nqt
 
1




http://damau.org/archives/44838

Trong bài viết mang tựa đề “Ý nghĩa của việc im lặng của Bob Dylan” (The Meaning of Bob Dylan’s Silence),[1] Adam Kirsch cho rằng có vẻ như Dylan muốn theo bước chân của Sartre khi triết gia này từ khước nhận giải Nobel năm 1964. Sartre khẳng định, nhà văn phải từ chối cho phép mình biến thành một tượng đài (institution), ngay cả khi điều này diễn ra trong những trường hợp đáng vinh dự nhất.

Thế Quân

Từ tượng đài, dùng ở đây, không đúng.
Một định chế. Tức, tổ chức làm ra luật ảnh hưởng lên những người khác.
Bởi thế mà Solzhenitsyn coi mình là "1 nhà nước trong 1 nhà nước". Một khi nhà nước OK, thì nhà văn lo viết văn, khi không OK, là vặc lại nhà nước.
Tượng đài làm sao vặc lại nhà nước?
Là nhà văn ở những nước tư bản ít khi phải vặc lại nhà nước. Bởi thế, chúng thè
m làm nhà văn ở các xứ Á Châu, thèm được bách hại, bị bắt bỏ tù vì viết.
Nhưng bảnh nhất, được làm
nhà văn Liên Xô, theo Steiner.
Ở đó, có cái truyền thống, nhà văn và nhà nước lâu lâu lại đổi chỗ cho nhau, thế mới thú chứ!

UNDER EASTERN EYES

Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi.
Gấu nghĩ đến Nguyễn Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT, và câu chuyện do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt biên, nửa đường bỏ về, bị tay dẫn đường “xém” làm thịt!

Nhớ luôn cả cái tay phỏng vấn Gấu, và câu mở đầu cuộc phỏng vấn, “off-record”, lần Gầu trở lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi vượt biên, mấy lần, mà không thoát.
Nhưng, nhớ, nhất, là, Quê Người của Tô Hoài. 

Dưới con mắt Đông phương

Có một nghịch lý về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới, trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không có chúng là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói chung, nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn cựa được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải là người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương, của giới quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và Âu Châu hóa được những nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình, hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản văn thì đã làm méo mó, sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể chỉ là do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của Nga hiện hữu “mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn chỗ nào cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực tiếp, hoặc với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà Thờ, hoặc Mác Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà Nga có 1 thật câu thật hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà văn nhớn là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”, “the alternative state”. Những cuốn sách của người đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc nhất - của sự chống đối chính trị.
Trong trò chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó, và nó gần như không thay đổi, kể từ thế kỷ 18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn cho phát hành, quảng bá những tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó - của Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những cái van an toàn chuyển vào miền tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới chính trị, mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng người, tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên ngoài, không phải Nga, chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi đau khổ của Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky ở Siberia, cuộc chiến đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục lục dài những kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành tựu văn học Nga thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo, dính líu vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta dí mũi vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây phương. Thường xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta. Và để đổi lại, là mạng sống của anh ta, nói cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời mình, suốt địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự cũng không nói trọn sự thực, nó vẫn giấu đi ở trong chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác, nó thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.

Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.
Và cuộc lưu vong, phát vãng xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh Solzhnitsyn. Với con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự nhập thân nơi Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây Phương, và cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng và… vô tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì cực rõ. Cuộc cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người, cuộc nổi loạn hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là hậu quả tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này. Và chính con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất gốc, phần lớn là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy Russia. Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những khủng hoảng quân sự lớn 1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau khổ, tình anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn. Nhưng 1914 chứng kiến một nước Nga nhếch nhác, thảm hại tàn khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa duy lý vô thần.
Từ đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của cuộc Thế Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của những sự kiện đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy những “sự kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz cũng đã từ lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương và Hê-brơ [Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ yếu là của ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu vết chứng tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1 hình tượng như là Lenin.
Trong một nghĩa chỉ có tí phần có tính ám dụ, Solz hình như cảm ra được rằng, ý chí, ước muốn kỳ quặc và viễn ảnh của riêng ông có gì xêm xêm của Lenin, và, cuộc chiến đấu cho linh hồn và tương lai của nước Nga, sẽ là cuộc tử đấu giữa ông và người tạo ra hệ thống Xô Viết: Trời cho mi ra đời là để dựng nên Xô Viết, còn ta, để huỷ diệt nó. Và tiếu lâm thay, đúng như 1 cú của định mệnh, thiên đường không đi, mà cả hai cùng hẹn nhau, không cùng lúc mà là trước sau, lần lượt: Solz thấy mình ở Zurich, cũng trong tình trạng lưu vong, với Lenin, là trước cú tận thế 1914. Solz đã đi 1 chương về Lenin trong “Tháng Tám 1914”, và còn dư chất liệu cho những tập kế tiếp mà ông đặt tên là “Knots". Nhưng cú tính cờ Zurich thì quá giầu có để mà bỏ đi. Từ đó, xuất hiện Lenin ở Zurich (nhà xb Farrar, Strauss & Giroux).

Kết quả thì không tiểu thuyết mà cũng chẳng luận văn chính trị, mà chỉ là một bộ, set, những điểm xuyết nặng ký, in depth. Solz nhắm “lên sơ đồ, hoạch định, tìm ra” những sở đoản, điểm bại, tử huyệt của Lenin. Tin tức về Cách Mạng Nga đến với Lenin trong kinh hoàng, theo nghĩa, ông hoàn toàn ngạc nhiên đến sững sờ. Ðầu óc thiên tài quỉ quyệt với những âm mưu gây loạn của Lenin khi đó chỉ nhắm tạo bất ổn ở Thuỵ Sĩ và đẩy đất nước này vào 1 cuộc chiến.

http://www.tanvien.net/D_2/33.html

Re: Tin Văn. 

Cái từ Tin Văn của trang Tin Văn, được dùng theo nghĩa, câu của Nietzsche: Không có sự kiện. Chỉ có dẫn giải.
Đám Mít hải ngoại, ăn cắp báo mũi lõ, rồi "phăng", chúng gọi là viết "phén, phiếc", khác, cách viết Tin Văn.
Nói 1 cách khác, bạn phải đưa ra 1 cái tin - tin văn-
theo cái nghĩa được diễn giải của nó, và để diễn giải nó, cần nội lực, tức cái sống, cái đọc, cái hiểu, cái thông cảm, cái, cái, cái...
Không dễ đâu. NQT

* *

Những bài viết trong đây phần lớn từ báo văn học nước ngoài. Gọi Tạp Ghi thực không đúng, nhưng chẳng biết gọi là gì. Vả chăng, trong cõi người có mình, như nữ văn sĩ Mỹ - Susan Sontag – trích dẫn Nietzsche: “Chẳng có sự kiện, chỉ có dẫn giải”,  (1), và dẫn giải thêm: Phần dẫn giải là phần dịch thuật. Người chú giải nói: Này bạn thấy không, X. thật ra chỉ là - hoặc thực sự chỉ có nghĩa là A?
Ngoài ra còn một số kỷ niệm về bè bạn, trong đó có người đã mất…
[Trang bìa sau cuốn “Nơi Người Chết Mỉm Cười”, của Gấu nhà văn].
(1) There are no facts, only interpretations.
Nhưng, “Điều mà Aron thực sự kết án, thì không hẳn chỉ là cái sự tham dự một cách có ý thức vào một ý thức hệ, nhưng mà là sự ‘bại hoại trí thức’: đánh bóng thoa son cho thực tại, và vặn vẹo tính hợp lý của tiến trình quan sát của sử gia....”: Tính hợp lý của tiến trình quan sát… khiến cả Miền Nam tưng bừng với những ngày liền sau 30 Tháng Tư, ngay Gấu này, bị VC đầy đi nông trường cải tạo, vậy mà cũng cố mà hò:
Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng
.. Trời trên cao rất quen và rất lạ
Cứ xanh thăm thẳm ở trên đầu
Nhưng khi đã ngộ ra, chỉ là ăn cướp, thì la hò lớn lên, ăn cướp ăn cướp, chứ đâu có chuyện bại hoại trí thức, đánh bóng thực tại nhà nước VC, vặn vẹo tính hợp tình hợp lý của tiến trình lịch sử.
*
Đọc "Nơi Người Chết Mỉm Cười"


Bài viết trên tờ Người Nữu Ước, “Ý nghĩa của sự im lặng của BD”, được viết, rõ là từ sự cay cú của  Mẽo, về nhận xét của tay cựu thư ký Uỷ Ban Nobel, và gợi ý, hay là ông bắt chước Sartre?
OK, có thể, nhưng mắc mớ gì tới "ngụy tín", ở đây?
Cái sự hiểu biết của tay ký giả này, về Sartre, sợ còn thua cả Gấu.
Vả chăng, sau đó BD đã lên tiếng, và giải thích, cái sự được Nobel văn chương, khiến tôi sướng điên lên, đến “á khẩu”!
Sự tình như thế, thì tốt nhất, là vứt bài viết cùng sự cay cú của người viết vô thùng rác, mới đúng.

Bài viết hay nhất về vụ này, với riêng Gấu, là của tay Prospero, trên tờ Người Kinh Tế. Tay này viết cái quái gì cũng cực bảnh. Ông ta cũng không nghĩ, nên cho BD, và nếu cần cho, thì phải bịa ra 1 thứ Nobel khác, dành cho những người như BD. Đúng. Từ đó, suy ra, cực chẳng đã, Uỷ Ban Nobel mới cho BD giải thưởng này, đúng cái ý Gấu cũng đã nói ra rồi, không có chó thì bắt “tên khác, kẻ khác chó”, ăn kít, hà, hà!
Nói rõ ra, chưa có tay nhà văn Mẽo nào xứng đáng được Nobel văn chương!
Lỡ
cho nó 1 phát, thí dụ cho ông tác giả "Tên Phản Thùng", hay "Bão Lữa, Bão Cát" gì đó, chúng về đầu thú VC, và mang luôn cái bửu bối Nobel về dâng cho Bắc Bộ Phủ, thì bỏ mẹ cả lũ!

Bob Dylan wins a Nobel Prize

 

 

Knockin’ on History’s Door *

Note: Bài viết của Prospero về Nobel văn chương năm nay, 2016, cùng ý với.... GCC:
"Hãy mở giùm tôi cánh cửa này".
Ông, gõ cánh cửa lịch sử.
GCC, gõ cánh cửa trong thơ Apollinaire:
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant
Sợ, GCC bảnh hơn, chăng?
[Cái tít bài viết của Prospero, là tên 1 bản nhạc của BD] *

BOB DYLAN không cùng nhóm với những người như Hemingway hay Yeats. Nhưng họ bỗng trở thành bạn quí của nhau, nhờ giải Nobel văn chương năm nay. Hẳn là có người không khoái cái vòng hoa văn chương choàng cho ông, cái gì gì “âm nhạc quần chúng” – rõ ràng là một đám Mít, ở trong nước đa số, ưa thấy người sang bắt quàng làm họ, bèn bắt họ Trịnh đội mồ sống lại, bắt đứng kế bên BD - thì cũng phản chiến như nhau, nhờ cả hai ông mà chúng tôi có cái nước Mít sắp xuống địa ngục, mờ - Nhiều người còn tra hỏi cái việc, nhìn nhận nó, với cùng 1 vòng hoa, như đã từng ban cho những Shaw, Sartre, và Kipling.


Trao 1 giải thưởng thường dành cho nhà văn, cho 1 anh chàng hát rong nổi tiếng thì cũng nhảm nhí, ngớ ngẩn như cho Ô Bá Mà giải Nobel Hoà Bình.  Nhưng trong quá khứ, không phải tất cả những người được giải đều là những người viết tiểu thuyết, kịch, hay thơ. Churchill lãnh bạc Nobel nhờ tài miêu tả lịch sử, tiểu sử, cũng như tài ăn nói, tuyên dương phẩm giá con người. Triết gia cũng có người đợp Nobel văn học, như Russell, Bergson. Đây cũng không phải lần đầu tiên một người soạn lời ca cho những bản nhạc, được giải. Tagore người viết hàng ngàn bài ca, được Nobel năm 1913, vì “thơ mẫn cảm, tươi mát và đẹp”.

Sara Danius, giáo sư văn chương Đại Học Stockholm, và là thư ký thường trực của Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển, biện minh việc lựa chọn năm nay, khi so sánh BD với Homer và Sappho, những nhà thơ Hy Lạp cổ mà những vần thơ của họ được tấu lên cùng với nhạc cụ. Tuy nhiên sợi dây nối coi bộ hơi mỏng, lịch sử văn chương lưu giữ những tác phẩm được viết ra là để dành cho những người nghe bằng tâm hồn – không bằng cái tai, hẳn thế? Sir Christopher Ricks, một cựu giáo sư về thơ tại Đại Học Oxford, và là 1 nhà phê bình nổi tiếng hiện đang còn sống, đã viết 1 cuốn sách về thơ của BD, trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới những hàm ngụ, giữa BD và T.S. Eliot và John Keats. Sir Salman Rushdie mô tả BD hiện giờ như là 1 kẻ "thừa kế sáng giá của truyền thống thơ". Tuy nhiên vẫn khó mà tưởng tượng, có ai đó, đặt BD ngồi vào 1 cái ghế cao hơn ghế của Mark Twain, Nabokov, Joyce, hay Chekhov. Thì cứ nói đại như lũ Mít thường nói, cái đồ xướng ca vô loài ấy mà, hà, hà! Khổ 1 nỗi, tất cả những đấng vừa được nêu tên, đếch đấng nào được Nobel!

Mặc dù bạn nghĩ như thế nào, xừ luỷ có xứng nhập vuông chiếu - từ này thuổng nhà thơ Luân Hoán – văn chương, cụng ly với mấy đấng như Steinbeck, Faulkner – như là những nhà văn Nobel của Mẽo, bạn không thể chối cãi ảnh hưởng của BD trên cái sự việc viết lời ca hiện đại. Nhạc quần chúng có khuynh hướng biến thành bản kẽm, và thường làm người nghe vãi vãi. Những bản nhạc phản kháng mang danh vọng tới cho ông. Nhưng trong địa hạt này, không chỉ có ông.


Sự đóng góp của ông cho âm nhạc, là điều này, lời nhạc không phải tuân theo những luật của lời nói hàng ngày. Ông đem hứng khởi tới cho nhiều thế hệ viết lời nhạc khi kết hợp những từ, theo những đường hướng khác thường và thú vị - cái này thì cực giống họ Trịnh, lời nhạc của TCS cực tuyệt, đúng như Prospero viết, về ca từ của BD.

http://www.tanvien.net/T_G/nobel_dispute.html


Nobel văn chương 2016

*

http://www.nybooks.com/articles/2008/10/09/the-nicest-boy-in-the-world/

The Nicest Boy in the World
Charles Simic
October 9, 2008 Issue
Indignation 
by Philip Roth
Houghton Mifflin, 233 pp., $26.00

There ought to be behind the door of every happy, contented man some one standing with a hammer continually reminding him with a tap that there are unhappy people; that however happy he may be, life will show him her claws sooner or later, trouble will come for him—disease, poverty, losses, and no one will see or hear, just as now he neither sees nor hears others.1
—Anton Chekhov
What do people think when they come across photographs in a newspaper of young men and women killed in Iraq? I take it for granted that they feel pity and horror that someone so young is no more, but it would be interesting to know just how far they venture to imagine the lives of the young as they read the few lines of biographical information that accompany the picture. Here’s Fred Something-or-Other, born in a small town out west, or in some city in the east, whose name and face recall someone we used to know in high school, looking at us, out of a photograph taken by the military, with the usual swagger of young men wearing a uniform. Many are making an effort to smile, some appear grim and determined, and only a few have the vulnerable, worried look of kids who think they might come back to their parents in a coffin.
The Pentagon’s ban on making images of dead soldiers’ homecomings and burials is intended to prevent us from turning into novelists for a moment, from speculating about their lives and the cause for which they died. This order of things, knowing nothing about the fate of others, is evidently necessary, Chekhov observes in one of his stories. What he has to say on that subject was true of the Russia of his day and is true of America today:
The happy man only feels at ease because the unhappy bear their burdens in silence, and without that silence happiness would be impossible.
It follows that what a writer must do is give a reader an occasional tap on the head and once in a while a good whack.
“My fiction is about people in trouble,” Philip Roth told an interviewer after Goodbye Columbus received the National Book Award in 1960.2 Some of the characters in his novels and stories are in trouble because of their own flaws and the mess they’ve made of their lives, but many of them are either the victims or are in some way implicated in the history of their times. World War II, the McCarthy period, the Vietnam War, the sexual revolution of the 1960s, political terrorism, Watergate, the women’s movement, and even the administration of President George W. Bush all figure in his most recent books. More and more, in Roth’s fiction, history and the individual are interdependent. He writes about the experience and the accompanying moral conflicts of those left at the mercy of events and ideas over which they have…


http://www.newyorker.com/culture/cultural-comment/lets-celebrate-the-bob-dylan-nobel-win

Then came the news, early this morning, that Bob Dylan, one of the best among us, a glory of the country and of the language, had won the Nobel Prize in Literature. Ring them bells! What an astonishing and unambiguously wonderful thing! There are novelists who still should win (yes, Mr. Roth, that list begins with you), and there are many others who should have won (Tolstoy, Proust, Joyce, Woolf, Nabokov, Auden, Levi, Achebe, Borges, Baldwin . . . where to stop?), but, for all the foibles of the prize and its selection committee, can we just bask for a little while in this one? The wheel turns and sometimes it stops right on the nose.

Roth quả xứng được Nobel. Tuy nhiên, cả 1 lô những tác giả thừa sức đoạt Nobel. Điều kiện phải là Do Thái, thì có rồi!
Cái gì làm cho lũ mafia Do Thái quên ông?

Bèn đi 1 đườ
ng vinh danh ông, qua bài viết của Charles Simic, trong 1 số báo NRRB cũ. Roth là người đã được Phan Lệ Thanh giới thiệu, những ngày trước 1975, nếu Gấu nhớ không lầm."Goodbye Columbus"? Nhớ cái cảnh 1 em đang tắm trong 1 bể bơi, hê, tên ngố, đưa cho ta cặp kính mát, anh chị quen nhau là như thế đó.

Hoàng Đế Cởi Truồng thắng Man Booker năm nay

Miền Nam Việt Nam đọc Roth rất sớm, qua cuốn Goodbye, Columbus, 1959 [Saul Bellow phán, cuốn thứ nhất nhưng không phải cuốn của 1 kẻ mới bắt đầu, "a first book but ... not the book of a beginner"], do Phan Lệ Thanh dịch.
Cuốn này thì thật tuyệt. Quá tuyệt.
GNV làm sao cứ nhớ hoài cái cảnh, em đang tắm trong 1 bể bơi, và ra lệnh cho GNV đứng kế đó, nè, thằng lùn lé đần kia, nhặt cho ta cái kính râm.

Cú sét đánh, mặc khải, tình yêu như trái phá, yêu từ cú nhìn đầu tiên, yêu không là nhìn nhau mà là nhìn về cùng 1 hướng, yêu là chết ở trong hồn 1 tí.... đối với tên nhóc. (1)

Vụ Roth vớ Man Booker, chứng minh “lý thuyết” của bà Huệ, lại mafia Do Thái ban giải thuởng cho 1 tên Do Thái! 

Cái bà nữ giám khảo, "quit job" khi Roth được giải, nhận xét về ông, mới cay độc làm sao, và, thật là đúng: Còn nhiều tác giả đáng được trao giải hơn, so với Roth. Theo Gấu, có thể Man Booker khi trao giải cho Roth, là để "giải lời nguyền" của vị thư ký Nobel, văn chương Mẽo không xứng đáng để được Nobel.

Trong cột báo của mình trên Guardian Review, Callil cho biết bà còn bực mình, vì giải thưởng thất bại trong cái việc vinh danh dịch dọt –danh sách chót gồm những tác giả TQ, TBN, Italy, Lebanese… - Tại sao không 1 trong họ, mà thay vì thế, thì là Roth, “lại một đấng Bắc… Mẽo”

(1) Chỉ mãi tới khi sắp xuống lỗ, thì GNV mới hiểu ra được, tại sao lại nhớ hoài xen này: Gấu đã mong được như vậy.

Bạn còn nhớ cái cảnh, G và anh bạn cùng tới nhà BHD, vào 1 buổi sáng, G nhờ anh bạn đưa giùm cái thư, vì bị cấm cửa. Anh bạn vô, đưa, BHD để cái thư lên bàn, và ra lệnh:

-Anh V. phụ em khiêng cái giuờng.

Khi đó, em mới dọn nhà từ Phan Đình Phùng lên Gia Long.

-Em mày láo quá, nó sai tao khiêng giường cho nó!

-Thế thì sao mày không để tao?
*

Lớp học trò chúng tôi, đa số biết Paris qua... Thanh Tịnh. Con đường tới Paris bắt đầu bằng cảnh: mẹ tôi âu yếm dẫn tay tôi trên con đường làng, tôi vẫn quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi thấy lạ. Con đường làng Việt Nam dẫn hai đứa chúng tôi tới những lối đi nơi vườn Lục Xâm Bảo, và bầu trời hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc của Thanh Tịnh, bỗng lẫn vào bầu trời chập chùng Mùa Thu Paris, những chiếc lá vàng rơi trên những pho tượng trần, những bữa cơm tối ăn dưới ánh đèn... ôi chao, tôi lại thấy cảnh này, ở nơi vườn Bờ Rô Sài Gòn, những ngày quen cô bé... 

Cô bé, là, BHD

Gặp Gỡ Cuối Năm

Coetzee điểm Cú Độc Nhắm Vào nước Mẽo, The Plot Against America, của Roth, so sánh Roth với Shakespeare.

Gừng càng già càng cay, Roth has grown in stature as a writer as he has grown older. Ở đỉnh cao của ông, at his best, thì ông vào lúc này đúng là 1 “bi đại tiểu thuyết gia thực sự” [a novelist of authentically tragic scope].
Ở vào cực đỉnh cực, tức phút cực khoái của ông, at his very best, ông có thể vươn tới đỉnh Shakespeare, he can reach Shakespearean height.

Còn bà nữ chủ khảo Man Booker thì chê thậm tệ ông vua cởi truồng:

Ông ta cứ ngày nọ qua tháng kia, lèm bèm hoài về chỉ 1 đề tài [BHD, hà hà], trong bất cứ 1 cuốn nào, mới ra lò, hay ra lò đời xửa đời xưa. Cứ như thể ông ta ngồi mẹ lên mặt bạn và làm bạn hết thở!

TV sẽ giới thiệu bài của Coetzee, thật là tuyệt, tất nhiên! C. gọi Roth là 1 văn hiện thực viết chuyện không thực!

Coetzee viết, một cuốn tiểu thuyết lịch sử, theo định nghĩa, được đặt để trong 1 quá khứ lịch sử [Nguyễn Huệ quả có ra Bắc, thí dụ, nhưng cái hành động nhét cứt, thì chắc là không… chắc lắm đâu, sĩ phu Bắc Kít đừng lo!]. Quá khứ “Cú độc chơi anh Mẽo” không thực. Nó giống 1984 của Orwell, và giông giống cõi của Borges, nếu nhìn từ xa.

http://www.complete-review.com/reviews/rothp/plotaa.htm

In an astonishing feat of empathy and narrative invention, our most ambitious novelist imagines an alternate version of American history.
In 1940 Charles A. Lindbergh, heroic aviator and rabid isolationist, is elected President. Shortly thereafter, he negotiates a cordial “understanding” with Adolf Hitler, while the new government embarks on a program of folksy anti-Semitism.

For one boy growing up in Newark, Lindbergh’s election is the first in a series of ruptures that threaten to destroy his small, safe corner of America–and with it, his mother, his father, and his older brother.


Liệu hiện tượng Trump ứng với "Cú Độc Chơi Anh Mẽo"?

Trong cuốn dvd đúp, Ngày Trở Về, Phạm Duy cho biết, bài Thuyền Viễn Xứ được sáng tác, trong dòng những bài trước đó, của Hoàng Quý, của Đặng Thế Phong... ra đời trước nó 10 năm, tuy nhiên, ông nhấn mạnh, nếu những bài hát kia mang chất Lãng Mạn, biểu hiện một thứ tình cảm cá nhân, thì bài TVX có tính hiện thực, không biểu hiện một cõi tôi cá nhân. Thí dụ như câu:
Sóng Đà giang thuyền qua xứ người.


