh nói nếu vợ anh làm lương cao hơn, anh tình nguyện ở nhà nấu cơm và viết văn. “Nếu em trở thành xếp của tôi, tôi sẵn sàng nâng xếp lên khỏi đầu bằng hai cánh tay tôi.” Tôi dùng một ẩn dụ của dân kỹ thuật trả lời, “thép này đã từng đổ biết bao nhiêu mồ hôi đấy nhé!”
Điều mà tôi muốn nói nhưng giữ lại lời là, tôi là một phiến đá biết sầu tư!

Tên số 2, tên Phén, thi sĩ LH….  Cả 1 băng văn học này, hình như đều được gia đình của chúng bảo lãnh qua Xứ Lạnh. Chúng chưa từng biết cái nhục ở Trại Tị Nạn, vừa lo bị trả về, vừa lo không nước nào nhận, vừa đói, vừa nhục, đủ thứ. Chúng tưởng vô xứ người dễ lắm. Không tên nào thở ra được 1 câu cám ơn cái xứ sở đã nhận chúng cả. Tên số 2 than thở, ở xứ lạnh tôi chỉ có bạn mũi lõ, không có 1 tên bạn mũi tẹt nào. Nó đâu có coi cái băng đảng văn học Montreal là thằng nào thằng nào đâu. Được dịp là tếch đi Mẽo, làm chủ bộ lạc Cờ Lăng, làm Thái Thượng Hoàng cơ sở Người Vịt, cực kỳ khốn nạn. Lần đầu Gấu đọc hắn, là 1 bài viết ngắn, trên tờ Thế Kỷ 21, hình như cũng đã viết ra rồi, một buổi sang hắn vô tòa báo, nhấp nhấp ly cà phê, phán, Sài Gòn có người chết đói rồi đấy, ngay bên hông Chợ Bến Thành
.


Jean Améry

Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt [Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!

Jean Améry viết về Sầu Xa Xứ:

Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal du pays, le Hauptwehe, “nỗi nhức nhối số 1 “la douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì khác, cực khác về bản chất, so với những gì tôi viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ không phải là tự an ủi, mà là tự huỷ. Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
http://www.tanvien.net/tribute/sebald.html

*

The destruction of someone's native land is as one with that person's destruction. Séparation becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in line with a wish to revise history.

Sebald viết về Jean Améry: Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible. 

[Sự huỷ diệt quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử]. 

L'homme a des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.

W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis,  trong "Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…

W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss


My Old Saigon




Cảnh đẹp VN

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
theguardian.com/books
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

War_Pix
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life

Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi


Blog TV

Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Bếp Lửa trong văn chương

Báo Văn [Phê Bình] cũ, có bài của GCC

Mù Sương
Hồi Ký Viết Dưới Hầm
Nghĩ về phê bình
Mây Bay Đi
Nguyễn Du giữa chúng ta
  "Tạp Ghi" by Tuấn Anh
Chữ và Việc
TSVC
Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

Xuân Vấn Đề Kỷ Dậu

Truyện ngắn Võ Phiến

Những ngày ở Sài Gòn
nhà xb Hoàng Đông Phương

Mộ Tuyết
[Hồi bắt đầu đi làm]

Happy Birthday GCC

Cali 3.08

Cali Tháng Tám 2011

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

Cali 2012 With H/A

Lolita vs BHD





America’s new president
The Trump era
http://www.economist.com/news/leaders/21709951-his-victory-threatens-old-certainties-about-america-and-its-role-world-what-will-take

Cái vụ Trump trúng quả này, Philip Roth đã tiên đoán ra được, khi viết Cú Độc Chống Anh Mẽo
https://en.wikipedia.org/wiki/The_Plot_Against_America

*


Sách & Báo & Thời Sự Văn Học

Funny Man by David Grossman

Funny man

How David Grossman draws laughter from tears

Nov 5th 2016 | From the print edition
  • Timekeeper

A Horse Walks into a Bar. By David Grossman. Translated by Jessica Cohen. Jonathan Cape; 197 pages; £14.99. To be published in America by Knopf in February 2017.


L' Appel Du Mort

* *

* *

Tin Văn sẽ dịch tiếp Call For The Dead

*

Ấn bản mới, có cái intro, viết năm 1992, của tác giả.


Có thể nó là cuốn đầu tiên của Le Carré, mà Gấu đọc, khi Saigon tràn ngập sách Tẩy, thứ sách bỏ túi, Livre de poche, qua chương trình IC, Thông tin & Văn hóa, bán bằng giá ở Tẩy.
Đọc nhưng lại bỏ qua. Phải đến khi vớ được cuốn Gián điệp đến từ miền đất lạnh, cũng qua bản tiếng Tẩy, ở nhà sách Xuân Thu, mới sững sờ.
Có thể nói, lúc đó, chưa tên Mít nào biết đến Le Carré. Phải đến khi ở tù Bangkok, thì mới lại gặp nó, qua bản tiếng Anh.
Với GCC, cuốn này bảnh hơn nhiều, so với Gián điệp về từ miền đất lạnh, do hai đòn, phải nói là của bậc thầy, trong nghề viết trinh thám điệp viên nghẹt thở.
Đành phải mua, vì mấy cuốn cũ Cô Út đem cho nhà thương, làm từ thiện!
Bố đừng đọc sách nữa, vui với cháu chẳng sướng hơn ư!


Tên Yankee mũi lõ đầu tiên được Man Booker

Pour la première fois, un Américain remporte le Man Booker Prize
Le mercredi 26 octobre 2016
http://www.magazine-litteraire.com/prix/pour-la-premi%C3%A8re-fois-un-am%C3%A9ricain-remporte-le-man-booker-prize

Mardi 25 octobre à Londres, Paul Beatty a remporté le Man Booker Prize pour son roman Moi contre les Etats-Unis d’Amérique (Cambourakis), satire sur la vie urbaine américaine. « Un livre très dur à digérer », a confié à la BBC l'auteur qui a empoché un chèque de 52000 livres, soit 59000 euros.

Âgé de 54 ans, Paul Beatty est le premier écrivain américain à être le lauréat de ce prix créé en 1968, parmi les plus prestigieux en langue anglaise, au départ réservé aux romanciers britanniques, irlandais et ressortissants du Commonwealth. En effet, il a fallu attendre 2013 pour que son champ s’étende à l’ensemble du monde anglophone.

Viết Mỗi Ngày

Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Thanh Việt: Author Viet Thanh Nguyen Discusses 'The Sympathizer' And His Escape From Vietnam (KERA 4-11-16) -- Phỏng vấn dài, đáng đọc. (Như tôi đã nghi ngờ, tác giả xác nhận là ông nhớ đến trường hợp Phạm Xuân Ẩn khi viết cuốn này!) ◄

Note: Ngay từ khi cuốn sách vừa xuất hiện, do thấy đấng này khoe đọc Sebald, Gấu đã tìm đọc, và giới thiệu, hoá ra cũ
ng 1 thứ đệ tử PXA, và đề nghị đổi tên sách, không phải Cảm Tình Viên, mà là Kẻ Phản Thùng, vì, giả như Bắc Bộ Phủ không sợ PXA, ăn bơ sữa Mẽo lâu quá, biến thành Mẽo, hủy bỏ lệnh di tản, bắt ở lại xứ Mít, đi học tập tẩy não, thì cuốn sách sẽ do chính PXA viết!
Tên chủ trang net này, cũng là 1 tên Miền Nam bỏ chạy nhờ chính sách du học của Ngụy.

 Kẻ Phản Thùng

Khi cuốn sách của cái tay này, được Pulitzer, rồi lại thấy anh ta khoe, Sebald là my"hero", GCC mừng quá.
Hóa ra đồ dởm, và thay vì, Cảm Tình Viên, thì Gấu bèn dùng đúng cái từ dành cho nó: Tên Phản Thùng.

Cái tên dịch bài viết này, lại càng 1 tên phản thùng.
Tên này, như đã từng lèm bèm, đệ tử của Cao Bồi, bố là Ngụy, giám thị Chu Văn An, được Ngụy cho du học rồi làm Cớm cho VC tại Paris.
Không phải tự nhiên mà hắn dịch bài viết nói lên quan điểm của tác giả cuốn sách. Cũng 1 cách chạy tội, như cả 1 lũ nằm vùng làm mất Miền Nam.

V/v
 cuộc chiến Mít.

Trên 40 năm rồi, đã bắt đầu cho thấy nguyên nhân đích thực của nó.
Trước hết, nó không phải là 1 cuộc chiến giải phóng của 1 đất nước cựu lục địa
của Pháp.
Cái sự lệ thưộc đến trở thành bồi Tẫu của Bắc Bộ Phủ như bây giờ, cho thấy, đây là cuộc chiến giữa các thế lực đế quốc ngoại bang, Pháp, Mẽo, và Tẫu "nằm vùng", đúng như Solz, là người đầu tiên, ngay từ những ngày 1975, phán, trong 1 chương trình trả lời phỏng vấn văn học trên 1 đài truyền hình Pháp. Ông bị Octavio Paz chê, hiểu sai, nhưng bây giờ, lịch sử cho thấy, Solz cực kỳ sáng suốt.
Làm sao mà ông ta nhận ra được 1 cách sớm sủa như thế?
TTT, khi từ giã gia đình, khăn gói quả mướp, mang theo 10 ngày đường lương thực lao động cải tạo, nói với thằ
ng em, GCC, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
Có điều, ông không làm sao nhìn ra, vào những ngày ngay sau 30 tháng Tư 1975,
xứ Mít sẽ có nguy cơ, bị "biến mất" vì chiến thắng này đỉnh cao chói lọi này, mới đúng "con cào cào, chuồn chuồn, châu chấu"!
Cái “thuật ngữ”, “Tháng Tư Đen”, lúc thoạt đầu được đám Miền Nam hải ngoại sử dụng, nó có 1 ý nghĩa hạn hẹp và bị những tên phản thùng như lũ này, vin vào đó, để viết nhảm, đúng ra phải được dùng để chỉ xứ Mít như là hiện nay, bắt đầu từ ngày 30 Tháng Tư 1975.

Như GCC đã từng viết, "Bức Tường Lòng", của Mít,
như Bức Tường Bá Linh của Đức, chỉ bắt đầu có, kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975.
Không phải trước đó.

Cuốn tiểu thuyết Kẻ Phản Thùng, đúng ra - vẫn "đúng ra" - người viết phải là Cao Bồi, giả như anh được Bắc Bộ Phủ cho di tản tiếp, tiếp tục nằm vùng ở Mẽo.
Một số những nhà hoạt động ở trong nước, mà GCC không tiện nêu tên, vì sợ làm họ khốn đốn thêm với VC, đã nhìn ra sự kiện, như GCC trình bày, trên đây.
Cái cực kỳ thê lương
khốn kiếp của cuộc chiến Mít, là không thể nào có 1 hồi ức nào về nó, kể cả những hồi ức tù của đám Ngụy, mà đa số là đồ dởm.
Không thể hồi ức, tưởng niệm, kể cả ở lũ VC!
Một tên già, tay đầy máu Ngụy, như tên NN, thí dụ, cái hành động, cái ý thức "tự kiểm" [mauvaise conscience] cao nhất của hắn ta, là cởi mặt nạ, nhìn 1 tên Mẽo, kẻ thù ngày nào của hắn.
Hắn đâu biết -tất nhiên làm ra vẻ đếch biết -
Ngụy là gì?
Nếu nói về thái độ chính trị, thì cứ tạm gọi như vậy, tay này thua xa Nam Lê, tác giả Con Thuyền, The Boat.

Nhớ, Sến có lần ngỏ ý khen chế độ Ngụy, nhưng cảnh cáo liền, đừng có nghĩ ta có ý vực dậy cái xác chết, cái thây ma đó
Giả như Sến muốn như thế, cũng vô phương.
Cái chế độ Ngụy
là chế độ đẹp nhất của xứ Mít, và sở dĩ như thế, là do nền của nó là 1 thiên đàng, tức 1 Miền Nam, 1 Sài Gòn, đúng như nó được gọi, 1 hòn ngọc Viễn Đông, và vẫn sở dĩ được như thế, không phải vì nó nguy nga to tát, bề thế hơn Bangkok, như tên ngu đần Thái Dúi đi 1 đường chọc quê trên Bi Bì Xèo, mà là do khí hậu được thiên nhiên ưu đãi, do dân tình hiền hòa, do cái gọi là mentalité, hay văn minh, vivilisé, của dân Nam Bộ, và còn do thằng Tẩy không hề có phân biệt đối xử với lũ cô lô nhần Nam Kít, điều này, 1 số nhà văn nổi tiếng, như Graham Greene, hay Maugham, xác nhận, như Tin Văn đã từng trưng ra, như là những bằng chứng có thiệt.
Một khi Bắc Kít ăn cướp được, nó trở thành bửn, y hệt xứ Bắc Kít, như nó từng bửn, do cái độc, cái ác gây nên.

Kafka phán, con người bị đá đít ra khỏi thiên đàng, nhưng không vì thế mà thiên đàng bị hủy diệt.
Than ôi, Ngài chết sớm quá. Nếu giờ này, mà còn sống, chắc Ngài phải làm 1 cú hiệu đính, như thói quen cực bửn,
của đám nhà văn Bắc Kít!

Cao Bồi, Bạn Gấu Nhà Văn

Cựu chủ [Time] viết về nhân viên cũ.

(1) DIED. Pham Xuan An, 79, Viet Cong colonel who worked during the Vietnam War as a highly respected journalist for TIME while spying for the communists—a double life kept secret until the mid-'80s; in Ho Chi Minh City. The first Vietnamese to become a staff correspondent for a U.S. news outlet, An said he was an "honest reporter" who did not spread misinformation. From his unique perch at TIME's Saigon bureau, the popular, plugged-in An was able to achieve feats for both sides, alerting the Viet Cong to the impending buildup of U.S. troops in the mid-'60s and secretly arranging for the release of American journalist Robert Sam Anson, captured in Cambodia by the Khmer Rouge.

[Từ trần. Phạm Xuân Ẩn, 79 tuổi, đại tá Việt Cộng, trong chiến tranh Việt Nam, là một ký giả rất được kính trọng của tờ Time, cùng lúc còn làm công tác gián điệp cho Cộng Sản - một cuộc sống kép được giữ kín cho tới giữa thập niên 1980, tại Thành Phồ Hồ Chí Minh. Người Việt Nam đầu tiên trở thành nhân viên chính thức, cho một tờ báo lớn của Mỹ, tại một trụ sở ở nước ngoài của nó. Ẩn nói, ông phục vụ như là một "thông tín viên lương thiện", theo nghĩa, không phao tin dởm. Giống như một con cú, đậu chót vót trên cao, từ vị trí độc nhất của mình ở tòa soạn báo Time, con người bình dân, giao thiệp rộng rãi, nằm vùng là Ẩn đó có thể hoàn thành những kỳ công cho cả hai bên, trong đó có việc báo động cho VC về những cuộc điều động quân đội Hoa Kỳ trong thời gian giữa thập niên 1960, và, bí mật dàn xếp với lực lượng Khờ Me Đỏ, để họ thả ký giả Mỹ Robert Sam Anson, bị bắt tại Cambodia.]

Tẫu có câu:
Tiểu lượng phi quân tử
Vô độc bất trượng phu

(Lượng nhỏ chẳng thành người quân tử
Không độc sao nên đấng trượng phu)
Cú ngửa tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì, với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!], biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có cờ rồi, chúng không có lý do nào để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện của PXA, có thể tình hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà biết thiên hạ sẽ phân ba.

