nqt
 
1
2



A Transcendent Patti Smith Accepts Bob Dylan’s Nobel Prize

Sáng thứ Bẩy tại buổi lễ trao giải thưởng Nobel Văn Chương 2016 ở Stockholm, sau bản quốc ca, vị chairman của Nobel Foundation, đi 1 đường diễn văn… Trên sàn thì là như trên, một Patti Smith siêu thoát… “Vào những thời như thế này, Nobel văn chương thật quan trọng,” Heldin phán.
Điều mà ông ta tính nói “những thời như thế này”, hiển nhiên, liền 1 phát, truyền qua tất cả mọi người trong phòng.
Rằng thì là, những ngày của chúng ta thì u tối.
Ui chao, nhớ liền đến Heidegger: Tại sao thi sĩ trong 1 thời thê lương như thế này?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?

*

*


Bữa nay mẹ tôi mất
Kẻ Xa Lạ của nhà văn Pháp Albert Camus, thuật câu chuyện anh chàng Meursault, được tin mẹ mất (Bữa nay mẹ tôi mất. Có thể bữa qua, tôi không ...

See More
Image may contain: 1 person



Pris par « d'autres engagements », Bob Dylan n’ira pas chercher son prix Nobel
Le mercredi 16 novembre 2016

... mais il l'a cependant accepté!

Un mois après avoir été nommé prix Nobel de littérature, Dylan sort enfin du silence. Et sa réponse est tout à son image: oui, il accepte le plus prestigieux prix littéraire, mais non, il n’ira pas le chercher en décembre, retenu par « d‘autres engagements », a-t-il expliqué dans une lettre, mercredi, à l’Académie suédoise, qui s’est montrée plutôt conciliante. « Il aurait souhaité pouvoir recevoir le prix en personne, mais d’autres engagements font que c’est malheureusement impossible. Il a souligné qu’il se sentait extrêmement honoré par ce prix Nobel », a-t-elle expliqué dans un communiqué. Et de mettre encore un peu d'eau dans son vin : « L’Académie suédoise respecte la décision de Bob Dylan. Qu’un lauréat du prix Nobel ne puisse pas se rendre à Stockholm pour recevoir le prix est inhabituel, mais pas exceptionnel ».

Bận việc, BD không tới lấy, nhưng ông chấp nhận Nobel!
Hàn Lâm Viện Thụy Điển
, vừa cho tí mặt trời, vào trong ly rượu lạnh, vừa lầu bầu, chúng tớ tôn trọng quyết định, tuy không bình thường, nhưng không khác thường của ông ta



Pris par « d'autres engagements », Bob Dylan n’ira pas chercher son prix Nobel
Le mercredi 16 novembre 2016

... mais il l'a cependant accepté!

Un mois après avoir été nommé prix Nobel de littérature, Dylan sort enfin du silence. Et sa réponse est tout à son image: oui, il accepte le plus prestigieux prix littéraire, mais non, il n’ira pas le chercher en décembre, retenu par « d‘autres engagements », a-t-il expliqué dans une lettre, mercredi, à l’Académie suédoise, qui s’est montrée plutôt conciliante. « Il aurait souhaité pouvoir recevoir le prix en personne, mais d’autres engagements font que c’est malheureusement impossible. Il a souligné qu’il se sentait extrêmement honoré par ce prix Nobel », a-t-elle expliqué dans un communiqué. Et de mettre encore un peu d'eau dans son vin : « L’Académie suédoise respecte la décision de Bob Dylan. Qu’un lauréat du prix Nobel ne puisse pas se rendre à Stockholm pour recevoir le prix est inhabituel, mais pas exceptionnel ».

Bận việc, BD không tới lấy, nhưng ông chấp nhận Nobel!
Hàn Lâm Viện Thụy Điển
, vừa cho tí mặt trời, vào trong ly rượu lạnh, vừa lầu bầu, chúng tớ tôn trọng quyết định, tuy không bình thường, nhưng không khác thường của ông ta

*

Jelinek, la Mauvaise conscience de l'Autriche
Ý thức xấu, lương tâm xấu của Áo
ML Fev, 2007

Elfriede Jelinek ou la perte de l'innocence
[mất thơ ngây]

propos recueillis par Manuel Carcassonne

Le nazisme qui ne passe pas, l'innocence perdue, la réinvention du langage, la société
autrichienne, l'engagement et le statut de la femme: Elfriede Jelinek aborde ici tous ces
sujets avec le regard sans concession qui la caractérise.