Theo Gấu, bài Thuyền Viễn Xứ là một bản nhạc không mang tính hiện thực, mà là tính tiên tri. Nó đã được sáng tác ra, cho những người Việt ở hải ngoại, mãi sau này, ngay cả khi PD đã trở về, và họ, không thể trở về, chỉ còn cách hát bản nhạc của ông, cho đỡ nhớ quê hương:

Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người.
*
Khủng khiếp thật, quyền năng, sức mạnh tiên tri.
Của, chỉ một bản nhạc!

Nói Thuyền Viễn Xứ được sáng tác cho những thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn dặm, thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo, tinh thần thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì cứ nói đại, cho dù chính tác giả của nó cũng chẳng thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù VC đâu, thính giả đích thực của bản nhạc TVX,  là đám tù cải tạo.
Nói, "nó còn nhắm tới", có lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền năng huyền bí của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích dẫn Lévi-Strauss, sự phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng".
 
Gấu, tên tù cải tạo, vào lúc không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên 'quê hương' xuất hiện, không phải như là một 'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về khổ đau" (1), mà như một món quà tặng thật là tuyệt vời. (1)

Kafka viết, có thứ âm nhạc chỉ để hát ở địa ngục.
Một cách nào đó, với Gấu Cà Chớn, khi nghe TVX, ở trại tù VC, đúng như Kafka phán.


* *

Đọc cú chót


http://www.lrb.co.uk/v38/n20/sheila-fitzpatrick/vodka-plus-caesium

LRB điểm hai cuốn Nobel năm ngoái.
Cũng đâu phải.... văn chương?

TV sẽ scan & post và lai rai ba sợi về hai cuốn này. Tuyệt lắm, đúng như vậy. Thà rằng thứ này, còn hơn là thứ âm nhạc phản chiến!
Hứng viết của Bà là từ phim Lò Thiêu của Claude Lanzmann, có thể nói như vậy
Svetlana Alexievich won the Nobel Prize for Literature in 2015, but some people still don’t think her books are literature. In fact, they are collective oral histories, of similar genre, though completely different in tone, to those of Studs Terkel in the United States, whom she has probably never read. Her main influence as far as genre is concerned was the Belorussian writer Ales Adamovich, who in the 1970s (with Daniil Granin) collected the testimonies of wartime Leningrad survivors in Blokadnaia kniga, but that’s not very helpful in a Western context since nobody has heard of him. Lately, Alexievich has taken to citing Claude Lanzmann’s Shoah as an inspiration. Her first book, with methodology already honed, was finished before Shoah was made, so that obviously can’t be taken literally. But it’s a way of letting a Western audience know that what she’s doing is exploring suffering and loss through the voices of the sufferers.

*

"And this time you're going to Stockholm."
Và lần này, là Stockholm

PRIMO LEVI
THE SURVIVOR'S SUICIDE
by James Atlas
JANUARY 1988

In the spring of 1987, Primo Levi's literary reputation had never been higher. All over the world, translators were preparing his work for publication. There were even rumors that he might win a Nobel. "You'd better get ready to travel again," Levi's publisher teased him over the phone on Friday, April 10. "And this time you're going to Stockholm." Around ten o'clock the next morning, Iolanda Gasperi, the concierge of Levi's building, at 75 Corso Re Umberto in Turin, rang the bell of his fourth-floor flat and handed him the mail. "Dr. Levi had a tired look," she recalled, "but that was nothing unusual. He was gentle. He took the mail, a few newspapers and some advertising brochures, and greeted me cordially." A few minutes later, she heard a loud thud in the stairwell and rushed out of her lodge. ''A poor man was lying crushed on the floor. The blood hid his face. I looked at him and-my God, that man!-I recognized him right away. It was Dr. Levi." Lucia Morpurgo, Levi's wife of forty years, had been out shopping. Her arms were full of groceries as she pushed open the glass door. The concierge tried to hold her back, but she flung herself down beside her husband and tried to lift his head. Their son, Renzo, had also heard the commotion and hurried down the wide staircase. They were joined by Francesco Quaglia, a dentist who had known Levi since high school and had an office in the building. Levi's wife embraced him. "Era demoralizato," she said tearfully. "He was demoralized. You knew it, too, didn't you?"

Trong bài viết về Dương Nghiễm Mậu, có thể là do đọc Koestler, Gấu đã mường tượng ra cõi văn của lũ con hoang của Miền Bắc, thứ chuông, đúc ở Đất Bắc, và phải đợi cái cơ may vô được Miền Nam, thì mới được đánh, được kêu lên, những tiếng rền rĩ, vừa nhớ Đất Bắc, vừa mừng thoát được Cái Ác Bắc Kít!
Lịch sử lập lại, với những người như Xuân Sách, Nguyễn Khải.
Nói rõ hơn, cả 1 lũ đau cái đau, sinh ra là 1 tên Bắc Kít.
Do Thái cũng có cái hạnh phúc được Chúa chọn như thế đó!

Koestler?

"
The final rout of the Soviet imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at Noon"
David Cesarani: [Tiểu sử] Arthur Koestler: Một cái đầu không nhà, The homeless mind.
1989 – 1990 - thời kỳ cáo chung của quyền uy tối thượng của Xô Viết, bắt đầu vào năm 1940, khi Bóng Đêm giữa Ban Ngày của Koestler ra lò
Đúng là đòn Cách Sơn Đả Ngưu của Kim Dung.

Note: Khi Xuân Sách vẽ chân dung Chế Lan Viên, ông hỏi bức biếm họa của mình, điêu tàn ư, đâu chỉ điêu tàn?
Một cách nào đó, ông nhìn ra cái xứ Mít bây giờ, quá cả điêu tàn, mà mấp mé bờ địa ngục.
Đâu có khác gì Koestler, khi viết Đêm Giữa Ban Ngày, 1940, là đã đọc lời ai điếu cho Đế Quốc Đỏ, mà phải đến 1989 -1990, "the final rout" mới xẩy ra.
Nên nhớ Đêm Giữa Ban Ngày là dựa vào sự kiện thực.
Như thế, nhìn những bộ mặt thực của đám viết lách Bắc Kít, Xuân Sách nhìn ra số phận của cả 1 miền đất, và của cả 1 dân tộc?
Khi ông bỏ Miền Bắc, vô Vũng Tàu, ông có tiên tri ra được số phận ông và gia đình?


Sách & Báo & Thời Sự Văn Học

Tên Yankee mũi lõ đầu tiên được Man Booker

Pour la première fois, un Américain remporte le Man Booker Prize
Le mercredi 26 octobre 2016
http://www.magazine-litteraire.com/prix/pour-la-premi%C3%A8re-fois-un-am%C3%A9ricain-remporte-le-man-booker-prize

Mardi 25 octobre à Londres, Paul Beatty a remporté le Man Booker Prize pour son roman Moi contre les Etats-Unis d’Amérique (Cambourakis), satire sur la vie urbaine américaine. « Un livre très dur à digérer », a confié à la BBC l'auteur qui a empoché un chèque de 52000 livres, soit 59000 euros.

Âgé de 54 ans, Paul Beatty est le premier écrivain américain à être le lauréat de ce prix créé en 1968, parmi les plus prestigieux en langue anglaise, au départ réservé aux romanciers britanniques, irlandais et ressortissants du Commonwealth. En effet, il a fallu attendre 2013 pour que son champ s’étende à l’ensemble du monde anglophone.

Viết Mỗi Ngày
At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails.
 By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

*

Dalat 1964 - Lieutenant Colonel Lucien Conein, CIA agent and Vietnamese generals who conspired to overthrow Diem
Các Tướng Kim, Đính, Đôn, Vỹ và Xuân vào thời gian bị quản thúc tại gia ở Đà Lạt (14 tháng 9 năm 1964), thời Nguyễn Khánh. Hình này chụp trong dịp Trung tá CIA Lucien Conein đến thăm họ.
từ trái qua: (1) Lê Văn Kim, (2) Tôn Thất Đính, (3) Trần Văn Đôn, (4) Nguyễn Văn Vỹ, (5) Mai Hữu Xuân.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26495927025/in/photostream/





Dylan says Nobel left him 'speechless': Swedish academy
[AFP]
AFP
October 28, 2016

Được Nobel khiến tôi á khẩu



Cái tay Mẽo viết bài này, GCC chưa từng đọc. Rõ ràng là anh ta cay cú vì câu phán của viên cựu thư ký thường trực của Uỷ Ban Nobel, khi nhận định về văn học Mẽo, 1 thứ văn chương của tụi di dân, và Mẽo, tân đại lục, chỉ giống như 1 ốc đảo.
Nhưng đâu có phải chỉ một ông cựu thư ký?

Ngay nhà văn Mẽo, di dân, Ha Jin, cũng nhận ra điều này, khi viết “nhà văn, nhà di dân”.
Cái tội ác của Mẽo, với chính dân Mẽo, do cái sự tham gia vào cuộc chiến Mít, và bỏ chạy tán loạn, cũng không đẻ ra được 1 tác phẩm ra hồn, ngoài vài ba tác phẩm, thứ hồi ký chiến tranh.
Nhưng, người phán nặng nề về văn chương Mẽo, là nhà nữ phê bình Vendler, Mẽo
: Chẳng có bài học trực tiếp nào mà những nhà thơ Mẽo học được từ Milosz. Họ có bao giờ nhìn bằng cặp mắt của chính họ, chiến tranh, trên đất nước, xứ sở của chính họ. Chính vì thế mà họ không làm sao nhập vào được giọng thơ của Milosz.
Robert Hass, thi sĩ cực bảnh Mẽo, chê Osip Mandelstam, ông ta nổi tiếng như 1 kẻ tuẫn nạn, đâu phải như thi sĩ, nhớ đại khái. (1)
Lũ Mít hải ngoại, tên nào cũng bò về, lưu vong gì chúng?
Có tên nào viết nổi 1 bài thơ như bài Việt Nam, của Szymborska?
Cái chết của Mít, là do Cái Ác Bắc Kít mà ra, đó là sự thực. Chẳng mắc mớ gì đến chủ nghĩa CS, theo Gấu.
Những gì chúng đang đối xử với người dân trong nước, mắc mớ gì tới Marx, Mác Xít?

Hemingway ư? Chuông gọi hồn ai? Gọi hồn mi đó.
Faulkner ư? Miền Nam sâu thẳm, nỗi đau da đen nhức nhối, quá cả lịch sử nước Mỹ, quá cả Ô Bá Mà.
Bạn thử trích dẫn, 1 câu thôi, từ 1 tác giả Mẽo hiện đại, cho thấy tên này tên nọ xứng đáng Nobel?
Cái gì làm văn chương Mẽo khốn nạn đến mức như thế? Thì lũ di dân, như lũ Mít, thí dụ. Cho nó Nobel là xúi nó chọn đô la Mỹ, thay vì nước Mỹ.
Uỷ ban Nobel chỉ muốn cho Mẽo Nobel, và khi cho 1 anh hát rong, là chẳng đặng đừng, không có chó bắt Mèo ăn kít.
Rõ ràng là như thế, khi cho Munro, thay vì Oates.
Cái tên số 2, hắn được Canada nhận, nhưng có bao giờ hắn cám ơn Canada? Tìm đủ mọi cách qua Mỹ sống, làm chủ 1 cơ sở, 1 bộ lạc, lợi dụng Chống Cộng để làm giàu, trong khi trong nhà nuôi VC. Lần đầu tiên Gấu
tới tòa soạn tờ báo của bộ lạc Cờ Lăng, thấy người tù lương tâm được tòa báo ban cho cả 1 văn phòng làm việc, trong khi chúng vờ luôn Gấu, dù cũng bạn quí cùng hàn vi với Sài Gòn, cũng 1 thời di cư mí nhau, cũng viết lách như nhau!
Cho hắn Nobel ư?
Hay cho đấng “văn chư
ơng chỉ là đồ chơi”?
Cực tởm, cái lũ Mít “nưu vong”!


(1)

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/29.html

ROBERT HASS

Robert Hass, like Jeffers, is a California poet. In this poem, an object (clay figurine) and a typical California landscape are given simultaneously.
Robert Hass, như Jeffers, là một nhà thơ Cali. Trong bài thơ dưới đây, pho tượng vì phu nhân, và phong cảnh Cali, thì cùng lúc, được trình ra, với độc giả Tin Văn.
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things

[Note: To U, the figure of the lady, an California image, in this poem. GNV]

THE IMAGE

The child brought blue clay from the creek
and the woman made two figures: a lady and a deer.
At that season deer came down from the mountain
and fed quietly in the redwood canyons.
The woman and the child regarded the figure of the lady,
the crude roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were not sure where she came from,
except the child's fetching and the woman's hands
and the lead-blue clay of the creek
where the deer sometimes showed themselves at sundown.
 

Ảnh Tượng

Đứa bé mang đất sét màu xanh từ thung lũng về
Và người đàn bà nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này, nai thường từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng lẽ trong những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà và đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc, vì phu nhân tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ say mê của đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét xanh màu chì của thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong mù hoàng hôn”.


Note:
Bài thơ này, được Milosz lôi ra vinh danh, GCC gặp lại nó trong tập The Apple Trees at Olema, New and selected Poems của Robert Hass. Thật là tuyệt. Có cái gọi là thiên tài của nơi chốn, tức Ông Thần Đất, tức Thổ Địa, tức Cali, ở đây, như Milosz chỉ ra.
Và có thể, đó là lý do Robert Hass không chịu nổi 1 nhà thơ Nga , như Osip Mandelstam. Ông viết, chúng ta lòa con mắt vì cái sự tuẫn nạn của ông, chứ không phải thơ của ông.
Theo Gấu, một nhận xét như thế, chứng tỏ sự nghèo nàn trong cảm nhận, ở nơi nhà thơ Bắc Mỹ, như Robert Hass.
Vendler nữ phê bình gia số 1 của Mẽo, cũng nói đại khái như thế; Mẽo đếch đọc những nhà thơ Ba Lan, vì chúng có bao giờ đi tù….  VC đâu! (2)

(2)

Chẳng có bài học trực tiếp nào mà những nhà thơ Mẽo học được từ Milosz. Họ có bao giờ nhìn bằng cặp mắt của chính họ, chiến tranh, trên đất nước, xứ sở của chính họ. Chính vì thế mà họ không làm sao nhập vào được giọng thơ của Milosz.

Cái sự ca ngợi NBS ở những tên bỏ chạy, theo Gấu, có cái gì giống như Hass. Sự kiện Hass chê thơ Osip, chúng khen thơ NBS, có cái giống nhau.

Mới thấy Thầy Kuốc phán về thơ NBS, chỉ được những bài thơ về chiến tranh, còn thì dưới trung bình cả.
Đấng này, khi khen bất cứ ai, là phải thòng cái đuôi, được, nhưng mà hỏng, VP ư, chẻ sợi tóc làm tư, lâu lâu quên chẻ. MT rất bảnh về thơ, nhưng chỉ thơ tiền chiến.
Một khi mà cái đầu đã bị hư, vì 1 lý do nào đó, là hỏng.
Hư, ở lũ viết lách, là thường do đố kỵ.
Hay chưa sống tới mức như thế, như trường hợp Hass.
Hay là do mặc cảm, như ở lũ bỏ chạy.
Cũng mới đọc bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, chê thơ TTT, trên Gió O. Bài thơ “Sợ Cái Cột Đèn” thần sầu như thế, mà ông này chê.
Tếu thế!

V/v Nguyễn Đăng Thường. Ông này, thời còn trẻ, mê thơ Tẩy, Rimbaud, thí dụ. Vào thời gian đó, Gấu đếch biết gì về thơ, tiếng Tẩy thì cũng quá tệ, so với đám của ông, thành ra không quen, chưa từng gặp 1 lần. Nhưng bạn của ông, là Hoàng Ngọc Biên, tức Mít Butor, viết văn y chang Butor, ở cái vỏ, tức văn phong - được coi là thuộc trường phái của cái nhìn - thì do quen biết Huỳnh Phan Anh, nên cũng hay la cà Quán Chùa, và có thời Gấu cũng tin ông là 1 bạn quí của Gấu, như những HPA, NXH. Chỉ đến khi ra được hải ngoại, thì mới vỡ ra, đếch phải bạn quí.
Trở lại với NDT. Ông quả là 1 nhà thơ, theo 1 nghĩa nào đó, nhưng cũng như những người trong nhóm Trình Bày, cuộc chiến, “một cách nào đó”, không liên quan tới họ. Chỉ đến khi ra được hải ngoại, thì NDT mới để ý đến hậu quả của cuộc chiến. Thơ của ông sau này, là nhắm nhà nước VC mà đả kích, nhưng những bài thơ của ông có tính nhại, nhại nhạc TCS, nhại ca dao, nhại thơ người khác. Gấu chưa từng được đọc 1 bài thơ của NDT, theo nghĩa thơ của ông.

Thành ra những lời giới thiệu đao to búa lớn của bà Huệ, Gấu đọc không hiểu được, thí dụ, những dòng này:

Là một người đọc, có khi tôi tìm đọc những tác giả khó. Những tác giả mà khi đọc cái đầu ta phải làm việc theo tác phẩm của họ. Nguyễn Đăng Thường là tác giả thuộc khuynh hướng này. Mới thoạt đọc, thấy ông viết hơi xâm lăng tấn công, và ông va chạm vào đủ các thứ mạch ẩn nấp. Nhưng bên dưới các bản viết ký tên Nguyễn Đăng Thường là các tiêu hóa kiến thức, trí thức, cảm tính, và văn chương, ở mức độ cực kỳ cao. Điều này gây nên sự chú ý của tôi. Tôi xem anh như là một trong những nhà thơ gây ảnh hưởng trên lớp tác giả trí thức cùng thời tôi, vì các vận động viết có tính trí tuệ, đối xoáy, và tấn công thẳng thắn của cõi viết Nguyễn Đăng Thường.


Khen, gì cũng được, nhưng phải có chứng minh, bằng thí dụ, bằng sự kiện.
NDT có cái gì ghê gớm đến như thế?
Ngay cả cái cần nhất, là 1 giọng cho riêng mình, cũng chưa có được. Như tất cả đám Trình Bày, bỏ ra cái phản chiến, chỉ nói cái văn học, và chỉ nói phần dịch thuật của họ, thì cũng hỏng.
Hỏng ở đây, là do quá dốt tiếng Mít.
Chứng cớ rõ ràng nhất, khi NDT trình bản dịch Linda Lê cho Sến, nhờ Sến duyệt, em phán, vứt ngay vô thùng rác cho ta!
Diễm Châu, một ngày có thể làm thịt cỡ chừng một chục nhà thơ ngoại, như không.
Đưa bất cứ nhà thơ mũi lõ, là ông có liền bản dịch!

Gấu nghĩ, NDT không đọc được thơ TTT.
Không chỉ mình ông. Bà Huệ, theo Gấu, cũng không đọc được thơ TTT, khi đòi thứ thơ đời thường [Lê Thị Huệ: "Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi là ngôn ngữ đời thường". Thưa anh, tôi gần với anh ở điểm này đa].
Cùng lúc đó, bà Huệ khen NDT [Là một người đọc, có khi tôi tìm đọc những tác giả khó. Những tác giả mà khi đọc cái đầu ta phải làm việc theo tác phẩm của họ. Nguyễn Đăng Thường là tác giả thuộc khuynh hướng này.]

Theo GCC, ngôn ngữ đời thường không thể “bắt cái đầu phải làm việc”, và, khó mà là ngôn ngữ thơ. Thơ, 1 cách nào đó, là “ngôn ngữ của ngôn ngữ”.
Gấu sợ thứ ngôn ngữ bèo nhèo, nhạo, nhại của NDT không thể nào tới được cõi thơ.

Cái chuyện không đọc được thơ của 1 tác giả nào đó, là chuyện rất thường. Nhưng đâu vì không đọc được, rồi chê thơ họ.
GCC đọc thơ Emily Dickinson, không nổi, nhưng chưa bao giờ dám coi thường thơ của bà. NDT thích thơ Tô Thuỳ Yên hơn thơ TTT. Nhiều người cũng nghĩ như ông, trong khi Gấu nghĩ ngược hẳn lại. Đó là do khiếu thưởng ngoạn khác nhau, chứ không thể vin vào đó, mà nói  thơ TTY hơn thơ TTT.

Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT

Chúa ơi!


Cái sự cho Nobel năm nay, theo GCC, có mắc mớ, 1 cách nào đó, theo tính ẩn dụ gì đó, cũng có thể, đến số phận thê thảm của xứ Mít như bây giờ.
Nhận ư, thì nhận luôn 3 người triệu người chết trong cuộc chiến và triệu triệu người chết sau đó, trong Trại Tù, trong Vượt Biển, trong Bụng Cá, trong, trong... và 1 nước Mít tang thương như hiện nay, thưa nhà nhạc sĩ phản chiến vĩ đại?

Đâu có phải tự nhiên PXA khóc ròng, nắm tay vợ, đi không được?
Em ơi, kíu anh với, triệu triệu hồn ma đòi mạng....
Rồi Võ Tướng Quân?
Rồi đao phủ Mậu Thân?
Đếch thằng nào đi được!

Nhận là nhận luôn cái nhục của cuộc bỏ chạy tán loạn?

V/v “bad faith” (from French mauvaise foi) is a philosophical concept used by existentialist philosophers Jean-Paul Sartre and Simone de Beauvoir to describe the phenomenon where human beings under pressure from social forces adopt false values and disown their innate freedom hence acting inauthentically.
Bad faith (existentialism) - Wikipedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Bad_faith_(existentialism)

Note: "bad faith" (mauvaise foi), nguỵ tín. Đừng lầm với từ “bad conscience”.
Saint John Perse, nhà thơ Pháp, trong bài diễn văn Nobel, phán, là nhà thơ, là cái ý thức xấu xa của thời của mình, là đã hãnh diện lắm rồi.
Từ này, người đầu tiên xài, là Nietzsche

http://www.tanvien.net/Portrait/Nguyen_Huy_Thiep.html

VHNT
Số 555
February 14, 2003

Tin Văn

 1. Mỗi trường hợp mỗi khác.

Thus it is enough for the poet to be the bad conscience of his age.
Saint-John Perse. Diễn văn Nobel (1960).
(Là ý thức tự phán của thời mình, vậy là quá đủ cho nhà thơ).
Gửi Điểm Hẹn
JT

Chuyện NHT sau này không còn ăn khách cho lắm, nghĩa là "thất bại" của một NHT sau này, chính là do thành công trước đó, nói rõ hơn, do thể loại văn học mà ông ta sử dụng thật đắc ý, và cũng thật đắc địa: ẩn dụ. Nhưng ẩn dụ, chính nó, giết (metaphors kill). Một khi đời thường lấn át ẩn dụ, người ta không cần đến ẩn dụ nữa, mà cần một hình thức văn chương khác, bản thân NHT chưa kiếm ra, để đáp ứng cho độc giả của ông, theo tôi.

Note: Lướt Tin Văn, mò ra bài này

Khi viết về 1 số tác phẩm của Miền Bắc sau khi có “đổi mới”, cởi trói…  như “Đi tìm cái tôi” của NK, hay những truyện ngắn của NHT, GCC xếp chúng vào dòng văn chương tự phán, quá tí nữa, sám hối.
Tuy nhiên, bây giờ đọc lại, có vẻ như Gấu lạc quan tếu.
Phải coi, cũng 1 thứ ngụy tín. Chưa có 1 tên Bắc Kít nào nhỏ 1 giọt nước mắt - dù cá sấu - cho lũ Ngụy và trận tù dài dằng dặc của chúng, sám hối cái con củ xê [thuổng Thương Sinh, tức Duyên Anh, khi chửi NQT] ư?
Hà, hà!

In the summer of 1964, Bob Dylan released his fourth album, “Another Side of Bob Dylan,” which includes the track “It Ain’t Me Babe.” “Go ’way from my window/Leave at your own chosen speed,” it begins. “I’m not the one you want, babe/I’m not the one you need.”