PXA biết, nhưng không biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như không còn.
Vào những giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là vì những chuyện đó, chắc chắn như vậy.
*

Năm học Đệ Nhất Chu Văn An, ông thầy dậy sử của Gấu là Vũ Khắc Khoan. Học ban B. B8, ngay cổng ra vào, khi nhà trường còn nằm nhờ truờng Pétrus Ký, miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Người hồi đó đi solex, rất nhiều khi tới cổng vẫy vẫy, ra ý, hôm nay Thầy bận, rồi đi. Nếu có vô lớp thì cũng ít khi nói về sử, mà thường là về kịch, về “chúng ta đã xuống thuyền”, và về…Hà Nội.
Có một lần ông kể chuyện, về mấy anh Tây mũi lõ, ở bên chánh quốc, thất nghiệp, đói rã họng, bèn kiếm cách xuống tầu tới Đông Dương, tới Hà Nội, không phải để kiếm việc làm, thiếu gì, nhưng mà là để làm “cái bang”, mỗi khi cần tí tiền, là ra nhà hàng Godard, lấy cái nón trên đầu xuống, lật lên, xin tiền đám Mít quí phái, và đám Tây Đầm.
Lũ Tây Đầm ngượng lắm, vừa thấy cái nón lật lên, là thẩy tiền liền. Thấy "đường được", là tếch. Nhất định không chịu kiếm việc làm. Thế mới thú.
Đám Mẽo làm hùng hục, chỉ mãi đến khi quá chán cuộc chiến Mít, mới nghĩ ra trò này: Ăn xin thay vì làm việc!

Liệu Cao Bồi biết kỳ tích đó, và anh sử dụng đòn ăn xin - không phải xin đám Bắc Bộ Phủ [mày cho tao bao nhiêu cho xứng công lao gian khổ “nằm Time [Tai, không phải Gai], nếm XO”, làm một tên cớm VC nằm vùng, bán đứng cả một miền đất đã từng cưu mang mấy đời họ Phạm, gốc Hải Dương, Bắc Kít - mà xin mấy anh bạn báo chí cũ, một công đôi ba việc: Tao xin tiền tụi bay, vì tao lỡ lừa tụi bay, và chỉ có cách xin tiền tụi bay, chịu nhục chịu nhã như thế, thì mới phần nào chuộc tội, với cả tụi mày, và cả đồng bào của tao.

Tuyệt chưa?
Thảo nào đã có thời đánh bạn với Gấu!

*

Saigon Streets © 2005 by Dirck Halstead
[Dirck là Sếp UPI của GCC]
*

Jean Améry: Par-delà le crime et le châtiment
http://www.tanvien.net/notes_1/par_dela.html

"La catastrophe nazie est désormais la référence absolue et radicale de toute existence juive."
Tai ương Nazi từ nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để, tất cả hiện hữu Do Thái.
Tai ương 30 Tháng Tư 1975, và cùng với nó, Lò Cải Tạo...  từ nay là điểm qui chiếu, tuyệt đối, triệt để, mọi hiện hữu Mít.

Il n'est pas bon de ne pas avoir de patrie


Gấu có nhớ nhà không?

Thư tín, 

Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.

Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.

Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.

Note:

Cu
ốn này, cũng 1 cuốn gối đầu của Gấu, được vị bằng hữu O gửi cho. May sao còn, không bị vụ phần thư vừa rồi!
Mỗi lần đọc, là mỗi lần nhớ đến kinh nghiệm của Tam Ích. Ông phán, đại ý, tuổi trẻ của tôi thật là tuyệt vời nếu không vô tình biết đến Lò Thiêu. Biết 1 phát, thế là xong không chỉ tuổi trẻ, mà luôn cả cuộc đời.
Có thể vì lý do như thế mà Ông Giời phải để cho Gấu, về già, mới cho đọc 1 số tác giả, như Jean Améry!
Hay có được những vì bằng hữu như hai vị O & K!

Đọc Améry, cực kỳ thê lương.
Không tốt gì đâu, cái chuyện không đọc Jean Améry!
[Thuổng văn của ông, Il n'est pas bon...].
Trong số những người sống sót Lò Thiêu, khủng nhất là Améry, đúng như Kertesz gọi ông, Ông Thánh Lò Thiêu:

http://www.tanvien.net/dich/kertesz_lire.html

Ông thấy ông đứng ở đâu so với các chuyện do Elie Wiesel hay Primo Levi kể?

I.K. Chỉ vừa mới gần đây tôi mới được đọc Đêm Đen - La Nuit, của Elie Wiesel, bởi vì vào năm 1960, quyển sách này không có ở Hung. Tôi choáng váng khi đọc: tôi khám phá hóa ra lúc đó chúng tôi cùng ở Buchenwald. Wiesel để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng. Còn Primo Levi thì khác. Ông ta chưa tận căn cho đủ. Tôi muốn nói ông không bao giờ rời tầm nhìn nhân văn của sự việc mà đối với tôi điều này thật hoàn toàn xa lạ. Với tôi, kiệt nhân của trại tập trung là văn sĩ người Pháp: Jean Améry.
Ông ta mới là người đi rất xa, nhất là trong quyển Vượt quá tội ác và hình phạt - Par-delà le crime et le châtiment. Tuyệt đối phải đọc các bài trao đổi giữa ông và Primo Levi: Améry nói đến cái thiết yếu. Chưa ai đi xa hơn ông trong cách suy nghĩ về chế độ tập trung chủ nghĩa.


My Old Saigon

Quán Chùa ở Paris: Khói, Sex, và Hiện Sinh
 
At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails.
 By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

*     *

Bài Tạp Ghi đầu tiên của GCC, là viết về Quán Chùa Saigon. Và về đám bạn hữu Tiểu Thuyết Mới, Hiện Sinh và không khí văn chương của thời mới lớn của GCC @ Saigon

Vào cái "thời bây giờ", cả ba tờ báo, Người Kinh Tế, Văn Học Tẩy, và tờ Điểm Sách Ăng Lê, đều viết về cái mùi hiện sinh thời đó, ở Paris, toát ra từ bướm de Beauvoir!
Có 1 thứ triết học, là, hiện sinh, mà cái mùi của nó, là, mùi bướm!
EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947.

Sài gòn bảnh hơn nhiều, có hơn 1 bướm "de Beauvoir"

Bướm "em lên anh nhé, mưa không ướt đất, bướm "mèo đêm, lao vào lửa", bướm "vết thương dậy thì, vòng tay học trò"

Bài trên tờ Điểm Sách Ăng Lê tuyệt nhất. Đi trước bài trên Người Kinh Tế

At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails. By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the city’s liberation in 1944.

Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”.

Certainly there was action. One evening in Paris, a restaurant punch-up involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler spilled out on to the streets. In New York another novelist, Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party” ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism offered a rationale for the feeling that life is absurd.

Countless adolescents, both young and old, have discovered the joys of angst through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive and entertaining study of these thinkers and their hangers-on, Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described on the cover as “a novel of the alienation of personality and the mystery of being”.

It was over apricot cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries. The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political scientist and philosopher, had just returned from Germany with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained, “you can talk about this cocktail and make philosophy out of it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing one’s own experience of them, preferably in mundane settings. Sartre and de Beauvoir set out to do just that.

Drawing on considerable personal knowledge, Sartre delved into “the meaning of the act of smoking”, among other things. Observing the behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine reflections on the nature of freedom and authenticity. De Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female experience of everyday life, she illustrated the ways in which gender is shaped by self-consciousness and social expectations. Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential product of European café philosophy of the period.

When Norman Mailer was asked what existentialism meant to him, he reportedly answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists, such as Sartre, earned their label by focusing on a sense of “existence” that is supposedly distinctive of humans. People are uniquely aware of—and typically troubled by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence is thus not at all like the existence of brute matter, or, for that matter, like the existence of brutes. People, but not animals, find themselves thrown into the world, as existentialists liked to say. They are forced to make sense of it for themselves and to forge their own identities.

The café philosophers came to regard each other’s existence as particularly troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained an intellectually devoted pair until his death in 1980, the main characters in post-war French philosophy drifted apart with varying degrees of drama. So did the German philosophers who inspired them.

Sartre’s embrace of Soviet communism, which he abandoned only to endorse Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless towards the failings of the democracies but ready to tolerate the worst crimes as long as they are committed in the name of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist movement, broadly defined, with providing inspiration to feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected things.


*

Bàn của Gấu, hè đường Lê Thánh Tôn, nơi người bộ hành qua đường.
Cái Honda thường dựng trên hè đường, đầu chiếc xe tải...


manhhai
SAÏGON - Rue Catinat
đường Catinat, nơi ngã tư Lê Thánh Tôn - Đồng Khởi ngày nay
   Avec le salon de thé "La Pagode" sur la droite !
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/5203227375/in/photostream/

*

Bên kia đường, phiá bên phải, là Quán Chùa, La Pagode
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/

ELEGY FOR A PARK
The labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night

*

http://www.tanvien.net/Dich_1/bad_friday.html

If Tristes Tropiques is, therefore, among the first classics of the current ecological anguish, it is also much more, being, in the final analysis, a moral-metaphysical allegory of human failure. It looks forward with haughty melancholy to the image of the globe–cooling, emptied of man, cleansed of his garbage-that appears in the coda of Mythologiques. There is melodrama in this anticipation and a touch of pomp (it is beautifully right that the chair Levi-Strauss will in a few weeks occupy at the French Academy should be that of Montherlant). But there is also a profound, authentic sorrow. "Anthropology," says Levi-Strauss in concluding Tristes Tropiques, can now be seen as "entropology": the study of man has become the study of disintegration and certain extinction. There is no darker pun in modern literature.
June 3, 1974
Steiner: The Lost Garden (on Levi-Strauss)

Những dòng Steiner vinh danh Levi-Strauss, Khu Vườn Đã Mất, cùng bài thơ của Borges, Bi Khúc dành cho công viên, được lôi ra ở đây, là để vinh danh Quán Chùa: Nghiên cứu con người trở thành nghiên cứu 1 sự phân hủy, và tiệt giống: Quán Chùa

Cuốn trên, sách gối đầu của GCC, Cô Út đem làm từ thiện, đành phải order cuốn mới, mới về.
Đã giới thiệu vài bài rồi.
Tuyệt nhất, là bài về Simone Weil, được vị bằng hữu O. dịch.

Tks

Trang Simone Weil


Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?

Phúc đáp:
Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi.
*
Gia roi phai hien ma chet!

Đa tạ.
Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!

Phỏng Vấn Steiner

Tuy cũng thuộc băng đảng thực dân [mới, so với cũ, là Tẩy],  nhưng quả là Sontag không đọc ra, chỉ  ý này, của Steiner, trong Bad Friday:

For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland.  

Với Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân có hồi đáp liền tù tì theo kiểu đối xứng, cả về tôn giáo và chính trị, với sự thoái hóa ở nơi quê nhà, tức “mẫu quốc”.

Nhưng Bắc Kít, giả như có đọc Weil, thì cũng thua thôi, ngay cả ở những đấng cực tinh anh, là vì nửa bộ óc của chúng bị liệt, đây là sự thực hiển nhiên, đừng nghĩ là Gấu cường điệu. Chúng làm sao nghĩ chúng cũng chỉ 1 thứ thực dân, khi ăn cướp Miền Nam, vì chúng biểu là nhà của chúng, vì cũng vẫn nước Mít, tại làm sao mà nói là chúng ông ăn cướp được.

Chúng còn nhơ bẩn hơn cả tụi Tẩy mũi lõ, tụi Yankee mũi lõ.


Dong Trinh liked this.
Hoang Bao Truong shared a memory.
17 hrs ·

Một năm nhìn lại!

1 Year Ago
See Your Memories
Hoang Bao Truong
November 5, 2015 ·

Thế mới thấy, suốt 40 năm gian dối, xuyên tạc, dựng việc, dựng nhân vât... bóp méo lịch sử chỉ để ca ngợi một nhóm người, một tổ chức... đề rồi hôm nay ta nhận được quả đại bác bắn thẳng vào. Chỉ là mới bộ Giáo dục nhận trước phát đầu thôi, còn nhiều phát nữa. Vậy mới thấy "vải thưa che mắt thánh", sự thật muôn đời vẫn là sự thật!




“Khai tử” môn lịch sử?
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết sẽ tích hợp môn…
tamnhin.net

Steiner còn bài “Thánh Simone-Simone Weil”, trên TV cũng đã giới thiệu.

For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a classical or scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by cant or taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality" theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To take seriously, existentially, the question of the significance of human life and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or futility of political action and social design is not merely to risk personal health or the solace of common love: it is to endanger reason itself. The two individuals who have in our time not only taught or written or generated conceptually philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain, in self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein and Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit shadows.

Đối với Simone Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu tới băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil lập ngôn – những lập ngôn này dù được trích ra từ văn chương cổ điển hay kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới tim vấn nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn bước trước mâu thuẫn, điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một cõi xé lòng, và, đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như thế, thì, những cuộc thảo luận thần học, những định đề triết học chỉ là ba trò tầm phào giữa đám khoa bảng. Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn, câu hỏi về ý nghĩa đời người và cái chết trên hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi hỏi về đáng hay không đáng, một hành động chính trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn đòi hỏi như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân, cho sự khuây khoả của một tình yêu chung, mà nó còn gây họa cho chính cái gọi là lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói, viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số 1, nhưng đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó là vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như nhau.

Le poète intraitable

Il ne peut toutefois adhérer au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit en polonais) a joué à cet égard un rôle capital dans son évolution intellectuelle. Elle aura été la première à dévoiler la contradiction dans les termes que représente le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée intégralement matérialiste (comme celle d'Engels), l'histoire est le produit de forces entièrement étrangères à l'individu, et l'avènement de la société communiste, une conséquence logique de l'histoire; la liberté n'y a aucune place. En y introduisant la « dialectique ", Marx réaffirme que l'action des individus est malgré tout nécessaire pour qu'advienne la société idéale: mais cette notion amène avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à elle seule le matélialisme. C'est cette contradiction qui va conduire les sociétés « socialistes" à tenir l'individu pour quantité négligeable tout en exigeant de lui qu'il adhère au sens supposé inéluctable de l'histoire. Mais la philosophie de Simone Weil apporte plus encore à Milosz que cette critique: elle lui livre les clés d'une anthropologie chrétienne qui, prolongeant Pascal, décrit l'homme comme écartelé entre la « pesanteur" et la « grâce ".

Nhà thơ không làm sao “xử lý” được.

Tuy nhiên, ông không thể vô Mác Xít: Việc ông đọc Simone Weil [mà ông dịch qua tiếng Ba Lan] đã đóng 1 vai trò chủ yếu trong sự tiến hóa trí thức của ông. Bà là người đầu tiên vén màn cho thấy sự mâu thuẫn trong những thuật ngữ mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đề ra. Ðối với một tư tưởng toàn-duy vật [như của Engels], lịch sử là sản phẩm của những sức mạnh hoàn toàn xa lạ với 1 cá nhân con người, và cùng với sự lên ngôi của xã hội Cộng Sản, một hậu quả hữu lý của lịch sử; tự do chẳng hề có chỗ ở trong đó. Khi đưa ra cái từ “biện chứng”, Marx tái khẳng định hành động của những cá nhân dù bất cứ thế nào thì đều cần thiết để đi đến xã hội lý tưởng: nhưng quan niệm này kéo theo cùng với nó, chủ nghĩa lý tưởng của Hegel, và chỉ nội nó đã chửi bố chủ nghĩa duy vật. Chính mâu thuẫn này dẫn tới sự kiện, những xã hội “xã hội chủ nghĩa” coi cá nhân như là thành phần chẳng đáng kể, bọt bèo của lịch sử, [như thực tế cho thấy], trong khi đòi hỏi ở cá nhân, phải tất yếu bọt bèo như thế. Nhưng triết học của Simone Weil đem đến cho Milosz quá cả nền phê bình đó: Bà đem đến cho ông những chiếc chìa khoá của một nhân bản học Ky Tô, mà, kéo dài Pascal, diễn tả con người như bị chia xé giữa “trọng lực” và “ân sủng”.

Chúng ta phải coi cái đẹp như là trung gian giữa cái cần và cái tốt (mediation between necessity and the good), giữa trầm trọng và ân sủng (gravity and grace). Milosz cố triển khai tư tưởng này [của Weil],  trong tác phẩm “Sự Nắm Bắt Quyền Lực”, tiếp theo “Cầm Tưởng”. Đây là một cuốn tiểu thuyết viết hối hả, với ý định cho tham dự một cuộc thi văn chương, nghĩa là vì tiền, và cuối cùng đã đoạt giải! Viết hối hả, vậy mà chiếm giải, nhưng thật khó mà coi đây là một tuyệt phẩm. Ngay chính tác giả cũng vờ nó đi, khi viết Lịch Sử Văn Học Ba Lan. Tuy nhiên, đây là câu chuyện của thế kỷ.