http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/nobel_bodies.html

Những Hình Hài Nobel

Trong nhật ký đề ngày 1 tháng Tám 1914, Arthur Schnitzler ghi có nhận một lá thư báo cho ông biết rằng Áo là quốc gia được chọn để nhận giải Nobel Văn học năm nay (1914), và giải này được cưa đôi giữa ông ta và nhà biếm văn ấn tượng Peter Altenberg.
 Ông không thật sự hài lòng. Bà vợ ông lại càng bực mình khi nghĩ đến chuyện phải cưa đôi giải thưởng. Tuy nhiên, vài ngày sau, mọi người có chuyện khác để cùng nhau lo ngay ngáy. Chiến tranh thế  giới. Tàn lụi thế giới. Ông ghi nhật ký như vậy.
 Năm đó không có giải thưởng.
 Trái với giả định của Schnitzler, giải thưởng Nobel không trao trên căn bản quốc gia, xứ sở. Nếu không, Áo đã chẳng phải đợi ròng rã những chín mươi năm mới thực sự vớ được nó: Nobel năm nay, 2004, về tay nhà viết tiểu thuyết và kịch Elfriede Jelinek. Giống như Schnitzler, Jelinek là người bị những đồng bào của bà bêu riếu, coi như một “Nestbeschmutzer”, kẻ làm ô danh đất nước mình, bằng cách vạch áo cho người xem lưng, bày cái mặt bẩn thỉu đê tiện của Áo quốc ra cho thế giới bên ngoài nhìn thấy. Tour du lịch vào thế giới chìm sex-xiếc ở Vienna, mà Schnitzler dâng hiến, mời gọi chúng ta trong tác phẩm gây xì-căng-đan, Reigen (Round Dance: Khiêu vũ vòng tròn, 1900) có thể đặt sóng đôi bên cuốn tiểu thuyết được nhiều người biết nhất, và có lẽ, tuyệt nhất, của Jelinek, Die Klavierspielerin, 1983, do Joachim Neugroschel dịch qua tiếng Anh với nhan đề The Piano Teacher, Cô giáo dạy dương cầm, Michael Haneke dựng thành phim năm 2001.
 Jelinek bóc trần những gì được coi là cấm kỵ của cuộc sống văn hoá và trong gia đình người Áo, trình diện cho chúng ta một cô giáo dương cầm nghiêm trang, khéo ăn khéo mặc là Erika Kohut, nhưng cũng chính cô giáo nghiêm trang ăn vận khéo léo này lén lút dòm những màn trình diễn khiêu dâm, rình mò những cặp trai gái làm tình, và luôn thủ trong người một lưỡi dao cạo, dùng nó để dấm dúi cắt da xẻo thịt của chính mình. Cuốn tiểu thuyết bày ra một liên hệ rất ư là không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán. Xung đột mẹ con đạt đỉnh cao khi cô gái đánh đập bà mẹ già. Hay những cách đối xử của cô giáo với người học trò, Walter Klemmer, anh này bình thường nói chuyện âm nhạc với cô giáo rất ư là tình cảm, rất ư là say mê, cho tới khi anh bắt cô giáo phải làm tình bằng mồm với anh ta tại nhà xí. Tất cả những chuyện đó được kể bằng một văn phong linh hoạt, bóng loáng, tỉnh bơ, mà, như cái mốt của thời hậu hiện đại, văn phong này không cố tình dấy lên ở độc giả một cảm xúc nào; một thứ văn phong “nó chỉ là nó”, được biểu hiện qua những qui chiếu mang tính liên văn bản và hoàn toàn chỉ là chữ nghĩa của riêng nó. Trang chót cuốn tiểu thuyết là cảnh Erika bị anh học trò đập cho một trận, tự làm mình bị thương ở vai, cứ thế lê về nhà, máu chảy ròng ròng trên lối đi, xen này được thêm thắt bằng những trích dẫn lấy từ đoạn kết thúc cuốn Vụ án của Kafka. Đoạn tả cảnh hành quyết Joseph K.
Jelinek không đơn độc khi trắng trợn vạch áo cho người xem lưng nước Áo. Bà đại diện cho cả một thế hệ nhà văn Áo - trong số đó có Felix Mitterer, Peter Turrini và nhà văn quá cố Thomas Bernhard - họ công kích tính phi nhân và giả đạo đức của đất nước của họ.
Có lẽ Jelinek là người có nhiều lý do hơn hết, trong số họ, để làm như vậy. Cha của bà, một người nửa Tiệp, nửa Do Thái, vậy mà không bị tống vô trại tập trung, chỉ vì ông là một nhà hóa học nhờ vậy mà có ích cho Đệ Tam Reich, một nhà nước mà Áo quốc rất mong được kết nhập. Bằng một sự can đảm đáng nể, bà lên tố cáo những hoạt động của Kurt Waldheim cho Wehrmacht (Quân lực Quốc xã) trong thời gian chiến tranh, cùng những trò ma mãnh của tay chính trị cực hữu Jorg Haider. Được gợi hứng từ vở kịch của một kịch tác gia thế kỷ 19, Johann Nestroy, Hauptling Abendwind (1862) về những giống dân ăn thịt người, văn minh nửa vời, bà phác họa Waldheim, một “Tổng thống Abendwind”, và bà coi Áo quốc là “vô địch thế giới trong cái trò vờ vĩnh, bị bệnh quên” (amnesia).
Những tấn công nhắm vào Jelinek của giới truyền thông thì rất ư cay độc, có lẽ bởi một người đàn bà ‘mồm loa mép giải’ mà lại toàn về những chuyện thật không đáng nói ra, là chuyện không nên, mà có lẽ còn là do hoàn cảnh chính trị khó xử của bà nữa. Là người công khai tuyên bố mình ủng hộ chủ nghĩa Cộng sản, bà ngang ngạnh và không chút khoan nhượng trong việc phân tích sự dính dấp giữa quyền lực kinh tế với quyền lực về tính dục. Trong tác phẩm của bà vào năm 1977, viết tiếp Nhà búp bê, kịch của Ibsen, nhân vật Nora trở thành tình nhân của một thương gia, người này bắt cô sử dụng những trò dâm đãng của mình để moi tin tức từ người chồng cũ, rồi sau đó bỏ rơi cô gái. Dưới nhãn hiệu nữ quyền, Jelinek quan sát, miêu tả bằng cách nào quý bà thông đồng với nhau trong trò chơi bạo dâm, cái đã khiến mấy bà bị chế ngự, đành chịu phục tùng, chỉ biết đáp ứng lại bằng trò tự làm nhục, làm tổn thương chính mình, như nhân vật Erika, hay bằng cách giết con mình, như nhân vật bà vợ giữ nhà bị hành hạ, lạm dụng quá cỡ trong Dâm tính (Lust, 1989).