That fall, the philosopher Jean-Paul Sartre played a variation on the same tune in a public statement explaining why, despite having been awarded the Nobel Prize in Literature, he would not accept it. “The writer,” he insisted, must “refuse to allow himself to be transformed into an institution, even if this occurs under the most honorable circumstances.” Mr. Dylan was talking to an imaginary lover, Sartre to an actual Swedish Academy, but the message was similar: If you love me for what I am, don’t make me be what I am not.

We don’t know whether Mr. Dylan was paying attention to l’affaire Sartre that fall 52 years ago. But now that he has been awarded the Nobel Prize in Literature, he seems to be following in Sartre’s footsteps. Indeed, Mr. Dylan has done the philosopher one better: Instead of declining the prize, he has simply declined to acknowledge its existence. He hasn’t issued a statement or even returned the Swedish Academy’s phone calls. A reference to the award briefly popped up on the official Bob Dylan website and then was deleted — at his instruction or not, nobody knows. And the Swedes, who are used to a lot more gratitude from their laureates, appear to be losing their patience: One member of the Academy has called Mr. Dylan’s behavior “impolite and arrogant.”

Mùa hạ 1964, BD cho ra lò album thứ tư, "Phía khác của BD", trong có câu, "tớ đếch phải cái kẻ mà em muốn/em cần"
Mùa thu, cùng năm đó, Sartre đi 1 đường phụ họa anh hát rong,
trong 1 thông báo, khi được Nobel văn chương, tớ đếch nhận, và nhấn mạnh, nhà văn phải từ chối cho phép mình biến thành 1 định chế, cho dù chuyện này xẩy ra trong những hoàn cảnh hoành tráng tới cỡ nào.
BD thì thủ thỉ bên tai người đẹp của ông, còn Sartre, với Viện Hàn Lâm Thụy Điển
.
Thông điệp của ông thì cũng xêm xêm với BD: Nếu các người yêu tôi vì cái mà tôi là, thì đừng biến tôi thành cái tôi không phải [là như thế]

Chúng ta không biết me xừ hát rong BD có thèm để ý tới “áp phe” [vụ việc, tiếng Tẩy. Tiếng Anh, cũng viết như thế, nhưng nghĩa khác, 1 cú tình, ăn vụng, ăn phở… ] Sartre, vào mùa thu năm đó, cách đây 52 năm.
Nhưng bi giờ, được trao giải thưởng Nobel văn chương, có vẻ như ông bèn đi theo vết chân của Sartre.
Sự thực, ông bảnh hơn Sartre, có thể nói như thế: Thay vì từ chối, ông vờ luôn, tao đếch biết “cái gọi là” Nobel văn chương!

Ui chao, THNM, bèn nhớ ngay đến nhà văn người tù lương tâm VTH, khi mới ra hải ngoại, được lũ Ngụy săn đón, xin ý kiến, về văn học hải ngoại, Người ngạc nhiên quá đỗi: Có cái đó ư?


Note: Nhân chuyện Nobel cho anh hát rong, cho âm nhạc phản chiến. Đếch thèm nhận!

Có 1 thứ âm nhạc để hát ở địa ngục [Kafka], hay, ở Lò Thiêu.

* *

Milan Kundera

OUBLI DE SCHONBERG

Un ou deux ans après la guerre, adolescent, j'ai rencontré un jeune couple juif de quelque cinq ans plus âgé que moi; ils avaient passé leur jeunesse à Terezin et, ensuite, dans un autre camp. Je me suis senti intimidé devant leur destin qui me dépassait. Ma gêne les a irrités: «Arrête, arrête !» et, avec insistance, ils m'ont fait comprendre que la vie là-bas gardait tout son éventail, avec des pleurs aussi bien que des plaisanteries, avec de l'horrible aussi bien que de la tendresse. C'est pour l'amour de leur vie qu'ils se défendaient d'être transformés en légendes, en statues du malheur, en document du livre noir du nazisme. Je les ai complètement perdus de vue depuis, mais je n'ai pas oublié ce qu'ils essayaient de me faire comprendre.
Terezin, en tchèque, Terezinstadt, en allemand. Une ville transformée en ghetto que les nazis ont utilisée comme une vitrine, où ils laissaient vivre les détenus d'une façon relativement civilisée pour pouvoir les exposer aux nigauds de la Croix-Rouge internationale. Là étaient regroupés des Juifs d'Europe centrale, notamment de sa partie austro-tchèque; parmi eux beaucoup d'intellectuels, des compositeurs, des écrivains, de la grande génération qui avait vécu sous la lumière de Freud, de Mahler, de Janacek, de l'école viennoise de Schonberg, du structuralisme praguois.
Ils ne se faisaient pas d'illusions: ils vivaient dans l'antichambre de la mort; leur vie culturelle était étalée par la propagande nazie comme un alibi; auraient-ils dû pour autant refuser cette liberté précaire et abusée? Leur réponse fut d'une totale clarté. Leurs créations, leurs expositions, leurs concerts, leurs amours, tout l'éventail de leur vie avait une importance incomparablement plus grande que la comédie macabre de leurs geôliers. Tel fut leur pari. Aujourd'hui, leur activité intellectuelle et artistique nous laisse interdits; je ne pense pas seulement aux œuvres qu'ils ont réussi à y créer (je pense aux compositeurs! à Pavel Haas, élève de Janacek, qui m'avait enseigné, enfant, la composition musicale! et à Hans Krasa! et à Gideon Klein! et à Ancerl, devenu après la guerre l'un des plus grands chefs d'orchestre d'Europe!) mais peut-être plus encore à cette soif de culture qui, dans ces conditions effroyables, s'est emparée de toute la communauté térézinienne.
Que représentait l'art pour eux? La façon de tenir pleinement déployé l'éventail des sentiments et des réflexions afin que la vie ne fût pas réduite à la seule dimension de l'horreur. Et pour les artistes détenus là-bas? Ils voyaient leur destin personnel se confondre avec celui de l'art moderne, l'art dit « dégénéré », l'art pourchassé, moqué, condamné à mort. Je regarde l'affiche d'un concert dans le Terezin d'alors: au programme:
Mahler, Zemlinsky, Schonberg, Haba. Sous la surveillance des bourreaux, les condamnés jouaient une musique condamnée.
Je pense aux dernières années du siècle passé. La mémoire, le devoir de mémoire, le travail de la mémoire, étaient les mots-drapeaux de ce temps. On considérait comme un acte d'honneur de pourchasser les crimes politiques passés, jusqu'à leurs ombres, jusqu'aux dernières taches salissantes. Et pourtant, cette mémoire toute particulière, incriminatrice, servante empressée du châtiment, n'avait rien de commun avec celle à laquelle tenaient si passionnément les Juifs de Terezin qui se fichaient bien de l'immortalité de leurs tortionnaires et faisaient tout pour garder dans la mémoire Mahler et Schonberg.
Un jour, débattant de ce sujet, j'ai demandé à un ami: «… et est-ce que tu connais Un survivant de Varsovie? - Un survivant? Lequel?» Il ne savait pas de quoi je parlais. Pourtant, Un survivant de Varsovie (Ein Überlebender aus Warschau), oratorio d'Arnold Schonberg, est le plus grand monument que la musique ait dédié à l'Holocauste. Toute l'essence existentielle du drame des Juifs du XXe siècle y est gardée vivante. Dans toute son affreuse grandeur. Dans toute sa beauté affreuse. On se bat pour qu'on n'oublie pas des assassins. Et Schonberg, on l'a oublié.

Kundera : Une Rencontre

Gặp Gỡ

Milan Kundera

Quên Schonberg 

Một hay hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt, còn trẻ măng, tôi gặp một cặp vợ chồng người Do Thái chỉ nhỉnh hơn tôi chừng, năm sáu tuổi; họ đã trải qua tuổi trẻ ở Terezin, và sau đó, trong một trại khác. Tôi cảm thấy mình mới con nít làm sao so với cả hai, so với những gì số mệnh đã dành cho họ. Cái sự lúng túng, “thèm” được như thế đó, không thể nào qua mắt họ được, hẳn thế, và thế là họ bèn la lên, này, đừng như thế chứ, “bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC,  thiếu 1 ngày lính Nguỵ, bỏ chạy ngay sau 30 Tháng Tư, không được đi tù VC, tù Nazi… thì cũng đâu có đến nỗi phải… tự tử! "

Ui chao, đọc bài này, là GNV nhớ đến những ngày tháng ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè !

Đọc, là GNV hiểu ra, tại làm sao mà Kundera không làm sao chịu nổi Solz:

K. ‘hình như’ cũng chưa từng thực sự có những ngày tù ở bất cứ 1 Gulag?

Cả hai nhất quyết làm cho tôi hiểu rằng, cuộc sống ở trong đó cũng ‘tới bến’ lắm, đau thương không thiếu, hẳn nhiên rồi, nhưng có vui đùa, cười cợt, có điều ghê rợn, khủng khiếp, nhưng cũng có sự dịu dàng. Chính là vì yêu thương cuộc sống của riêng họ, mà họ từ chối biến thành giai thoại, thành những bức tượng của sự bất hạnh, thành 1 hồ sơ ở trong 1 cuốn sách đen về chủ nghĩa Nazi.
Tôi mất liên lạc với họ sau đó, nhưng kể từ đó, tôi không bao giờ quên điều mà họ cố làm cho tôi hiểu.
Terezin, tiếng Tiệp, Terezinstadt, tiếng Đức. Một thành phố biến thành ghetto Nazi sử dụng, như nhà kiếng, ở trong đó là những người bị giam giữ với cuộc sống tương đối văn minh, để ‘chào hàng’, trước đám ngu, ngố, là nhân viên Hồng Thập Tự quốc tế. Đó là nơi thu gom những người Do Thái Trung Âu, đặc biệt là từ tổ quốc của họ, là vương quốc Áo-Tiệp ngày nào; trong số họ có rất nhiều trí thức, nhà soạn nhạc, nhà văn của nền văn minh lớn sống dưới ánh sáng của Freud, Mahler, Janacek, trường phái Vienne của Schonberg, chủ nghĩa cấu trúc Prague.
Họ làm gì có ảo tưởng, vả họ cũng chẳng cần : Sống kế bên phòng tử thần, cuộc sống văn hóa của họ, được trình diễn sao cho phù hợp với cái trò tuyên truyền của Nazi, như là 1 thủ đoạn, 1 trò nghi binh, đánh lừa, mà con mắt… nhưng liệu có cần, hay có nên, từ chối, một thứ tự do tạm thời và bị lạm dụng, như thế ?
Câu trả lời của họ mới rõ ràng, mới sáng sủa làm sao : tất cả sự sáng tạo, trình bày, trình diễn, trình tấu của họ, tình yêu của họ, tất cả cái nhịp đời hối hả dù ở tù của họ, thì có 1 tầm quan trọng không thể nào so sánh, so đo, với bất cứ cái gì chi chi, nói gì ba cái trò khốn kiếp, là tấn trò hề nhảm nhí, tuy rất ư là rùng rợn, của đám quản giáo: Ta đưa cho mi mấy cái hột gà là để mi bồi dưỡng con heo nọc. Nó lao động hùng hục, hùng dũng, anh hùng…  còn mày, 1 tên sĩ quan Ngụy, thứ nợ máu nhân dân, bà không giết là may, còn đòi hỏi bồi dưỡng ư, hử, hử ?
Đó là trận cá cược của họ. Bây giờ, những hoạt động mang tính trí tuệ và nghệ thuật của họ khiến chúng ta ú ớ; tôi không chỉ nghĩ tới những tác phẩm mà họ đã thành công trong việc sáng tạo ra chúng, (tôi nghĩ tới những nhà soạn nhạc! Tới Pavel Haas, đệ tử của Janacek, người đã từng dậy tôi, khi còn là đứa con nít, cách soạn nhạc! Tới Hans Krasa! Và tới Gideon Klein! và tới Ancerl, sau khi chiến tranh chấm dứt trở thành 1 trong những vị nhạc trưởng lớn lao nhất của Âu Châu!) mà còn nghĩ hơn thế nữa, về cơn khát văn hóa, trong những điều kiện ghê rợn, khốn kiếp, đã nhập vào, đã tóm lấy cả một cộng đồng Terezin.
Nghệ thuật là cái chó gì với họ? Là tung hê hết, mở toang ra hết mọi chiều hướng, mọi cung bậc của cảm nghĩ, của suy tưởng, để thắng cược, nghĩa là đếch cho phép lũ VC giản lược cuộc sống, con người còn chỉ có 1 chiều là sự ghê rợn.

Thế thì với đám nghệ sĩ bị chúng nhốt ở trong đó, thì sao? Họ nhìn số phận cá nhân của họ làm thành một với của nghệ thuật hiện đại, thứ nghệ thuật mà VC gọi là “thoái hoá, suy đồi”, thứ nghệ thuật bị xua đuổi, chế nhạo, chọc quê, ‘nhạc vàng nhạc viếc’, và bị kết án tử! [Và mới được vinh danh ở Hà Lội qua tiếng hát của Tuấn Vũ, át tiếng dương cầm của Đặng Thái Sơn, và làm Hà Nội ta cúi đầu tâm phục! Hà, hà!]

Tôi nhìn tấm poster quảng cáo một buổi nhạc hòa tấu ở Terezin thời đó: với sự có mặt của Mahler, Zemlinsky, Schonberg, Haba. Dưới sự chứng giám [surveillance: coi chừng] của những tên đao phủ, những kẻ bị kết án chơi thứ âm nhạc bị kết án : nhạc vàng, nhạc sến, nhạc rác, nhạc Ngụy, nhạc phản cách mạng.
Tôi nghĩ đến những năm sau cùng của thế kỷ đã qua. Hồi ức, bổn phận của hồi ức, công việc của hồi ức, chúng là những từ ‘cờ quạt biểu ngữ’ của thời đó. Được coi là một hành động của phẩm giá, của danh dự, cái việc truy sát những tên tội phạm chính trị của quá khứ, truy sát luôn cả cái bóng của chúng, tới luôn cả tí bụi, tí tì vết tà ma ác quỉ sau cùng của chúng. Tuy nhiên, cái hồi ức đặc biệt, thứ hồi ức đáng lên án, tên đầy tớ vồn vã của hình phạt đó, chẳng mắc mớ gì tới thứ hồi ức thiết tha ơi là thiết tha của những người Do Thái ở Terezin, những kẻ đếch cần để ý đếch chuyện bất tử hoá những tên tra tấn, và thay vì vậy, họ tìm đủ mọi cách để gìn giữ trong hồi ức Mahler và Schonberg.
Một bữa, trong khi lèm bèm về đề tài này, tôi hỏi một đấng bạn: “… Anh có biết Một kẻ sống sót ở Varsovie không?”- Một kẻ sống sót? Tay nào vậy? Anh chẳng biết tôi đang nói về cái gì nữa. Tuy nhiên, Một kẻ sống sót ở Varsovie, một ‘oratorio’của Schonberg, là một công trình tưởng niệm lớn mà âm nhạc dành cho Lò Thiêu. Tất cả những thiết yếu hiện sinh về thảm kịch của người Do Thái trong thế kỷ 20 được lưu giữ sống động ở trong đó. Với tất cả sự lớn lao ghê rợn của nó. Với tất cả đẹp ớn lạnh của nó. Người ta uýnh lộn, về cái chuyện, đừng có bỏ qua đám ác nhân, lũ quản giáo, nhưng người ta đếch thèm nhớ Schonberg!

Nobel Văn Chương 2016


In the summer of 1964, Bob Dylan released his fourth album, “Another Side of Bob Dylan,” which includes the track “It Ain’t Me Babe.” “Go ’way from my window/Leave at your own chosen speed,” it begins. “I’m not the one you want, babe/I’m not the one you need.”

That fall, the philosopher Jean-Paul Sartre played a variation on the same tune in a public statement explaining why, despite having been awarded the Nobel Prize in Literature, he would not accept it. “The writer,” he insisted, must “refuse to allow himself to be transformed into an institution, even if this occurs under the most honorable circumstances.” Mr. Dylan was talking to an imaginary lover, Sartre to an actual Swedish Academy, but the message was similar: If you love me for what I am, don’t make me be what I am not.

We don’t know whether Mr. Dylan was paying attention to l’affaire Sartre that fall 52 years ago. But now that he has been awarded the Nobel Prize in Literature, he seems to be following in Sartre’s footsteps. Indeed, Mr. Dylan has done the philosopher one better: Instead of declining the prize, he has simply declined to acknowledge its existence. He hasn’t issued a statement or even returned the Swedish Academy’s phone calls. A reference to the award briefly popped up on the official Bob Dylan website and then was deleted — at his instruction or not, nobody knows. And the Swedes, who are used to a lot more gratitude from their laureates, appear to be losing their patience: One member of the Academy has called Mr. Dylan’s behavior “impolite and arrogant.”

There is a good deal of poetic justice in this turn of events. For almost a quarter of a century, ever since Toni Morrison won the Nobel in 1993, the Nobel committee acted as if American literature did not exist — and now an American is acting as if the Nobel committee doesn’t exist. Giving the award to Mr. Dylan was an insult to all the great American novelists and poets who are frequently proposed as candidates for the prize. The all-but-explicit message was that American literature, as traditionally defined, was simply not good enough. This is an absurd notion, but one that the Swedes have embraced: In 2008, the Academy’s permanent secretary, Horace Engdahl, declared that American writers “don’t really participate in the big dialogue of literature” and are limited by that “ignorance.”

Still, it’s doubtful that Mr. Dylan intends his silence to be a defense of the honor of American literature. (He did, after all, accept the Pulitzer Prize for “lyrical compositions of extraordinary poetic power.”) No one knows what he intends — Mr. Dylan has always been hard to interpret, both as a person and as a lyricist, which is one reason people love him. But perhaps the best way to understand his silence, and to praise it, is to go back to Sartre, and in particular to Sartre’s concept of “bad faith.”

Bad faith, Sartre explains in “Being and Nothingness,” is the opposite of authenticity. Bad faith becomes possible because a human being cannot simply be what he or she is, in the way that an inkwell simply is an inkwell. Rather, because we are free, we must “make ourselves what we are.” In a famous passage, Sartre uses as an example a cafe waiter who performs every part of his job a little too correctly, eagerly, unctuously. He is a waiter playing the role of waiter. But this “being what one is not” is an abdication of freedom; it involves turning oneself into an object, a role, meant for other people. To remain free, to act in good faith, is to remain the undefined, free, protean creatures we actually are, even if this is an anxious way to live.

This way of thinking is what used to be called existentialism, and Mr. Dylan is one of its great products. Living like a complete unknown, like a rolling stone, is living in Sartrean good faith, and much of the strangeness of Mr. Dylan’s life can be understood as a desperate attempt to retain this freedom in the face of the terrific pressure of fame. In a profile in The New Yorker in that same year of 1964, Mr. Dylan was quoted as saying that he didn’t “want to write for people anymore” but rather wanted to “write from inside me.”

To be a Nobel laureate, however, is to allow “people” to define who one is, to become an object and a public figure rather than a free individual. The Nobel Prize is in fact the ultimate example of bad faith: A small group of Swedish critics pretend to be the voice of God, and the public pretends that the Nobel winner is Literature incarnate. All this pretending is the opposite of the true spirit of literature, which lives only in personal encounters between reader and writer. Mr. Dylan may yet accept the prize, but so far, his refusal to accept the authority of the Swedish Academy has been a wonderful demonstration of what real artistic and philosophical freedom looks like.

Mùa hạ 1964, BD cho ra lò album thứ tư, Phía khác của BD, trong có câu, tớ đếch phải cái kẻ mà em muốn/em cần
Mùa thu cùng năm đó, Sartre đi 1 đường phụ họa, tớ đếch nhận Nobel của tụi mi, và nhấn mạnh, nhà văn phải từ chối cho phép mình biến thành 1 định chế, cho dù chuyện này xẩy ra trong những hoàn cảnh hoành tráng tới cỡ nào. BD thì thủ thỉ bên tai người đẹp của ông, còn Sartre, với Viện Hàn Lâm, thông điệp của ông thì cũng xêm xêm với BD: Nếu các người yêu tôi vì cái mà tôi là, thì đừng biến tôi thành cái tôi không phải [là như thế]

Bài viết, trong mục quan điểm của tờ Nữu Ước Thời Báo, TV sẽ đi 1 đường tiếng Mít, và nhân đó lèm bèm tiếp.

GCC đã phán rồi, không phải bình thường cái vụ từ chối Nobel năm nay của anh hát rong:


Cái chuyện BD được Nobel và bị chính tác giả vờ, sợ rằng không đơn giản.
Có hai tay phản chiến hạng nặng, nhạc sĩ, ca sĩ, hát rong, trùm thiên hạ, nhờ họ mà có nước Mít như bây giờ, là TCS và BD.
TCS thì chết rồi.
Cho BD,
trễ quá, như 1 bài viết trên tờ NYRB, là theo ý đó.
Một sự đánh giá muộn về thành quả của cuộc chiến Mít, hay 1 cảnh cáo nhân loại?
Phản chiến cho lắm vào, kết quả
thê lương như thế đó?
Trùm Cớm nằm vùng PXA chết, đi không được, là cũng do như thế đó?
Rõ ràng là, Uỷ Ban Nobel biết, sẽ bị chửi, như bà thư ký thường trực "tiên đoán", và rõ ràng là, cho bất cứ 1 ai khác, thí dụ Oates. cũng Mẽo, là không sao hết?

Cái sự cho Nobel năm nay, theo GCC, có mắc mớ, 1 cách nào đó, theo tính ẩn dụ gì đó, cũng có thể, đến số phận thê thảm của xứ Mít như bây giờ.
Nhận ư, thì nhận luôn 3 người triệu người chết trong cuộc chiến và triệu triệu người chết sau đó, trong Trại Tù, trong Vượt Biển, trong Bụng Cá, trong, trong... và 1 nước Mít tang thương như hiện nay, thưa nhà nhạc sĩ phản chiến vĩ đại?

Đâu có phải tự nhiên PXA khóc ròng, nắm tay vợ, đi không được?
Em ơi, kíu anh với, triệu triệu hồn ma đòi mạng....
Rồi Võ Tướng Quân?
Rồi đao phủ Mậu Thân?
Đếch thằng nào đi được!

Nhận là nhận luôn cái nhục của cuộc bỏ chạy tán loạn?

V/v “bad faith” (from French mauvaise foi) is a philosophical concept used by existentialist philosophers Jean-Paul Sartre and Simone de Beauvoir to describe the phenomenon where human beings under pressure from social forces adopt false values and disown their innate freedom hence acting inauthentically.
Bad faith (existentialism) - Wikipedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Bad_faith_(existentialism)

Note: "bad faith" (mauvaise foi), nguỵ tín. Đừng lầm với từ “bad conscience”.
Saint John Perse, nhà thơ Pháp, trong bài diễn văn Nobel, phán, là nhà thơ, là cái ý thức xấu xa của thời của mình, là đã hãnh diện lắm rồi.
Từ này, người đầu tiên xài, là Nietzsche

http://www.tanvien.net/Portrait/Nguyen_Huy_Thiep.html

VHNT
Số 555
February 14, 2003

Tin Văn

 1. Mỗi trường hợp mỗi khác.

Thus it is enough for the poet to be the bad conscience of his age.
Saint-John Perse. Diễn văn Nobel (1960).
(Là ý thức tự phán của thời mình, vậy là quá đủ cho nhà thơ).
Gửi Điểm Hẹn
JT

Chuyện NHT sau này không còn ăn khách cho lắm, nghĩa là "thất bại" của một NHT sau này, chính là do thành công trước đó, nói rõ hơn, do thể loại văn học mà ông ta sử dụng thật đắc ý, và cũng thật đắc địa: ẩn dụ. Nhưng ẩn dụ, chính nó, giết (metaphors kill). Một khi đời thường lấn át ẩn dụ, người ta không cần đến ẩn dụ nữa, mà cần một hình thức văn chương khác, bản thân NHT chưa kiếm ra, để đáp ứng cho độc giả của ông, theo tôi.

Note: Lướt Tin Văn, mò ra bài này

Khi viết về 1 số tác phẩm của Miền Bắc sau khi có “đổi mới”, cởi trói…  như “Đi tìm cái tôi” của NK, hay những truyện ngắn của NHT, GCC xếp chúng vào dòng văn chương tự phán, quá tí nữa, sám hối.
Tuy nhiên, bây giờ đọc lại, có vẻ như Gấu lạc quan tếu.
Phải coi, cũng 1 thứ ngụy tín. Chưa có 1 tên Bắc Kít nào nhỏ 1 giọt nước mắt - dù cá sấu - cho lũ Ngụy và trận tù dài dằng dặc của chúng, sám hối cái con củ xê [thuổng Thương Sinh, tức Duyên Anh, khi chửi NQT] ư?
Hà, hà!