* *

Đọc cú chót


http://www.lrb.co.uk/v38/n20/sheila-fitzpatrick/vodka-plus-caesium

LRB điểm hai cuốn Nobel năm ngoái.
Cũng đâu phải.... văn chương?

TV sẽ scan & post và lai rai ba sợi về hai cuốn này. Tuyệt lắm, đúng như vậy. Thà rằng thứ này, còn hơn là thứ âm nhạc phản chiến!
Hứng viết của Bà là từ phim Lò Thiêu của Claude Lanzmann, có thể nói như vậy
Svetlana Alexievich won the Nobel Prize for Literature in 2015, but some people still don’t think her books are literature. In fact, they are collective oral histories, of similar genre, though completely different in tone, to those of Studs Terkel in the United States, whom she has probably never read. Her main influence as far as genre is concerned was the Belorussian writer Ales Adamovich, who in the 1970s (with Daniil Granin) collected the testimonies of wartime Leningrad survivors in Blokadnaia kniga, but that’s not very helpful in a Western context since nobody has heard of him. Lately, Alexievich has taken to citing Claude Lanzmann’s Shoah as an inspiration. Her first book, with methodology already honed, was finished before Shoah was made, so that obviously can’t be taken literally. But it’s a way of letting a Western audience know that what she’s doing is exploring suffering and loss through the voices of the sufferers.

*

"And this time you're going to Stockholm."
Và lần này, là Stockholm

PRIMO LEVI
THE SURVIVOR'S SUICIDE
by James Atlas
JANUARY 1988

In the spring of 1987, Primo Levi's literary reputation had never been higher. All over the world, translators were preparing his work for publication. There were even rumors that he might win a Nobel. "You'd better get ready to travel again," Levi's publisher teased him over the phone on Friday, April 10. "And this time you're going to Stockholm." Around ten o'clock the next morning, Iolanda Gasperi, the concierge of Levi's building, at 75 Corso Re Umberto in Turin, rang the bell of his fourth-floor flat and handed him the mail. "Dr. Levi had a tired look," she recalled, "but that was nothing unusual. He was gentle. He took the mail, a few newspapers and some advertising brochures, and greeted me cordially." A few minutes later, she heard a loud thud in the stairwell and rushed out of her lodge. ''A poor man was lying crushed on the floor. The blood hid his face. I looked at him and-my God, that man!-I recognized him right away. It was Dr. Levi." Lucia Morpurgo, Levi's wife of forty years, had been out shopping. Her arms were full of groceries as she pushed open the glass door. The concierge tried to hold her back, but she flung herself down beside her husband and tried to lift his head. Their son, Renzo, had also heard the commotion and hurried down the wide staircase. They were joined by Francesco Quaglia, a dentist who had known Levi since high school and had an office in the building. Levi's wife embraced him. "Era demoralizato," she said tearfully. "He was demoralized. You knew it, too, didn't you?"

Tưởng Niệm

Trong bài viết về Dương Nghiễm Mậu, có thể là do đọc Koestler, Gấu đã mường tượng ra cõi văn của lũ con hoang của Miền Bắc, thứ chuông, đúc ở Đất Bắc, và phải đợi cái cơ may vô được Miền Nam, thì mới được đánh, được kêu lên, những tiếng rền rĩ, vừa nhớ Đất Bắc, vừa mừng thoát được Cái Ác Bắc Kít!
Lịch sử lập lại, với những người như Xuân Sách, Nguyễn Khải.
Nói rõ hơn, cả 1 lũ đau cái đau, sinh ra là 1 tên Bắc Kít.
Do Thái cũng có cái hạnh phúc được Chúa chọn như thế đó!

Koestler?

"
The final rout of the Soviet imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at Noon"
David Cesarani: [Tiểu sử] Arthur Koestler: Một cái đầu không nhà, The homeless mind.
1989 – 1990 - thời kỳ cáo chung của quyền uy tối thượng của Xô Viết, bắt đầu vào năm 1940, khi Bóng Đêm giữa Ban Ngày của Koestler ra lò
Đúng là đòn Cách Sơn Đả Ngưu của Kim Dung.

Note: Khi Xuân Sách vẽ chân dung Chế Lan Viên, ông hỏi bức biếm họa của mình, điêu tàn ư, đâu chỉ điêu tàn?
Một cách nào đó, ông nhìn ra cái xứ Mít bây giờ, quá cả điêu tàn, mà mấp mé bờ địa ngục.
Đâu có khác gì Koestler, khi viết Đêm Giữa Ban Ngày, 1940, là đã đọc lời ai điếu cho Đế Quốc Đỏ, mà phải đến 1989 -1990, "the final rout" mới xẩy ra.
Nên nhớ Đêm Giữa Ban Ngày là dựa vào sự kiện thực.
Như thế, nhìn những bộ mặt thực của đám viết lách Bắc Kít, Xuân Sách nhìn ra số phận của cả 1 miền đất, và của cả 1 dân tộc?
Khi ông bỏ Miền Bắc, vô Vũng Tàu, ông có tiên tri ra được số phận ông và gia đình?


Sách & Báo & Thời Sự Văn Học

Tên Yankee mũi lõ đầu tiên được Man Booker

Pour la première fois, un Américain remporte le Man Booker Prize
Le mercredi 26 octobre 2016
http://www.magazine-litteraire.com/prix/pour-la-premi%C3%A8re-fois-un-am%C3%A9ricain-remporte-le-man-booker-prize

Mardi 25 octobre à Londres, Paul Beatty a remporté le Man Booker Prize pour son roman Moi contre les Etats-Unis d’Amérique (Cambourakis), satire sur la vie urbaine américaine. « Un livre très dur à digérer », a confié à la BBC l'auteur qui a empoché un chèque de 52000 livres, soit 59000 euros.

Âgé de 54 ans, Paul Beatty est le premier écrivain américain à être le lauréat de ce prix créé en 1968, parmi les plus prestigieux en langue anglaise, au départ réservé aux romanciers britanniques, irlandais et ressortissants du Commonwealth. En effet, il a fallu attendre 2013 pour que son champ s’étende à l’ensemble du monde anglophone.

Viết Mỗi Ngày

Quán Chùa ở Paris: Khói, Sex, và Hiện Sinh
 
At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails.
 By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

Hỏi Nát Lương Tâm, Hề, Nhân Loại!

Ôi chao, thật nguy nan, cái việc sửa thơ, và thật vô cùng nguy nan, cái việc sửa thơ của người khác!

Mỗi lần lịch sử sang trang, nó bỗng tối sầm lại, giống như cảnh trời đất lúc sắp sửa bắt đầu một ngày. Bởi vậy, nhân loại vẫn muốn nhìn ngoái lại những đau thương của một thời, bằng tiếng cười, trước khi bước vào thời sắp tới.  Khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà ở Miền Nam chấm dứt, người dân Việt đã từ giã nó, không phải bằng cái chết đau thương của ông Diệm, ông Nhu, mà bằng nụ cười “hóm hỉnh” trước cái trò mạt cưa mướp đắng, kẻ cắp bà già… của hai cú đảo chính Bravo 1, Bravo 2. Và khi Miền Nam sắp sửa đi đoong, tổng thống Mỹ đang bận chơi golf, ký giả hỏi, phát ngôn viên của Người đã tỉnh bơ trả lời: tổng thống không chơi golf thì biết làm gì… bi giờ? Mới đây thôi, khi xẩy ra thảm kịch Kursk, ngài tổng thống Nga đang bận nghỉ xả hơi tại một bãi biển (hình như vậy). Nhưng cái chết âm thầm của trên trăm thuỷ thủ đoàn đã gây nhức nhối, làm bật lên những câu thơ, những bài viết, ở một số nhà thơ, nhà văn… Tôi xin ghi lại ở đây, một bài thơ bằng tiếng Anh, của tác giả Ian Bui, và sau đó, là hai bài dịch, một của chính tác giả, và một của bạn của ông, đăng trên tuần báo VHNT trên lưới do nhóm Ô Thước chủ trương, và do Phạm Chi Lan chủ biên.
Bài thơ dịch của chính tác giả đã gây nên một cuộc “tranh luận nho nhỏ”, chung quanh một ý thơ.
Và sau hết, là trích đoạn bài viết của ký giả Mỹ, David Remnick,  trên tờ The New Yorker, số Sept 11, 2000

1.      Kursk! 

From once a fabled battleground,
your name now lives in tragic infamy!
One hundred plus eighteen, drowned
one hundred metres under the sea. 

Their gasping cries, though never heard,
would not deny their bravery
in that enclosed, eutrophic hearse
their last moments before release.

Let there be war-if that's man's end,
unfathomed shall our anguish be
knowing each one had died in vain,
but to protect whose secrecies? 

We the living have no answers
to give (nor lame apologies
for what was our moral failu
to rise above old tendencies) 

Mothers and sisters, lovers and wives
their pain is graver than that sea
which stole these swift but fated lives
when its dark crypt had them buried. 

Fare thee well, men and sons of Kursk,
your battle's done. Done are your days.
One hundred plus eighteen, cursed
one hundred metres beneath the waves.

Ianbui 

Kursk!

Chiến địa lưu danh! Kursk huyền thoại
trầm trong bể nhục kể từ đây:
Một trăm mười tám người nằm xuống.
Một trăm thước nước, vực trần ai! 

Những tiếng gào vang trong tuyệt vọng
Biển dang tay đón cỗ quan tài
như  chiếc nôi, đưa người cảm tử
lên đài vĩnh quyết phút xuôi tay. 

Thế chiến sang trang hề, ta đứng
ngậm ngùi xem thế kỷ đầu thai.
Những trái tim không người bảo chứng
sống vì ai? Chết bởi vì ai? 

Hãy hỏi đời sau, và sau nữa,
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai,
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây?

Hỏi chị, hỏi em vàn yêu dấu,
Hỏi mẹ già nua, bé thơ ngây
Niềm đau không đáy trời soi thấu
Là đêm biển lạnh kẻ vùi thây. 

Vĩnh biệt anh, đàn con của Kursk!
Địa chiến mang tên. Chứng tích này:
Một trăm mười tám người thiên cổ.
Một trăm thước nước, mộ vừa xây
Ianbui
(tác giả dịch sang Việt ngữ) 

 Kursk! 

Huyền thoại xưa,
bi kịch bây giờ ...
Một trăm mười tám người,
đại dương mênh mông ...
Những tiếng khóc tắt nghẹn,
chẳng tạo nổi âm vang
Nhưng vinh quang vẫn còn
trong chiếc tầu ma đóng kín
phút sau cùng ...
Chiến tranh ơi ...
thà đây là định mệnh
Còn hơn những khổ đau không đáy
của cái chết vô danh
bảo vệ cho một bí mật nào?
Người sống không trả lời,
không ân hận,
cho một đạo đức điêu tàn ...
Đã quen cúi đầu theo thói cũ !!!
Hỡi những người đàn bà tang chế
nỗi đau có đầy hơn nước biển
đã cướp đi mạng người
Trùng dương tối âm thầm chôn xác ai ...
Vĩnh biệt thôi, những đứa con của Kursk
chiến trường xưa đã tàn ...
trăm lẻ mười tám người,
một định mệnh,
đại dương mênh mông ...
(Phạm Thiên Mạc chuyển ngữ)

2.      Thư thân hữu VHNT: Hỏi nát lương tâm hề nhân loại… 

Đã lâu rồi, trên một số báo VHNT, tôi được đọc một bài thơ. Cao ngạo, đầy chất nam nhi trượng phu! Nhưng bút hiệu cho thấy, đây là một nữ sĩ. Hỏi qua email: how to explain it?
Mấy bữa sau, đọc một truyện ngắn, của cùng tác giả. Nhân vật nữ ở trong truyện, khi được chồng hỏi, khi sắp sửa ra phố, tại sao em không mặc áo dài? Người vợ đáp (tôi nhớ đại khái): em mặc, nhưng thấy cũng không làm giảm được cái dáng vẻ cứng cỏi của em…
Một cách trả lời thật kín đáo. Thật VHNT! 

Mới đây, đọc bài thơ của Ian Bui, dịch bài Kursk, trong có đoạn:

Hãy hỏi đời sau, và sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây? 

Tôi mê ba câu đầu quá! Thật cao ngạo ngất trời! Nhưng câu thứ tư, tôi thấy không chở nổi ba câu trên (giá nào thì cũng thua thôi!). Cứ tưởng tượng hỏi tác giả, (1) có thể ông sẽ trả lời: sao, ông chê thơ tôi hả? Vậy thử thay bằng một câu khác, coi được không?

Tôi liều lĩnh thay bằng câu:
Hãy hỏi đời sau, đời sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại,
Lạnh lẽo nào hơn huyệt mộ này? 

Đinh Hùng hình như có câu:
Nằm trong huyệt lạnh chắc em sầu?

Bài thơ đề tặng Liêu Trai của Vương Ngư  Dương (?) mà Vũ Hoàng Chương dịch, tôi nhớ đại khái:

Chuyện đời chán ngấy người lên được,
Nghe quỉ trong mồ… xướng thi
[Ái thính thu phần quỉ xướng thi]

 Liệu có phải Kursk cũng là một “chuyện đời chán ngấy người lên được”? Biết đâu bài thơ của Ian Bui, là mở đầu cho những dòng thơ, từ trong mồ… Kursk ngàn đời sau vọng lên?
(Một thân hữu VHNT)

(1) Chú thích: Sự thực tôi có hỏi, ông trả lời, thật lịch sự:
“… thật ra ý tôi trong đoạn đó rất đơn giản…. Cũng có thể câu đó là điểm yếu trong toàn bài, hơi bấp bênh, không chắc như những câu khác. Chỉ sợ nếu sửa câu thơ một tí mà làm sai ý của nguyên bài thì hỏng. Quả thực là việc nguy nan…”
Ôi chao, thật nguy nan, cái việc sửa thơ, và thật vô cùng nguy nan, cái việc sửa thơ của người khác!

3.      Phong Hỏa Đài
Đời xưa, một ông vua vì muốn mua một tiếng cười của Người Đẹp, đã ra lệnh nổi lửa trên Phong Hoả Đài. Chư hầu thấy hiệu lửa cầu cứu, vội vàng kéo quân tới. Nhìn thấy những đoàn quân ùn ùn tới, rồi tẽn tò lui, Người Đẹp quả nhiên bật cười.
Không hiểu ký giả người Mỹ, David Remnick có biết tới nụ cười La Joconde đã biệt tích theo hạc vàng của Đông Phương hay không, nhưng trong bài viết về thảm kịch Kursk, ông đã liên hệ tới ngọn lửa cháy trên tháp cao nhất của nước Nga, (và của Âu Châu?). Ông viết: Nước Nga là một xứ sở lớn lao của… ẩn dụ (Russia is a great country for metaphor), chính vì vậy mà tuần lễ vừa rồi, khi tháp truyền hình Ostankino bốc cháy trên nền trời Moscow, người ta cố tìm cho được ý nghĩa của nó. Liệu có thể coi đây là ngọn đuốc tưởng niệm những người con của nước Nga, nằm dưới đáy sâu biển cả, trong nấm mồ lạnh lẽo là tiềm thủy đỉnh nguyên tử Kursk? Hay đây là ngọn lửa bùng lên vào phút cuối cùng, báo trước sự cáo chung của một chế độ? Hay đây là ngọn lửa cho thấy cơn giận dữ của chính quyền, trong nỗ lực bóp nghẹt tự do báo chí? 



https://www.washingtonpost.com/opinions/in-vietnam-telling-the-truth-is-criminal-propaganda/2016/10/21/2a5745d2-923c-11e6-a6a3-d50061aa9fae_story.html?utm_term=.ee9cc8409420
 
THIS MAY, in a visit to Vietnam, President Obama announced he was lifting the embargo on selling lethal arms to Hanoi as part of an effort to normalize relations long after the Vietnam War. While celebrating Vietnam’s deepening economic and security ties to the United States, Mr. Obama cautioned that to really get ahead, it should respect freedom of expression, assembly and religion. “There are still folks who find it very difficult to assemble and organize peacefully around issues that they care deeply about,” he said.