Tới đây, chúng ta thấy có những vấn đề. Bởi vì với bà, là một thứ chủ nghĩa phản nhân bản mang tính Mác xít [Marxist anti-humanism] tự nó biểu lộ ra, qua sự kiềm chế khắt khao lên những nhân vật của bà, và chỉ được nới lỏng một chút, ở trong Cô Giáo Dương Cầm. Chính một thái độ như vậy đã chối bỏ những thân phận đàn bà, bỏ mặc họ mắc bẫy ở trong những trò dâm đãng vinh danh giống đực ngạo nghễ [triumphant male sadism], và những trò bạo dâm vô phương cứu giúp của phái nữ [helpless female masochism]. Allyson Fiddler, nhà học giả quan trọng nhất về Jenikek ở trong thế giới nói tiếng Anh, đã trích dẫn một câu nói của Jelinek, trong một cuộc phỏng vấn; bà thừa nhận: “Tôi không thể nào miêu tả bất cứ một sự vật gì theo kiểu hướng thượng... Mặc dù là một người Mác xít, tôi không thể nào cổ xúy cho một chủ nghĩa lạc quan cách mạng”.
Sự bi quan của Jelinek cũng hiển nhiên không kém trong những sáng tác “xanh” (green writing) của bà. [Đây là muốn nói đến cách mạng xanh, hoà bình xanh, bảo vệ thiên nhiên môi trường. - ND]. Áo, vùng đất của Mozart, còn tự khoe mình như là một thiên đàng của môn leo núi vốn chưa bị hư hỏng bởi những đầu óc chỉ nghĩ tới lợi nhuận. Jelinek thuộc vào một chuỗi nhà văn dẫn đầu bởi Thomas Bernhard, trong cuốn Frost (1963), thay vì ca ngợi miền đất thiên đàng của môn chơi thể thao ‘vua’ này, thì lại mô tả nó với những xóm làng miền núi già cỗi, suy tàn, dân làng rặt những bệnh cùng tật, tính tình hung hăng, lỗ mãng, trong một khung cảnh đất đai đã bị khai thác tối đa bởi nạn phá rừng, đập thủy điện và thú săn bắn. Totenauberg (1991), kịch của bà, về Heidegger, giáo chủ của giáo phái hiện sinh, tấn công cái trò thờ phụng sự trinh nguyên của thời tiền kỹ thuật mang tính nhà quê của ông này cùng cái việc thập thò thì thụt đi đêm với bọn chính trị phản động là đám Nazi. Cuốn tiểu thuyết mới nhất, Gier (Tham lam, 2000) trong đó có cảnh mô tả một cái hồ hôi thối, không phải do thiên nhiên mà do con người tạo ra, bằng chất nổ, để dùng làm nơi thải những rác rưởi, đồ phế thải trong xây cất đường xá. Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết, một anh chàng cảnh sát đồi bại, cộc cằn, tàn nhẫn, ném xuống hồ thi thể những ngưòi đàn bà mà anh ta lừa dối rồi sau đó giết chết.
Có lẽ chúng ta sẽ lĩnh hội những cảnh trên đây một cách rõ ràng nhất nếu đọc tác giả của nó như là một nhà biếm văn (satirist). Như Bernhard, những tác phẩm chỉ trích kịch liệt mang tính ám ảnh của ông kết án người Áo về mọi cái xấu xa đê tiện, từ việc phò tá Đức quốc xã tới chuyện không chịu thay vớ, Jelinek là một ‘Übertreibungskunstler” - từ của nhà phê bình người Áo Wendelin Schmidt-Dengler, tức một nghệ sĩ luôn thái quá (an artist of exaggeration). Nhìn dưới ánh sáng đó, sự bất lực của những nhân vật của bà tương xứng với cái nhìn của phái Thi Sơn về nghệ sĩ châm biếm. Tôi đặc biệt nghĩ tới cảnh này ở đầu cuốn Die Kinder der Toten (Những đứa con của Thần chết, 1995): một chiếc xe buýt chở học sinh, do một anh tài xế say rượu bị trật ra khỏi một con đường vùng núi, nằm giữa cánh đồng “như một bọ cánh cứng cẩu thả, bị đá đến nỗi quật ngược ra phía sau, bốn chân thò ra ngoài, quẫy lung tung, tuyệt vọng”. “Quẫy lung tung, tuyệt vọng” áp dụng đúng y chang vào kiểu tự sự của Jelinek, với những xen lập đi lập lại, để diễn tả tình trạng trì đọng của cuộc sống của những nhân vật của bà. Sau cùng, thiên nhiên trong tác phẩm của bà không chỉ đóng vai trò đối thể bị con người lạm dụng mà còn như một quy chuẩn châm biếm (a satiric norm). Cái bản tính vật dục của Erika Kohut, được tượng hình con vật, chính nó chế nhạo những nỗ lực của cô nhằm tự kiểm soát mình. Và ở cuối Những đứa con của Thần chết, thiên nhiên đến lượt nó trả thù: khách sạn dành cho du khách, với cái tên sặc mùi “lãng mạn rẻ tiền” (kitsch) là Alpenrose (Bông hồng An-pơ), bị một trận đất chuồi khổng lồ nuốt chửng, như thể sự thực về một nước Áo hiện đại không còn bị ém nhẹm được nữa.
 Tôi không tin tưởng rằng Jelinek là một nhà văn lớn. Nhưng bà là một nhà văn đáng đọc và có ích. Có thể xem việc trao giải Nobel cho bà không chỉ là công nhận tác phẩm và tư thế đối kháng chông chênh của bà, mà còn như là một cử chỉ đẹp, tuy muộn màng, đối với cả một hội những kẻ bị từ chối, gồm những nhà văn Áo nổi tiếng trong đó có Rilke, Hofmannsthal, Musil, Broch, Karl Kraus, Joseph Roth và Ingeborg Bachmann.
Robertson, Ritchie

Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày 15/10/2004.

Nguyễn Quốc Trụ dịch
 

Ý thức tự kiểm, sám hối, lương tâm xấu: Mít cần thứ này, cần 1 tên nhà văn CS, tay đầy máu Ngụy, cởi trần, cởi truồng, bò ra mả Ngụy, sám hối về cái tội ác hiển hiện, hiển nhiên, là 1 nước Mít đang mấp mé bờ địa ngục như hiện nay




https://www.theguardian.com/books/2015/apr/13/gunter-grass

Nhìn lại lịch sử, ngay những mùa đầu tiên, nỗi ô nhục của Nobel văn chương có thể thấy qua việc bỏ sót những tên tuổi như Anton Tchekhov (1860 – 1904), Henrik Ibsen (1828 – 1906), Lev Tolstoy (1828 – 1910), Nikos Kazantzakis (1883 – 1957)… Họ chọn trao cho những Bjørnstjerne Bjørnson, Theodor Mommsen, Sully Prudhomme…, đến nay ai là người đọc họ, nhiều ngôn ngữ còn chẳng thèm dịch quyển nào.

Lý Đợi trả lời Da Màu

GG là nhà văn Nobel nói về nỗi ô nhục của nước Đức của ông, và của chính ông, khi tự mình khui ra cái chuyện, tớ đã từng là SS.

Crabwalk was not the first book by a German author to take up the theme of Germans as victims. WG Sebald’s essay on Air War and Literature, about the horror of the Allies’ carpet-bombing of German cities, had come out in Germany four years earlier. Typically, however, Grass took an issue that had been rising to the surface and gave it an agenda-setting new impetus. He also moved the question of historical amnesia and German victimhood further than earlier writers. Crabwalk discussed the political damage suppression can cause. “In a way you can say the book is too late. But you have the advantage of seeing the story from the point of view of three generations. I wanted to describe this suppression complex and its consequences,” he said.

Trước "Cua Bò" bốn năm, Sebald đã viết về nỗi nhục của Đức, như là nạn nhân của bom đạn Đồng Minh rồi.
Nhưng ông phán, viết trễ cũng có cái thú, là được nhìn từ quan điểm của ba thế hệ.
Bài ai điếu GG này tuyệt thú.
Từ từ sẽ lai rai tiếp, nhưng nhân Thu còn, bèn
lai rai về ước mong của GG  và vợ, về cuộc chia tay sắp tới:

Günter Grass: ‘When the time comes, we will rest on leaves’.
Khi tới khoảnh khắc đó, chúng mình sẽ nghỉ ngơi trên những chiếc lá

An exclusive extract from the Nobel prize-winning author’s final work describes how he and his wife imagined their farewell


*

So let another year or two pass. We’re not in any hurry.

vang_2
 

golden-gate                                         



Nobel văn chương 2016


Nhìn lại lịch sử, ngay những mùa đầu tiên, nỗi ô nhục của Nobel văn chương có thể thấy qua việc bỏ sót những tên tuổi như Anton Tchekhov (1860 – 1904), Henrik Ibsen (1828 – 1906), Lev Tolstoy (1828 – 1910), Nikos Kazantzakis (1883 – 1957)… Họ chọn trao cho những Bjørnstjerne Bjørnson, Theodor Mommsen, Sully Prudhomme…, đến nay ai là người đọc họ, nhiều ngôn ngữ còn chẳng thèm dịch quyển nào.

Lý Đợi trả lời Da Màu

Bỏ qua 1 tác giả, thì có gì mà ô nhục?
Bỏ qua 1 tác giả, vì 1 sức ép nào đó thì mới có thể gọi là ô nhục được, và với Nobel, thì đó là trường hợp Borges.
Gấu có đọc 1 bài viết hồi mới ra hải ngoại, cho biết Borges bị từ chối Nobel vì nhận giải thưởng của 1 tên độc tài, và không chỉ thế, còn gọi ông ta là 1 kẻ phong nhã!
Còn 1 lý do nữa, là có sức ép của Mẽo, qua cái cú độc tài trên, do ông này là kẻ thù của Mẽo, tướng Pinochet!

Còn cái chuyện đếch ai thèm đọc, thì những Kertesz, Jelinek, đều mới được cả, nhưng chắc gì đã có độc giả?


V/v Borges

http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2004/09/the_politics_of.html

The politics of Nobel Prizes

by on September 15, 2004 at 7:31 am in Books | Permalink

Jorge Luis Borges was one of the greatest writers never to win a Nobel Prize (try the early short fiction if you don’t already know his work). Now I know why:

The visit to [Pinochet’s] Chile finished off Borges’s chances of ever winning the Nobel Prize. That year, and for the remaining years of his life, his candidacy was opposed by a veteran member of the Nobel Prize committee, the socialist writer Arthur Lundkvist, a long-standing friend of the Chilean Communist poet Pablo Neruda, who had received the Nobel Prize in 1971. Lundkvist would subsequently explain to Volodia Teitelboim, one of Borges’s biographers and a onetime chairman of the Chilean Communist Party, that he would never forgive Borges his public endorsement of General Pinochet’s regime.

Borges, it should be noted, did believe in democracy but thought Pinochet the best of the available options at the time. For purposes of contrast, consider the following (slightly overstated) description of Laureate Pablo Neruda:

On the eve of his [Neruda’s] death, in 1973, he could still describe Stalin as “that wise, tranquil Georgian”. His feelings were similarly soft for Mao’s China, where he loved to see everyone in those vast landscapes and streetscapes dressed in regulation blue.

The former quotation is from p.426 of Edwin Williamson’s excellent Borges: A Life.

http://www.tanvien.net/T_G/nobel_dispute.html

Tôi cho rằng Jean-Paul Sartre từ chối nhận giải vì ông ta là nhà triết học nằm vùng trong văn chương – nơi có lượng độc giả nhiều và dễ dãi hơn. Nobel văn chương phát hiện ra kẻ nằm vùng này, nên trao giải, ông ta sợ lộ thân phận triết gia, khó bán sách, nên không dám đi nhận giải.
LD

Sartre được Nobel, tại sao, thì hãy đọc tác phẩm của ông, và tìm biết sơ qua, thời của ông,
và, tại sao từ chối, thì chính ông ta đã trả lời rồi, vậy mà cũng còn phán loạn cào cào, tếu thật.