Chữ người tử tù
  ( Nguyễn Quốc Trụ)

a2a mời đọc : Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

http://www.tanvien.net/dich/linda_le_singer.html


UN DYBBUK AMOUREUX
Hồn ma si tình
Isaac Bashevis Singer et son alter ego
Singer và thế thân của ông

Trong L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris chào mừng Isaac Bashevis Singer, như một tay kể chuyện cổ gần gũi với "những bậc thầy vô ngã, vô tên của quá khứ, những nhà văn lớn lao giống như tất cả mọi người, và chẳng giống một người nào, bởi vì họ biến thành những con người nói bằng bụng, thay vì bằng miệng, và những nhân vật đa dạng, những hộp cộng hưởng, cho mọi thứ tiếng tơ đồng, của cõi sống."

Như con quỉ cuối cùng, trong một truyện ngụ ngôn của mình, sống bằng cách gậm nhấm một cuốn sách cổ xưa [thuật chuyện núi rừng Hua Tát, bằng một thứ ngôn ngữ Mường Mán], Singer là một meshugah, một tên khùng, sống sót bằng cách, rút ra từ những huyền thoại Do Thái, và những kỷ niệm về một thế giới đã qua, lý do hiện hữu của mình.
Lưu vong qua Mỹ vào năm 1935, khi đó ông 31 tuổi, ông viết bằng tiếng yiddish, và cộng tác trong việc dịch chúng qua tiếng Anh. Ông muốn viết bằng một ngôn ngữ chết, mà sự biến mất của nó báo hiệu sự suy tàn của nghệ thuật.
Nhà văn yiddish, với ông, là một thứ dybbuk, một bóng ma, nhìn, và không ai nhìn thấy được. Viết nhiều, "thi sĩ của lưu vong, không phải theo kiểu Do Thái, mà là một thứ lưu vong đụng tới con người, và nhất là, con người-nhà văn đương thời", Claudio Magris nói về Singer.
Singer cố làm bật ra, bằng một nỗi buồn nhuốm mầu thần bí, tính sống động, và cơn chao đảo, của một thế giới chìm xuồng.

retour aux classiques

par Linda Lê

UN DYBBUK  AMOUREUX

Isaac Bashevis Singer et son alter ego

Dans L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris saluait en Isaac Bashevis Singer un conteur proche de ces “grands écrivains impersonnels et anonymes du passé, qui ressemblent à tout le monde et à personne parce qu'ils se font les ventriloques indifférents des vies et des personnages les plus divers, et les caisses de résonance impartiales de toutes les cordes du vivre”. À la manière du dernier démon d’une de ses paraboles, qui se nourrit en rongeant un vieux livre de contes yiddish, Singer était un meshugah, un fou qui survivait en tirant des légendes juives et des souvenirs du monde d'hier sa raison d'être.

Exilé aux Etats- Unis en 1935- il avait 31 ans -, il composait ses textes en yiddish, et collaborait à leur traduction en anglais. Il déclarait avoir conscience d'écrire dans une langue morte, dont la disparition annonce le déclin des arts. L'écrivain yiddish pour lui est une sorte de dybbuk, de spectre, qui voit mais n’est pas vu. Auteur prolifique, “poète de l'exil, pas seulement des Juifs mais de l'exil existentiel qui touche l'homme et surtout l'écrivain contemporain”, disait encore Claudio Magris, Singer s'est attaché à dépeindre, avec une mélancolie teintée de mysticisme, la vitalité et le chaos d'un univers qui a sombré.

Le jeune Arele Greidinger, le narrateur de Shosha et l'alter ego romanesque de Singer, affirme sans ambages que le monde est un abattoir et un bordel. Fils de rabbin, tout comme Singer lui-même, et tout comme ce dernier lecteur de Weininger et de Spinoza, Arele se fraye un chemin dans la Varsovie de l'entre-deux-guerres: it écrit une pièce ou l'héroine tombe amoureuse de son dybbuk - on reconnait là l'ébauche de ce qui sera La Corne du belier de Singer. Une actrice américaine et un ancien charpentier qui a fait fortune se proposent de le lancer. L'aventure tourne court avant même d'être sur les rails. Loin de ce microcosme, qui prend de plus en plus conscience de la menace hitlerienne et se tourne vers Staline avant d'ouvrir les yeux sur la terreur qui règne au paradis bolchevique, Shosha, une femme enfant, un peu retardée, répresente l'innocence perdue. Arele poursuit son rêve, refuse de partir pour New York, et choisit de s'installer auprès de cette étrange créature, à peine capable de comprendre ce qu'il écrit.

Fourmillant de personnages qui traversent la scène comme des evadés impatients de tout connaitre avant l'effondrement de ce à quoi ils ont cru, ce roman, qui développe un chapitre d'un livre autobiographique de Singer, Un jour de plaisir, est autant un chant d'amour qu'un kaddish pour les morts auxquels Singer offre un tombeau de papier. 

Shosha

Isaac Bashevis Singer

Trad. de l'anglais par Marie-Pierre Bay et Jacqueline Chnéour Ed. Stock, 380 p.,19 €.

Le Magazine Littéraire, Mai, 2007



& *

*


SHEILA FITZPATRICK

Behind Every Great Book ...

Lara: The Untold Love Story That Inspired Doctor Zhivago

By Anna Pasternak

(William Collins 310pp £20)

Boris Pasternak was a larger-than-life character on the Soviet literary scene. Born at the beginning of the 1890s into an artistic, successful family of assimilated Jews, he was much admired by his peers as a poet but clearly fell into the 'bourgeois' category disdained by proletarian communists, all the more so since the rest of his family emigrated after the Russian Revolution. Stalin, however, thought it worth protecting the man he called a 'cloud-dweller'. In the mid-1930s, Pasternak decided to turn to prose, writing a big-canvas novel set during the Revolution with a protagonist based to some extent on himself and a love story at its heart. It was published two decades later as Doctor Zhivago.
    By the mid-1950s, after Stalin's death, cultural controls had relaxed somewhat, but not to the point of easily accommodating a novel that accorded a kind of greatness to the Revolution but few beneficent effects. Soviet journals and publishers reacted warily at best, and Pasternak started giving copies of the manuscript to foreign journalists and literary scholars. One such copy reached the Italian communist publisher Feltrinelli, who, with the novel still unpublished in the Soviet Union, decided to go ahead and publish it in the West. This was a scandalous occurrence in Soviet terms and Pasternak found himself, along with his novel, denounced as 'anti- Soviet'. This provided a wonderful opportunity for the CIA, which duly sponsored the publication of a large print run of pocket- sized Russian texts, which were smuggled into the Soviet Union. In the West, the book became a bestseller. Feltrinelli sold the film rights to MGM for $450,000, and David Lean's 1965 film Doctor Zhivago won five Academy Awards. A sultry photograph of Julie Christie in the role of Zhivago's lover, Lara, appears on the jacket of Anna Pasternak's book.
    The Soviet scandal about Doctor Zhivago reached its height in 1958, when Pasternak was awarded the Nobel Prize in Literature. On receiving the news, Pasternak immediately cabled that he was 'immensely grateful, touched, proud, astonished, abashed', but the Soviet authorities made it clear to him that if he accepted the prize and went to Stockholm to receive it, he would not be allowed to come back. This was unthinkable to Pasternak, so he turned it down. Seen as a hero and martyr in the West but reviled by many at home, he spent the rest of his life holed up in his comfortable dacha at Peredelkino (writers were pampered as well as persecuted in the Soviet Union), feeling like a beast at bay. He died in 1960.
    That is one half of the story told in Lara. The other half is the story of Olga Ivinskaya, Pasternak's lover in the last decades of his life, whom he came to see as the prototype of Lara. Ivinskaya, twenty years younger than Pasternak, was working for the literary magazine Novy Mir when he met her in 1946. In a culture where writers were adored with the fervor given nowadays to footballers, she was something of a literary groupie, blonde and rather soulful. The late 1940s were hard years for writers, particularly Jewish ones. Pasternak, renowned but rarely published and making a living as a translator, escaped arrest, but not Ivinskaya, whose sentence in 1950 to the Gulag seems to have been primarily related to her connection with Pasternak. It was not until 1953, in the amnesties following Stalin's death, that she was released.
    Pasternak gave financial support to Ivinskayas household, which included her two young children, while she was a prisoner. Their affair resumed after her return. Expressing undying love for her, he was nevertheless unwilling to leave his second wife, Zinaida. She ran a well-appointed household for him and divorce (not so easy in any case in the late 1940s and early 1950s) would probably have meant losing the Moscow fiat or the dacha and thus, from the standpoint of the notably self-centered Pasternak, adversely affecting his ability to work. But it was Ivinskaya, not Zinaida, who believed deeply in his genius and really cared about his writing. Although the rash act of giving the text of Doctor Zhivago to a foreign journalist was Pasternak's alone, deplored by both the women in his life, Ivinskaya was to play a big role in subsequent publishing negotiations. This brought fresh trouble after Pasternak's death, when, deprived of the protection of his name or the status of widow, she was arrested for currency offences and sent off to the Gulag again, this time along with her daughter, Irina, who was also devoted to Pasternak and active in his cause. Ivinskaya served three and a half years of an eight-year sentence before being released again in 1964. She returned to Moscow, wrote a memoir of her life with Pasternak and in the Gulag, and died in 1995 at the age of eighty-three.
    Both the Pasternak and the Ivinskaya stories have been told before, most recently in Peter Finn and Petra Couvee's The Zhivago Affair (2014), which revealed much interesting detail about the Western publication of Doctor Zhivago and the CIA's involvement. Anna Pasternak has done a conscientious job of research, but there is nothing particularly new in her account, other than an unusual emphasis on Irina (the inspiration for Katenka in Doctor Zhivago), based on the author's interviews with her.
    Nonetheless, as the granddaughter of Boris's younger sister Josephine, the author was on a personal quest in writing this book. Brought up in England in a family that deplored and tried to ignore the presence of the 'temptress' Ivinskaya in Boris Pasternak's life, Anna came to feel that this was unfair, even grossly so. In her judgement, Doctor Zhivago would have been neither finished nor published without Ivinskaya's support. As Anna Pasternak sees it, Ivinskaya was unswervingly devoted, and Boris's 'great omission was that he did not match her cast-iron loyalty and moral fortitude', failing to marry her, letting her down on crucial occasions and even acquiescing when his wife banned her from his death- bed. Still, Anna Pasternak concludes, self- absorbed and apparently exploitative as he was, he really loved her. That's a conclusion that may leave scholars unmoved, but is perfect for the six-part television series that, as the publisher's blurb informs us, is already under development.

Trong Tại Sao Đọc Cổ Điển, Calvino dành mấy chục trang cho "Bác Sĩ Zhi Và Gồ", và lạ 1 điều, là ông cũng thật quan tâm đến nhà Đại Phê Bình Mạc Xịt, Lukacs và quan điểm của ông ta về truyện ngắn, y chang ... GCC, khi thưổng ý này, để viết về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Ông viết, tớ đếch đồng ý với ông Lukacs, cũng y chang GCC, đếch đồng ý với Dương Tường, khi ông chê NHT, dốt, thứ như ông đầy rẫy....

Có hai bài viết thần sầu về Zhi Và Gồ, 1 của Milosz, và 1 của Calvino; GCC tính đưa lên Tin Văn, nhưng Cô Út làm từ thiện mất tiêu.
Thôi bỏ.


G. Lukacs, trong “Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969) [William David Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971] viết:

Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học hiện thời [the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn [novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên văn: tiền thân, precursor] cho  sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmerhr].
Áp dụng nhận xét trên vào Một Ngày...  của Solz., Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người.

[With this reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man’s moral stature…..]
“Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa.” [Lukacs]. 

Truyện ngắn của NHT có gì tương tự với Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn. Nó báo hiệu sự suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a termination at the end of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng quang con người, như một cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của NHT, của Bùi Ngọc Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi dám tự chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!

In fact I believe that today a book structured 'as in the nineteenth century', containing a plot covering many years, with huge descriptions of society, must of necessity lead to a nostalgic, conservative vision. This is one of the many reasons why I disagree with Lukacs: his theory of 'perspectives' can be turned back against his own favourite genre. I believe that it is no accident that our age is the age of the short story, or short novel, of autobiographical testimony. Today a genuinely modem narrative can only bring its poetic charge to bear on the times (whatever they be) in which we live, showing their worth as a decisive and infinitely significant moment. It therefore has to be 'in the present', with a plot that takes place before our eyes, unified in time and action as in Greek tragedy. And conversely whoever wants today to write the novel of 'an epoch',unless this is pure rhetoric, ends up writing a book whose poetic tension weighs on 'the past'. Pasternak does the same, but not quite: his position as regards history is not so easy to reduce to such simple definitions; and his is not an 'old-fashioned' novel.
Italo Calvino: Why Read The Classics?

Đúng là trí nhớn gặp nhau!

Bài của Calvino về Zhi Và Gồ, thần sầu! GCC mê quá, tính dịch, tậu thêm cả bản tiếng Tẩy.
Nhưng thôi bỏ, đúng ý Cô Út và Gấu Cái. 

Mi già quá rồi!

Calvino khi đọc Zhi Và Gồ, khi vẽ lại chân dung Lara, thấy thấp thoáng giấc mơ xẻ dọc TS đi kíu nước của Bắc Kít:

The mythical moment for Pasternak is the 1905 revolution. The long poems written during his 'committed' phase, in 1925-27, dealt with that epoch, and Doctor Zhivago starts from there. It was a time when the Russian people and the intelligentsia entertained very different potential and hopes: politics, morality and poetry all marched together without any order but at the same pace. ' "Our lads are firing", thought Lara. And she was not referring only to Nika and Pasha, but to the whole city which was firing. "Good, honest lads", she thought. "They are good, that's why they're firing" , (p.69; 55). The 1905 revolution contained for Pasternak all the myths of youth and all the points of departure for a certain kind of culture; it is a peak from which he surveys the jagged terrain of this first half-century and he sees it in perspective, sharp and detailed in the nearer slopes, and, as we move towards today's horizon, smaller and less focused in the mist, with only the odd sign standing out.
    The revolution is the key moment for Pasternak's essential poetic myth: nature and history become one. In this sense, the heart of the novel, the point where it reaches its peak in terms of style and thought, is part V, the revolutionary days of 1917, at Melyuzeyevo, a little hospital city full of back streets: 

Yesterday I went to a night-time rally. An extraordinary spectacle. Mother Russia is on the move, cannot stay still, is walking, does not know where she is, is talking and knows how to express herself. And it is not only the men who are talking. The trees and the stars have met up and are talking, the nocturnal flowers are philosophizing and the stone houses are holding rallies. 

(p.191; 136)

Ui chao, lại nhớ đến đoạn Gấu viết về bài thơ Điện Biên của Tố Hữu:

"Balzac mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3).
Đằng sau những loa dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.


Về Pạt, thật nhã

Với những ai quen thuộc với thơ của ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải Nobel ban cho ông vào năm 1958 quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà thơ mà thế giá ở Nga, người ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca Akhmatova; một đại gia về dịch thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng cả!], thì mới dám đụng vô Shakespeare, vậy mà phải viết một cuốn tiểu thuyết to tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây chấn động giang hồ, cả Ðông lẫn Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một best-seller, [có lẽ phải thêm vô, phải có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc đó, những thi sĩ của những xứ sở Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương tình để mắt tới.
Giá như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế mà mùi vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về một sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học Ðông Âu, và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.

Sau khi được Nobel, Pạt mới hiểu ra được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một đại ác mộng về sự hồ nghi, chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng định với chính mình, tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy vì những hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi, mi được Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….

Tôi không kiếm thấy trong tác phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự chống đối triết học của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái sự ngần ngại khi phải đối đầu với những trừu tượng – và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng nghĩa – và đây là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô Viết là cuộc sống của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi chân thực. Ông chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago
là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người chống-Ky-tô.

Ky Tô giáo của Pasternak là vô thần
, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại, đối với ông, thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì ở nơi thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh. Và ông coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.

Czeslaw Milosz


Nobel Văn Chương 2016


http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/bob-dylan-khong-duoc-nhan-1-trieu-usd-tu-giai-nobel-van-hoc-n20161025122313560.htm

Tính đến nay mới chỉ có 6 người từ chối nhận giải thưởng, trong số đó là nhà văn hiện sinh Pháp Jean-Paul Sartre. Ông từ chối giải Nobel Văn học năm 1964. Tuy nhiên, vài năm sau đó Sartre rơi vào cảnh khó khăn, luật sư của ông đã gửi thư tới Ủy ban Nobel yêu cầu gửi tiền thưởng cho nhà văn, nhưng đã bị từ chối.

Note: Làm gì có chuyện này. Đệ tử của ông, là Jean Cau, trong cuốn Témoins de Sartre có viết rành về tính tình của ông, cực bảnh về tiền bạc. Chuyện xin tiền này, theo như GCC biết được, là đám con cái của ông, sau khi ông mất rồi, hỏi xin, nhưng Uỷ Ban Nobel lắc đầu. Về chuyện từ chối Nobel, Sartre nghĩ, Nobel chỉ nên cho những kẻ đang chết đuối, cần cái phao, và Nobel là 1 định chế, institution, khi nhận, là chấp nhận cái định chế đó. Ông có viết thư giải thích rõ ràng về vụ từ chối Nobel, khác ông thần BD cứ im thin thít.

I do not thereby mean that the Nobel Prize is a “bourgeois” prize, but such is the bourgeois interpretation which would inevitably be given by certain circles with which I am very familiar.
That is what has made so painful for me both the awarding of the prize and the refusal of it I am obliged to make.

Sartre and the myth of the Nobel Prize money

Facebook discussion of Eric's post allowed the surfacing of what I believe is a myth (in the sense of "falsehood"), that in 1975 Sartre asked for the Nobel Prize money for the award he refused in 1964, but was turned down.
Allegedly, Nobel committee member Lars Gyllensten claimed in his autobiography that Sartre asked for the 1964 money and was turned down. Now I am no historian, but I do have decent web search skills and a solid hour of looking this morning has turned up no evidence that Gyllensten ever even made such a claim. Nor has any letter from Sartre ever turned up (some discussions claim a letter was sent, others "a telephone call"). Nor has anyone else on the Nobel committee come forth to corroborate the alleged claim. This discussion by some Wikipedia folks seems reasonable to me:
It's hard to prove a negative, unless you have a "debunker" cite. But I am certain it is NOT true. Sartre was very consistent in his principles. During the last 16 years of his life, he lived comfortably (on royalties) in an apartment in Paris. It is all but impossible to imagine him "asking for the prize money" during the period 1964-1980, and there is no reference to such an act in his writings or interviews or in Beauvoir's. 63.17.43.56 (talk) 11:08, 1 December 2010 (UTC)
So, does anyone have a lead here? Or can we put this one to rest?
[net]


http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/bob-dylan-voi-canh-nguyet-que-va-dan-lyre-n20161021145357461.htmhttp://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/bob-dylan-voi-canh-nguyet-que-va-dan-lyre-n20161021145357461.htm

(Thethaovanhoa.vn) - Lần đầu tiên Giải Nobel Văn học được trao cho một một thi-ca-nhân đúng nghĩa với vòng nguyệt quế và cây đàn lyre – hai biểu tượng không thể tách rời của Thơ-Nhạc.
Có thể coi quyết định chọn lựa vô cùng cấp tiến này, mượn cách nói của Kafka: "như chiếc rìu phá tan lớp băng trên mặt biển", đánh dấu sự mở rộng biên giới văn học của Hàn lâm viện Thụy Điển sau 115 năm thành lập đối với một trường hợp nằm ngoài tính "hàn lâm" như Bob Dylan.
Thực ra, điều này cũng không ngoài tôn chỉ và di chúc của Alfred Nobel là hướng tới những giá trị nhân bản và khai phóng.

Note: Câu của Kafka, sợ tác giả bài viết hoặc tòa soạn hiểu lầm.
Kafka phán: Một cuốn sách phải như cái rìu phá băng, cho cái biển băng giá ở bên trong chúng ta. A book must be the axe for the frozen sea within us.

"I think we ought to read only books that bite and sting us. If the book we reading doesn't shake us awake like a blow on the skull, why bother reading it in the first place? So that it can make us happy, as you put it? Good God, we'd be just as happy if we had no books at all; books that make us happy we could, in a pinch, also write ourselves. What we need are books that hit us like a most painful misfortune, like the death of someone we loved more than we love ourselves, that make us feel as thought we had been banished to the woods, far from any human presence, like a suicide. A book must be the axe for the frozen sea within us. That is what I believe."

"Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy."

(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)

Bài viết, thấy đề tên Hà Vũ Trọng. Đấng này, thành viên talawas ngày nào, về
Saigon đi biểu tình, bị VC đuổi về Canada, đệ tử Nguyễn Tiến Văn, cũng theo sư phụ trở về xứ Mít, rất rành về văn học, sao lại có sự lầm lẫn như vậy, vô lý quá!
Anh ta đã từng chỉ Gấu dịch sai, cả 1 bài viết về Cao Hành Kiện, do lầm, chỉ 1 từ tiếng Anh, do đọc vội.

Cái chuyện BD được Nobel và bị chính tác giả vờ, sợ rằng không đơn giản.
Có hai tay phản chiến hạng nặng, nhạc sĩ, ca sĩ, hát rong, trùm thiên hạ, nhờ họ mà có nước Mít như bây giờ, là TCS và BD.
TCS thì chết rồi.
Cho BD,
trễ quá, như 1 bài viết trên tờ NYRB, là theo ý đó.
Một sự đánh giá muộn về thành quả của cuộc chiến Mít, hay 1 cảnh cáo nhân loại?
Phản chiến cho lắm vào, kết quả
thê lương như thế đó?
Trùm Cớm nằm vùng PXA chết, đi không được, là cũng do như thế đó?
Rõ ràng là, Uỷ Ban Nobel biết, sẽ bị chửi, như bà thư ký thường trực "tiên đoán", và rõ ràng là, cho bất cứ 1 ai khác, thí dụ Oates. cũng Mẽo, là không sao hết?

Nhân nhắc tới Kafka, trên tờ NYRB có số gần đây, có 1 bài điểm cuốn Kafka đó ư?, đọc thú lắm. Từ từ tính.

*
The Nobel Prize in Literature 2013

*

“I hoped to write novels,” Ms Munro admitted in the preface to her "Selected Stories". But her life didn’t seem to allow for them. “When you are responsible for running a house and taking care of small children, particularly in the days before disposable diapers or ubiquitous automatic washing machines, it’s hard to arrange for large chunks of time.” The moral dramas faced by women—by every woman—have always been at the centre of her work. This makes the award of the Nobel all the more welcome. Out of 106 Nobel prizes for literature, this is only the 13th to go to a woman.

Prospero

“Tôi mong viết tiểu thuyết,” Ms Munro viết, trong lời tựa cho tập truyện “Truyện ngắn chọn lọc”. Nhưng đời hình như không chiều bà. “Khi bạn đầu tắt mặt tối với căn nhà, với lũ trẻ, vào cái thuở hồng hoang, con người chưa sáng chế ra được cái tã lót, và máy gặt quần áo, thật khó cưu mang 1 cuốn tiểu thuyết. Truyện ngắn thì OK”. Cái gọi là bi kịch đạo đức mà người đàn bà trực diện  – mọi nguời đàn bà – luôn luôn ở trung tâm cái viết của bà. Truyện ngắn mà đợp Nobel mới bảnh chứ truyện dài thì nói làm gì! “Nữ dzăng sĩ” lại càng bảnh hơn nữa. Trong 106 người lãnh giải, chỉ có 13 bà. Con số xui xẻo may mắn!

Nhà văn nữ lớn đoạt Nobel thì chúng ta biết rồi, nhưng còn độc giả lớn, người đó trưởng thành ra sao (Were you a big reader growing up”)? “Fan” của những ai (What work of any had an influence)? The Paris Review.