It seems clear from Vietnam’s recent actions that the rulers in Hanoi did not believe they had to pay attention to Mr. Obama’s advice. On Oct 7, they declared that the California-based pro-democracy group Viet Tan, or the Vietnam Reform Party, is a terrorist organization and warned of severe penalties for anyone who contacted it. The group, which describes itself as a “pro-democracy organization working to promote social justice and human rights through nonviolent means,” said this was the first time it has been formally designated as terrorist under Vietnam’s laws. Three of the group’s members are serving long prison terms for their blogging and community organizing.

On Oct. 10, police in the south-central province of Khanh Hoa arrested a popular blogger, Nguyen Ngoc Nhu Quynh, 37, who writes under the pen name Mother Mushroom. She is co-founder of a network of independent bloggers who often find themselves in the crosshairs of a regime that strictly controls the news media and does not tolerate dissent. Radio Free Asia quoted the network as protesting that Ms. Quynh is an “activist who has advocated for human rights, improved living conditions for people, and sovereignty for many years.”

Most recently, Ms. Quynh had been blogging extensively about a chemical spill in April that devastated marine life and left fishermen and tourism industry workers jobless in four provinces. In June, a Taiwanese-owned company acknowledged it was responsible for the pollution and pledged to clean it up, but the spill has provoked protests by Vietnamese who criticize the government for remaining silent about the cause of the spill at the outset and then failing to provide information about health and environmental dangers. Many of the protests were mobilized on Facebook.

When taken into custody, Ms. Quynh was accused of publishing “propaganda” against the state. A police statement said she had posted a report compiling 31 cases in which civilians died in police custody, which showed “hostility towards the police force.”

When Mr. Obama visited in May, it was clear that security cooperation and normalization of relations were on the front burner as the United States and Vietnam face an increasingly aggressive China. It is notable that Vietnam also agreed to economic and labor reforms required by the Trans-Pacific Partnership. But these are not sufficient. Vietnam also must free its people to blog, protest and speak out without fear.

Tháng Năm này, trong lần thăm xứ Mít, tông tông Mẽo thông báo, tháo bỏ cấm vận liên quan tới việc bán võ khí giết người như là 1 phần trong cố gắng bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vốn tắc tị dài kể từ sau cuộc chiến. Trong khi ăn mừng xứ Mít kết thân đậm đà với Mẽo, về kinh tế và về an ninh, Ô Bá Mà cảnh cáo, rằng, để mọi chuyện thực sự trơn tru tiến hành về phiá trước, phải đạt được, điều này, phải có tôn trọng tự do phát biểu tư tưởng ý nghĩ, phải có tụ tập, lèm bèm chát chiếc, quá nữa, phải có quốc hội, lập hiến, phải có tôn giáo. "Dân chúng vưỡn bị khó khăn, rất ư là khó khăn tụ tập và tổ chức những cuộc bàn luận một cách ôn hòa về những vấn đề mà họ thực sự quan tâm”, Ô Bá Mà phán.
Rõ ràng là, Anh Cu Vẹm đếch thèm quan tâm, thì cứ nói thẳng ra ở đây, chúng quẳng câu cố vấn, advice, của anh da đen Tông Tông Mẽo vô sọt rác! Vào ngày 7 Tháng Mười, chúng phán rằng Việt Tân, một nhóm ủng hộ dân chủ có trụ sở ở Cali, là một tổ chức khủng bố, và cảnh cáo, sẽ trừng phạt thật nặng nề, thật tới chỉ, bất cứ một ai dám liên lạc với tổ chức này. Nhóm này, tự miêu tả về chính họ, như là một tổ chức hô hào dân chủ, công lý xã hội và nhân quyền, qua những phương tiện không bạo động, cho biết, đây là lần đầu tiên họ được nhà nước VC công khai, chính thức chụp cho họ cái mũ phản động, theo luật rừng của chúng. Ba thành viên của họ đã bị tù dài dài vì viết blog và tổ chức, sinh hoạt cộng đồng



Lê Công Định
7 hrs ·

Bài đăng trên tờ báo lừng danh Washington Post về Mẹ Nấm, có tựa đề đầy mỉa mai về nền tư pháp nói riêng và chế độ chính trị nói chung ở Việt Nam, như sau:

"Tại Việt Nam, nói lên sự thật là tội 'tuyên truyền'."

Không thể đúng hơn! Câu nói ngắn gọn mà sức mạnh hơn cái tát vào giữa bản mặt.



Policemen block the road to a High People’s Court before the appeal trial of a prominent Vietnamese blogger. (Nguyen Tien Thinh/Reuters)
By Editorial Board October 21 at 7:04 PM








Note: Tin Văn sẽ có bản tiếng Việt. Đây là 1 bài editorial, của báo này
Nói "sự thực" là "tuyên truyền" hình sự.
Chúng coi đây là tội sát nhân, như trộm cướp, giết người!

https://www.washingtonpost.com/opinions/in-vietnam-telling-the-truth-is-criminal-propaganda/2016/10/21/2a5745d2-923c-11e6-a6a3-d50061aa9fae_story.html?utm_term=.ee9cc8409420
 
THIS MAY, in a visit to Vietnam, President Obama announced he was lifting the embargo on selling lethal arms to Hanoi as part of an effort to normalize relations long after the Vietnam War. While celebrating Vietnam’s deepening economic and security ties to the United States, Mr. Obama cautioned that to really get ahead, it should respect freedom of expression, assembly and religion. “There are still folks who find it very difficult to assemble and organize peacefully around issues that they care deeply about,” he said.

It seems clear from Vietnam’s recent actions that the rulers in Hanoi did not believe they had to pay attention to Mr. Obama’s advice. On Oct 7, they declared that the California-based pro-democracy group Viet Tan, or the Vietnam Reform Party, is a terrorist organization and warned of severe penalties for anyone who contacted it. The group, which describes itself as a “pro-democracy organization working to promote social justice and human rights through nonviolent means,” said this was the first time it has been formally designated as terrorist under Vietnam’s laws. Three of the group’s members are serving long prison terms for their blogging and community organizing.

On Oct. 10, police in the south-central province of Khanh Hoa arrested a popular blogger, Nguyen Ngoc Nhu Quynh, 37, who writes under the pen name Mother Mushroom. She is co-founder of a network of independent bloggers who often find themselves in the crosshairs of a regime that strictly controls the news media and does not tolerate dissent. Radio Free Asia quoted the network as protesting that Ms. Quynh is an “activist who has advocated for human rights, improved living conditions for people, and sovereignty for many years.”

Most recently, Ms. Quynh had been blogging extensively about a chemical spill in April that devastated marine life and left fishermen and tourism industry workers jobless in four provinces. In June, a Taiwanese-owned company acknowledged it was responsible for the pollution and pledged to clean it up, but the spill has provoked protests by Vietnamese who criticize the government for remaining silent about the cause of the spill at the outset and then failing to provide information about health and environmental dangers. Many of the protests were mobilized on Facebook.

When taken into custody, Ms. Quynh was accused of publishing “propaganda” against the state. A police statement said she had posted a report compiling 31 cases in which civilians died in police custody, which showed “hostility towards the police force.”

When Mr. Obama visited in May, it was clear that security cooperation and normalization of relations were on the front burner as the United States and Vietnam face an increasingly aggressive China. It is notable that Vietnam also agreed to economic and labor reforms required by the Trans-Pacific Partnership. But these are not sufficient. Vietnam also must free its people to blog, protest and speak out without fear.

Bài viết này, là bài quan điểm, lập trường của tờ báo, và phải đọc nó trong tinh thần đó. Nó phán rằng, ở xứ Mít, nói lên sự thực là tuyên truyền, và bị nhà nước khép vào tội hình sự.
Không mỉa mai, không cái tát, mà là lời kết án, buộc tội.
Tháng Năm này, trong lần thăm xứ Mít, tông tông Mẽo thông báo, tháo bỏ cấm vận liên quan tới việc bán võ khí giết người như là 1 phần trong cố gắng bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vốn tắc tị dài kể từ sau cuộc chiến. Trong khi ăn mừng xứ Mít kết thân đậm đà với Mẽo, về kinh tế và về an ninh, Ô Bá Mà cảnh cáo, rằng, để mọi chuyện thực sự trơn tru tiến hành về phiá trước, phải đạt được, điều này, phải có tôn trọng tự do phát biểu tư tưởng ý nghĩ, phải có tụ tập, lèm bèm chát chiếc, quá nữa, phải có quốc hội, lập hiến, phải có tôn giáo. "Dân chúng vưỡn bị khó khăn, rất ư là khó khăn tụ tập và tổ chức những cuộc bàn luận một cách ôn hòa về những vấn đề mà họ thực sự quan tâm”, Ô Bá Mà phán.
Rõ ràng là, Anh Cu Vẹm đếch thèm quan tâm, thì cứ nói thẳng ra ở đây, chúng quẳng câu cố vấn, advice, của anh da đen Tông Tông Mẽo vô sọt rác! Vào ngày 7 Tháng Mười, chúng phán rằng Việt Tân, một nhóm ủng hộ dân chủ có trụ sở ở Cali, là một tổ chức khủng bố, và cảnh cáo, sẽ trừng phạt thật nặng nề, thật tới chỉ, bất cứ một ai dám liên lạc với tổ chức này. Nhóm này, tự miêu tả về chính họ, như là một tổ chức hô hào dân chủ, công lý xã hội và nhân quyền, qua những phương tiên không bạo động, cho biết, đây là lần đầu tiên họ được nhà nước VC công khai, chính thức chụp cho họ cái mũ phản động, theo luật rừng của chúng. Ba thành viên của họ đã bị tù dài dài vì viết blog và tổ chức, sinh hoạt cộng đồng



Lê Công Định
7 hrs ·

Bài đăng trên tờ báo lừng danh Washington Post về Mẹ Nấm, có tựa đề đầy mỉa mai về nền tư pháp nói riêng và chế độ chính trị nói chung ở Việt Nam, như sau:

"Tại Việt Nam, nói lên sự thật là tội 'tuyên truyền'."

Không thể đúng hơn! Câu nói ngắn gọn mà sức mạnh hơn cái tát vào giữa bản mặt.



Policemen block the road to a High People’s Court before the appeal trial of a prominent Vietnamese blogger. (Nguyen Tien Thinh/Reuters)
By Editorial Board October 21 at 7:04 PM








Note: Tin Văn sẽ có bản tiếng Việt. Đây là 1 bài editor, của báo này
Nói "sự thực" là "tuyên truyền" hình sự.
Chúng coi đây là tội sát nhân, như trộm cướp, giết người!

https://www.washingtonpost.com/opinions/in-vietnam-telling-the-truth-is-criminal-propaganda/2016/10/21/2a5745d2-923c-11e6-a6a3-d50061aa9fae_story.html?utm_term=.ee9cc8409420
 
THIS MAY, in a visit to Vietnam, President Obama announced he was lifting the embargo on selling lethal arms to Hanoi as part of an effort to normalize relations long after the Vietnam War. While celebrating Vietnam’s deepening economic and security ties to the United States, Mr. Obama cautioned that to really get ahead, it should respect freedom of expression, assembly and religion. “There are still folks who find it very difficult to assemble and organize peacefully around issues that they care deeply about,” he said.

It seems clear from Vietnam’s recent actions that the rulers in Hanoi did not believe they had to pay attention to Mr. Obama’s advice. On Oct 7, they declared that the California-based pro-democracy group Viet Tan, or the Vietnam Reform Party, is a terrorist organization and warned of severe penalties for anyone who contacted it. The group, which describes itself as a “pro-democracy organization working to promote social justice and human rights through nonviolent means,” said this was the first time it has been formally designated as terrorist under Vietnam’s laws. Three of the group’s members are serving long prison terms for their blogging and community organizing.

On Oct. 10, police in the south-central province of Khanh Hoa arrested a popular blogger, Nguyen Ngoc Nhu Quynh, 37, who writes under the pen name Mother Mushroom. She is co-founder of a network of independent bloggers who often find themselves in the crosshairs of a regime that strictly controls the news media and does not tolerate dissent. Radio Free Asia quoted the network as protesting that Ms. Quynh is an “activist who has advocated for human rights, improved living conditions for people, and sovereignty for many years.”

Most recently, Ms. Quynh had been blogging extensively about a chemical spill in April that devastated marine life and left fishermen and tourism industry workers jobless in four provinces. In June, a Taiwanese-owned company acknowledged it was responsible for the pollution and pledged to clean it up, but the spill has provoked protests by Vietnamese who criticize the government for remaining silent about the cause of the spill at the outset and then failing to provide information about health and environmental dangers. Many of the protests were mobilized on Facebook.

When taken into custody, Ms. Quynh was accused of publishing “propaganda” against the state. A police statement said she had posted a report compiling 31 cases in which civilians died in police custody, which showed “hostility towards the police force.”

When Mr. Obama visited in May, it was clear that security cooperation and normalization of relations were on the front burner as the United States and Vietnam face an increasingly aggressive China. It is notable that Vietnam also agreed to economic and labor reforms required by the Trans-Pacific Partnership. But these are not sufficient. Vietnam also must free its people to blog, protest and speak out without fear.

Quoc Tru Nguyen shared a memory.
2 mins ·
1 Year Ago
See Your Memories
Quoc Tru Nguyen
October 22, 2015 ·

DTH trả lời Minh Tran Huy trên tờ Books, Sept 2011:

Cấm xb tại tại VN, nhà ly khai DTH cho ra mắt tại Pháp cuốn mới của bà Giáo đường của con tim. Bà trình bày,...

See More
No automatic alt text available.


Memoir
Song of Africa

Ngugi wa Thiong’o recalls his upbringing in colonial Kenya


Note: Xừ
này, cũng có tên trong bảng phong thần Nobel năm nay



*

Thiền sư Phan Tấn Hải & họa sĩ Nguyễn Đình Thuần @ Phở Nguyễn Huệ

  https://vietbao.com/p112a259413/ngay-do-oi-sinh-nhat-15-tuoi-trang-van-hoc-gio-o

Thật khó viết một bài thơ hay để đọc lên cho người tri âm… Thật khó sáng tác một ca khúc hay để hát cho người tri kỷ… Thật khó có một giọng ca xuất sắc để cất cao âm vang ngợi ca cuộc đời… Thật khó luyện được tiếng đàn độc đáo và rất mực sáng tạo… Thật khó có trình độ thẩm âm tinh tế để phân biệt giữa nhạc Jazz và không-Jazz… Thật khó có đủ nhạy cảm ngôn ngữ để biện  biệt các dị biệt vùng miền và chuyển biến của tiếng Việt… Và thật khó để mời những tài năng văn học nghệ thuật viết bài trong nhiều năm, và rồi 15 năm sau từ  nhiều tiểu bang cùng về hội ngộ.
Ngày Dó Oi đã làm được như thế. Đó là ngày kỷ niệm 15 năm của trang văn học http://www.gio-o.com/.

Hôm Chủ Nhật ngày 9 tháng 10 năm 2016, nơi Hội quán Lạc Cầm, một nơi rất gần, nằm ngay giữa Little Saigon, không phải là một chương trình bình thường ở hải ngoại.