Nhưng tếu nhất, có lẽ là me- xừ
Thế Quân, ních của Trần Doãn Nho, khi cho rằng Sartre không muốn biến thành tượng đài.
Tượng đài, monument, khác institution, định chế, làm sao mà lẫn với nhau được, thế mới kỳ!
Để hiểu từ này, thì có Solz, khi ông phán,
tao là 1 định chế [nhà nước] trong 1 định chế [nhà nước], và đây là cái định nghiã bảnh nhất về nhà văn trong 1 nhà nước CS, và luôn cả, không CS.
Không bao giờ nhà văn thuộc về/
vào bất cứ 1 cái khung nào cả.
Người xưa đặt kẻ
sĩ đứng đầu nấc thang xã hội, là vì lý do này.
i đến tượng đài, Bordsky có 1 bài thơ thật tuyệt về nó:

Iosip Brodsky
Russian
1940-1996

THE MONUMENT

Let us set up a monument
in the city, at the end of the long avenue,
or at the center of the big square,
a monument
that will stand out against any background
because it will be
quite well built and very realistic.
Let us set up a monument
that will not disturb anybody.

We will plant flowers
around the pedestal
and with the permission of the city fathers
we will lay out a little garden
where our children
will blink
at the great orange sun
and take the figure perched above them
for a well-known thinker
a composer
or a general.
I guarantee that flowers will appear
every morning
on the pedestal.
Let us set up a monument
that will not disturb anybody.
Even taxi drivers
will admire its majestic silhouette.
The garden will be a place
for rendezvous.
Let us set up a monument,
we will pass under it
            hurrying on our way to work,
foreigners will have their pictures taken
            standing under it,
we will splash it at night with the glare
            of floodlights.

Let us set up a monument to The Lie.

1967, translated with
Wladimir Weidl
é

W.S. Merwin

Đài Kỷ Niệm

Mít chúng mình hãy xây 1 đài kỷ niệm/tưởng niệm/lăng miện/lăng mạ...
như Lăng Bác
Ở Xề Gòn, cuối con đường thiệt là dài Hồng Thập Tự
hay ở Quảng Trường Lớn Chợ Bến Thành
Một đài kỷ niệm hiên ngang, hùng dũng, vượt lên khỏi/đếch cần 1 thứ nền tảng, gốc gác
Ngụy/Cách Mạng/Bắc Kít/Nam Kít/Trung Kít…
Bởi là vì nó sẽ được xây thật là bảnh, và thật là hiện thực Xạo Hết Chỗ Nói
Mít chúng ta sẽ xây một đài kỷ niệm
Nó sẽ đếch làm bực mình bất cứ 1 tên Mít nào.

Chúng mình sẽ trồng hoa quanh Đài
Và, với sự cho phép của ông cha thành phố
Chúng mình sẽ xây dựng 1 công viên Lê Văn Tám nho nhỏ
Nơi đám con nít của chúng ta
Sẽ chói mắt khi mặt trời chân lý xoáy qua tim
Sẽ chụp hình kỷ niệm dưới chân Đài
Cho một tư tưởng gia nổi tiếng, thí dụ Bác Hồ
Một nhà soạn nhạc, Phạm Duy
Một ông tướng, Võ Tướng Quân
Tớ bảo đảm hoa sẽ nở mọi buổi sáng
quanh Đài.

Hãy để cho đám Mít Miền Nam dựng 1 Đài Kỷ Niệm ở Thành Hồ
như Lăng Bác ở Hà Lội
Nó sẽ chẳng làm phiền bất cứ một ai.
Ngay cả 1 tên tài xế tắc xi
Sẽ trầm trồ vì cái dáng sang cả của Đài
Khu vườn sẽ là nơi hò hẹn
Hãy dựng 1 Đài
Chúng ta sẽ đi dưới nó
Trên đường hối hả tới chỗ làm việc
Đám mũi lõ sẽ chụp hình búa xua, khi đứng tạo dáng bên Đài.
Mỗi lần Xề Gòn vào mùa mưa, là Đài sẽ lấp lánh với muôn vàn đợt sóng lung linh dưới ánh đèn lũ lụt
Hãy dựng 1 Đài Tưởng Niệm/Kỷ Niệm/Lưu Niệm Tình Hữu Nghị Việt-Trung…

Và đặt tên nó là: Sự Dối Trá
&

*

Cũng Nobel, cũng được đời lãng quên. Cuốn "Những con đường Flandres" của ông, cũng thuộc dòng độc thoại nội tâm, cùng dòng Faulkner, với những câu văn như những tuyệt lộ, cul-de-sac, nhớ báo chi khen ông.
Trên tờ Books, Mars, 2013, với bài viết, dịch từ TLS, coi tuyệt tác của ông, là về việc làm vô ngã và và huỷ diệt của thời gian, le travail "impersonnel et destructeur" du temps est le sujet du chef-d'ouvre de Simenon...

Le travail « impersonnel et destructeur » du temps est le sujet du chef-d'oeuvre de Simon, Les Gé
orgiques (1981) (2). Par sa famille, i1 s'était procuré les archives d'un ancêtre, Jean- Pierre Lacombe Saint-Michel. Ce personnage haut en couleur avait....

(2) « On se bat continuellement avec des phrases longues d'une demi-douzaine de pages, tâchant de retenir le fil mais détourné par des parenthèses (contenant d'autres parenthèses plus longues que les paragraphes de la plupart des romanciers contemporains) », pouvait-on lire dans Le Times Literary Supplement à propos des Géorgiques, le 4 décembre 1981, sous la plume de Randolph Stow.