Đọc là đời tôi cho tới khi tôi 30 tuổi. Tôi sống ở trong sách. Những nhà văn Nam Mỹ là những người đầu tiên thực sự làm tôi xúc động bởi là vì họ chỉ cho tôi, tôi có thể viết về những thành phố nhỏ, những con người nhà quê, và cái thứ cuộc đời này thì tôi quá rành. Nhưng điều mà những nhà văn Miền Nam làm tôi quan tâm, tôi thực sự không nhận ra, đó là, tất cả những nhà văn Miền Nam đó, thì đều là đàn bà, tôi không thích Faulkner nhiều lắm đâu. Tôi mê Eudora Welty, Flannery O’Connor, Katherine Anne Porter, Carson McCullers. Có cái cảm giác là những người đàn bà này có thể viết về những cái kỳ cục, thói đồng bóng, vùng ven, ngoại vi, bên lề…

Note: Vinh danh Muno, đám phê bình thường nhắc tới Chekhov, người Nga, tới William Trevor, người Ái Nhĩ Lan, là những bực tổ sư truyện ngắn, và cõi nhân sinh nhỏ bé mà truyện ngắn chuyên chở. Nhưng, có 1 sự khác biệt giữa Chekhov và Munro, nếu 1 độc giả Á Châu, mê truyện ngắn, đọc chăm chú, sẽ nhận ra. Cái sự đói khổ, cái ác của xứ Á, phân biệt một Chekhov với Munro, mà những người ảnh hưởng tới bà, là những nhà văn nữ Miền Nam nước Mỹ.
Bạn muốn chứng thực điều này, theo tôi, nên tìm đọc Yiyun Li, cũng 1 chuyên gia về truyện ngắn, tuy cũng viết truyện dài, và thầy cũng là Chekhov, và Trevor.
Vả chăng, truyện ngắn của Munro không tiên đoán 1 sự thay đổi thời tiết, [Not yet & No longer], theo quan niệm của Lukacs mà GCC đã muợn, để áp dụng vào trường hợp những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. (1)

(1)

Lukacs phán:

Độc giả đọc Một ngày là cảm thấy đây là biểu tượng cho mọi ngày của thời kỳ Stalin. Tuy nhiên, không có một tí dấu vết của chủ nghĩa biểu tượng trong cách miêu tả của Solz. Ông trình ra một ngày của tên tù Ivan như một lát hiện thực, a guenine, realistic slice of life, qua đó, không một chi tiết bị khái quát quá để có mùi biểu tượng. Nói rõ hơn, số phận của hàng triệu triệu con người được nén lại vào trong một lát mỏng này

Điều làm cho Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn giản tác phẩm của ông được xuất bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.

Applebaum 

Nhận xét về Một ngày, như trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là một nhà văn. Bà không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện ngắn, nhất là những truyện ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử. Một khi nó xuất hiện, là có biến chuyển, một thứ chim báo bão. 

Khi viết về NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng về hưuMột Ngày, cũng như Lukacs nhận ra sự liên hệ giữa Một ngàyTyphoon của Conrad, hay Ngư ông và Biển cả của Hemingway.

Tuy nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song song với Bếp Lửa, một ở đầu, một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead line, chẳng nước nào nhận!

*

Nhận xét về truyện ngắn, và vai trò “Not Yet  & No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng chưa ghê bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way: 

Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!

Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!

Tuyệt, tuyệt! 

Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...

Cõi Khác

Đừng nghĩ là Gấu tự thổi, nhưng mấy cái truyện ngắn Mậu Thân của Gấu, sau này, là những “lỗ đen” chứa trong nó cả 1 thời kỳ thê lương, của Xề Gòn, giống những bản nhạc sến, hay thơ TTT...

Hà, hà!

Khi Muno được, cả nước Canada mừng.
BD được, đến ngay chính người được vinh danh, cũng vờ!

Nobel văn chương 2013

Đỉnh Cao Chói Lọi. DTH: Nobel văn chương?




Nobel Văn Chương 2016


*

Richard Williams

There will be some people who doubt Bob Dylan's right to win the Nobel prize in literature. But in Dylan, the words and music simply cannot be separated
Có 1 số người nghi ngờ cái quyền, cái đúng, cái OK, của BD được Nobel. Nhưng trong Dylan, từ và nhạc giản dị không thể tách ra được.

Tuyệt!

Áp dụng vô lời nhạc TCS lại càng tuyệt. Với riêng Gấu – vì cũng như BD, TCS có rất nhiều kẻ thù, khen ông ta quá, sợ chúng càng thêm ghét - lời nhạc TCS làm nảy ra 1 chân lý, sau ông ta, người ta sẽ không thể viết khác đi được, về 1 hình ảnh, dù rất đỗi bình thường.
Thí dụ, “trời buồn gió cao”.

Sau này, sợ đến ông Trời cũng đếch dám… viết: Trời buồn, gió… thấp!

Hay, 

Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa!

Ôi chao, để vinh danh nó, Borges phải viện ra đủ thứ sư phụ!

 Tựa Hồn Những Năm Xưa

ngồi ở quán, nhạc réo "em đứng lên gọi mưa vào hạ"
với tôi đây chính là câu buồn cười nhất trong lịch sử thơ ca nhạc hoạ Việt Nam

Blog NL

Lời nhạc là hình ảnh miền đất chỉ có hai mùa mưa nắng. “Đứng lên”, có thể là để thực hiện ‘phép lạ’ gọi mưa vào hạ, ngồi làm sao "làm"?

Lời nhạc TCS có những hình ảnh “trời buồn gió cao”, “hàng cây đứng xen vào nhau”, “đèn buồn trong mưa”… nhiều “buồn cười” lắm, GCC nghĩ bạn NL nghèo tưởng tượng, thiếu liên tưởng, chăng?

Hà, hà!

 


Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
TCS 

"Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Baudelaire 

She walks in beauty, like the night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm 

Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối, tall, dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối, và cứ thế, cứ thế.
 

Tưởng tượng đẩy tưởng tượng, câu "hót" BHD, thần sầu, "không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu của TCS, trong Phôi Pha:
 

Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa. 

BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập vào với đêm, y chang lời nhạc của TCS mô tả, những lần "bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!" 

*
 

Ui chao, GNV bữa nay, lôi bài viết của Borges, đọc lại, mới khám phá ra 1 cái lỗi trầm trọng, là bỏ qua cái ‘tiểu chú’ của ông: 

Baudelaire writes, in "Recueillement": "Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.

Purgatorio I, 13

 Like all abstract words, the word metaphor is a metaphor; in Greek it means "transfer." Metaphors generally consist of two terms, one of which is briefly transformed into the other. Thus, the Saxons called the sea the "whale's path" or the "swan's path." In the first example, the whale's hugeness corresponds to the hugeness of the sea; in the second, the swan's smallness contrasts with the vastness of the sea. We will never know if the inventors of these metaphors were aware of these connotations. Line 60 of Canto I of the Inferno reads: "mi ripigneva là dove'l sol tace" [she pushed me back to where the sun is silent]. 

"Where the sun is silent": the auditory verb expresses a visual image, as in the famous hexameter of the Aeneid: "a Tenedo, tacitae per arnica silentia lunae" [from Tenedos, silently in the quiet friendship of the moon].

Beyond discussing the fusion of two terms, my present purpose is to examine three curious lines.

The first is line 13 of Canto I of the Purgatorio: "Dolce color d'oriental zaffiro" [Sweet hue of oriental sapphire].

Buti explains that the sapphire is a precious stone, of a color between sky blue and azure, most delightful to the eyes, and that the oriental sapphire is a variety found in Media.

In the aforementioned line, Dante suggests the color of the East, the Orient, by a sapphire that includes the Orient in its name. He thus implies a reciprocal play that may well be infinite. (1)
 

In Byron's Hebrew Melodies (1815), I have discovered a similar artifice:
"She walks in beauty, like the night." 

To accept this line, the reader must imagine a tall, dark woman who walks like the Night, which, in turn, is a tall, dark woman, and so on to infinity.( 2)

The third example is from Robert Browning. He includes it in the dedication to his vast dramatic poem, The Ring and the Book (1868): "O lyric Love, half angel and half bird ... "

 The poet says that Elizabeth Barrett, who has died, is half angel and half bird, but an angel is already half bird, and thus a subdivision is proposed that may be interminable.

I do not know whether to include in this casual anthology Milton's controversial line (Paradise Lost IV, 323): "the fairest of her daughters, Eve."

 
To the intellect, the line is absurd, but not, perhaps, to the imagination.

 [EA]

 

1.         We read in the initial strophe of Góngora's Soledades: 

Era del ano la estación florida
en que el mantido robador de Europa,
media luna las armas de su frente
y el Sol todos los rayos de su pelo
luciente honor del cielo,
en campos de zafiros pasce estrellas.

 [It was in the year's flowery season/that Europa's cloaked abductor/his arms a half-moon on his brow/and all the rays of his hair the Sun/glittering honor of the sky/ in fields of sapphires grazes on stars.]

The line from the Purgatorio is delicate; that of the Soledades, deliberately clamorous.

 2.         Baudelaire writes, in "Recueillement": "Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.




Nobel Văn Chương 2016

*


* *

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Yes_Bonnefoy.html

*

Poetry Oct 2016

De vent et de Fumée

III

Ces pages sont traduites. D'une langue
Qui hante la mémoire que je suis.
Les phrases de cette langue sont incertaines
Comme les tout premiers de nos souvenirs.
J'ai restitue le texte mot après mot,
Mais le mien n'en sera qu'une ombre, c'est à croire
Que l'origine est une Troie qui brule,
La beaut é un regret, l' oeuvre ne prendre
À pleines mains qu'une eau qui se refuse. 

Yves Bonnefoy

III

These pages are translations. From a tongue
That haunts the memory I have become.
Its phrases falter, like what we recollect
From early childhood, long ago.
I built the text again, word for word:
But mine is only shadow. As though we know
All origin is a Troy that burns,
All beauty but regret, and all our work
Runs like water through our hands.

Translated by Hoyt Rogers

Của Gió và Khói

III

Những trang này đã được dịch
Từ một ngôn ngữ quần nát bấy hồi nhớ
Là thằng Gấu Cà Chớn vào lúc bi giờ
Những câu kệ thì chẳng ra làm sao cả
Như là những gì mà chúng ta nhặt nhạnh được, từ thời ấu thơ, thuở nảo thuở nào
Gấu cố gầy dựng lại bản văn, từng từ từng từ
Nhưng của Gấu thì chỉ là 1 bóng mờ
Mà nguyên bản thì là một thành phố Xề Gòn bị VC thiêu huỷ
[Bạn hẳn vưỡn còn nhớ cuộc phần thư năm đó?]
Cái đẹp ngày nào nếu còn chăng, thì là 1 niềm ân hận
Tác phẩm, cái gọi là văn học Miền Nam trước 1975, ư?
Như nước lọt qua kẽ tay của bạn.

Début et fin de la neige 

« PREMIERE NEIGE ... » 

Première neige tôt ce matin. L' ocre, le vert
Se refugient sous les arbres.

Seconde, vers midi. Ne demeure
De la couleur
Que les aiguilles de pins
Qui tombent elles aussi plus dru parfois que la neige. 

Puis, vers le soir,
Le fléau de la lumière s'immobilise.
Les ombres et les rêves ont même poids. 

Un peu de vent
Écrit du bout du pied un mot hors du monde.

 

Beginning and End of the Snow 

"FIRST SNOWFALL .. " 

First snowfall, early this morning. Ochre and green
Take refuge under the trees. 

The second batch, toward noon. No color's left
But the needles shed by pines,
Falling even thicker than the snow.

Then, toward evening,
Light's scale comes to rest.
Shadows and dreams weigh the same. 

With a toe, a puff of wind
Writes a word outside the world.

Yves Bonnefoy. Second Simplicity: New Poetry and Prose, 1991-2011

Tuyết đầu

Tuyết đầu, sớm, sáng nay
Bông son, bông xanh
Trốn dưới lá

Thứ nhì, vào lúc trưa
Chẳng để lại màu gì
Ngoài những cây kim, là những chiếc lá thông
Chúng đôi khi rớt xuống dầy hơn tuyết

Rồi tới tối
Ánh sáng sững lại
Những cái bóng và những giấc mộng nặng bằng nhau

Một tí gió
Lấy đầu ngón chân
Đi một chữ
Ở bên ngoài thế giới

Bonnefoy ở VN, Huỳnh Phan Anh đã từng giới thiệu, và anh được Bonnefoy mời qua Tẩy chơi, lo luôn cả vé máy bay, nhờ vậy Gấu được gặp lại bạn quí ở Paris, lần đến thăm lần đầu vào cuối thiên niên kỷ. TTT cũng đã từng dịch Bonnefoy. Mấy tập thơ của ông, Cô Út đem làm từ thiện hết cả, tính giới thiệu thêm vài bài, và ba cái kỷ niệm giữa ông và Borges, nhưng thua
.

Aux arbres

YVES BONNEFOY

Vous qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité. 

Với cây rừng.

Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.

TTT dịch (1)


Bạn cứ thử tưởng tượng, hai thằng bạn văn, người Việt, sau cuộc chiến 30 năm vui sao nước mắt lại trào, sau thống nhất 29 năm (lúc này trên tháp Eiffeil, là dòng chữ tiếng Pháp 59 ngày trước năm 2000), vậy mà muốn gặp nhau phải... hẹn hò ở Paris!

 Nhờ hên thôi, anh nói. Qua mấy ngày gặp, anh vẫn còn "nắc nỏm", tao không thể tưởng tượng, có ngày lang thang ở Paris!

 Anh cho biết, chỉ riêng năm vừa qua, có 10 đầu sách xuất bản, toàn là sách dịch. Tôi hỏi về tin, anh được nhà thơ Pháp Yves Bonnefoy, với tư cách cá nhân, bỏ tiền túi ra mời anh qua thăm Paris. (Anh có dịch một tuyển tập thơ của ông Tây này, xuất bản dưới dạng song ngữ). Anh nói, "lúy" có viết thư, gợi ý hai lần, nhưng tao không ưng (thấy ngại quá!). Chuyến đi này, là do một tay Tùy Viên Sách (Attaché du Livre) của Tòa Đại Sứ Pháp. Đề nghị lâu rồi, không đi được, không phải nhà nước ngăn cấm, mà vì không đào đâu ra tiền giấy máy bay. Cuối cùng người tùy viên tốt bụng lại phải lo giùm thêm khoản này.

Yves Bonnefoy, trong New Poetry and Prose, Thơ mới và văn xuôi, 1991-2011, có kể, ba kỷ niệm về Borges. TV tính giới thiệu, vì cũng có tí, nhân đó, viết về Gấu.

Tôi [Yves Bonnefoy] lần giở những trang hồi ức, về một số hình ảnh, của 1 người, người này cho tôi cái cảm tưởng, trọn đời ôm nặng 1 mối sầu khổ, sâu và xa, a suffering, old and profound, nhưng, với bề ngoài trầm lắng, chẳng hề cho phép mình nhắc tới, which his quiet reserve never allowed him to mention.

Đó là cảm tưởng của tôi, về ông, ngay lúc thoạt đầu.

Ba hồi ức, bắt đầu bằng lần gặp gỡ đầu tiên, ở Cambridge, Mass, 1967. Borges tới đó, để đi 1 đường "đọc", to give the Charles Eliot Norton Lectures, ở Harvard, mùa đông năm đó.
Tôi quí ông ta, và tin rằng nếu gặp mặt, thì ông ta hẳn phải vậy, như tôi nghĩ về ông ta.

Khi tôi nói với một người bạn, Jorge Guillén,cũng đang sống tại Cambridge, ông ta cho biết, Borges tới rồi, “He’s here already, settling in. Bạn viết cho ông ta vài dòng, và đề nghị gặp.”

Tôi viết. Mười ngày trôi qua, đếch thấy trả lời. Sau cùng, ông bạn gọi cho tôi, cười lớn, cho biết, chiều qua, ông ta ghé thăm Borges. Bà vợ, Elsa kéo ông ra 1 góc, hỏi nhỏ, ông có biết người đàn bà này không. Bà ta cầm lá thư của bạn.

Sự thể là, Borges đọc thư, và đọc lớn cái tên “Yves”, “Ève”, và bà vợ nghĩ, đây là 1 người phụ nữ, thế là bèn tìm đủ mọi cách để ngăn Borges đừng gặp “Ève”!

Cái chuyện Borges có cô vợ trẻ, cũng là 1 mới mẻ, và theo như lời đồn, thì là do bà mẹ bắt, vì bà quá lớn tuổi, không thể nào đi đây đó, để lo lắng cho Borges.

Thế rồi một buổi chiều, Borges điện thoại, và OK ghé thăm chúng tôi, dùng cơm.
Tuy chưa từng gặp lần nào, nhưng thái độ của Borges thực là cởi mở. Ông vừa từ Concord trở về, và cho biết, rất ngưỡng mộ Hawthorne, thèm được thăm căn nhà ngày nào của Hawthorne.  Và Borges đã quỳ xuống, ở ngay bực thềm căn nhà, mặc dù trời lạnh, tuyết đầy.

Và Borges hỏi tôi, đã từng đọc “Wakefield”?
Tôi chưa đọc “Wakefield”, và Borges bèn tóm tắt cho tôi nghe, bằng tiếng Tẩy.

Một người đàn ông, nói với vợ, mình phải rời thành phố chừng đôi ngày. Và ông ta bèn từ giã vợ, với 1 nụ cười ngây ngô [a “sourrire idiot” – Bạn còn nhớ nụ cười của Trung Uý Kiệt, với bà vợ, trong MCNK:

Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách thức. Hắn thở phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động khuôn mặt ngẩn ngơ”].

Ra đường, đi được vài bước, người đàn ông chợt đứng sững, t hỏi chính mình, đi ư, giang hồ vặt ư? Quận Cam ư, San Diego ư?
Đi xa làm quái gì cơ chứ? Có ai thèm gặp ta nữa đâu?

Hà, hà!

Thế là ông chồng bèn ghé 1 khách sạn cũng quanh quẩn khu đó, muớn 1 căn phòng, tính ngày hôm sau, thì về lại với bà vợ già!
Ngày hôm sau Wakefield bèn tự hỏi chính mình, về làm gì bây giờ, mai về không được ư?

Thế là người đàn ông bèn dời cái ngày trở về gặp lại vợ già, nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm!
Cải trang “qua loa dơ măng”, ông chồng nhiều lần đi qua căn nhà của mình, có lần, từ xa, nhìn thấy bà vợ già…
Và “ông ta” nhận ra 1 điều, trước chưa từng nhận ra, hay để ý tới, ui chao, Gấu Cái già đi quá nhiều rồi!


Bloom


GCC đọc Bloom lèm bèm về Wakefield, thấy thua xa Borges, khi viết về trưyện ngắn này

Một câu thần sầu, Borges vinh danh Hawthorne, TV gửi tới bạn đọc:

Khi Hawthorne mất, những nhà văn khác thừa hưởng ông, cái nhiệm vụ nằm mơ, và, như…  GCC, khóc thảm thiết, cứ như là đang sống những ngày Mậu Thân, ở Xề Gòn.
When Hawthorne died, the other writers inherited his task of dreaming.

Borges viết thêm:
Trong 1 thời gian nào đó ở tương lai, chúng ta sẽ nghiên cứu - nếu bạn đọc TV cho phép-  vinh quang và sự dằn vặt, the glory and the torment,  của Poe, qua ông, giấc mơ bị đẩy tới mức biến thành ác mộng, the dream was exalted to a nightmare.

Hãy làm thịt Hawthorne trước đã!

*

Chuyện Kể Hai Lần. Trong cuốn này, có cả hai truyện, The Ambitious GuestWakefield. Borges viết, Hawthorne cố hiểu nó, loay hoay hoài với nó, tức “Wakefield”, câu chuyện 1 người chồng đi hoang [lưu vong] hai chục niên, vì vợ: “Wakefield” is the conjectural [phỏng đoán] story of that exile.

*

Tựa hồn những năm xưa

http://www.tanvien.net/tribute/Tua_hon_ngung_nam_xua.html

Nathaniel Hawthorne

… The twenty-four chapters of The Scarlet Letter abound in memorable passages, written in good and sensitive prose, but none of them has moved me like the singular story of "Wakefield" in the Twice-Told Tales.

Hawthorne had read in a newspaper, or pretended for literary reasons that he had read in a newspaper, the case of an Englishman who left his wife without cause, took lodgings in the next street and there, without any- one's suspecting it, remained hidden for twenty years. During that long period he spent all his days across from his house or watched it from the comer, and many times he caught a glimpse of his wife. When they had given him up for dead, when his wife had been resigned to widowhood for a long time, the man opened the door of his house one day and walked in-simply, as if he had been away only a few hours. (To the day of his death he was an exemplary husband.) Hawthorne read about the curious case uneasily and tried to understand it, to imagine it. He pondered on the subject; "Wakefield" is the conjectural story of that .exile, The interpretations of the riddle can be infinite; let us look at Hawthorne's. He imagines Wakefield to be a calm man, timidly vain, selfish, given to childish mysteries and the keeping of insignificant secrets; a dispassionate man of great imaginative and mental poverty, but capable of long, leisurely, inconclusive, and vague meditations; a constant husband, by virtue of his laziness. One October evening Wakefield bids farewell to his wife. He tells her-we must not forget we are at the beginning of the nineteenth century -that he is going to take the stagecoach and will return, at the latest, within a few days. His wife, who knows he is addicted to inoffensive mysteries, does not ask the reason for the trip. Wakefield is wearing boots, a rain hat, and an overcoat; he carries an umbrella and a valise. Wakefield-and this surprises me-does not yet know what will happen. He goes out, more or less firm in his decision to disturb or to surprise his wife by being away from home for a whole week. He goes out, closes the front door, then half opens it, and, for a moment, smiles. Years later his wife will remember that last smile. She will imagine him in a coffin with the smile frozen on his face, or in paradise, in glory, smiling with cunning and tranquility. Everyone will believe he has died but she will remember that smile and think that perhaps she is not a widow. Going by a roundabout way, Wakefield reaches the lodging place where he has made arrangements to stay. He makes himself comfortable by the fireplace and smiles; he is one street away from his house and has arrived at the end of his journey. He doubts; he congratulates himself; he finds it incredible to be there already; he fears that he may have been observed and that someone may inform on him. Almost repentant, he goes to bed, stretches out his arms in the vast emptiness and says aloud: "I will not sleep alone another night." The next morning he awakens earlier than usual and asks himself, in amazement, what he is going to do. He knows that he has some purpose, but he has difficulty defining it. Finally he realizes that his purpose is to discover the effect that one week of widowhood will have on the virtuous Mrs. Wakefield. His curiosity forces him into the street. He murmurs, "I shall spy on my home from a distance." He walks, unaware of his direction; suddenly he realizes that force of habit has brought him, like a traitor, to his own door and that he is about to enter it. Terrified, he turns away. Have they seen him? Will they pursue him? At the comer he turns back and looks at his house; it seems different to him now, because he is already another man-a single night has caused a trans- formation in him, although he does not know it. The moral change that will condemn him to twenty years of exile has occurred in his soul. Here, then, is the beginning of the long adventure. Wakefield acquires a reddish wig. He changes his habits; soon he has established a new I routine. He is troubled by the suspicion that his absence


Obituary: Dario Fo, all-round provocateur
The playwright, actor and artist died on October 13th, aged 90
Oct 19th 2016

All Mr Fo’s life in theatre and politics (the one infusing the other all the time) was dedicated to the idea of il popolo contro i potenti, the people against the powerful. He put himself squarely in the tradition of the giullari, the mocking, singing jesters of medieval Italy, who kept on the move because they were liable to be hanged if they stayed still. The work that made his name and notoriety, “Mistero Buffo” (“Comedy-Mystery”), was a one-man show in which, his long limbs feline in a black jumper and grey trousers, he told, mimed, sang and shouted New Testament stories like an idiot. His Jesus got drunk at the marriage at Cana, climbed on a table and exhorted everyone to forget the afterlife for the here and now; his raising of Lazarus was recounted by a furious pickpocket victim in the crowd. The line to the medieval mystery plays was direct. When Mr Fo won the Nobel prize in 1997 he received it on behalf of all mummers, tumblers and clowns.


*

"Strange how people who suffer together have stronger connections than people who are most content:'
Dylan phrases it so perfectly in a single breath that the meaning is rendered starkly and with profound resonance.
That's what he does.