*  

AUTUMN AFTERNOON

I REMEMBER a beautiful afternoon I once had. I walked over the country with the stump of a cigar snug in my mouth. Sunlight beamed over the green region. In the fields men, children, and women were working; on my left flowed a golden canal and on my right I had a view of farmland. I dawdled along. A bakery truck blasted past. It's strange that I recall so clearly every detail as if it were a treasure. There must be a great strength within my memory, I'm so happy. Memories are life. Then I continued on past many considerably cheerful and prosperous farmhouses; a farm woman shushed her dog that had the idea of barking at the strange pedestrian passing by. It's delightful to walk quietly and leisurely over the land and be greeted friendlily by solemn, sturdy country women. Such a greeting does one good, like the thought of immortality. A heaven opens when people are kind to one another. The afternoon and soon evening sun strew liquid love and fantasy gold over the road, and it glowed reddish. On everything was a touch of violet, but only a delicate, barely visible tint. A suggestion has nothing as thick as a finger to grip, but gropes around and hovers just above the visible and invisible totality as an ominous shimmer, tone, sensation. I went by a tavern without entering; I thought I might do that later. At a comfortable pace I strolled on, not unlike a calm, gentle pastor or teacher or messenger. Many a human eye looked upon me curiously in order to unriddle who I might be. In the wonderfully resounding countryside, everything became more and more beautiful. Each step led into another loveliness. It was as if I were writing, dreaming, fantasizing. A pale, beautiful, dark-eyed farm girl, whose face had been sweetly tanned by the sun, looked at me questioningly with the sparkling dark magic of her eyes and said good evening. I returned her greeting and went on into an orchard whose trees thickly dangled with the red and golden fruit of paradise. Through the dark green of the leaves the beautiful apples were wonderfully lit by the evening sun, and over the verdant fields rang the warm buoyant chiming of bells. Magnificent cows, brown, white, and black, lay and stood about in graceful groups scattered across lush meadows stretching down to a silver canal. I didn't have eyes enough to look at all there was to see, nor ears enough to hear it all. Looking and hearing joined to make one pleasure, the entire wide green and golden landscape resounded-the bells, the fir forest, the animals, and the people. It was like a painting conjured up by one of the masters. The beech forest was brown and yellow; the green and the ellow and the red and the blue made music. Colors flowed into sound, and sound played with the divinely beautiful colors like boyfriends with sweet girlfriends, like gods with goddesses. I walked forward only slowly under the light blue and between the green and brown, and gradually it turned dark. Several shepherd boys came up to me wanting to know the time. Later, in the village, I went past an old, large, venerable rectory. Someone was singing and playing in the house. They were glorious sounds, at least so I imagined. How easy it is to imagine something beautiful on a quiet evening walk. An hour later it was night, the sky glittered black. Moon and stars came out.
ROBERT WALSER

https://literaryreview.co.uk/the-dialectical-man
Full Marx

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

Lenin on the Train. By Catherine Merridale.
Allen Lane; 353 pages; £25. T
to be published in America by Metropolitan in March.

Tình báo Anh phán về Mác và cộng sự của ông, một lũ cuồng tín và thiển cận Nhưng vào thời gian đầu 1917, quyền lực ở Nga thì sẵn sàng chờ Người tiếp quản. Tháng Hai năm đó, 300 năm trị vì của các vì vua chúa dòng Romanov chấm dứt trong vài ngày phù du, trong khi mọi thứ mọi việc chưa được đặt vô đúng vị trí của chúng, Nga xô, mệt nhoài và tuyệt vọng từ ba năm trời vì 1 cuộc chiến tàn khốc với Đức và đồng minh của nó, đang được cai quản bởi những con người ôn hoà, bất lực. Lê nin biết chắc ông muốn cái gì, và ông muốn ném hết mình vô, cả về nghị lực lẫn sự tàn nhẫn, để thực hiện.
Nhưng trước hết, phải ở đó. Nhà lãnh đạo tương lai của Xô Viết đã trải qua cuộc chiến ở Thụy Sĩ. Khi tin tức ở quê nhà bùng nổ tới tai, ông quá tuyệt vọng. Ông đã tính dù
ng thông hành giả để tới Nga, như là 1 anh chàng Thụy Điển câm điếc. Nhưng bà vợ quá đảm đang nhắc ông, không được đâu, vì ông chồng có thói quen, ưa sửng cồ về chính trị, bằng tiếng Nga, trong khi ngủ.

Cuốn "Tới Ga Phần Lan", của Wilson là cũng viết về chuyến đi này. Tin Văn đã giới thiệu.
Bài viết của Steiner, "Dưới cái nhìn Đông Phương" cũng dành nhiều trang cho Lenin, thời gian ở Thụy Sĩ

http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

Theo GCC, xứ Mít không có Mác Miếc gì cả. Chỉ là cái bình phong, 1 thứ dê tế thần, để Cái Ác Bắc Kít nhân đó phát tác.
Đây cũng là điều mà Tolstaya nhận ra về Liên Xô của Bà, khi đọc Conquest. Nhân đây, giới thiệu 1 số bài viết mới về ông.

Tin Văn sẽ giới thiệu mấy bài về Marx. Bài trên Người Kinh Tế, và trên tờ
Điểm Sách của Anh. Bài trên tờ này, thường không dài, nhưng cực bảnh, nếu phải so với NYRB, thí dụ.

SN_GCC_2016

*

*

The Man Who Invented the Drug Memoir:
Kẻ phịa ra Hồi Ức Ken

Thomas De Quincey’s intoxicating prose derived its power from the writer’s opium habit.
By Dan Chiasson

http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/17/the-man-who-invented-the-drug-memoir

Borges, trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là ‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả bản văn sẽ có!


*

manhhai
Saigon Street Scene 1967 - Đường Ngô Đức Kế, nhìn về Nguyễn Huệ
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29813129434/

UPI office, 19 NDK, phía bên kia hè đường. Có 1 bà cũng gánh 1 cái gánh như thế, bán đồ ăn sáng, hình như là cơm tấm, ở phía trước văn phòng, thời gian, chắc cũng vào giờ này, khi tấm hình  này được chụp

*

Saigon Street Scene 1967 - Đường Nguyễn Thiệp, đường ngang phía trước là Nguyễn Huệ

Cái tay Phương, manager tiệm radio International, là chồng Bích Hợp, nổi danh 1 thời.
Tay Phương có thời cũng rất mê ngồi Quán Chùa, với….  GCC. Nhớ, 1 lần, nhìn thấy Viên Linh, từ ngoài đi vô, chắc thế, 1 buổi sáng Sài Gòn mưa, chàng kéo cái cổ áo mưa lên, tay Phương nhìn, mê quá, phán, đúng là văn sĩ!
Lần đầu tiên Gấu nghe Bích Hợp hát, là
trong 1 vở cải lương, Tình Vương Ý Nhạc, hình như thế, và là bài "Người ngồi bên đây, lặng nghe nước chảy....", "cái con mẹ gì đó" (1) của PD, thế là nhớ đời, y chang chàng Phương nhìn VL xốc cổ áo mưa, hẳn thế!
Nghệ thuật làm dáng?
Cùng thời gian bức hình đưọc chụp?

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/30146656340/in/photostream/


(1) Gõ Bác Gúc:

Hẹn Hò

Một người ngồi bên kia sông
im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy phương nào
Trời thì mưa rơi
mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông
mong cho chóng tạnh mùa Ngâu

Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau
cách một biển sâu
hẹn hò tàn thu sang xuân bên nhau
biết thuở ban đầu
dù tình không nguôi
đôi ta xin cho hứa vui về sau
trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi
cách biệt dài lâu...

Nước vẫn trôi mau
mắt vẫn hoen sầu
đành để hồn theo nước trôi không màu
Số kiếp hay sao?
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần nhau..

Một người bèn ra ven sông
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu?
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau

GCC chưa từng được gặp Bích Hợp, nhưng nhớ là, tay Phương này, rất mê vợ mình, và hình như là, BH do cảm động quá, bèn gật đầu


https://literaryreview.co.uk/the-dialectical-man
Full Marx

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

Lenin on the Train. By Catherine Merridale.
Allen Lane; 353 pages; £25. T
to be published in America by Metropolitan in March.

Tình báo Anh phán về Mác và cộng sự của ông, một lũ cuồng tín và thiển cận Nhưng vào thời gian đầu 1917, quyền lực ở Nga thì sẵn sàng chờ Người tiếp quản. Tháng Hai năm đó, 300 năm trị vì của các vì vua chúa dòng Romanov chấm dứt trong vài ngày phù du, trong khi mọi thứ mọi việc chưa được đặt vô đúng vị trí của chúng, Nga xô, mệt nhoài và tuyệt vọng từ ba năm trời vì 1 cuộc chiến tàn khốc với Đức và đồng minh của nó, đang được cai quản bởi những con người ôn hoà, bất lực. Lê nin biết chắc ông muốn cái gì, và ông muốn ném hết mình vô, cả về nghị lực lẫn sự tàn nhẫn, để thực hiện.
Nhưng trước hết, phải ở đó. Nhà lãnh đạo tương lai của Xô Viết đã trải qua cuộc chiến ở Thụy Sĩ. Khi tin tức ở quê nhà bùng nổ tới tai, ông quá tuyệt vọng. Ông đã tính dù
ng thông hành giả để tới Nga, như là 1 anh chàng Thụy Điển câm điếc. Nhưng bà vợ quá đảm đang nhắc ông, không được đâu, vì ông chồng có thói quen, ưa sửng cồ về chính trị, bằng tiếng Nga, trong khi ngủ.

Cuốn "Tới Ga Phần Lan", của Wilson là cũng viết về chuyến đi này. Tin Văn đã giới thiệu.
Bài viết của Steiner, "Dưới cái nhìn Đông Phương" cũng dành nhiều trang cho Lenin, thời gian ở Thụy Sĩ

http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

Theo GCC, xứ Mít không có Mác Miếc gì cả. Chỉ là cái bình phong, 1 thứ dê tế thần, để Cái Ác Bắc Kít nhân đó phát tác.
Đây cũng là điều mà Tolstaya nhận ra về Liên Xô của Bà, khi đọc Conquest. Nhân đây, giới thiệu 1 số bài viết mới về ông.

Tin Văn sẽ giới thiệu mấy bài về Marx. Bài trên Người Kinh Tế, và trên tờ
Điểm Sách của Anh. Bài trên tờ này, thường không dài, nhưng cực bảnh, nếu phải so với NYRB, thí dụ.


Hanoi Hannah
The music of English

Trinh Thi Ngo (“Hanoi Hannah”), broadcaster for Voice of Vietnam, died on September 30th, aged 87

Hà Nội ơi ta đã mất người trong cuộc đời!




Viết Mỗi Ngày

Sách & Báo Mới

https://www.threepennyreview.com/current.html

Số này, có bài thơ Charles Simic, đã giới thiệu rồi. Tuy nhiên, còn bài viết về Raymond Carver, cũng thật OK.
Có vẻ như Mít không đọc được cả thơ lẫn truyện ngắn của ông này. Nhớ có đọc 1 bài trên Blog NL, chê suốt. Tin Văn sẽ đi bài về Carver. Bài khá dài, từ từ tính. Post trước đoạn liên quan tới tay biên tập Carver

BOOKS

The Art, Magic, and Blues of

Raymond Carver

Clifford Thompson

IF YOU'RE telling the story of Jesus, there is no avoiding the crucifixion. In much the same way, what we talk about when we talk about Carver's sentences must include Gordon Lish. As an editor at Esquire, Lish worked on the stories of Carver's that appeared in the magazine in the early and mid-1970s; he helped secure McGraw-Hill's publication of Will You Please Be Quiet, Please? and edited the book's stories; and after moving to Alfred A. Knopf, which brought out What We Talk About When We Talk About Love, he served as that volume's editor, too. Lish did not simply insert a comma here and there and gently suggest deleting a sentence or two. He changed wording within sentences, he axed whole paragraphs, he cut some stories by half or more, and he retitled a few of them. If the substance of the stories was Carver's, Lish was a full partner in their style, and there were times when even the substance didn't come through intact. Carver: Collected Stories (2009), published by Library of America, includes the work as it was originally published as well as the versions of the stories that Carver submitted to Knopf as the manuscript titled Beginners. Comparing the stories in Beginners with what they became in What We Talk About is revealing, but it doesn't settle the question of whether Lish helped or hurt Carver's writing.
    The shortest possible answer is: sometimes one, sometimes the other. There is no question in my mind that the Lish- edited version of "Tell the Women We're Going" is more potent than the original, with perhaps the most stunning ending of any Carver story. On the other hand, reading "Mr. Coffee and Mr. Fixit," which is what was left of "Where Is Everyone?" when Lish was through, brings to mind a car after a head-on collision. There is a line, and occasionally, like the driver of said car, Lish wound up on the wrong side of it. But there was a core of Carver that even Lish couldn't touch, and the proof is in the slight shift in themes from Quiet, Please? to What We Talk About, which represents a progression, one that corresponds roughly to the contours of Carver's own life. The troubles that the first book hints at erupt in the second. The marital ten- sions of Quiet, Please? become separation and divorce in What We Talk About; the drinking, once done casually, has taken over characters' lives; the suggestion of violence has become the real thing. The difference in focus is consistent, and for me that answers the other inevitable question about this peculiar writer-editor relationship: when all the evidence is in, the stories belong to Carver.


R. Carver

Ultramarine

                                                      ... sick
With exile, they yearn homeward now, their eyes
Tuned to the ultramarine, first-star-pierced dark
Reflected on the dark, incoming waves. . .

- DEREK MAHON
from "Mt Gabriel" in Antarctica (1985)

Siêu Biển

.... bịnh
Lưu vong,
Gấu bèn nhớ nhà, và bèn nhìn về quê nhà may mắn bỏ chạy, thoát.
Ngôi sao đầu tiên, chọc thủng màn đêm nơi hồ Georgian,
Phản chiếu trên những làn sóng đen thui đang đổ xô tới liếm chân Gấu
Hà, hà!

 

An Afternoon

As he writes, without looking at the sea,
he feels the tip of his pen begin to tremble.
The tide is going out across the shingle.
But it isn't that. No...
it's because at that moment she chooses
to walk into the room without any clothes on.
Drowsy, not even sure where she is
for a moment. She waves the hair from her forehead.
Sits on the toilet with her eyes closed,
head down. Legs sprawled. He sees her
through the doorway. Maybe
she's remembering what happened that morning.
For after a time, she opens one eye and looks at him.
And sweetly smiles.

Một buổi xế trưa

Khi viết, đếch thèm nhìn biển
Chàng cảm thấy đầu cây viết bắt đầu run rẩy
Sóng trào ra trên lớp đá cuội
Nhưng không phải. Nhảm…
Bởi là vì đúng lúc đó nàng
Bước vô phòng
Đếch mặc cái gì ở trên người
Lơ tơ mơ, như không nhận ra mình
Hoặc đang ở chỗ nào
Nàng giơ tay vén mớ tóc xòa trên trán,
Ngồi lên bàn cầu, mắt vẫn nhắm
Đầu cúi xuống. Hai chân ườn ra
Chàng nhìn nàng qua cửa nhà cầu
Có thể nàng đang nhớ chuyện sáng nay
Một lát sau, nàng mở 1 con mắt ra nhìn chàng
Và mỉm cười thật là ngọt ngào.

Thơ Mỗi Ngày

Raymond Carver

Where Water Comes Together
with Other Water

Where Water Comes Together with Other Water:
Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác

Hay là chơi luôn cái tít của Thảo Trần, Nơi Dòng Sông Chảy Về Phía Nam!

I love creeks and the music they make.
And rills, in glades and meadows, before
they have a chance to become creeks.
I may even love them best of all
for their secrecy. I almost forgot
to say something about the source!
Can anything be more wonderful than a spring?
But the big streams have my heart too.
And the places streams flow into rivers.
The open mouths of rivers where they join the sea.
The places where water comes together
with other water. Those places stand out
in my mind like holy places.
But these coastal rivers!
I love them the way some men love horses
or glamorous women. I have a thing
for this cold swift water.
Just looking at it makes my blood run
and my skin tingle. I could sit
and watch these rivers for hours.
Not one of them like any other.
I'm 45 years old today.
Would anyone believe it if I said
I was once 35?
My heart empty and sere at 35!
Five more years had to pass
before it began to flow again.
I'll take all the time I please this afternoon
before leaving my place alongside this river.
It pleases me, loving rivers.
Loving them all the way back
to their source.
Loving everything that increases me.