Đúng thứ văn bè rau muống của GCC. Mít không có thứ văn này. Văn của Mai Ninh, của Cô Tư, có, là nhờ sông ngòi, kinh, rạch của Miền Nam.
Của
Gấu, là từ độc thoại nội tâm.
Văn của Sartre trong La Nausée là cũng thứ này. Cuốn này cực bảnh, ngay cả đệ tử của
ông, Vargas Llosa, cũng không đọc ra, và cứ chê Sartre hoài, sau khi rãn ra.
Sartre sau này, chỉ còn cuốn này, theo GCC.
Ui chao thời mới lớn, lúc nào cũng mang theo, khi ngồi chờ BHD, trong 1 tiệm cà phê túi, hồng xà, hủ tíu Tầu, của Sài Gòn.
Nhớ
, lần khoe với ông anh, TTT.
Ông ngạc nhiên, cậu đọc nó, hiểu được nó?
Thằng em, rất ư là nghiêm trang:
-Em nghĩ, em hiểu...
Ông anh ngửa đầu lên trời, thành thực nói với thằng em:
-Thế thì cậu hơn tôi rồi!
Trong bài viết về HPA, Gấu cũng có kể kinh nghiệm đọc La Nausée, của cả hai:

Cái trò đọc sách trong một quán chệt, chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà (hồng trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi.

Và hai đứa chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa trước đọc Buồn Nôn, La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville, "một mình mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy, như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường".

Tôi cũng có những kinh nghiệm y hệt như vậy. 

Và cái truyện ngắn Bức Tường, đã từng được Thầy Quân thuổng.
Koestler, khen, truyện ngắn số 1 viết về cuộc nội chiến Tây Ban Nha.
Đúng thế.


Cái văn học Nga mà Vương Viên Ngoại khoe thời của ông rất rành, chính nó, góp phần vào cái việc xây dựng nên địa ngục Mít bây giờ, khi những nhà văn Bắc Kít đánh đồng cuộc chiến vệ quốc của Liên Xô với cuộc chiến làm thịt Ngụy.
Bắc Kít, theo GCC chẳng biết gì về văn học Nga, thứ “dưới hầm” của họ. Gần như mù tịt về Akhmatova, Osip Mandelstam, thí dụ.
Nhất với đám này, là Maya, mà ông này, sau tự tử, có thể một phần, là do sám hối vì thứ thơ “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của ông. Thứ thơ mà Bùi Ngọc Tấn bị nhà nước VC tống vô tù, vẫn cố mang theo.
Bài viết của VTN có rất nhiều điều nhảm. Thí dụ, ông viết về Claude Simon, nhà văn Nobel Pháp, đẻ ra lý thuyết rồi sau đó viết tiểu thuyết để minh họa nó, kinh thế! (1)
Bữa trước, Gấu nhớ có đọc loáng thoáng, bài ông viết về hai nhà văn Nobel, Jelinek, và Herta Muller, không rành, phán ẩu, và không hề đưa ra sự kiện chứng minh điều ông nói.
Đám phê bình trong nước, càng ngày càng cho thấy, thiếu đọc. Và cũng như đám sáng tác, vẫn cố ôm lấy hào quang cuộc chiến.
Ngay tên Bọ Lập, thí dụ, cũng có phần đóng góp trong việc tạo dựng ra thế hệ con em, sau này tống ông ta vô tù.
Phải có 1 quyết tâm làm 1 cú xóa sạch, làm lại từ đầu, “table rase” mới được.
Phải có 1 tên tay đầy máu Ngụy, thí dụ tên già NN, ra nghĩa trang Ngụy quỳ lạy, sám hối, thì mới mong có sự thay đổi.

(1)

Văn chương cũng thế. Có người như Claude Simon (giải thưởng Nobel 1985) chẳng hạn, là loại có lý thuyết trước, sau đó ông ấy mới dùng văn chương để minh hoạ cho lý thuyết của mình.
VTN

Văn của Claude Simon, là cũng thuộc dòng độc thoại.
Chắc đấng này chưa từng đọc, vậy mà dám phán ẩu!

L'écrivain Claude Simon, Prix Nobel de littérature 1985, est décédé le 5 juillet à Paris, à l'âge de 91 ans
Nhà văn Pháp Claude Simon, Nobel văn chương 1985, đã từ trần, 6 July, 2005 thọ 91 tuổi.
Trong bài viết trên tờ Thế Giới, ông được coi như là đệ tử của Proust, cũng một ông Tây.
Nhưng theo Hai Lúa, ông là đệ tử của Faulkner, đúng hơn, với những câu văn dài ngoằng, gồm những mạch ngầm, những tuyệt lộ, [cul-se-sac].
Ông còn được coi như là nhà văn thuộc trường phái "tiểu thuyết mới". Cuốn nổi tiếng nhất của ông, Đường Flandres, La Route des Flandres.
Nhật Ký Tin Văn
*

Claude Simon: Nobel vô danh, bà con của Faulkner & Proust

Bạn không thể không Thầy mà thành nhà văn được. Bài học TTT dạy Gấu, càng về già càng thấm. Ông nói, nhà văn thì hằng hà sa số, nhưng dòng văn thì đếm trên đầu ngón tay. Mày cứ đọc búa xua, vớ được ông nào cũng đọc, và tới 1 lúc nào đó, mày tìm ra ông Thầy của mày. Ðúng như thế. Vừa đọc mấy dòng đầu mở ra Absalon, Absalon!, của Faulkner, là Gấu biết ngay, đây là Thầy của mình!

Quái nhất, là nếu Gấu vớ phải 1 cuốn khác của Faulkner, thì chưa chắc đã nhận ra Thầy.
Bởi vì cái đoạn mở ra đó, ứng đúng vào thằng Gấu cà chớn!
Sau này, đọc Cô Tư, còn nhận ra toàn bộ tác phẩm của cô cũng bước ra từ cái bóng của Faulkner, từ cái khúc dạo đầu mở ra Absalon, Absalon!

Khủng thực!

Ðòn Trình Giảo Kim trên, TTT truyền lại cho Gấu, Gấu áp dụng đúng vào bài viết Ðọc Bếp Lửa của TTT, đăng trên Tập San Văn Chương, sau đăng lại trên Văn: Học trò khám phá ra Thầy, không phải ngược lại.
Phải đến khi ra được hải ngoại thì mới biết đây là ý của Borges, trong bài viết về Kafka.
Chắc TTT khi đó chưa đọc Borges, chí lớn gặp nhau là vậy.