Trời buồn gió cao

Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa

Trên hai vai ta hai vầng nhật nguyệt.....

That's what he does!

Guardian Weekly 21-27 Oct 2016


In the latest of many distinctions garlanding a career stretching back five and a half decades, Bob Dylan has become the first member of the Rock and Roll Hall of Fame to win the Nobel Prize in literature. Some will argue against the award. Others will feel that he deserves the creation of a special Nobel Prize simply for being Bob Dylan.
    So, to confront the familiar argument, can what he does be called literature? Essentially, in the work of Bob Dylan, the words and the music cannot be separated. Just take your favorite Dylan line. Yours might be the ever timely "Where preachers preach of evil fates / Teachers teach that knowledge waits / Can lead to hundred-dollar plates / Goodness hides behind its gates / But even the president of the United States / Sometimes must have to stand naked", from It's Alright, Ma (I'm Only Bleeding) in 1965. Or the eternal "Ain't it just like the night to play tricks when you're trying to be so quiet?" (Visions of Johanna, 1966) or the mysterious "Two riders were approaching / The wind began to howl" (All Along the Watchtower, 1968). Whichever it is, when you say them to yourself, as we all do in times of need, you'll be hearing his voice, his sound, his music.
    Mine happens to be from Brownsville Girl: "Strange how people who suffer together have stronger connections than people who are most content:' Dylan phrases it so perfectly in a single breath that the meaning is rendered starkly and with profound resonance. That's what he does.
    The admirable delicacy of the Nobel committee's citation - "for having created new poetic expressions within the gr at American song tradition" - will certainly have provoked a buzz among analysts of Dylan's career. For one thing, the last two albums consisted entirely of material drawn from what has become known as the Great American Songbook: compositions by the very Broadway tunesmiths, in fact, who Dylan the songwriter seemed in the eyes of his own generation to have been invented to destroy.
    Dylan, however, has always been fond of turning his own iconoclasm on the idea of iconoclasm itself, his protests against being called a protest singer just one example of that refusal to conform.
    Similarly, he never wanted to tear down the walls of Tin Pan Alley. That was an inference drawn by others, useful in the early phase of his career, when he drew from what he had heard in the collection of antique songs on Harry Smith's Anthology of American Folk Music and somehow infused it all with the onrushing anti-authoritarian, anti-deferential spirit of his own era.
    As the Nobel citation correctly suggests, Dylan knitted himself into the warp and weft of American popular music. Borrowing wholesale from the past, reshuffling melodies, images, characters and attitudes, he helped assemble the components of a rapidly changing present.
    Fifty years ago he used a fairly minor motor- cycle accident as an excuse to step away from the spotlight. But the end of the "perfect" Dylan - the one who fused what he had learned from Woody Guthrie and the symbolist poets with the energy of rock'n'roll, and who mocked the world from behind impenetrable shades - did not mean the end of his creativity. In songs such as Tangled Up in Blue (1975), Blind Willie McTell (1983) and Cross the Green Mountain (2002) he explored ways of playing games with time, voice and perspective, continuing to expand the possibilities of song in ways that disarm all possible criticism of this new and perhaps greatest honor.

Sau đây, là còm của 1 độc giả, lại 1 giải thưởng nhảm nhí - thiên về đực, thay vì Do Thái, như Bà Huệ Gió O nhận định Award was just another....

I woke up to the news that Bob Dylan had won the Nobel prize in literature. What's even more galling than the fact that a singer has won an award for a literary prize is that people are calling this radical. Dylan has been awarded the prize "for having created new poetic expressions within the great American song tradition".
    The permanent secretary of the Swedish academy' Sara Danius, said it had "not been a difficult decision", and she hoped the academy would not be criticized.
    But of course it will be criticized, and it should be. Giving the award to any white male writer is in no way innovative. It is simply a return to the status quo - albeit in a different genre.
    The Nobel Prize in literature is infamous for its conventionality. In its 115-year history, only 14 women have been awarded the prize, and only four of those women have been writers of color. The Nobel Prize has one of the worst gender ratios in any major literary award.
    The Guardian listed Ngugi wa Thiong'o, Don DeLillo and Haruki Murakami as favorites - and all would have been a better choice than Dylan.
And what about Margaret Atwood, who has written poetry, fiction and non-fiction, and whose work has been endlessly republished, studied around the world? Or Joyce Carol Oates, who has published more than 40 books of fiction?
It is particularly frustrating that Dylan's win is being packaged as revolutionary when it is any- thing but. It proves, once again, how the times just aren't a-changin'.
Natalie Kon-yu Natalie Kon-yu is a Melbourne-based writer and academic


Khi Cao Hành Kiện được Nobel, thiên hạ tố cáo, ông này được, là vì được 1 vị trong Uỷ Ban Nobel dịch sách, rồi vận động, và Uỷ ban Nobel bèn lên tiếng, nếu đúng như thế, thì chúng tôi phải cám ơn vị này, bởi là vì nếu không có vị này, chúng tôi đã bỏ qua 1 người quá xứng đáng, so với cái giải thưởng Nobel nhảm nhí của chúng tôi!
Cũng thế, là lần Kertesz được.
Ngay chính người dịch ông, cũng ngỡ ngàng, ông này Nobel ư? Ai đọc ông ta, mà....  Nobel?
Bạn phải đọc họ, rồi mới quyết định tác phẩm của họ có xứng đáng hay là không. Ít ra phải như vị viết còm trên, có đọc, 1 số nhà văn Mẽo như Oates... và nghĩ những người này xứng đán
g hơn BD

Theo cái cách mà
Bà Huệ Gió O, nhận định, giải thưởng của tụi mafia Do Thái, thì Brodsky, gốc Do Thái, được Nobel nhờ vậy, chứ đâu có phải nhờ thơ!
Nếu đúng như thế, thì không bao giờ thiên tài Nguyễn Thế Hoàng Linh được Nobel, vì tuy đấng này, thiên tài thơ, ngang hàng với Brodsky, theo như bà Huệ Gió O, nhưng không thể được Nobel, vì không phải Do Thái, mà là gốc Mít!
Lần cho Singer, đám Do Thái điên lên, theo Milosz, vì đấng này tuy Do Thái, nhưng không xứng đáng, văn chương của ông ta lạm dụng sex.
Theo ông, tay GRADE, Chaim, xứng đáng hơn.

Nhân Gió-O 10 năm

Mon, May 2, 2011 8:17:24 AM

Hi bác chủ trang Tin văn,
Nhiều bận em muốn gửi góp ý cho bác nhưng nghĩ xuề xòa thế nào lại thôi. Lần này em không góp ý không được vì thấy bức bối quá. 

BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN

Ở đây nên hiểu "BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI" và "KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN" là hai lựa chọn cho nhan đề. Hoặc nhan đề là cái này, hoặc nhan đề là cái kia, chứ "hoặc" không phải là để kết nối. Ở đây bác có một chút nhầm lẫn trong sự hiểu, chứ không phải NTHL không rành tiếng Việt. Các từ bác dùng "chứng tỏ", "đúng hơn", "phải viết"... giống như kiểu "phán như đúng rồi". 

LTH có thể quá lố khi so sánh Brodsky chỉ ngang cỡ Nguyễn Thế Hoàng Linh, nhưng bác cũng không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán như đúng rồi. Thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh chẳng có mắc mớ gì đến thơ Brodsky, đúng. Nhưng bác cũng đang làm một phép so sánh kệch cỡm đấy thôi.
Vài dòng nhắn gửi, mong bác cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người khác quá như thế. Cảm ơn bác về trang Tin văn.
Thân ái,
J. 

Phúc đáp:
Đa tạ. Sẽ làm theo đúng như yêu cầu, ‘cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người khác quá như thế’.
NQT

V/v Đoàn Nhã Văn, là do hiểu lầm, đã được cả bên nguyên lẫn bên bị thông cảm.
Nhân đây,
HW R U? Take Care. NQT


Nhân Gió-O 10 năm

Trong những nhà văn được “mafia Do Thái” phát Nobel, mà Bà Huệ nêu tên, có Isaac Bashevis Singer.
Trên TV có bài của Linda Lê giới thiệu ông này.
GNV rất mê Isaac Bashevis Singer, và có khá nhiều tác phẩm của ông, một tay kể chuyện bậc thầy. Ông được coi như là người phát hiện ra mẫu Thiên Sứ Tội Lỗi,  the "Sinful Messiah”, [đúng thứ Bắc Kít, đầy tội lỗi, ma quỉ, ác nhân, nhưng lại giương cao ngọn cờ giải phóng Miền Nam], và nhập cảng, du nhập sex vô nghệ thuật viết, harnessing, importing, erotic energy to a work of art, [như Murakami, sau này].

Milosz, trong ABC’s có nhắc tới Isaac Bashevis Singer, nhưng nghĩ, [cũng như bà Huệ], không xứng Nobel bằng nhà thơ Chaim Grade.
Post sau đây, cả hai bài, một của Linda Lê, và một của Milosz, [tuy không hẳn viết về Singer].

Có vẻ như bà Huệ không khoái dịch dọt. Phải đọc Mít nguyên xi, thứ thiên tài NTHL, không chôm chĩa của ai, sặc mùi Mít, mùi mắm tôm, thí dụ, thì mới được.

Trang TV này, sở dĩ được mở ra, chỉ là để dịch dọt, nghĩa là chỉ đi ăn cắp của tụi mũi lõ.
Làm một tên biệt kích văn hóa!
Chẳng thèm xin phép, chẳng thèm để ý gì tới  luật bản quyền, vì nghĩ, tụi mũi lõ, khi chúng đi ăn cướp cả thế giới, chúng đâu có xin phép?
Tuy nhiên, TV không hề hưỏng tí xái nào từ cái việc dịch dọt.

Và cũng rất mong độc giả, đọc thoải mải, cho riêng mình,  for personal use only, "đừng" như “cái tay” Vịt Nguyên, chôm sự kiện, về nguồn gốc từ “quần đảo”, trong cái tít Quần Đảo Gulag, của Solz, rồi đi 1 đường tạp ghi, kiếm tí tiền còm.
Khủng nhất có lẽ là cái tay ‘gì gì’ đó, chôm cả 1 cuốn trường thiên tiểu thuyết, dịch dọt, đăng ‘fơi ơ tông’ lấy tiền bỏ túi, chưa thỏa, chưa đã, bèn sáng tác thêm, rồi phịa ra cả thiên giai thoại, [cái gì gì, lần đầu tiên khi vừa đến được Thiên Đường Tị Nạn, đọc, khóc òa, chẳng khác Bác H, khi đọc Lê Nin], để trở thành đồng tác giả, rồi cho xb ở trong nước, dõng dạc phán, đây là tuyệt tác, như “Chiến Tranh và Hòa Bường” của Tolstoi, một thứ thuốc tiên, hàn gắn mọi vết thương chiến tranh, mọi hận thù Mít!

Đọc blog, cũng rứa, ông Mít nào cũng chôm, cũng dịch dọt tưới hột sen, vậy mà còn đi 1 đường, cấm chôm của tao đấy nhé!

Hồn Ma Si Tình
Linda Lê giới thiệu Isaac Bashevis Singer

Grade Chaim
by Milosz

Dịch dọt là phận người, sinh tử lão bịnh… và dịch. Tinh thần trang TV là của Tập San Văn Chương (1) ngày nào còn Sài Gòn, qua đó, là định nghĩa nhà văn [độc giả] là 1 kẻ được thông tri đầy đủ những dữ kiện của thời của mình, tạm dịch dọt cái từ “mieux informer" của Tây mũi lõ.

Chỉ một khi được thông tri tốt những dữ kiện, thì độc giả tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đếch cần đến phê bình gia, còn dốt hơn cả độc giả!

Nhưng dịch không có nghĩa là chôm để sử dụng vào mục đích đê tiện là kiếm tí tiền còm, tiền lớn, vờ nguyên tác, vờ tác giả.

Trên tờ Interlife có 1 bài viết, về ăn nhậu, nhưng sử dụng nó như 1 ẩn dụ, vào việc dịch dọt, thật tuyệt:

A THIN LINE BETWEEN FERMENTATION AND ROT.

Đường ranh mỏng dính giữa "lên men" và "thúi rữa".

Lên men là cái đẹp của dịch dọt, thơm tho như mùi mắm tôm của Mít.
Thúi rữa, chính là cái vụ dịch dọt, để ăn cắp, để kiếm lợi cho cá nhân mình.

Gấu, Bắc Kít, càng về già, càng thèm lại một lần, ngồi giữa 1 phiên chợ làng, với cái mẹt lá chuối, bên trên là miếng bánh đúc, và tí mắm tôm, và cơn đói dài dài của Gấu, đang chờ được thỏa mãn.

Cả cuộc chiến Mít, là cũng được nhìn qua hình ảnh tuyệt vời này.
Lẽ ra, sau 30 Tháng Tư, Mít cả nước có… mắm tôm.

Nhưng thay vì vậy, chỉ có CỨT.

(1)

Ngay trong lời phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy đủ (những dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một điều: hãy đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu vị của họ.

Cho phép tôi dùng chữ khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị, saveur, trong tiếng La-tinh là cùng một nguồn).

Không phải chỉ Bà Huệ mà còn rất nhiều người có ý nghĩ, Do Thái thao túng Nobel. Nếu đúng như thế, thì ông Nobel hẳn phải có máu Do Thái, vì cái này là của ông ta! Nếu không như thế, thì đành kết luận Do Thái là 1 giống dân cái gì cũng bảnh hơn mọi giống dân khác, nên bị hết Hitler đến Xì thù hận, thề làm cỏ. Cái vị đi cái còm trên tờ Guardian thì lại coi giải thưởng Nobel trọng nam khinh nữ. Năm nay, giả như Nobel chọn 1 trong những người được nêu tên trong cái còm, có lẽ không bị chửi. Và đây là 1 câu hỏi hắc búa, và nếu bạn giải ra được, thì hiểu ra ý nghĩa cao quí của Nobel: Tại sao chọn BD, thay vì bất 1 một ai khác, để chuốc lấy đủ thứ bực mình: Ngay đến kẻ được giải mà còn “em chả, em chả”!

Richard Williams

There will be some people who doubt Bob Dylan's right to win the Nobel prize in literature. But in Dylan, the words and music simply cannot be separated
Có 1 số người nghi ngờ cái quyền, cái đúng, cái OK, của BD được Nobel. Nhưng trong Dylan, từ và nhạc giản dị không thể tách ra được.

Tuyệt!

Áp dụng vô lời nhạc TCS lại càng tuyệt. Với riêng Gấu – vì cũng như BD, TCS có rất nhiều kẻ thù, khen ông ta quá, sợ chúng càng thêm ghét - lời nhạc TCS làm nảy ra 1 chân lý, sau ông ta, người ta sẽ không thể viết khác đi được, về 1 hình ảnh, dù rất đỗi bình thường.
Thí dụ, “trời buồn gió cao”.

Sau này, sợ đến ông Trời cũng đếch dám… viết: Trời buồn, gió… thấp!

Hay, 

Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa!

Ôi chao, để vinh danh nó, Borges phải viện ra đủ thứ sư phụ!

 Tựa Hồn Những Năm Xưa

ngồi ở quán, nhạc réo "em đứng lên gọi mưa vào hạ"
với tôi đây chính là câu buồn cười nhất trong lịch sử thơ ca nhạc hoạ Việt Nam

Blog NL

Lời nhạc là hình ảnh miền đất chỉ có hai mùa mưa nắng. “Đứng lên”, có thể là để thực hiện ‘phép lạ’ gọi mưa vào hạ, ngồi làm sao "làm"?

Lời nhạc TCS có những hình ảnh “trời buồn gió cao”, “hàng cây đứng xen vào nhau”, “đèn buồn trong mưa”… nhiều “buồn cười” lắm, GCC nghĩ bạn NL nghèo tưởng tượng, thiếu liên tưởng, chăng?

Hà, hà!

 


Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
TCS 

"Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Baudelaire 

She walks in beauty, like the night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm 

Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối, tall, dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối, và cứ thế, cứ thế.
 

Tưởng tượng đẩy tưởng tượng, câu "hót" BHD, thần sầu, "không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu của TCS, trong Phôi Pha:
 

Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa. 

BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập vào với đêm, y chang lời nhạc của TCS mô tả, những lần "bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!" 

*
 

Ui chao, GNV bữa nay, lôi bài viết của Borges, đọc lại, mới khám phá ra 1 cái lỗi trầm trọng, là bỏ qua cái ‘tiểu chú’ của ông: 

Baudelaire writes, in "Recueillement": "Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.

Purgatorio I, 13

 Like all abstract words, the word metaphor is a metaphor; in Greek it means "transfer." Metaphors generally consist of two terms, one of which is briefly transformed into the other. Thus, the Saxons called the sea the "whale's path" or the "swan's path." In the first example, the whale's hugeness corresponds to the hugeness of the sea; in the second, the swan's smallness contrasts with the vastness of the sea. We will never know if the inventors of these metaphors were aware of these connotations. Line 60 of Canto I of the Inferno reads: "mi ripigneva là dove'l sol tace" [she pushed me back to where the sun is silent]. 

"Where the sun is silent": the auditory verb expresses a visual image, as in the famous hexameter of the Aeneid: "a Tenedo, tacitae per arnica silentia lunae" [from Tenedos, silently in the quiet friendship of the moon].

Beyond discussing the fusion of two terms, my present purpose is to examine three curious lines.

The first is line 13 of Canto I of the Purgatorio: "Dolce color d'oriental zaffiro" [Sweet hue of oriental sapphire].

Buti explains that the sapphire is a precious stone, of a color between sky blue and azure, most delightful to the eyes, and that the oriental sapphire is a variety found in Media.

In the aforementioned line, Dante suggests the color of the East, the Orient, by a sapphire that includes the Orient in its name. He thus implies a reciprocal play that may well be infinite. (1)
 

In Byron's Hebrew Melodies (1815), I have discovered a similar artifice:
"She walks in beauty, like the night." 

To accept this line, the reader must imagine a tall, dark woman who walks like the Night, which, in turn, is a tall, dark woman, and so on to infinity.( 2)

The third example is from Robert Browning. He includes it in the dedication to his vast dramatic poem, The Ring and the Book (1868): "O lyric Love, half angel and half bird ... "

 The poet says that Elizabeth Barrett, who has died, is half angel and half bird, but an angel is already half bird, and thus a subdivision is proposed that may be interminable.

I do not know whether to include in this casual anthology Milton's controversial line (Paradise Lost IV, 323): "the fairest of her daughters, Eve."

 
To the intellect, the line is absurd, but not, perhaps, to the imagination.

 [EA]

 

1.         We read in the initial strophe of Góngora's Soledades: 

Era del ano la estación florida
en que el mantido robador de Europa,
media luna las armas de su frente
y el Sol todos los rayos de su pelo
luciente honor del cielo,
en campos de zafiros pasce estrellas.

 [It was in the year's flowery season/that Europa's cloaked abductor/his arms a half-moon on his brow/and all the rays of his hair the Sun/glittering honor of the sky/ in fields of sapphires grazes on stars.]

The line from the Purgatorio is delicate; that of the Soledades, deliberately clamorous.

 2.         Baudelaire writes, in "Recueillement": "Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche" [Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.



Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001.

Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho nhà văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh tại Chaguanas, gần Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã nhập làm một - một lối viết tự sự mẫn cảm và một cái nhìn soi mói đừng hòng mong mua chuộc – vào trong những tác phẩm bắt chúng ta nhìn vào những cuộc đời bị vùi giập” (bản tiếng Anh: “… for having united perceptive narrative and incorruptible scrutiny in works that compel us to see the presence of suppressed histories”).

Một tác giả gây tranh luận (“Controversial author”) đã thắng giải văn chương Nobel, theo như một ký giả. Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã đặc biệt nhấn mạnh tới cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “The Enigma of Arrival” (tạm dịch “Bí ẩn khi tới”, 1987), coi đây là “hình ảnh, cứ thế mà lặng lẽ suy sụp, của văn hoá thực dân cũ, và sự suy tàn của những xóm làng Âu Châu” (“an unrelenting image of the placid collapse of the old colonial ruling culture and the decline of European neighbourhoods”. Luôn cả “cái nhìn soi mói không thể nào bị mua chuộc” đối với xã hội hậu thuộc địa, và những nhận định gay gắt đối với Hồi giáo chính thống (Muslim fundamentalism). 

Naipaul được chọn, trong một danh sách chót gồm năm người. Tên những người còn lại phải 50 năm sau mới được công bố, nhưng theo tin tức hành lang, trong đó có nhà văn người Israel, Amos Oz, nhà văn Nam Phi, JM Coetzee, nhà văn người Canada, Margaret Atwood, và nhà văn người Mỹ, Philip Roth.

Trên VHNT, người viết đã từng giới thiệu Naipaul, trước khi ông được Nobel, nay xin đăng lại, và tiếp đó, xin cống hiến bạn đọc một số nhận xét, và phản ứng của một số tác giả, và của chính Naipaul, trước tin ông được Nobel. 

***

 “Con người và nhà văn là một. Đây là phát giác lớn lao nhất của nhà văn. Phải mất thời gian – và biết bao là chữ viết! – mới nhập một được như vậy.”
 (Man and writer were the same person. But that is a writer’s greatest discovery. It took time – and how much writing! – to arrive at that synthesis)
 V.S. Naipaul, “The Enigma of Arrival”

 Trong bài tiểu luận “Lời mở đầu cho một Tự thuật” (“Prologue to an Autobiography”), V.S. Naipaul kể về những di dân Ấn độ ở Trinidad. Do muốn thoát ra khỏi vùng Bắc Ấn nghèo xơ nghèo xác của thế kỷ 19, họ “đăng ký” làm công nhân xuất khẩu, tới một thuộc địa khác của Anh quốc là Trinidad. Rất nhiều người bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn, về một miếng đất cắm dùi sau khi hết hợp đồng, hay một chuyến trở về quê hương miễn phí, để xum họp với gia đình. Nhưng đã ra đi thì khó mà trở lại. Và Trinidad tràn ngập những di dân Ấn, không nhà cửa, không mảy may hy vọng trở về. 

Vào năm 1931, con tầu SS Ganges đã đưa một ngàn di dân về Ấn. Năm sau, trở lại Trinidad, nó chỉ kiếm được một ngàn, trong số hàng ngàn con người không nhà nói trên. Ngỡ ngàng hơn, khi con tầu tới cảng Calcutta, bến tầu tràn ngập những con người qui cố hương chuyến đầu: họ muốn trở lại Trinidad, bởi vì bất cứ thứ gì họ nhìn thấy ở quê nhà, dù một tí một tẹo, đều chứng tỏ một điều: đây không phải thực mà là mộng. Ác mộng. 

“Em ra đi nơi này vẫn thế”. Ngày nay, du khách ghé thăm Bắc Ấn, nơi những di dân đợt đầu tiên tới Trinidad để lại sau họ, nó chẳng khác gì ngày xa xưa, nghĩa là vẫn nghèo nàn xơ xác, vẫn những con đường đầy bụi, những túp lều tranh vách đất, lụp xụp, những đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh đồng cũng vẫn cảnh người cày thay trâu… Từ vùng đất đó, ông nội của Naipaul đã được mang tới Trinidad, khi còn là một đứa bé, vào năm 1880. Tại đây, những di dân người Ấn túm tụm với nhau, tạo thành một cộng đồng khốn khó. Vào năm 1906, Seepersad, cha của Naipaul, và bà mẹ, sau khi đã hoàn tất thủ tục hồi hương, đúng lúc tính bước chân xuống tầu, cậu bé Seepersad bỗng hoảng sợ mất vía, trốn vào một xó cầu tiêu công cộng, len lén nhìn ra biển, cho tới khi bà mẹ thay đổi quyết định.