Raymond Carver

Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác

Tôi mê những nhánh sông và âm nhạc nó tạo nên
Và những con lạch, những dòng suối, ở trảng, đồng,
Trước khi chúng có cơ may trở thành sông con, hay nhánh sông
Tôi còn mê hơn thế nữa, mê cực mê, cái sự kín đáo của chúng.
Tôi hầu như quên chẳng nói điều gì về nguồn!
Liệu có gì tuyệt vời hơn một con suối?
Nhưng những suối lớn cũng có trái tim của tôi
Và những nơi, suối chảy vô sông
Những miệng sông mở ra, nơi chúng nối với biển.
Nơi nước quần tụ và quần tụ với nước khác.
Những thánh địa sừng sững ở trong tôi
Ui chao, những con sông với những bãi biển của chúng.
Tôi mê chúng, cái kiểu mà một số đực rựa mê ngựa
Hay đàn bà say đắm, quyến rũ.
Tôi có 1 điều dành cho con nước lạnh và nhanh này
Chỉ nội nhìn nó là máu tôi chạy
Da lâm dâm rứa.
Tôi có thể ngồi nhìn những con sông này hàng giờ đồng hồ.
Không con sông nào giống con nào
Bữa nay tôi 45 tuổi
Liệu có tin rằng,
Tôi đã có lần 35 tuổi?
Trái tim của tôi thì trống rỗng, và héo khô ở cái tuổi 35!
Phải mất 5 năm,
Nó mới chảy trở lại.
Tôi sẽ trải qua buổi chiều này 1 cách thoải mái
Trước khi rời chỗ mình đang ngồi bên dòng sông
Nó hài lòng tôi, những con sông đáng yêu này
Yêu chúng suốt cả đường trở về nguồn của chúng
Yêu mọi điều nhấn lên tôi


Charles Simic

Seeing Things
    I came here in my youth,
    A wind toy on a string.
    Saw a street in hell and one in paradise.
    Saw a room with a light in it so ailing
    It could’ve been leaning on a cane.
    Saw an old man in a tailor shop
    Kneel before a bride with pins between his lips.
    Saw the President swear on the Bible
    while snow fell around him.
    Saw a pair of lovers kiss in an empty church
    And a naked man run out of a building
    waving a gun and sobbing.
    Saw kids wearing Halloween masks
    Jump from one roof to another at sunset.
    Saw a van full of stray dogs look back at me.
    Saw a homeless woman berating God
    And a blind man with a guitar singing:
    “Oh Lord remember me,
    When these chains are broken set my body free.”


Nhìn sự vật
Tớ tới đây hồi trẻ
Cái chong chóng trên sợi dây
[Cái diều trên sợi dây]
Nhìn con phố, địa ngục
Nhìn con khác, thiên đàng
Nhìn căn phòng với 1 tia sáng ở trong đó, èo uột làm sao
Nó có thể tựa lên 1 cái gậy
Nhìn ông già trong tiệm may
Khoá môi bằng đinh ghim
Quì trước cô dâu
Nhìn Tông Tông thề bồi với cuốn
Kinh Thánh
Trong khi tuyết rơi quanh Xừ Luỷ
Nhìn cặp tình nhân hôn nhau trong ngôi nhà thờ rỗng
Và 1 người đàn ông trần truồng chạy ra khỏi 1 toà biu đing
Tay cầm súng vẩy vẩy, miệng sụt sùi khóc
Nhìn con nít đeo mặt nạ
Halloween
Nhảy từ mái nhà này qua mái nhà khác vào lúc hoàng hôn
Nhìn 1 chiếc xe van đầy chó hoang ngoái nhìn lại tớ
Nhìn 1 bà không nhà riếc móc Chú
a
Và 1 anh mù với chiếc đàn ghi ta, và hát:
"Ôi Chúa, hãy nhớ tới con
Khi những chiếc ghế này gãy, giải thoát thân thể con"
[Khi những sợi xiềng này gãy, giải thoát thân thể con]

Erratas: wind toy, ở đây, là con diều, đi với cái tít là seeing things.
Câu chót, chains, những sợi sên, xiềng, không phải những chiếc ghế.
Sorry. NQT


A Critic at Large October 10, 2016 Issue
Karl Marx, Yesterday and Today
The nineteenth-century philosopher’s ideas may help us to understand the economic and political inequality of our time.
By Louis Menand

http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

Mác học
Kinh Nghiệm
Nguyễn Đình Thi
Hôm nay nhân loại nói chung một thứ tiếng
Tư tưởng gia
tân thế kỷ [thế kỷ 21]: Marx
Tới Ga Phần Lan

Ông ta trở lại: He's back.
Cái tít bài viết của Louis Menand mới đáng sợ làm sao!


Marx cũng là người mà Michel Foucault gọi là người thành lập nên 1 bài "đít cua"
Still, Marx was also what Michel Foucault called the founder of a discourse. An enormous body of thought is named after him. “I am not a Marxist,” Marx is said to have said, and it’s appropriate to distinguish what he intended from the uses other people made of his writings. But a lot of the significance of the work lies in its downstream effects. However he managed it, and despite the fact that, as Sperber and Stedman Jones demonstrate, he can look, on some level, like just one more nineteenth-century system-builder who was convinced he knew how it was all going to turn out, Marx produced works that retained their intellectual firepower over time. Even today, “The Communist Manifesto” is like a bomb about to go off in your hands.
Ngay cả bây giờ bản "Tuyên ngôn CS" vẫn là 1 trái bom nếu bạn cầm trong tay, và sẵ
n sàng đoàng 1 phát!

Thù Ngụy Một, Thù Đệ Tứ, Mười

Ý tưởng viết "To the Finland Station", ("Tới Ga Phần Lan", một cuốn sách về chủ nghĩa CS), đến với Edmund Wilson, khi ông đang trên đường xuống phố, vào đúng lúc Cơn Suy Thoái lớn về kinh tế đang ở đỉnh cao. Ông khi đó đang ở cuối tuổi "tam thập nhi lập", đã có được tí tên tuổi, như phê bình gia và phóng viên nhà báo, đã cho ra lò hai tác phẩm, một, về mấy ông nhà văn hiện đại (Axel’s Castle, 1931), và một, những chuyến đi thực tế vùng xưởng, mỏ (The American Jitters, 1932). Tham vọng của ông lớn hơn nhiều: phải cho ra lò một cuốn tiểu thuyết!

Trước đó, vào năm 1929, ông đã thử tay nghề, với cuốn "Tôi nghĩ về Daisy", nhưng chẳng ma nào thèm đọc (not a success). Thành thử, ông ngạc nhiên với chính mình, cớ sao lại tham vọng cùng mình, dám đụng tới - những nhân vật lịch sử như là... Quang Trung, Nguyễn Huệ - ấy chết xin lỗi - vị cha già của chủ nghĩa CS, Lê nin, và xuyên xuốt cuộc đời cha già, là cả một thời kỳ lịch sử nóng bỏng của tư tưởng CS, từ Cách Mạng Pháp tới Cách Mạng Nga. Nhưng ông thấy mờ mờ hiện ra, sau bức màn hoành tráng của lịch sử đó, là hình ảnh của... một cuốn tiểu thuyết! "Tôi quýnh lên, vì cuộc thách đố" (I found myself excited by the challenge), ông cho biết sau đó. Chút men say – của cuộc thánh đố – như sôi lên cùng câu văn bỗng hiện ra ở trong đầu Wilson, "I go to encounter for the millionth time the reality of experience and to forge in the smithy of my soul the uncreated conscience of my race." (Câu nói của Dedalus, ở cuối cuốn Chân Dung, của Joyce, tạm dịch: Tôi tới chỗ hẹn lần thứ một triệu, với thực tại kinh nghiệm, và trong cái lò cừ là linh hồn tôi, rèn đúc ý thức nòi giống của mình, vốn chưa từng được tạo ra). Còn cái tựa đề (như một ẩn dụ nói lên Ngày Mai Ca Hát?), mượn đỡ tên một tác phẩm của người đẹp thành London, Virginia Woolf, "To the Lighthouse" (Tới Ngọn Hải Đăng).

Đã từng có kinh nghiệm từ những chuyến đi thăm công nhân mỏ tại vùng Appalachia và Detroit, (Do an ủi, và tiếp tế lương thực cho những người thợ đình công tại Pineville, Kentucky, ông đã bị nhà cầm quyền địa phương cầm lá chuối lót tay, đá đít, cấm cửa), Cơn Suy Thoái làm ông mừng (Cho chết mẹ mày, hỡi con quái vật nhà máy tư bản chủ nghĩa!). Mặc dù hoài nghi Đảng CS, ông hân hoan hồ hởi ôm lấy Chủ nghĩa Mác. Ông bỏ phiếu cho ứng cử viên CS, William Z. Foster, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, và cùng năm, ký tên vào bản tuyên ngôn kêu gọi "một chính sách độc tài tạm thời có tính giai đoạn của những công nhân có ý thức giai cấp" ("a temporary dictatorship of the class-conscious workers.")

Tuy chẳng bao giờ thò bút ký đơn xin gia nhập Đảng, nghĩa là chẳng bao giờ là một tay CS, nhưng ông tin tưởng, chỉ những người CS mới thực tình giúp đỡ giai cấp công nhân. Vào năm 1935, khi bắt đầu lao vào việc viết "To the Finland Station", ông còn cố dụ khị ông bạn của mình là nhà văn Dos Passos, rằng Stalin đúng là một tay CS thứ thiệt, "làm việc cho chủ nghĩa xã hội tại Nga Xô" (a true Marxist, "working for socialism in Russia.").

Chẳng bao lâu liền sau đó, ông "bèn" đi Nga. Và sau đó, viết về những chuyến đi thăm Quê Người, xen lẫn những chuyến đi thăm Quê Mình (Mỹ), nhan đề đầy ấn tượng, "Những chuyến đi giữa Hai Nền Dân Chủ" "Travels in Two Democracies." Tuy nhiên, ông đã tự kiểm duyệt, bỏ những chi tiết ghi trong nhật ký về nỗi sợ và sự áp bức, kìm kẹp mà ông chứng kiến tại Liên Bang Xô Viết. Và đến năm 1938, ông đành không cho phép mình giả đò nữa, và cho lật tẩy con bài xã hội chủ nghĩa: Họ chẳng những chưa bắt đầu xây dựng những định chế dân chủ. Chưa kịp bắt đầu thì đã trật đường rầy rồi", ông thú nhận với một người bạn. "Họ có sự thống trị mang tính toàn trị, bởi một bộ máy chính trị" ("They have totalitarian domination by a political machine."). Ông hiểu rõ, cuốn sách của mình sẽ rất "đoạn trường". Vào tháng Mười 1939 ông buồn bã báo cho Louise Bogan, "Liên Xô đang tính nuốt Phần Lan, còn tôi đang cố tới đó, (cố kết thúc cuốn sách).

To the Finland Station được nhà Harcourt Brace xuất bản tháng Chín, 1940. Không đúng thời điểm tốt đẹp cho một cuốn sách với nhân vật chính của nó là Vladimir Lenin. Một tháng trước đó, tại Mexico, ông trùm của Đệ Tứ Quốc Tế, Leon Trotsty bị chẻ đôi cái đầu bằng một cái dìu chặt đá lạnh (ice axe). Một năm trước đó, Liên Bang Xô Viết đã ký với Đức Nazi bản hiệp ước bất tương xâm, mặc nhiên cho phép Hitler xâm lăng Ba Lan. Năm năm trước đó, Stalin đã đi một đường quét dọn sạch sẽ đối lập chính trị bên trong Liên Bang Xô Viết. Cuộc dọn sạch cỏ "dại" này, là tiếp nối của chương trình tập thể hóa mà hậu quả của nó là cái chết của trên năm triệu người. Vào năm 1940, trí thức Tây Phương kể như vỡ mộng chủ nghĩa CS. Andre Gide, George Orwell, và Dos Passos đã viết những bản kết toán mới tinh (firsthand accounts) về sự tàn bạo và đạo đức giả của chủ nghĩa CS đương thời – Gide và Dos Passos, sau khi đi Nga về, Orwell, sau khi chiến đấu cùng với những phần tử Loyalists tại Tây ban Nha. Tạp chí Partisan Review (Mỹ), trở thành "tiền đồn" chống Cộng.

Vào tháng Giêng, 1947, "Tới Ga Phần Lan" chỉ bán được 4,527 bản. Nhà xb Doubleday mua lại bản quyền, và tái xuất bản cùng năm, nhưng sách bán ra chỉ lèo tèo. Số mệnh chỉ mỉm cười với nó, với ấn bản bìa mỏng, và cũng là cuốn đầu tiên của nhà sách Anchors, vào năm 1953. Mãi lực khá hẳn ra, vào thập niên 1960, vào năm 1972, tức là năm Wilson từ giã cõi đời, nhà sách Farrar, Straus & Giroux cho ra lò một ấn bản mới, với lời tựa của chính tác giả, "Nhìn Lại Những Trang Viết Cũ", đúng ra là nhìn lại Chủ Nghĩa Cộng Sản Xô Viết. "Cuốn sách của tôi," ông giải thích, "cho thấy, qua nó, là một bước tiến bộ quan trọng đã được thực hiện, một ‘đột phá’ đã xẩy ra, và lịch sử nhân loại chẳng còn như trước nữa. Có điều, tôi không ngửi ra được, mùi của thảm họa, rằng Liên bang Xô Viết sẽ trở nên một trong những chế độ bạo tàn ghê tởm nhất của nhân loại, và Stalin, một trong những hoàng đế độc ác nhất, và không hề có mảy may tính người, của nước Nga. Cuốn sách của tôi do đó, có thể đọc, như là một bản kết toán khả dĩ tin cậy được, nếu nói về cơ bản, về điều, mà những nhà cách mạng nghĩ rằng, họ đang làm, là vì những quyền lợi cho một thế giới ‘tốt đẹp hơn’."

[Với cuộc chiến Iraq hiện đang nóng bỏng, khét lẹt, liệu, những "nhìn lui" của Wilson, là những "nhìn tới", của chúng ta?].

Những nhìn lại của Wilson thực ra cũng chưa "tới đâu vào đâu" cả, với chỉ một độc giả "thường thường bậc trung", là chúng ta bi giờ. Nói rõ hơn, Wilson biết, chuyện gì xẩy ra tại Liên Bang Xô Viết vào thập niên 1930, như những trang của ông về Stalin ở trong "To the Finland Station" cho thấy. Nhưng vấn đề, không với Stalin, mà là với Lênin: típ người lý tưởng dâng hết đời mình cho nghĩa cả, người của hành động, đúng như định nghĩa của Marx, đừng giải thích, hãy thay đổi thế giới. Khi vẽ chân dung Lênin, Wilson thừa nhận ông dựa vào tài liệu của Đảng và Nhà Nước, (vào thời kỳ này, đã có những tài liệu "ngoài luồng", thí dụ như cuốn "Lenin" của Mark Landau-Aldanov, một di dân, do Dutton xuất bản, 1922). Lênin có thể gây ấn tượng, như là một người dâng hết đời mình cho nghĩa cả, (cho lòng nhân từ quên cả thân mình), nhưng ông còn là một chính trị gia thủ đoạn tàn nhẫn, hay dùng từ của nhà văn Nga, Vladimir Nabokov, vào năm 1940, trong một lá thư gửi cho Wilson, ngay sau khi đọc xong cuốn sách của bạn mình, "To the Finland Station": a "pail of milk of human kindness with a dead rat at the bottom" (một xô sữa, tức cái chất người ‘người ơi là người’, với một con chuột chết ở dưới đáy".

Trong lời tựa, cho ấn bản 1972, tác giả Wilson cũng đưa ra một cái nhìn về con chuột chết đó. Nhưng ông vờ đi, một thực tại hiển nhiên, rằng, hầu hết những nét nổi cộm nhất của chế độ Stalin – sử dụng khủng bố, trình diễn những tòa án nhân dân, và những trại tập trung cải tạo - đều do Lênin đầu têu, và khánh thành. "To the Finland Station" bắt đầu với sự phản bội những nguyên lý, những lý tưởng Cách Mạng Pháp, của Napoleon, nó phải "nên" chấm dứt với sự phản bội của Lênin, với Chủ Nghĩa Xã Hội của Âu Châu. Wilson tin rằng, ông đang viết về sự thành công của những tư tưởng trong hành động ["tri" biến thành "hành", ideas in action], về sự chuyển dịch cái tưởng (tượng) thành cái thực. Dựa vào câu nói của Vico, như là điểm mở ra tác phẩm của ông, "thế giới xã hội là tác phẩm của con người" ("the social world is the work of man"), thì, câu chuyện ông chọn lựa, là một câu chuyện về sự thất bại.

Sự thực, theo như người viết hiểu, Wilson không phải là đảng viên CS, nhưng ông rất mê CS Đệ Tứ, của Trotsky, chứ không phải Đệ Tam. Bà vợ của ông, Mary McCarthy, theo Đệ Tứ. Và tờ Partian Review có khuynh hướng Đệ Tứ, chứ không phải tiền đồn chống Cộng. Trotsky thường vẫn cho rằng, mình trung thành với chủ nghĩa CS, của Lênin. Thành thử Wilson không thể nào nói ngược về Lênin được. Thất bại của cuốn sách còn là ở chỗ đó.