   
THE SURVIVOR

to B. V.

Dopo di allora, ad ora incerta,
Since then, at an uncertain hour,
That agony returns:
And till my ghastly tale is told,
This heart within me burns.

Once again he sees his companions' faces
Livid in the first faint light,
Gray with cement dust,
Nebulous in the mist,
Tinged with death in their uneasy sleep.
At night, under the heavy burden
Of their dreams, their jaws move,
Chewing a nonexistent turnip.
"Stand back, leave me alone, submerged people,
Go away. I haven't dispossessed anyone,
Haven't usurped anyone's bread.
No one died in my place. No one.
Go back into your mist.
It's not my fault if I live and breathe,
Eat, drink, sleep and put on clothes."  

Kẻ sống sót
to B. V.

Dopo di allora, ad ora incerta,
Kể từ đó, đâu biết giờ nào,
Cơn hấp hối đó trở lại,
Và cho tới khi câu chuyện thê lương của tôi được kể
Trái tim này trong tôi bỏng rát.


Một lần nữa, anh ta nhìn thấy những khuôn mặt của bạn đường
Tái nghét trong tia sáng đầu tiên nhợt nhạt
Xám xịt với bụi xi măng
Âm u trong sương mù
Tẩm mùi chết trong giấc khó ngủ của họ
Đêm, dưới sức nặng của những giấc mơ
Hàm của họ chuyển động
Nhai một mẩu
củ cải đếch có, đếch hiện hữu
“Lùi lại, hãy để cho ta yên thân, lũ người ngập ngụa.
Đi chỗ khác chơi
Ta đếch có tước đoạt, chiếm hữu của
bất cứ một ai
Không cướp bánh mì
Không ai chết ở chỗ  của ta. Không ai
Hãy trở lại khối sương mù của lũ mi
Đâu có phải lỗi của ta, nếu còn sống, và thở,
Ăn ngủ đụ ị, và mặc quần áo”


Preface

Writing and publishing If This Is a Man (1960) and The Truce (1965) marked a decisive turn in my life, and not only my life as a writer. For several years afterward, I had the feeling that I had performed a task, indeed the only task clearly defined for me. At Auschwitz, and on the long road returning home, I had seen and experienced things that appeared important not only for me, things that imperiously demanded to be told. And I had told them, I had testified. I was a chemist, I had a profession which gave me a living and wholly absorbed me, I did not feel the need to write anything else.
    But things have not gone that way. With the passing of the years, writing has made a space for itself alongside my professional activity and I have ended up by switching to it entirely. At the same time I realized that my experience of Auschwitz was far from exhausted. I had described its fundamental features, which today have a historical pertinence, in my first two books, but a host of details continued to surface in my memory and the idea of letting them fade     away distressed me. A great number of human figures especially stood out against that tragic background: friends, people I'd traveled with, even adversaries-begging me one after another to help them survive and enjoy the ambiguous perennial existence of literary characters. This was no longer the anonymous, faceless, voiceless mass of the shipwrecked, but the few, the different, the ones in whom (if only for a moment) I had recognized the will and capacity to react, and hence a rudiment of virtue.
    In these stories, written at different times and on different occasions, and certainly not planned, a common trait seems to appear: each of them is centered on one character only, who never is the persecuted, predestined victim, the prostrate man, the person to whom I had devoted my first book, and about whom I had obsessively asked myself if this was still a man. The protagonists of these stories are "men" beyond all doubt, even if the virtue that allows them to survive and makes them unique is not always one approved of by common morality. Bandi, my "disciple," draws strength from the blessed gaiety of believers, Wolf from music, Grigo from love and superstition, Tischler from the patrimony of legends; but Cesare draws his from unbridled cunning, Rumkowski from the thirst for power, Rappoport from a feral vitality.
    Rereading the stories I notice another peculiarity: the scenarios that I selected spontaneously are hardly ever tragic. They are bizarre, marginal moments of reprieve, in which the compressed identity can reacquire for a moment its lineaments.
    The reader may be surprised at this rediscovered narrative vein, thirty or forty years after the events. Well, it has been observed by psychologists that the survivors of traumatic events are divided into two well-defined groups: those who repress their past en bloc, and those whose memory of the offense persists, as though carved in stone, prevailing over all previous or subsequent experiences. Now, not by choice but by nature, I belong to the second group. Of my two years of life outside the law I have not forgotten a single thing. Without any deliberate effort, memory continues to restore to me events, faces, words, sensations, as if at that time my mind had gone through a period of exalted receptivity, during which not a detail was lost. I remember, for example, as they would be remembered by a tape recorder or a parrot, whole sentences in languages I did not know then; and don't know now. A few years ago I met, after thirty-five years, a fellow prisoner with whom I had not had any special friendship, and I recognized him immediately in the midst of a great number of unknown faces, although his physiognomy was greatly changed. Smells from "down there" startle me even now. It seems to me obvious today that this attention of mine at that time, turned to the world and to the human beings around me, was not only a symptom but also an important factor of spiritual and physical salvation.
    It is possible that the distance in time has accentuated the tendency to round out the facts or heighten the colors: this tendency, or temptation, is an integral part of writing, without it one does not write stories but rather accounts. Nevertheless, the episodes on which I have built each of these stories actually did take place, and the characters did exist, even if, for obvious reasons, I have often changed their names.
Primo Levi

Lũ Mít, ai không biết, riêng với GCC, đọc/viết không phải là duyên mà là...  họa!
Cái đọc trước 1975, là để rước cái họa Lò Thiêu sau này!
Là, để vào lúc, tới được Xứ Lạnh, vô thư viện Toronto và cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner!

Primo Levi phán y chang:

Viết và cho xb Đây có phải là 1 người, và Hưu Chiến, đánh 1 cái dấu quyết định lên đời tôi, không chỉ như là 1 nhà văn...
Kafka mà không thế ư. Ông Trời năn nỉ thiếu điều lạy lục tôi, đừng viết.