Chốn cũ vẫn như xưa, nhưng chốn mới chẳng hơn gì; cha của Seepersad, chết trẻ; gánh nặng gia đình chuyền qua ông anh lớn, còn là một đứa nhỏ, đã phải lăn lưng vào đời, lãnh 8 xu mỗi ngày, tại một trại trồng mía – nửa thế kỷ sau, kỷ niệm ấu thời làm ông bật khóc trước mặt đứa cháu của mình là Naipaul. Bà chị của Seepersad, một cô gái mù chữ, bị gửi đi xa, làm việc cho một người bà con trong gia đình; bà chịu đựng hai cuộc hôn nhân bất hạnh. Quãng đầu đời của Seepersad cũng chẳng hân hoan thơ thới gì. Ông sống với người chị/em của mẹ mình, ngày đi học, đêm làm việc tới khuya trong một cửa tiệm. Sau này, khi đã có vợ, có thời gian ông phải sống bám vào gia đình bà vợ giầu có. Mãi sau đó, ông cố kiếm đường ngoi lên, bằng một việc làm tại một tờ báo ở Trinidad, tờ Guardian; bà mẹ vẫn sống, và sau cùng chết, trong nghèo nàn cùng cực.

Chính cái nền đó, – những thảm kịch nho nhỏ của một nhóm người nghèo đói, bị đánh bật ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, túm tụm với nhau tại vùng West Indies, Trinidad – đã làm cho “Một căn nhà cho Ông Biswas” (1961) - nhân vật chính lấy khuôn mẫu từø người cha của Naipaul - trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh tuyệt vời nhất của thế kỷ 20. Hơn thế nữa, nó còn là một tài liệu giá trị, về một phần đất không ai thèm ngó tới - theo nghĩa tinh thần – của thế giới. Không thèm ngó tới, bởi vì đôi khi, nó, và những phần đất tương tự như nó, có vẻ như chẳng có gì đủ quan trọng, để được nhân loại để ý ghi chép, về mặt chính trị cũng như văn hóa, và thường ra, những vùng đất như thế đó chẳng thể nào đẻ ra được những nhà văn, nhà trí thức: chính những người này [mới] có thể ghi nhận sự thịnh suy của chúng.

Naipaul đã mượn luôn những câu chuyện về thời thơ ấu ông bố, như là một đứa trẻ nhà quê Ấn Độ, rồi những năm tháng đầu tiên sống đời di dân tại một vùng quê Trinidaa, một cuộc đời mà Seepersad đã cố gắng ngoi lên, và rồi viết về nó. Viết, đối với ông bố của Naipaul, là “tất cả, cho dù nghịch cảnh”: nó là hứa hẹn về một phẩm giá con người, một “từ chối bị tiêu diệt”. Ông đã truyền lại cho người con, và với cả hai, là mong ước “một sự công chính, ở một tương lai nào đó”. Trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, Pankaj Mishra, khi điểm những lá thư nhà (“Giữa Cha và Con: Thư  Nhà”, “Between Father and Son: Family Letters”.  V.S. Naipaul, nhà xb Knopf) đã coi nghèo đói, nỗi sợ bị tiêu diệt (extinction), hy vọng một sự công chính (justice), và viết như một cứu chuộc, là những đề tài trao đổi giữa Naipaul và gia đình (Seepersal Naipaul, ông bố là tác giả tập truyện “Những cuộc phiêu lưu của Gurudeva”, được xuất bản “một cách riêng tư”, privately, vào năm 1943, tái bản có sửa chữa và mở rộng thêm vào năm 1976, rồi năm 1995), bắt đầu vào năm 1950, khi Naipaul tới Anh làm sinh viên tại Oxford, nhờ học bổng toàn phần của nhà nước thuộc địa. Ông bố lúc này coi như hết còn làm việc được nữa; Kamla, bà chị của Naipaul, là sinh viên tại đại học Benares Hindu University tại Ấn Độ, cô đơn, và bất hạnh (unhappy), nhưng không làm sao có phương tiện rời bỏ. Naipaul, 18 tuổi đầu, mang trên mình không chỉ trách nhiệm cứu thoát gia đình khỏi nỗi khốn khó, mà còn đèo thêm tham vọng văn chương, chưa biết nó sẽ ra làm sao, và chưa biết sẽ thực hiện như thế nào. “Bí ẩn khi tới” (1987) thoát thai từ những lá thư nhà này, một cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật về một thanh niên nhà quê hết sức ngu ngốc (profoundly ignorant) bị đánh bật gốc, nỗi sợ hãi, chết khiếp, tứ cố vô thân không nơi nương tựa, tại Anh Quốc.
Và như độc giả có thể đoán ra được, vượt lên những bức thư, là một bức điện tín, gửi cho gia đình, vào đầu năm 1956: TIỂU THUYẾT ĐƯỢC CHẤP NHẬN=YÊU, và liền sau đó, ông viết thư cho người chị: “Đó là bức thư mà em hằng mong được viết về cho gia đình, kể từ ngày rời Trinidad. Một bức thư về cuốn sách của em.”

***

 Chính trị hay không chính trị, không ai có thể phủ nhận tính chất văn học của những tác phẩm của Naipaul. Năm nay 69 tuổi, nhà văn người Anh, gốc Ấn, sinh tại Trinidad, hiện đang sống ở Anh, trong vòng trên 45 năm đã cho ra đời tổng cộng 26 tác phẩm, nhưng tuyệt phẩm của ông là cuốn “Căn nhà cho Ông Biswas” (A House for Mr. Biswas). Những tiểu luận, những tác phẩm phi-giả tưởng của ông thật sống động, và cũng thật khiêu khích (provocative).

 Horace England, chủ tịch Hàn Lâm Viện Thụy Điển, người gọi điện thoại cho Naipaul báo tin ông được giải, cho biết, “Ông thực sự ngạc nhiên, và tôi không nghĩ là ông giả đò. Ông thực sự ngạc nhiên, bởi vì cho rằng, như là một nhà văn, ông chẳng đại diện cho một ai, ngoại trừ chính mình.” Đây có lẽ cũng là một trong những lý do, ông được giải văn chương cao quí nhất  của nhân loại, cùng với Cao Hành Kiện, năm ngoái. Nhà văn người Pháp gốc Trung Quốc này cho rằng, câu chuyện văn chương chỉ là tri âm tri kỷ giữa những con người chẳng cần phải gặp gỡ, hoặc chẳng thể nào có duyên được gặp gỡ, mặt nhìn mặt, tay cầm tay nên chỉ còn trông mong vào mớ chữ nghĩa… Có vẻ như Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã phá bỏ truyền thống ban giải thưởng cho những công trình văn học lớn lao, hoặc đề cao vai trò nhà văn với một nhiệm vụ cao cả nào đó…

 “Tôi đã tưởng rằng mình ra rìa rồi.” (“I thought I was no longer in the running, you know? I thought I had fallen away”), Naipaul nói với thông tín viên thông tấn xã AP. Đã từ lâu, thiên hạ xì xào về ông, như là một “chuẩn Nobel”; ông là nhà văn người Ấn đầu tiên được Nobel, kể từ Tagore, vào năm 1913. Ông nói, sự kiện ông được Nobel là “một dâng tặng cho cả hai, Ấn Độ, quê cha đất tổ của tôi và những đất nước khác trong tiểu lục địa.” 

Caryl Phillips, tiểu thuyết gia người Anh mà gia đình cũng tới từ vùng Caribbean, cho biết, ông “ngưỡng mộ tính tổng hợp giả tưởng và phi-giả tưởng của Naipaul”. “Ông ta ôm gọn cả hai dạng văn học, thông minh tài tình, và tràn trề sinh lực, như nhau”. Nhưng Phillips nói thêm, “Naipaul không ưa những người gốc Phi Châu, điều này theo tôi không thể giải thích, chỉ bằng sự kiện ông gốc Ấn. Ông ta cũng ‘thật là không ưa’ người Hồi giáo. Ông ta là một con người có đủ thứ vấn đề, với những con người ở ngoài cái vòng tròn mà ông ta gọi là “trung tâm mang tính lịch sử”. Và cái trung tâm này được đóng rễ ở Âu Châu. 

“Giữa những tín đồ: Một chuyến đi về vùng đất Hồi” (1981), là một ghi nhận về chuyến đi Iran, Pakistan, và Indonesia. Đây là một bức chân dung thật cay nghiệt, về những tín đồ quay lưng về phía tiến bộ và thế giới hiện đại. Ông kết án Hồi giáo chính thống, mà với nó, “lịch sử phải làm đầy tớ cho thần học, luật pháp tách khỏi ý tưởng về sự bình đẳng và học vấn tách khỏi học vấn (learning is separated from learning).” 

Mới hồi đầu tháng (10, 2001), Naipaul đã gây phẫn nộ trong thế giới Hồi giáo, khi so sánh những hậu quả của đạo này trên thế giới, cũng chẳng khác gì của chế độ thực dân thuộc địa. “Nó tạo một hậu quả thê thảm ở  những người cải đạo”, ông nói, đặc biệt nhắm vào Pakistan, “Muốn cải đạo, bạn phải huỷ diệt quá khứ, huỷ diệt đời mình (your history).” Ông mô tả việc “quên mình”, “bỏ ngã” (abolition of the self) mà Hồi giáo đòi hỏi còn tồi tệ hơn sự huỷ diệt căn cước của một con người dưới chế độ thực dân thuộc địa. Một thành viên của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, Per Wastberg, đã nói với hãng tin Reuters, Naipaul chỉ trích tất cả mọi tôn giáo. “Ông ta coi tôn giáo là tai họa cho nhân loại, nó thui chột mọi ước ao, nó làm con người  hết dám suy nghĩ, tự  chứng nghiệm (nguyên văn: He considers religion as the scourge of humanity, which dampens downs our fantaisies and our lust to think and experiment). Trên mục này, bạn đọc chắc còn nhớ bài phỏng vấn George Steiner của tờ L’Express, và câu khẳng định của ông, “nếu thế kỷ 21 là một thế kỷ của tín ngưỡng thì nó sẽ tiêu luôn”.
(xem bài “Văn hóa không làm tăng tính người”.)

Thật khó mà tin được, rằng Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã không để ý đến biến cố 911, những diễn biến theo sau, và sự kiện Naipaul luôn tỏ ra “thù nghịch” (hostility) Hồi giáo chính thống. Cũng khó mà có thể tin được, họ đã quên một điều, rằng họ vờ đi không lên tiếng khi cái đầu của nhà văn Rushdie bị ra giá, trước đây, nhân vụ Quỉ Thi.

Tarek Fateh, chủ trì chương trình TV “Ký sự Hồi giáo”, đã tỏ ra không thoải mái (uneasy) về chuyện Naipaul được Nobel, mặc dù ông cho biết rất ngưỡng mộ những khả năng văn học của ông ta. “Tôi thực sự tin rằng, việc ông ta được Nobel sẽ gây ra những rắc rối sâu xa hơn nhiều, vượt ra khỏi tầm tay văn chương”. “Nó gây tổn thương, do quá nhiều những tình cảm chống Hồi giáo.”

Một nhà văn gây tranh luận. Đúng như vậy. Ngay trong giới văn học, ông ta cũng không tỏ ra nương nhẹ những “văn hữu”. Nói về James Joyce: Tôi không thể hiểu nổi tác phẩm của một người mù. Về Dickens: Ông ta cắn phải luỡi (tự nhại lại tác phẩm của chính mình)… 

***

Hình như Borges có nói, người ta không thể sử dụng từ ‘con dao’ trong một thai đố mà câu trả lời là ‘con dao’; Rushdie viện dẫn nhà văn Á Căn Đình, khi viết về cuốn “Bí ẩn khi tới” của Naipaul; và từ mà ông không thể nào kiếm thấy ở trong cuốn sách đó, là “tình yêu”. Và một cuộc đời không có tình yêu, hay một cuộc đời mà trong đó, tình yêu bị chôn sâu tới nỗi không thể nào ló đầu ra, đó là điều cuốn sách của Naipaul nói tới. Bởi vậy, nó thật buồn, thật quá buồn.

 Rushdie gọi, đó là nỗi buồn đồng quê, trong bài viết về cuốn sách, trên tờ The Guardian số ra ngày Thứ Sáu, 13, tháng Ba, 1987, khi nó vừa được xuất bản; sau được in lại trong tập tiểu luận “Quê hương tưởng tượng”. Khung cảnh của cuốn tiểu thuyết, là đồng quê Anh, một thứ “khung rêu” (tên một tác phẩm của Thụy Vũ), hay là câu chuyện về sự tàn tạ của một gia đình miệt vườn ở miền nam nước Anh, với quá khứ thuộc địa, như là gia tài của mẹ để lại, và rồi mang theo ra nước ngoài, của người chủ đất. Rushdie cho rằng, thật có ý nghĩa, vì trái ngược với đa số di dân khác, Naipaul đã chọn cho mình một vùng quê Anh, với những trang viên (manoirs) và những con sông lượn lờ chung quanh, để mà tái định cư.

 Rushdie viết: “Di dân phải bịa đặt ra miếng đất ở dưới chân mình”. (L’immigré doit inventer la terre qui se trouve sous ses pieds).


Song Nam Tang liked this.

Mới đây, Book Hunter có đăng bài "Giải Nobel Văn học hay công cụ chính trị", bình luận về giải Nobel Văn học năm nay được trao cho Bob Dylan, có nhiều bạn cuồng văn chương đã lớn tiếng cho rằng Book Hunter không hiểu gì về văn chương cũng như âm nhạc. Book Hunter xin miễn bình luận về những comment kiểu này. Chúng tôi xin được đăng tải bài dịch của anh Nguyễn Huy Hoàng trên blog cá nhân về mối quan hệ của giải thưởng này và chính trị. Mời các bạn theo dõi:

"Giải Nobel Văn chư...

See More

http://www.wsj.com/articles/SB10000872396390444799904578054821709524326

Nobel văn chương, có tính chính trị ở trỏng?
Quả đúng như thế, và vì thế, nó không hẳ
n là 1 giải thưởng văn học thuần túy như các giải thưởng văn học khác.
Và cái chính trị của nó, chính là....  "văn học", khi nó vuơn tới "đỉnh cao
nhất của nó"
Nobel văn chương theo GCC, chính là 1 thứ vắc xin - nhờ mũi lõ Âu Châu, Cựu Lục Địa,
sống sót Lò Thiêu -  mà có được.
Trong khi Cái Ác Gulag, Tẫu, Bắc Kít, Cái Ác Á Châu, cho đến bây giờ, chưa có thuốc chích ngừa!

Khủng khiếp đến như thế đó!

Cái vòng hoa văn chương, mỗi lần trao giải, là cái tinh tuý nhất của tác phẩm, và thời của người đó, theo GCC.

Vòng hoa Nobel trao cho Cao Hành Kiện mà chẳng ghê sao:

The Nobel Prize for Literature 2000

Gao Xingjian
The Nobel Prize in Literature for 2000 goes to the Chinese writer Gao Xingjian
"for an œuvre of universal validity, bitter insights and linguistic ingenuity, which has opened new paths for the Chinese novel and drama".
In the writing of Gao Xingjian literature is born anew from the struggle of the individual to survive the history of the masses. He is a perspicacious sceptic who makes no claim to be able to explain the world. He asserts that he has found freedom only in writing.
Lịch sử của 1 cá nhân chống lại lịch sử của cả 1 đám đông, của cả 1 tập thể, để sống sót, để toàn mạng!
Tuyệt!
Đúng là thứ lịch sử viết từ đáy!


Với riêng GCC, mỗi lần phát Nobel là 1 biến cố cực kỳ quan trọng, không chỉ trong cõi văn chương.
Về chính trị mà nói, nó ngăn chặn được thảm họa, thí dụ như trong những trường hợp dưới đây.
Khi cho Cao Hành Kiện, là mong TQ thay đổi. Khi thấy không thay đổi, thì lại thử lại 1 lầ
n nữa với Mạc Ngôn.
Những ngưòi chỉ trích nó, thuờng là do đố kỵ.
Năm nay, cho BD, là mong muốn nhà văn Mẽo nhập cuộc thay vì đóng cứng trong những vấn đề về di dân không thôi
.

Nobel không dính dáng gì đến chính trị, nhưng chạy trời không khỏi nắng. Nhà văn Phần-lan Frans Eemil Silanpaa được Nobel năm 1939, chỉ vì Liên bang Xô viết có dự định xoá sổ xứ sở này.


Nobel Prize for Literature winner Herta Mueller

Herta Müller takes Nobel prize for literature

The 2009 Nobel prize has been awarded to Herta Müller, for her depictions of the 'landscape of the dispossessed' with 'the concentration of poetry and the frankness of prose''

Quang cảnh 1 miền đất mà dân chúng ở đó mất mẹ hết tất cả, thì đúng là quang cảnh của xứ Mít hiện nay!
Vẹm lấy hết, cùng với sự tiếp tay của Lão Tặc Thiên, với những cơn lũ lụt khủng khiếp, và của
kẻ thù truyền kiếp của Mít, là anh Tẫu.



nobel_04

Press Release
The Nobel Prize in Literature 2004

The Nobel Prize in Literature for 2004 is awarded to the Austrian writer Elfriede Jelinek, "for her musical flow of voices and counter-voices in novels and plays that with extraordinary linguistic zeal reveal the absurdity of society's clichés and their subjugating power".
The Swedish Academy
Giải Nobel văn học năm 2004 được trao tặng cho nhà văn Áo, Elfriede Jelinek, cho "dòng chảy âm nhạc của những tiếng nói và những tiếng nói đối nghịch của bà, trong những tiểu thuyết và kịch bản, mà, bằng nỗi đắm say phi thường về ngôn ngữ, những tác phẩm đó phơi ra sự phi lý của những khuôn sáo xã hội và cái quyền lực chế ngự của chúng." (1)
Tiểu sử
Elfriede Jelinek sinh ngày 20 tháng Mười 1946 tại thành phố Murzzuschlag, vùng đất Styria thuộc Áo quốc. Cha, gốc Do Thái-Tiệp Khắc, là một nhà hóa học, làm việc trong ngành sản xuất kỹ nghệ quan trọng có tính chiến lược, nhờ vậy mà thoát vụ bách hại trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến.

"My writings are limited to depicting analytically, but also polemically, the horrors of reality. Redemption is the speciality of other authors, male and female."
[Viết của tôi hạn chế trong việc miêu tả, theo cách phân tích, mà cũng có tính tranh luận, những điều ghê rợn của thực tại, Cứu chuộc là biệt tài của những cây viết khác, nam và nữ].
Elfriede Jelinek trả lời phỏng vấn.

V/v Joseph Epstein, trên Tin Văn đã từng giới thiệu ông này, 1 nhà phê bình Mẽo, qua bài viết về Garcia Marquez, tốt như thế nào, how good…

[Joseph Epstein, Mẽo, trong bài viết, GMM tốt như thế nào, How good is Gabriel Garcia Marquez? trong Plausible Prejudges, viết, GGM có thể là nhà văn tài năng nhất trong thế giới bây giờ. Nhưng tài năng là 1 chuyện; tốt, hay vĩ đại, lại là 1 chuyện khác: But talent is one thing; goodness, or greatness, quite another.]

Về vấn đề này, thì Rushdie nhận xét bảnh hơn, theo GCC, khi nhận ra cái gọi là hiện thực thần kỳ, nó mọc lên từ thế giới thứ ba, tức là ở những nước khốn nạn như xứ Mít.
Còn cách hiểu “chính trị” như ông này nhận xét, thì thường quá, cái suy nghĩ về thái độ thù Mẽo của Uỷ Ban Nobel, nhảm, và cái sự kiện Nobel về tay 1 số tác giả khuynh tả, mà chê, thì quá quá nhảm. Không lẽ đệ tử Marx viết văn thì không được Nobel? Harold Pinter, mê Mác Xít, đúng, nhưng tác phẩm của ông, cực bảnh. Có sao đâu?

Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn hóa. Sự thực được bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ còn một sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm của Garcia Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập tới những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được tạo thành "có một nửa", trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát "công cộng" của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ "riêng tư" của từng người dân, tất cả đều trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những điều vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa ban ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà chính là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó tính nhiệm mầu của ông.
Tình yêu và những quỷ dữ khác

Bài này đăng trên Báo Tường, mà theo GCC đám này mù tịt về văn học. Trên TV cũng đã nói tới rồi, lần báo này điểm cuốn Đêm giữa Ban Ngày, của Vũ Thư Hiên, ấy chết xin lỗi, của Koestler! (1)
Dịch 1 bài viết của tụi mũi lõ, nên kiếm bài đáng dịch, cho bõ công, theo GCC.


(1)

http://www.tanvien.net/Souvenir/When_red_is_black.html

*

Cuốn này, GNV phải mua trên net, bằng cái gift card, Noel năm ngoái, của 1 độc giả TV tặng.
Tks.
Take Care. NQT

Tiểu thuyết đầu tay, ăn giải, còn được báo Phố Tường coi là 1 trong 5 cuốn “top”, tiểu thuyết chính trị, của mọi thời! (1)
Lọt vô 1 trong 5, còn cuốn Đêm Giữa Ban Ngày, của VTH, ấy chết, xin lỗi, của Koestler!

Qiu's novels have been published in China, but not without some mysterious changes. The city of Shanghai, for instance, is referred to as "H," which manages to sound even more Kafkaesque than anything Qiu could invent. But writing crime novels has allowed him remarkable freedom to limn China's shifting moral standards. "In the past, Chinese people believed in Confucianism," Qiu says. "That's basically an ethical system: what you should do and what you should not do. Then people believed in Mao and communism. In a way, that was also about what you should and should not do. Now it's like Nietzsche's time: God is dead. So you can do anything."
Time: Criminal Mind
By Peter Ritter
Wednesday, Dec. 19, 2007
(1)
The Wall Street Journal called Xiaolong’s first novel one of the five best political novels of all time, ranking it with Arthur Koestler’s Darkness at Noon.
Source


LIU TSUNG-YVAN
773-819        

A fisherman in the landscape was a beloved subject of poets and painters. This poem, however, seems to me quite complicated, in spite of its apparent simplicity. For here there is action, and the fisherman himself appears only toward the end, as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things

Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ sau đây xem ra rắc rối dù bề ngoài đơn giản. Bởi vì ở đây, có hành động, và tay ngư phủ già, chính anh già, chỉ xuất hiện ở cuối bài thơ , như 1 kẻ nào đó rắp ranh làm 1 chuyến đi xa, thật xa.

OLD FISHERMAN

Old fisherman spends his night beneath the western cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's waters, burns bamboo of Ch'u.
When the mist's burned off, and the sun's come out, he's, gone.
The slap of the oars: the mountain waters green.
Turn and look, at heaven's edge, he's moving with the flow.
Above the cliffs the aimless clouds go too.
Translated from the Chinese by J. P. Seaton

Người câu cá già

Người câu cá già qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này, thuổng Tô thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc sáng sớm, anh già ngồi đun nước mưa, hứng ở mái sau nhà, ở Canada, đốt củi tre nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù tan, mặt trời bò ra, anh già bèn xuống thuyền, lên đường, làm chuyến viễn du chót.
Tiếng mái chèo đập trên làn nước xanh
Quay nhìn, ở đường ven Thiên Đàng, thấy thấp thoáng bóng anh già cùng di chuyển với dòng nước
Ở trên đỉnh Ải Tây, mây, đếch biết làm gì, bèn cũng đi theo anh già! 

I wonder how we can survive, this romance
But in the end if I'm with you, I'll take the chance

Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You

Note: Năm cùng tháng tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài thơ trên thì đúng là tuyệt cú mèo!

Làm sao Gấu qua khỏi con trăng này?
Nhưng sau cùng, nếu Gấu gặp Sad Seagull, thì Gấu sẽ chấp tất cả thế gian này!

Hà, hà!

Chúc bác Gấu luôn mạnh khỏe, và luôn luôn... Gấu.
Sad Seagull

Tks. Take Care, Plse
NQT


Chữ người tử tù  ( Nguyễn Quốc Trụ)

  CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

 


 

          Nhà văn Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn cung tần mỹ nữ, và hàng lô con cháu. Chẳng muốn bỏ đứa nào!

Ông sinh năm 1904, tại Ba Lan, di cư sang Mỹ năm 1935, và một thời gian làm ký giả cho tờ báo cộng đồng Jewish Daily Forward, tại New York City. Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi như nhà văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất của "trường" văn chương Iddish. Vĩ đại hơn, ông là nhà văn Iddish đầu tiên, sống nhờ viết văn. Chúng được dịch ra tiếng Anh, rồi ông được trao tặng Nobel (1978). Là một trong số những dịch giả truyện của mình, với ông, tiếng Anh còn là ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai, nhưng ông thú nhận, ông viết bằng tiếng Iddhish, vì đây là "tử ngữ', và truyện của ông là để cho những người đã chết, đọc.