Về câu nói của Nabokov, và hình ảnh, "xô sữa với một con chuột chết ở dưới đáy". Theo như người viết được nghe kể lại, Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, thuộc nhóm Hàn Thuyên, [với những thành viên như Trương Tửu, Đặng Thai Mai], theo Đệ Tứ, khi chạy trốn Đệ Tam (bỏ đất bắc vào nam, từ trước 1954), cũng đã từng so sánh Quốc Gia và Cộng Sản, bằng một hình ảnh khá tương tự, [tôi tin rằng ông chưa hề đọc câu của Nabokov]: Cộng Sản giống như một bát cơm gạo tám thơm, nhưng trộn thuốc độc, còn Quốc Gia, một bát cơm gạo hẩm, mốc, mà còn có vị thum thủm, vì trộn phẩn ở trỏng! Sở dĩ miền nam có được sự cởi mở, so với miền bắc, ngay cả ở những người theo CS, là do ảnh hưởng Đệ Tứ, với hai lãnh tụ nổi cộm là Hồ Hữu Tường và Nguyễn Đức Quỳnh (những người đã mất không nói tới, thí dụ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Nguyễn An Ninh không theo nhưng có cảm tình với Đệ Tứ). Ngoài ra còn những người nổi tiếng khác, như Trần Văn Ân, Tam Ích chẳng hạn. Nên nhớ, cái chất văn nghệ tự do của miền nam, không phải đợi tới Ngô Đình Diệm hoặc chính thể Cộng Hòa, mới có, mà là có công lao của những người Cộng Sản Đệ Tứ. Chúng ta hiểu tại sao người Cộng Sản ở trong nước thù ngụy thì một, mà thù Đệ Tứ, thì mười, là vậy.

Trotsky bị điệp viên của Stalin làm thịt ngày 20 tháng 8 năm 1940. Trong một bài viết tuyệt vời về ông, "Trotsky và cơn tưởng bi thương" (Trotsky and the tragic imagination, in trong Lời và Câm, Language and Silence), George Steiner mô tả cảnh tượng hùm thiêng khi đã sa cơ vẫn... bảnh như thường:

"Sọ vỡ, mặt bạnh, hùm nhẩy lên, ném bất cứ thứ gì vớ được vào tên giết người, sách, lọ mực, luôn máy ghi âm, và sau cùng ném luôn thân hình hùm vào hắn. Chỉ chừng ba hoặc bốn phút... Cuộc chiến đấu cuối cùng của Trotsky. Ông chiến đấu như một con hùm. Ông vật lộn với tên sát nhân, cắn tay hắn, cố giật lấy hung khí, là cái rìu phá băng."

"Sách, lọ mực, cái máy ghi âm trở thành kho vũ khí của nhà văn"...

Đọc tới đây, tôi chợt nhớ đến cái chết của Tam Ích, một "Trốt-kít": ông dùng kho vũ khí của chính mình, là những cuốn sách, làm bậc thang, trèo lên tới cái thòng lọng, và sau khi thò đầu vào trong, ông đạp đổ đống sách....

Jennifer Tran

Tài liệu tham khảo:

-THE HISTORICAL ROMANCE by LOUIS MENAND

Edmund Wilson’s adventure with Communism.

Issue of 2003-03-24
Posted 2003-03-17

(Tạp chí Người Nữu Ước, trên lưới)

-To the Finland Station, Một Nghiên Cứu về Viết và Hành Lịch sử (A Study in the Writing and Acting of History). Nhà xb Anchors.

Edmund Wilson sinh ngày 8 tháng Năm, 1895, tại Red Bank, New Jersey. Học Princeton. Tác giả những cuốn: I Thought of Daisy (1929), tập truyện ngắn, Memoirs of Hecate County (1946), một tập thơ, Poets, Farwell (1929), và một số kịch phẩm. Ông nổi tiếng như là nhà phê bình, với những tác phẩm như Axel’s Castle (1931), The Triple Thinkers (1938), The Wound and the Bow (1941)...

Note: Chỉ đến khi đến được Trại Tị Nạn Thái Lan, đọc bài viết của Tolsataya mà sau này Gấu biết được, đó là bài điểm cuốn sách của Robert Conquest, thì Gấu mới vỡ ra là, làm đếch gì có chủ nghĩa CS ờ xứ Mít, mà nó chỉ là 1 thứ dê tế thần. Cái Ác Bắc Kít mới đích danh thủ phạm.

*

Cuốn của Tolstaya, order, bữa nay về. Trong có tất cả những bài đã giới thiệu trên TV, đã từng đăng trên NYRB. Cố tìm bài “Những thời ăn thịt người”, Gấu đã từng đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, bản dịch, đăng trên tờ Thế Kỷ 21, nhưng không thấy. (1)

(1) Kiếm ra rồi: Bài điểm cuốn của Robert Conquest: The Great Terror (Oxford University Press, 1990): “The Great Terror and the Little Terror”: Khủng Lớn & Khủng Nhỏ. Bài viết này, đọc ở Trại Tị Nạn Thái  Lan, mở ra cho Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc Kít.
Cu
ốn này, cũng làm từ thiện mất rồi!

  Thơ Mỗi Ngày

Bob Dylan: Nobel văn chương 2016

Bob Dylan wins Nobel prize in literature 2016 – live
The 2016 Nobel prize in literature will be announced today at 1pm CET (that’s midday in the UK). Follow the build up and all the reaction after the announcement here
Guardian Live

8m ago 12:01
And the winner is...
Bob Dylan “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”.


*  

Như vậy là Mẽo được Nobel, nhưng đếch phải nhà văn, mà là 1 nhạc sĩ

https://www.theguardian.com/books/2016/oct/13/bob-dylan-wins-2016-nobel-prize-in-literature

Bob Dylan was named the surprise winner of the Nobel prize for literature in Stockholm today “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”.
Speaking to reporters after the announcement, the permanent secretary of the Swedish Academy Sara Danius said she “hoped” the Academy would not be criticised for its choice.
“The times they are a’changing, perhaps”, she said, comparing the songs of the American songwriter, who had yet to be informed of his win, to the works of Homer and Sappho.
“Of course he deserves it – he’s got it,” she said. “He’s a great poet – a great poet in the English speaking tradition. For 54 years he’s been at it, reinventing himself constantly, creating a new identity.”
Danius said the choice of Dylan may appear surprising, “but if you look far back, 5000 years, you discover Homer and Sappho. They wrote poetic texts which were meant to be performed, and it’s the same way for Bob Dylan. We still read Homer and Sappho, and we enjoy it. We can and should read him.”
The winner of the Nobel prize for literature is chosen by the 18 members of the Swedish Academy, who are looking for “the person who shall have produced in the field of literature the most outstanding work in an ideal direction”, according to Alfred Nobel’s will. The award itself admits on its website that “Alfred Nobel’s prescriptions for the literature prize were quite vague”, adding that “in fact, the history of the literature prize appears as a series of attempts to interpret an imprecisely worded will”.
Major writers believed to have been in the running for the award included the Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the Japanese Haruki Murakami.
Danius advised those unfamiliar with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was “not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps it’s a question of my generation – today I’m a fan of Bob Dylan,” she said.
Dylan becomes the first American to win the Nobel prize for literature since Toni Morrison took the prize in 1993. His triumph follows comments in 2008 from Horace Engdahl, then permanent secretary of the Nobel prize jury, that “the US is too isolated, too insular. They don’t translate enough and don’t really participate in the big dialogue of literature ... That ignorance is restraining.”
Today, a jury now headed by his successor has obviously changed their mind.


Hy vọng Nobel năm nay không bị chỉ trích.
Lẽ tất nhiên xứng đáng. Ông ta là nhà thơ lớn, trong dòng tiếng Anh. Có thể có tí ngạc nhiên, nhưng nhìn lại coi, 5 ngàn năm trước, có Homer, có Sappho.
Người Mẽo đầu tiên được Nobel, sau Toni Morrison, 1993. Mẽo quá cô lập, một hòn đảo, đâu phải 1 đại lục, đếch chịu dịch dọt, đếch thèm tham dự vào những cuộc lèm bèm lớn lao về văn học, viên thư ký thường trực Horace Engdahl chẳng đã dè bỉu, nhưng uỷ ban Nobel sau ông có thể đã thay đổi cái đầu.
Thay đổi cái đầu, có, nhưng vưỡn đếch cho nhà văn Mẽo!


The choice of Dylan follows speculation about disagreement amongst the judging panel. The prize was expected to be announced last week, in the same week as the science medals, and the Academy’s Per Wästberg said the different date was a matter of logistics. But Bjorn Wiman, cultural pages editor at Sweden’s Dagens Nyheter, told the South China Morning Post that “if you ask me, it’s absolutely not a ‘calendar’ issue. This is a sign there’s a disagreement in the process to select a winner.”
Major writers believed to have been in the running for the award included the Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the Japanese Haruki Murakami. At Ladbrokes, where the singer was at 16/1 from 50/1 when betting was suspended, spokesman Alex Donohue said that “a lot of people scoffed when his odds came in to 10/1 from 100/1 in 2011. Looks like there was something blowin’ in the wind after all.”
Danius advised those unfamiliar with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was “not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps it’s a question of generation – today I’m a lover of Bob Dylan,” she said.

Đúng ra Nobel văn học được công bố tuần trước, nhưng có 1 sự không đồng thuận giữa mấy ông Hàn.

Sara Danius, nữ thư ký thường trực cho biết, hồi còn trẻ, bà không thích ông này, nhưng già thì lại mê. Trong nước, tờ VHTT net phán, cho Bob Dylan, vì là 1 Einstein của quần chúng. Đây là 1 ví von, khi anh ca sỡi được Ô
Bá Mà vinh danh, không mắc mớ đến Nobel. Thứ nào thứ đó. Vòng hoa Nobel là vòng hoa Nobel, “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”, đã sáng tạo ra những cách diễn tả mới trong truyền thống lớn lao của dòng ca nhạc Mẽo.
Nhảm
http://www.dw.com/en/the-einstein-of-pop-music-bob-dylan-at-75/a-19278557
Culture
"The Einstein of pop music:" Bob Dylan at 75
As Bob Dylan's birthday is widely noted, music experts wonder whether there could ever be a worthy successor to him as poet, musician and cult figure.
        Bob Dylan has two honorary doctorates and was awarded the Pulitzer Prize in 2008 in recognition of his enormous influence on pop culture. In 2012, US President Barack Obama awarded him the country's highest civil distinction: the Presidential Medal of Freedom. Now he is also a Nobel Prize laureate.


Note: Để an ủi, FB post lại bài diễn văn Nobel của Kertesz
Quoc Tru Nguyen shared a memory.
12 mins ·
1 Year Ago
See Your Memories
Quoc Tru Nguyen
October 13, 2015 ·

Heureka!
Nó đây rồi!
Diễn văn Nobel 2002
Imre Kertész

... See More

Tôi phải bắt đầu bằng một lời thú nhận. Một lời thú nhận lạ kỳ, có thể, nhưng mà là chân thiệt. Từ lúc bước lên phi cơ làm chuyến đi tới đây, Stockholm, để nhận giải Nobel văn chương năm này, tôi có cảm giác, một cái nhìn đăm đăm, bình thản, bám chặt ở sau lưng. Ngay cả vào giây phút trang trọng như lúc này, ở nơi nhĩ mục quan chiêm, tôi cảm thấy mình gần gụi với người chứng điềm tĩnh đó, hơn là với người văn mà tác phẩm đột nhiên được đọc trong cõi năm châu bốn bể. Và tôi chỉ mong rằng, biết đâu, nhờ dịp này, qua bài nói chuyện mà tôi có vinh dự đọc lên, sẽ giúp tôi rũ khỏi tình trạng nhập nhằng, và nhập được cả hai con người nói trên, vào làm một.


Viết Mỗi Ngày

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

Viết Mỗi Ngày

Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic

From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo

Đa tạ

NQT

Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau mà đứng dậy,
cái gì gì dựa hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người, thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc, hà, hà!

Lê Công Định commented on this.
Follow
Dũng Mai
October 10 at 8:25pm ·

Cơ quan an ninh bắt Blogger Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) vào thời điểm này là ngầm dằn mặt Công Giáo vì Mẹ Nấm là gia đình theo Đạo.
Sự kiện dân Công giáo miền Trung nổi dậy làm điêu đứng thể chế cộng sản bắt đầu với cuộc biểu tình phản đối Formosa tại Giáo xứ Đông Yên và trước đó Công Giáo Nghệ an kéo vào Kỳ Anh nộp đơn kiện Formosa có nguy cơ bùng phát.

Nhà cầm quyền trong lúc này tập trung hết vào việc dập lửa. Bắt các Linh mục thì chưa dám nên họ nhắm bắt Mẹ Nấm với cái cớ "chống nhà nước" trong khi tài liệu khám nhà chỉ có các khẩu hiệu phản đối Formosa.

Ai cũng biết trong cái đảng đỏ máu này các phe phái ăn chia đang phân rã khủng khiếp. Quyết định dập lửa của họ đôi khi thay vì tưới nước có kẻ lại ngấm ngầm chuyển tới can xăng.

Việc cuối cùng, thay vì khóc ròng cho Nẹ Nấm và ngồi bói xem họ sắp bắt ai tiếp theo, tôi nghĩ ai yêu mến cô ấy hãy tìm mọi cách theo khả năng cưu mang đùm bọc hai đứa con cô ấy có lẽ là thiết thực.

45 Comments
64 Shares
769 Lê Công Định and 768 others

Note: Đúng quá. Cái cú di cư, nếu không có công giáo, thì cũng không biến thành biến động lịch sử.
Chúa vô Nam, bây giờ đúng là lúc Chúa trở lại Đất Bắc.
Bắc Kít rất cần 1 thứ tín ngưỡng như Thiên Chúa Giáo, thứ mà Bắc Kít thù nhất.

Đây cũng là lời tiên tri mà Steiner lọc ra, khi viết về Liên Xô:

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian.
Steiner

Amen!
http://tanvien.net/Tribute_1/30.4.14_2.html

Steiner có hai bài viết trên tờ The New Yorker, [sau in lại trong Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một, “De Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những nhà văn Nga khác: Dưới cái nhìn Ðông phương, Under Eastern Eyes.

Steiner viết, những đòi hỏi của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông [bao nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì thật là dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết, và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người đọc Tây Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant suffering, của họ. Ông rành chúng ta, hơn là chúng ta rành ông. Và như thế, ông là một tác giả hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về thể xác của con người. Và, vẫn như thế, ông là 1 tác giả gây bực.

Every time a human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable fact of individual agony with anonymous categories of statistical analysis, historical theory, or sociological model-building. Consciously or not, anyone who offers a diagnostic explanation, however pious, or even condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the death by torture of this man or that woman, of the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows that if we are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.

Mỗi một sự sỉ nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp riêng lẻ không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh đập, bị bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra trên tấm dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn có tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá nhân, bằng đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử, hay xây dựng mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời giải thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa, cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì đói khát của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy ra với Dante, và Tolstoy, tên riêng của con người trào ra như thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết, nếu chúng ta cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn, chúng ta phải nhập tâm và thốt lên tên của họ, trong dòng kinh cầu hồn không ngừng, từng tên một, hàng triệu tên.

UNDER EASTERN EYES

Dưới con mắt Đông phương

Có một nghịch lý về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới, trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không có chúng là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói chung, nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn cựa được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải là người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương, của giới quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và Âu Châu hóa được những nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình, hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản văn thì đã làm méo mó, sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể chỉ là do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của Nga hiện hữu “mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn chỗ nào cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực tiếp, hoặc với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà Thờ, hoặc Mác Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà Nga có 1 thật câu thật hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà văn nhớn là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”, “the alternative state”. Những cuốn sách của người đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc nhất - của sự chống đối chính trị.
Trong trò chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó, và nó gần như không thay đổi, kể từ thế kỷ 18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn cho phát hành, quảng bá những tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó - của Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những cái van an toàn chuyển vào miền tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới chính trị, mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng người, tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên ngoài, không phải Nga, chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi đau khổ của Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky ở Siberia, cuộc chiến đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục lục dài những kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành tựu văn học Nga thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo, dính líu vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta dí mũi vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây phương. Thường xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta. Và để đổi lại, là mạng sống của anh ta, nói cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời mình, suốt địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự cũng không nói trọn sự thực, nó vẫn giấu đi ở trong chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác, nó thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.

Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.


Và cuộc lưu vong, phát vãng xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh Solzhnitsyn. Với con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự nhập thân nơi Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây Phương, và cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng và… vô tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì cực rõ. Cuộc cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người, cuộc nổi loạn hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là hậu quả tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này. Và chính con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất gốc, phần lớn là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy Russia. Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những khủng hoảng quân sự lớn 1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau khổ, tình anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn. Nhưng 1914 chứng kiến một nước Nga nhếch nhác, thảm hại tàn khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa duy lý vô thần.
Từ đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của cuộc Thế Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của những sự kiện đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy những “sự kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz cũng đã từ lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương và Hê-brơ [Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ yếu là của ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu vết chứng tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1 hình tượng như là Lenin.
Trong một nghĩa chỉ có tí phần có tính ám dụ, Solz hình như cảm ra được rằng, ý chí, ước muốn kỳ quặc và viễn ảnh của riêng ông có gì xêm xêm của Lenin, và, cuộc chiến đấu cho linh hồn và tương lai của nước Nga, sẽ là cuộc tử đấu giữa ông và người tạo ra hệ thống Xô Viết: Trời cho mi ra đời là để dựng nên Xô Viết, còn ta, để huỷ diệt nó. Và tiếu lâm thay, đúng như 1 cú của định mệnh, thiên đường không đi, mà cả hai cùng hẹn nhau, không cùng lúc mà là trước sau, lần lượt: Solz thấy mình ở Zurich, cũng trong tình trạng lưu vong, với Lenin, là trước cú tận thế 1914. Solz đã đi 1 chương về Lenin trong “Tháng Tám 1914”, và còn dư chất liệu cho những tập kế tiếp mà ông đặt tên là “Knots". Nhưng cú tính cờ Zurich thì quá giầu có để mà bỏ đi. Từ đó, xuất hiện Lenin ở Zurich (nhà xb Farrar, Strauss & Giroux).

Kết quả thì không tiểu thuyết mà cũng chẳng luận văn chính trị, mà chỉ là một bộ, set, những điểm xuyết nặng ký, in depth. Solz nhắm “lên sơ đồ, hoạch định, tìm ra” những sở đoản, điểm bại, tử huyệt của Lenin. Tin tức về Cách Mạng Nga đến với Lenin trong kinh hoàng, theo nghĩa, ông hoàn toàn ngạc nhiên đến sững sờ. Ðầu óc thiên tài quỉ quyệt với những âm mưu gây loạn của Lenin khi đó chỉ nhắm tạo bất ổn ở Thuỵ Sĩ và đẩy đất nước này vào 1 cuộc chiến.

Ngồi ăn sáng mà Lenin buỗn nẫu ruột. Người quậy tứ lung tung cố moi ra tiền vỗ lớn cái bào thai cách mạng. Người nhức đầu vì một người đàn bà khác trong cuộc đời khổ hạnh của Người, nàng Inessa Armand cực phấn kích, làm rùng mình, và chấp nhận “lệch pha ý hệ” ra khỏi nàng, và điều này có nghĩa là một đệ tử của Thầy bị ăn đòn!
Trên hết, như Solz, đích thị xừ luỷ, Người nhận thấy cái sự khoan thứ, rộng luợng đã đư
ợc khử trùng và trở thành trong suốt của chủ nhà Thụy Sĩ khiến Người trở nên khùng:

Cả Zurich, chừng ¼ triệu con người, dân địa phương , hay từ các phần khác của Âu Châu, xúm xít ở dưới đó, làm việc, trao đổi công chuyện, đổi tiền, bán, mua, ăn nhà hàng, hội họp, đi bộ, lái xe lòng vòng, mỗi người mỗi ngả,   mỗi cái đầu thì đầy những ý nghĩ, tư tưởng chẳng có trật tự, chẳng hướng về đâu. Trong khi đó, đứng trên đỉnh núi, Người biết cách hướng dẫn họ, và thống nhất thành một mối ước muốn của họ.

Ngoại trừ điều này:  Người đếch có tí quyền lực cần thiết. Người có thể đứng trên đỉnh Zurich, hay nằm trong mồ, nhưng không thể thay đổi Zurich. Người đã sống hơn một năm ở đó, mà mọi cố gắng của Người đều vô ích, chẳng có gì thay đổi.

Và, kìa, chúng lại sắp hội hè nữa kìa!

Lenin trở về Nga, trong cái “xe đóng khằn” trứ danh, với sự đồng lõa của nhà cầm quyền hoàng gia Ðức, và bộ tướng lãnh (họ mong làm sao chiến tranh đừng xẩy ra tại Nga). Nhưng Lenin chẳng hề có tham vọng này. Nó là từ cái đầu của Parvus, alias Dr. Helphand, alias Alexander Israel Lazarevich. Mặc dù cả một cuốn tiểu sử hoành tráng của Z.A. Zeman và W.E. Scharlau, “Tên mại bản cách mạng”, "The Merchant of Revolution", chúng ta chẳng biết chi nhiều, và rõ ràng, về ông này. Một nhà cách mạng a ma tưa, nhưng tầm nhìn đôi khi vượt cả của Lenin. Một tay gây vốn thiên tài cho Bolsheviks, nhưng còn là gián điệp nhị trùng, tam thùng, đi đi lại lại giữa các phần tử, đảng phái Thổ Nhĩ Kỳ, Ðức, và Nga. Ăn diện bảnh bao, dandy, người của muôn phương, cosmopolite, chàng bèn liền lập tức bị mất hồn và sướng điên lên vì chủ nghĩa khổ hạnh đến cuồng tín của những đường hướng của Lenin. Tòa villa sang trọng, giầu sang mà Parvus xây cho chính ông ta ở Berlin, và vào năm 1942, chết ở đó, sau này được Himmler sử dụng để đi một đường “giải pháp chót” [nhổ sạch cỏ] cho giống dân Do Thái.
*
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tá
30.4.2014



Giới thiệu Đà Lạt qua mấy trang viết.

Viết về Đà Lạt mà bỏ qua không nhắc tới MCNK thì nhảm quá, và đọc như thế là hư cả Đà Lạt, do thiếu cái giai thoại nền tảng của nó, Đà Lạt là nghĩa địa của voi, đây cũng là ý nghĩa tương tự như Cội Rễ  Nhà Trời, Les Racines du Ciel, của Romain Gary

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/10/da-lat-et-jentends-siffler-le-train.html

  1. Nhị LinhOct 11, 2016, 12:30:00 PM

    có vẻ lần này Nguyễn Vĩnh Nguyên đã thực sự tìm được nhiều độc giả rồi đây :p

    Reply
    Replies
    1. AnonymousOct 11, 2016, 10:04:00 PM

      "Như đôi mắt sớm thành ga cô quạnh..."

    2. Reply
  2. Nhị LinhOct 12, 2016, 9:33:00 AM

    thật không ngờ là đến một ngày sẽ có người trích thơ Lu Tử D. ở blog của tôi đấy :p

    Reply

Lu Tử D. Tuyệt kú nick. Đúng là chàng! Hà, hà!

Đâu phải vô tư mà Lê Cự Phách biến thành Du Tử Lê. Chàng biết chàng là ai, 1 kẻ làm thịt gái. Đúng là tên tìm tên, người tìm người, trâu tìm trâu, chó chơi với chó…. Bất giác lại nhớ đến 1 tay phóng viên, hỏi Naipaul 1 câu, Người sướng quá, cám ơn lia chia:
- Vào năm 1967, trong cuốn Lần Viếng Thăm Thứ Nhì, một thứ phóng sự về Ấn Độ, ông đã từng nói: "Tất cả những tự thuật Ấn Độ đều được viết bởi, vẫn chỉ có một người: dở dang". Phải chăng, đây là định nghĩa Willie? [nhân vật chính trong Nửa Đời Nửa Đoạn, La Moitié d'une vie, tác phẩm của Naipaul].
- Vâng, đúng như vậy. Cám ơn đã để ý tới điều này.
[Tạp Chí Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín 2005. Naipaul trả lời phỏng vấn].
Tên nhân vật, tên cuốn sách, số phận của 1 xứ sở, 1 dân tộc, là… 1. Tuyệt!
Cà, Lê, Táo…. Không thể so được với DÊ!
Tuyệt!
Trên TV có 1 bài viết về lần chàng về gặp lũ Cớm VC, từ 1 bài ở trong nước. Mới đây coi lại bài trong nước đã bị gỡ bỏ

http://www.tanvien.net/Viet/am_anh_pho_phuong.html

*

http://huyvespa.blogspot.com/2016/10/dalat-cung-em-bao-nhieu-ngay-hoang.html

https://phamcaohoang.blogspot.ca/

2515. Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013 do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện


http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/da_lat_4.html

Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cầm Dương Xanh

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.
Ai cho phép mi là thi sĩ?
*

Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương thất lạc, không còn tìm thấy mình, thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.

Borges đã từng suýt soa, dịch bản bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn của nó.
Ở trong dịch bản!

Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia, của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!

Mình là cái quái gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
 *

Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp chết, là bò về nghĩa địa...

"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"

"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".


Một Chủ Nhật Khác

Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, giống như một bài toán đố. Những chi tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm cách chứng minh bài toán, tìm ra cái định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng, tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào, người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người tìm có tí dấu vết mà lần mò.

Hai Lúa còn nhớ, có lần, tác giả Một Chủ Nhật Khác kể là, hình như trong một bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!

Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?

Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó, sao mà... thảm thế!

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

 TTT 10 năm

SN_GCC_2016
Quoc Tru Nguyen is with Nguyễn Trọng Khôi.
2 mins ·
Quoc and Nguyễn are celebrating 3 years of friendship on Facebook!
See Your Memories


http://tanvien.net/new_daily_poetry/20.html

Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


…   Anh khoe khong?
K

OK rồi, không què đâu. Tks
NQT

Mạnh khỏe la vui roi!
O. 

Tks. Tưởng là què luôn.

V/v Đi tu tới bến.
Tôi đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó

Bác Tru theo dao nao vậy?

Toi theo dao tho ong ba
Den gia, doc Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.

http://www.tanvien.net/D_4/21.html

*

NY Review Book 2005

Xuống phố, vô tiệm sách, vớ được cuốn trên. Đọc sơ sơ mấy dòng, thì vỡ ra tới hai điều rất ư là quan trọng, với riêng GNV:
Tại làm sao mà Gấu bị cái rìu phá băng Simone Weil bổ trúng đầu, đúng dịp Trần Trường Cờ Máu Hình Bác, tại ngay trung tâm Tiểu Sài Gòn, Cali?
Bản văn ‘Iliad hay là Bài thơ của Sức mạnh’ của Weil có một chị/em song sinh.
Khủng hơn nữa, cả hai tác giả, đều là nữ, và đều tự tử.

Bởi vì ngay cái tít của bài Intro cho cuốn sách trên, đã giải thích: Đây là câu chuyện của hai Iliads

Introduction: A tale of two Iliads

INTRODUCTION
A TALE OF TWO ILIADS 

The critic Kenneth Burke once suggested that literary works could serve as "equipment for living," by revealing familiar narrative patterns that would make sense of new and chaotic situations. If so, it should not surprise us that European readers in times of war should look to their first poem for guidance. As early as the fall of 1935, Jean Giraudoux's popular play La guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to think of their country as vulnerable Troy while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the play's English title). Truth was the first casualty of war, Giraudoux warned. "Everyone, when there's war in the air," his Andromache says, "learns to live in a new element: falsehood."

Giraudoux's suggestion that the Trojan War was an absurd contest over empty abstractions such as honor, courage, and heroism had a sinister real-life sequel when Giraudoux was named minister of wartime propaganda in 1939. In the wake of Munich, Minister Giraudoux announced that the most pressing danger to French security was not the Nazis but “one hundred thousand Ashkenasis, escaped from the ghettos of Poland or Rumania.”

After September 1939, the analogy between the crisis in Europe and the Iliad - which opens with broken truces and failed attempts to appease Achilles' wrath-seemed altogether too apt. During the early months of the war, two young French writers of Jewish background, Simone Weil and Rachel Bespaloff, apparently unaware of the coincidence, wrote arresting responses to the Iliad that are still fresh today. During the winter of 1940, Weil published in the Marseilles-based journal Cahiers du Sud her famous essay "L'Iliade, ou le poème de la force." Three years later - after both Weil and Bespaloff had fled France for New York - Jacques Schiffrin, a childhood friend of Bespaloff's who had become a distinguished publisher, published "De l'Iliade" in New York under the Brentano's imprint.

The idea of bringing these two complementary essays together was first pursued by Schiffrin and Bollingen editor John Barrett. After Mary McCarthy translated both essays into English plans were made to publish them in a single volume.' When rights to Weil's essay proved unavailable, Bespaloff's "On the Iliad" appeared separately in 1947, as the ninth volume in the Bollingen series, with a long introduction - nearly half as long as Bespaloff's own essay-by the Austrian novelist Hermann Broch, author of The Death of Virgil. In their respective essays, Weil and Bespaloff adopt some of the same themes while diverging sharply in their approach and interpretation. In her essay Weil condemns force outright while Bespaloff argues for resistance in defense of life's "perishable joys."

[suite]

NEW YORK REVIEW BOOKS CLASSICS
WAR AND THE ILIAD 

SIMONE WElL (1909-1943) was one of the first female graduates of the Ecole Normale Superieure and taught philosophy in provincial schools from 1931 to 1938. A socialist, she worked for a time on the Renault assembly line and volunteered to fight against the Fascists in the Spanish Civil War. In 1938, a mystical vision led Weil to convert to Roman Catholicism, though she refused the sacrament of baptism. Weil fled France for the United States in 1942, where, in solidarity with the people of Occupied France, she drastically limited her intake of food, so hastening her early death from tuberculosis. 

RACHEL BESPALOFF (1895-1949) was born to a Ukrainian Jewish family-her father was the Zionist theoretician Daniel Pasmanik-and raised in Geneva. Bespaloff intended to pursue a musical career, but after an encounter with the thinker Leo Shestov, she devoted herself to the study of philosophy. One of the first French readers of Heidegger, Bespaloff published essays in the 1930s about Kierkegaard, Gabriel Marcel, Andre Malraux, and Julien Green, among other philosophers and writers. In 1942, she left France for the United States, where she worked as a scriptwriter for the French Section of the Office of War Information before teaching French literature at Mount Holyoke. In 1949, Rachel Bespaloff committed suicide, leaving a note that said she she was "too fatigued to carry on."


Một chủ nhật khác

Lần trước còn học trong Thủ Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức giấc lúc trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như những bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài đường. Trên phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc. Kiệt đứng trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.

Viết Mỗi Ngày

Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic

From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo

Đa tạ

NQT

Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau mà đứng dậy,
cái gì gì dựa hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người, thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc, hà, hà!

Đọc/
Viết mỗi ngày

Viết Mỗi Ngày

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history


http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

Đọc/Viết mỗi ngày

Trong khi chờ Nobel Văn Chương, sẽ công bố vào ngày 13.10. 2016

Mit Critic

http://phovanblog.blogspot.ca/2016/10/jane-eyre-ban-tay-che-dong-bao.html

Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân trên thế giới.
TYT

Note: GCC sợ đấng này lộn từ kinh điển, academic, với từ cổ điển, classic.

Bởi thế, Calvino mới hỏi và cùng lúc, trả lời bằng cả 1 cuốn sách: Tại sao chúng ta vưỡn đọc cổ điển? Và cái câu khen bảnh nhất 1 cuốn sách vừa mới ra lò, là đã thành cổ điển!
Đã 1 bạn Cà lầm “kinh điển” với “kinh nguyệt”, khiến cả 1 một diễn đàn Bi Bi Xèo lầm theo.
Giờ đến đấng này!