NO!

*

Mới ra lò: Tuyệt đối về âm nhạc

Gide, viết về Dos, tác phẩm nhớn có phần đóng góp của Quỉ.

Nhớ, lần viết về "Cuộc Tình Trong Ngục Thất" của Nguyễn Thị Hoàng, Gấu bèn chôm, và phán, con quỉ ở trong đó, là con quỉ chiến tranh và, thay vì Orpheus, thì là NTH, xuống địa ngục - lao công chiến trường - để cứu chồng.
Nhớ, lại nhớ, Mai Thảo đọc, thú quá, gật gù, được, được!

Trong bài Tựa cho cuốn sách này, Murakami viết:

Creative people have to be fundamentally egoistic. This may sound pompous, but it happens to be the truth. People who live their lives watching what goes on around them, trying not to make waves, and looking for the easy compromise are not going to be able to do creative work, whatever their field. To build something where there was nothing requires deep individual concentration, and in most cases that kind of concentration occurs in a place unrelated to cooperation with others, a place we might even call damonisch.

Có lẽ văn chương Mẽo, thiếu, cả hai thứ
trên, chăng?

Lũ viết lách, chúng thực là ích kỷ, và đây là 1 điều cực kỳ cơ bản, thiết yếu, đối với chúng.
Nghe thì có vẻ huênh hoang, phách lối, y chang thằng cha Gấu Cà Chó [Cà Chó nhe!] Nhưng đó là sự thực.
Thường nhân, viết văn, mần thơ,
thì cần ly cà phê để tản mạn, để phén, phiếc, nhưng để "dưng không trồi lên sự thực" thì cần 1 chỗ có tên là Quỉ Ma.

Interlude 2

The Relationship of Writing to Music


MURAKAMI: I've been listening to music since my teens, but lately I've come to feel that I understand music a little better now than I used to-that maybe I can hear the fine differences in musical detail-and that writing fiction has gradually and naturally given me a better ear. Conversely, you can't write well if you don't have an ear for music. The two sides complement each other: listening to music improves your style; by improving your style, you improve your ability to listen to music.
OZAWA: Interesting ...
MURAKAMI: No one ever taught me how to write, and I've never made a study of writing techniques. So how did I learn to write? From listening to music. And what's the most important thing in writing? It's rhythm. No one's going to read what you write unless it's got rhythm. It has to have an inner rhythmic feel that propels the reader forward. You know how painful it can be to read a mechanical instruction manual. Pamphlets like that are classic examples of writing without rhythm.
    You can usually tell whether a new writer's work is going to last by whether or not the style has a sense of rhythm. From what I've seen, though, most literary critics ignore that element. They mainly talk about the subtlety of the style, the newness of the writer's vocabulary, the narrative momentum, the quality of the themes, the use of interesting techniques, and so forth. But I think that someone who writes without rhythm lacks the talent to be a writer. That's just my opinion, of course.
OZAWA: Do you think we can feel that kind of rhythm when we read it?
MURAKAMI: Yes, the rhythm comes from the combination of words, the combination of the sentences and paragraphs, the pairings of hard and soft, light and heavy, balance and imbalance, the punctuation, the combination of different tones. "Polyrhythm" might be the right word for it, as in music. You need a good ear to do it. You either can do it or you can't. You either get it or you don't. Of course, it is possible to extend one's talent for rhythm through hard work and study.
    I'm a jazz lover, so that's how I set down a rhythm first. Then I add chords to it and start improvising, making it up freely as I go along. I write as if I'm making music.
OZAWA: I never knew that there could be rhythm in writing. I'm still not that clear on what you mean by it.
MURAKAMI: Well, rhythm is an important element for both reader and writer. If you're writing a piece of fiction and you haven't established a rhythm, the next sentence won't come out, which means the story can't move ahead. The rhythm in the writing, the rhythm of the story: if you've got those, the next sentence will come out naturally. When I'm writing a sentence, I automatically sound it out in my head, and a rhythm takes hold, kind of like in jazz: you ad-lib a chorus, and that leads organically to the next chorus.
OZAWA: I live in the Seijo neighborhood of Tokyo, and I was recently given a pamphlet for a candidate running for office there. I opened it up and found some kind of pledge or manifesto, so I started reading it because I had nothing better to do at the time, and I found myself thinking, "This guy will never make it." And I felt this because I couldn't read more than three lines of this document, no matter how hard I tried. This guy seemed to be saying something important, but I just couldn't read it.
MURAKAMI: And that's probably because his writing had no rhythm to it.
OZAWA: You think so? Is that what it was? What about somebody like Natsume Soseki?
MURAKAMI: I think Soseki's style is tremendously musical. It makes for very smooth reading. It's quite wonderful even now, a century after his death. I'm pretty sure he was less influenced by Western music than by the long narrative chants of the Edo period [1603-1868]. but he had a great ear. I don't know how deeply versed he was in Western music, but he spent a couple of years studying in London, so I suspect he familiarized himself with it to some degree. I'll look into it.
OZAWA: He was also a professor of English, wasn't he?
MURAKAMI: He probably had a good ear in that sense, too, with a good combination of Japanese and Western elements. Hidekazu Yoshida was another writer with a musical style. His Japanese flows beautifully, is very easy to read, and is quite personal in tone.
OZAWA: You may be right about that.
MURAKAMI: Speaking of professors of literature, I gather your English professor at the Toho Gakuen School of Music was the novelist Saiichi Maruya.
OZAWA: That's true. He had us read James Joyce's Dubliners. There was no way I could understand a book like that. [Laughter.] I sat next to a girl who was good at English and she told me what it was about. I didn't study at all. Which meant that I didn't know any English when I went to America. [Laughter.]
MURAKAMI: SO it was just that you didn't study, not that Mr. Maruya was a bad teacher.
OZAWA: No, I really didn't study.