Trong Nhà Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ Ngọc Phan đã tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lớp sau. Có thể mượn nhận định của Sartre, về chủ nghĩa Mác-xít: tùy bút của Nguyễn Tuân quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của nó, đã "di truyền" mãi mãi về sau này. Như nhìn ra "phần số khắc nghiệt", để bù lại, trong truyện ngắn, Nguyễn Tuân thường viết về những người đã chết. Ở đó, chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông đẩy tới tột cùng, biến thành lòng nhân hậu.

Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như thế này phải tìm đất khác để mà tụ lại): chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực. Khó mà thấy cõi lòng nhân hậu đó, của Nguyễn Tuân, ở trong những trang tùy bút tuyệt vời như Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn... kể cả sau này, trong những bài ký thời chống Mỹ cứu nước, như thể ông càng đi nhiều, càng gặp người (sống) nhiều, tài hoa, lòng nhân hậu của ông càng hao mòn dần...

Chữ người tử tù: lý tưởng một đời người, ý nghĩa của chữ. Trên đỉnh non Tản: hiện thực huyền ảo. Non Tản: Cái nôi, chốn hành hương, cội rễ nhà trời, nơi trời Việt, đất Việt gặp gỡ...

Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện tình (chúng làm cho những lần chia ly bớt thê thảm đi một chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...

Nhận xét của họ Vũ về thể văn tuỳ bút, ở Nguyễn Tuân, không ngờ đầy chất tiên tri. Những bài viết của ông sau này, là ký, không còn là tuỳ bút.

Với tuỳ bút, cái "tôi" rất quan trọng. Cá nhân người viết, khi đọc "Những essays hay nhất trong năm của Mỹ", The Best American Essays, thấy chúng rất giống thể văn tuỳ bút, ở tính tự thuật, ở chất hồi tưởng, và nhất là ở tấm lòng của người viết, khi chuyện trò với những hồn ma. Tuyển tập Những bài essay hay nhất (hàng năm) của Mỹ, có một đặc biệt: mười hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm mời một tác giả làm "guest editor", thường là những khuôn mặt "đang lên": Joyce Carol Oates (1991), Susan Sontag... Gần đây nhất là Jamica Kincaid (1995), Geoffrey C. Ward (1996).

Tuyển tập 1997, với Ian Frazier lo việc in ấn và viết lời giới thiệu, có bài viết của Lê Thị Diễm Thúy, The Gangster We Are All Looking For. Qua phần ghi chú tiểu sử, chúng ta được biết, bà là một nhà văn, và nghệ sĩ trình diễn đơn (solo performance artist). Sinh tại Việt Nam, lớn lên tại miền Nam California, hiện cư trú tại phía tây Massachusetts. Đã từng đoạt giải thưởng 1997 Bridge Residency của Headlands Center for the Arts. Văn xuôi và thơ của bà đã xuất hiện trên The Massachusetts Review, Harper's Magazine, và Muae. Tác phẩm trình diễn: "Red Fiery Summer" và "the bodies between us". Hiện đang viết cuốn sách với nhan đề nêu trên, sẽ do Knopf xb.

Đọc Gã Găng-tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm, chúng ta sẽ thấy hậu quả của cuộc chiến đè nặng lên những nhân vật trong truyện, và thật khó mà nghĩ rằng, nó đã chấm dứt, không phải với chúng ta, mà với những thế hệ tiếp theo. Câu chuyện bắt đầu bằng một tấm hình đen trắng: Việt Nam là một tấm hình đen trắng, chụp ông bà tôi ngồi trên những chiếc ghế tre... Khi nhìn bức hình ông bà tôi, ở những năm cuối đời của họ, tôi cứ muờng tượng ra một sự khởi đầu. Khởi đầu cho cái gì, và ở đâu, tôi không biết, nhưng luôn luôn là một sự khởi đầu... Ký ức của bà mẹ truyền lại cho người con (nhân vật xưng tôi): Mẹ tôi có nghe một câu chuyện về một cô gái bị chết vì bom na-pan, khi xuống bãi dúng chân vào nước cho mát. Người ta kiếm thấy cô nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Chất lân tinh của trái bom trùm lên thân thể cô, khiến nó lập lòe như một ngọn đèn...

Trên nói tiên tri, đối với cả thể văn tùy bút, lẫn con người Nguyễn Tuân. Một cách nào đó, khi ông phải "từ chối" tác phẩm (Những tác phẩm viết trước cách mạng như Tàn Đèn Dầu lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, hoặc sau đó, như Phở chẳng hạn), tôi nghĩ, có thể ông tin rằng, tuy ông bị ở lại, nhưng thể văn tuỳ bút, và con người Nguyễn Tuân ở trong đó, đã "vượt thoát". Đã sống sót, ở một số nhà văn sau ông. Thí dụ như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo... Có điều, cả Nguyễn Tuân lẫn Vũ Ngọc Phan không thể ngờ, thể văn tuỳ bút lại trở thành một địch thủ lợi hại của thơ ca và giả tưởng, như trong bài Tựa của Robert Atwan, cho Tuyển tập 1997 kể trên: "Sự thay đổi của thể essay ngày hôm nay làm cho thi ca và giả tưởng trở thành tù đọng: essay là một dạng văn chương năng động nhất hiện nay của chúng ta. Nào là essays kể (narrative), như của Lê Thị Diễm Thuý, rất gần gụi với thể truyện ngắn. Essays khảm (mosaic) giống như thơ xuôi. Rồi phê bình văn chương mang dạng tự thuật. Thể văn báo chí mang giọng bi kịch, cộng thêm ẩn dụ, suy tưởng, với một liều lượng rất nặng tay, những thông tin. Một vài nhà essayists viết tranh luận (polemic) "cứ như thơ"!

Trong bài Giới thiệu, Ian Frazier lại coi essay là một hành động (Thì "đi" không phải là một hành động hay sao?, tôi như nghe Nguyễn Tuân, Vũ khắc Khoan, tuyết ngưu "gầm gừ" từ phía bên kia đời sống vang vọng qua). Ông định nghĩa thêm: Một bài essay là một người đang nói. Câu này thật đúng với tuỳ bút Nguyễn Tuân. Đây là sự khác biệt giữa hai Nguyễn Tuân, giữa tùy bút và ký. Có thể nói khinh bạc là tuỳ bút Nguyễn Tuân. Với ký, con người biến mất, chỉ còn "chúng ta", một khối vô danh đáng ghét, đáng sợ.

Có thể có người "bắt bẻ"; trong truyện ngắn, trong tiểu thuyết, luôn luôn vẫn thấy, vẫn nghe người nói; nhưng người ở đây chỉ là giả tưởng, cái tôi trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một tôi đeo mặt nạ. Khác hẳn cái tôi "bắt buộc", như chất khinh bạc, ở trong tuỳ bút Nguyễn Tuân. Khi nào quá chán cái tôi khinh bạc, ông viết về những người đã chết...

Nguyễn Quốc Trụ

____

a2a mời đọc : Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

http://www.tanvien.net/dich/linda_le_singer.html


UN DYBBUK  AMOUREUX
Hồn ma si tình
Isaac Bashevis Singer et son alter ego
Singer và thế thân của ông

Trong L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris chào mừng Isaac Bashevis Singer, như một tay kể chuyện cổ gần gũi với "những bậc thầy vô ngã, vô tên của quá khứ, những nhà văn lớn lao giống như tất cả mọi người, và chẳng giống một người nào, bởi vì họ biến thành những con người nói bằng bụng, thay vì bằng miệng, và những nhân vật đa dạng, những hộp cộng hưởng, cho mọi thứ tiếng tơ đồng, của cõi sống."

Như con quỉ cuối cùng, trong một truyện ngụ ngôn của mình, sống bằng cách gậm nhấm một cuốn sách cổ xưa [thuật chuyện núi rừng Hua Tát, bằng một thứ ngôn ngữ Mường Mán], Singer là một meshugah, một tên khùng, sống sót bằng cách, rút ra từ những huyền thoại Do Thái, và những kỷ niệm về một thế giới đã qua, lý do hiện hữu của mình.
Lưu vong qua Mỹ vào năm 1935, khi đó ông 31 tuổi, ông viết bằng tiếng yiddish, và cộng tác trong việc dịch chúng qua tiếng Anh. Ông muốn viết bằng một ngôn ngữ chết, mà sự biến mất của nó báo hiệu sự suy tàn của nghệ thuật.
Nhà văn yiddish, với ông, là một thứ dybbuk, một bóng ma, nhìn, và không ai nhìn thấy được. Viết nhiều, "thi sĩ của lưu vong, không phải theo kiểu Do Thái, mà là một thứ lưu vong đụng tới con người, và nhất là, con người-nhà văn đương thời", Claudio Magris nói về Singer.
Singer cố làm bật ra, bằng một nỗi buồn nhuốm mầu thần bí, tính sống động, và cơn chao đảo, của một thế giới chìm xuồng.

retour aux classiques

par Linda Lê

UN DYBBUK  AMOUREUX

Isaac Bashevis Singer et son alter ego

Dans L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris saluait en Isaac Bashevis Singer un conteur proche de ces “grands écrivains impersonnels et anonymes du passé, qui ressemblent à tout le monde et à personne parce qu'ils se font les ventriloques indifférents des vies et des personnages les plus divers, et les caisses de résonance impartiales de toutes les cordes du vivre”. À la manière du dernier démon d’une de ses paraboles, qui se nourrit en rongeant un vieux livre de contes yiddish, Singer était un meshugah, un fou qui survivait en tirant des légendes juives et des souvenirs du monde d'hier sa raison d'être.

Exilé aux Etats- Unis en 1935- il avait 31 ans -, il composait ses textes en yiddish, et collaborait à leur traduction en anglais. Il déclarait avoir conscience d'écrire dans une langue morte, dont la disparition annonce le déclin des arts. L'écrivain yiddish pour lui est une sorte de dybbuk, de spectre, qui voit mais n’est pas vu. Auteur prolifique, “poète de l'exil, pas seulement des Juifs mais de l'exil existentiel qui touche l'homme et surtout l'écrivain contemporain”, disait encore Claudio Magris, Singer s'est attaché à dépeindre, avec une mélancolie teintée de mysticisme, la vitalité et le chaos d'un univers qui a sombré.

Le jeune Arele Greidinger, le narrateur de Shosha et l'alter ego romanesque de Singer, affirme sans ambages que le monde est un abattoir et un bordel. Fils de rabbin, tout comme Singer lui-même, et tout comme ce dernier lecteur de Weininger et de Spinoza, Arele se fraye un chemin dans la Varsovie de l'entre-deux-guerres: it écrit une pièce ou l'héroine tombe amoureuse de son dybbuk - on reconnait là l'ébauche de ce qui sera La Corne du belier de Singer. Une actrice américaine et un ancien charpentier qui a fait fortune se proposent de le lancer. L'aventure tourne court avant même d'être sur les rails. Loin de ce microcosme, qui prend de plus en plus conscience de la menace hitlerienne et se tourne vers Staline avant d'ouvrir les yeux sur la terreur qui règne au paradis bolchevique, Shosha, une femme enfant, un peu retardée, répresente l'innocence perdue. Arele poursuit son rêve, refuse de partir pour New York, et choisit de s'installer auprès de cette étrange créature, à peine capable de comprendre ce qu'il écrit.

Fourmillant de personnages qui traversent la scène comme des evadés impatients de tout connaitre avant l'effondrement de ce à quoi ils ont cru, ce roman, qui développe un chapitre d'un livre autobiographique de Singer, Un jour de plaisir, est autant un chant d'amour qu'un kaddish pour les morts auxquels Singer offre un tombeau de papier. 

Shosha

Isaac Bashevis Singer

Trad. de l'anglais par Marie-Pierre Bay et Jacqueline Chnéour Ed. Stock, 380 p.,19 €.

Le Magazine Littéraire, Mai, 2007


 Thu Toronto 2016, Oct, 16
The End Of Autumn

All of autumn, in the end, is nothing but a cold infusion. Dead leaves of every sort steep in the rain. No fermentation, no production of alcohol: we’ll have to wait until spring to judge the effects of a cold compress on a wooden leg.
Sorting the ballots is a disorderly procedure. All the doors of the polling place slam open and shut. Throw it out! Throw it all out! Nature rips up her manuscripts, demolishes her bookshelves furiously clubs down her last fruit.
Then she abruptly gets up from her work table. She suddenly seems immense: hatless, head in the fog. Swinging her arms, she rapturously breathes in the icy, intellectually clarifying wind. Days are short, night falls fast; there’s no time for comedy.
The earth, in the stratosphere with the other heavenly bodies, looks serious again. The lit up part is narrower, encroached on by valleys of shadow. Its shoes, like tramp’s, soak up water and make music.
In this frog-farm, this salubrious amphibiguity, everything regains strength, leaps from stone to stone, changes pasture. Streams proliferate.
This is what’s called a good clean-up, with no respect for convention! Dressed or naked, soaked to the marrow.
And it doesn’t dry up right away, it goes on and on. Three months of salutary reflection with no bathrobe, or loofah, no vascular reaction. But its sturdy constitution resists.
So, when the little buds begin to jut out, they know what they’re doing, what it’s all about. That’s why they come out so cautiously, red-faced, benumbed, they know what lies ahead.
But thereby hangs another tale, perhaps from the black rule, though it smells different, I’ll now use to draw the line under this one.

Translated from French by C.K. Williams in Francis Ponge – Selected

Note: Bài thơ này, chôm trên net. Tình cờ, thấy trong 1 số báo trên quầy tại tiệm Indigo, TLS, số Mùa Xuân 2016 (?),  cũng có bài thơ này. Cũng có cái tên End of Autumn, nhưng ngay câu đầu, là đã khác:
In the end autumn is nothing more than a cup of tea gone cold.
Sau cùng thu chẳng còn gì, nếu còn chăng, thì là 1 ly trà lạnh ngắt
Bèn dùng ipod chôm, từ từ GCC type, và dịch, song song với bài trên. Chắc cũng nó. 

Trên tờ Điểm Sách của Anh, số mới nhất, có bài viết về Cuộc tình của Pasternak với Lara, ở ngoài đời, và là cái mầm đẻ ra tác phẩm "Bác Sĩ Zhivago".
Cuốn này, không chỉ Xịa, mà còn có sự trợ giúp của Vatican, mớ
i đưa lén vô được nước Nga, qua những người đi du lịch.
Nhưng giá trị của nó, cực bảnh, về mặt văn học, mặc dù tác giả của nó, gần như phát điên lên: ông nghĩ, ông được Nobel là nhờ thơ, và đúng ra phải như thế, theo Milosz, trong bài viết về ông, có trích đăng trên Tin Văn.

https://literaryreview.co.uk/behind-every-great-book

Boris Pasternak was a larger-than-life character on the Soviet literary scene. Born at the beginning of the 1890s into an artistic, successful family of assimilated Jews, he was much admired by his peers as a poet but clearly fell into the ‘bourgeois’ category disdained by proletarian communists, all the more so since the rest of his family emigrated after the Russian Revolution. Stalin, however, thought it worth protecting the man he called a ‘cloud-dweller’. In the mid-1930s, Pasternak decided to turn to prose, writing a big-canvas novel set during the Revolution with a protagonist based to some extent on himself and a love story at its heart. It was published two decades later as Doctor Zhivago.


*

Her opinion of him as a novelist, however, was something else altogether. While Akhmatova greatly admired the nature descriptions in Zhivago, she considered the work as a whole a failure comparable in magnitude to the second volume of Gogol's Dead Souls (which was burned by its author, apparently out of despair). As a result, she complained, "he had put his friends and those close to him in a very difficult position:" Presumably the difficulty she had in mind was not that of official persecution, but rather the private awkwardness involved in trying to offer emotional support to a beleaguered artist while refusing to praise his art. In November 1958, Akhmatova told Chukovskaya that she was going to pay Pasternak" a visit of condolence, but without expressing any condolence"; they would talk" about the weather, about nature, about anything," only not about the topics that must have been uppermost on Pasternak's mind.' Akhmatova also could not escape some bitterness at the thought that the Western world, which had been silent when she was under attack and her son in prison, was now raising a clamor over the comparatively less harsh treatment Pasternak received.

Nancy K. Anderson: Anna Akhmatova: The Word That Causes Death’s Defeat: Poems of Memory

Akhmatova coi “Bác Sĩ Zhi Và Gồ” là 1 thất bại, khổng lồ như Phần Hai của “Những Linh Hồn Chết” của Gogol. Bà cũng hơi bị quê, khi Tây Phương thổi cuốn sách thấu trời, còn bà, thì chẳng ai thèm nhắc tới, khi chồng bị giết, con đi tù.
Trong những lời vinh danh Pạt, bảnh nhất theo Gấu, là của Italo Calvino, trong bài viết “Pạt và Cách Mạng”:

Perhaps Pasternak's importance resides in this warning: history whether in the capitalist or socialist world - is not yet history enough, it is not yet a conscious construct of human reason, it is still too much a succession of biological phenomena, of brute nature, not a realm of liberties.
    In this sense Pasternak's idea of the world is true - true in the sense of assuming the negative as a universal criterion, just as Poe's and Dostoevsky's and Kafka's ideas were true in this way - and his book has the superior utility of great poetry. Will the •Soviet world know how to make use of it? Will socialist literature in the world be able to elaborate a response to it? This can be done only by a world which is in a ferment of self-criticism and creativity, and only by a literature which can develop an even stricter adherence to things. From today onwards, realism means something deeper. (But has it not always meant that?)

[1958]

Italo Calvino

The life of Lara is in its linearity a perfect story of our times, almost an allegory of Russia (or of the world), of the possibilities which gradually opened up for her (or it), or which were all presented to her (or it).

Cuộc đời của Lara, qua những dòng kể là câu chuyện tuyệt hảo về thời của chúng ta, một ẩn dụ về Gấu Mẹ Nga Vĩ Đại (hay về cả thế giới), về những khả thể dần dần mở ra cho nàng....

Cái sự kiện THT chê BN viết nhảm về thám báo, làm Gấu nhớ đến thần đồng Trần Đăng Khoa chê Nguyễn Tuân chẳng biết gì về… pha trà. Nhớ, thần đồng phán, pha như NT chỉ, là hư mẹ bình trà! (1)

Úi giời ơi, mi muốn biết pha trà, thì ra chợ, mua 1 cuốn “how to”, chứ sao lại đọc Nguyễn Tuân?
Nabokov chẳng đã đi hẳn 1 bài về “vấn lạn” “lày” rồi, đại khái, muốn biết về sử thì đọc sách sử, muốn biết về trận đánh Waterloo để…  viết văn thì đọc “Chiến Tranh và Hòa Bình”, của Tolstoi.
Có lẽ, THT cũng nên viết 1 cuốn về lịch sử thám báo, thay vì viết 1 cuốn tiểu thuyết về lực lượng này, hà, hà!

Đọc Italo Calovino ca ngợi nhân vật Lara làm Gấu nhớ đến nhân vật Phương của "Nỗi Buồn", và nhân đó, bật ra ý này:

Nếu BN viết sai về thám báo, thì anh viết đúng về Bộ Đội Cụ Hồ: Chính chúng hiếp Phương chứ đâu phải...  thám báo ?

Đọc như thế, thì mới ra cái lời trù ẻo, tiên tri về chúng, như Malaparte phán: Anh VC Bắc Kít vừa mới cười với một cô gái trong trắng, xong, là cô ta biến thành điếm!
Rõ ràng là nhờ ơn giải phóng mà bướm nhiều như muỗi rừng U Minh, trong "Cánh Đồng Bất Tận" của Cô Tư, một trong những "khả thể" mở ra cho Phương và cho xứ Mít! đúng như Calvino viết!

(1)
Nabokov đã có lần bực mình, vì cái chuyện có những độc giả đọc tiểu thuyết lịch sử để học lịch sử.
Cái ông thần đồng thi sĩ, Trần Đăng Khoa, cũng đã trách mắng cụ Nguyễn Tuân, rằng thì là, nếu người ta theo cách của cụ dậy pha trà như ở trong "Vang Bóng Một Thời", thì chỉ có cách là đổ trà đi. Uống không được!
Muốn học cách pha trà, thì đi tìm sách dậy pha trà, chứ làm sao lại đọc Nguyễn Tuân?

Nhưng, ngược lại, độc giả sẽ bực mình, phẫn nộ đến cỡ nào, khi đọc ở trong tiểu thuyết, thấy có những chi tiết thực, của riêng từng cá nhân, chỉ người đó mới được quyền sử dụng?

Nhà văn và tên bồi

*


*

Cả 1 nền văn học VC, được, chỉ có cuốn này, [dù những chi tiết sai lầm về thám báo của nó, như THT chỉ ra!]
Nó đánh dấu chấm hết thật là đáng mừng, cái thứ văn chương chỉ có siêu nhân, hay quái vật, như anh hùng Núp của Nguyên Ngọc.
Trong khi Miền Nam, có muôn vàn thứ OK, nào truyện ngắn, nào truyện dài, chưa kể những thứ tạp nhạp như của THT!
Đó là sự thực.
Văn chương đâu phải trò đàn đúm!
GCC đâu có thù hằn gì ông THT?
Bài điểm sách của Gấu, ngày nào, viết về ông ta, và những nhà văn cầm súng như ông, là cả 1 hoài bão về 1 văn tài, về cả 1 thế hệ văn chương

Nhà văn và tên bồi

Trong bài viết “Pạt và Cách Mạng”, Italo Calvino khuyên độc giả, khi đọc "Bác sĩ Zhi Và Gồ", thì nên vờ thằng chả, mà chỉ chú ý đến Lara. Lara bảnh hơn nhiều!
Quả đúng như thế.
Phương mới là nhân vật chính của NBCT, bởi thế, khi viết về cuốn này, Gấu phán, cái tít cũ của nó, mới đúng, “Thân Phận Tình Yêu”.
Khi đọc “Sau Cơn Mưa” của Lý Hoàng Phong, Gấu nhìn ra Lara qua nhận Hà, ở trong đó. Nhưng Hà của LPH lại đưa chúng ta tới Hà [?] trong Đôi Bạn của Nhất Linh. Em bĩu môi, khi người tình đến từ biệt em, đi làm cách mạng, và trên đường đi làm cách mạng, bấm chuông cái xe đạp, vọng đến tai:
Nghe rõ rồi!

Số NYRB mới này, University Issue, 10 July, có đến mấy bài OK. Bài về Zhivago của Xịa,  free, mấy bài còn lại, không free cũng thần sầu. Bài, “Sự cứu chuộc của Walter Benjamin, [The Redemption of]”, điểm "Walter Benjamin: A Critical Life", cuốn tiểu sử mới ra lò về ông, cho thấy, WB ra đời toàn gặp “bad luck”, nổi tiếng như 1 huyền thoại, trước như 1 sự kiện, a fact. Câu trích từ “Những luận đề về Triết học của Lịch sử” của ông, mà chẳng tuyệt sao: Quá khứ mang cùng với nó, một “temporary index”, và nó quy chiếu về sự cứu chuộc. Khi chấp nhận bad luck, cái chết cà chớn ở biên giới Pháp-TBN, thí dụ, ông tin tưởng hậu thế sẽ cứu chuộc, đời và tác phẩm của ông, từ bóng tối, trong đó, chúng có vẻ như được sinh ra là để nói dối [they seem to be destined to lie].

Nhưng bài essay ngắn, mở ra số báo, mới thần sầu: Ma trong Nắng, Ghosts in Sunlight, của Hilton Als. Tin Văn sẽ đi bài này.
Cực lạ, cực tuyệt. Thoạt đầu, nó là 1 bài mở ra cuộc nói chuyện tại Đại Học California, [School of Arts], ngày 21 May, 2014, về hồi nhớ, đối với nghệ sĩ: Họ nhớ để làm ra cái mới, remembering and making something out of it.

*

Hồi nhớ là sáng tạo:

Liệu DTH, khi ngồi khóc bên vệ đường một con phố Xề Gòn, ngày 30 Tháng Tư, là khóc cái quá khứ Miền Nam đã mất cùng với cú ăn cướp của Bắc Kít, hay là khóc 1 nước Mít như hiện nay?

Đây là đề tài 1 bài viết nằm trong PC của Bolano, được xb trong di cảo của ông!

Trên bìa sau của cuốn sách có nói tới. TV sẽ post liền bài này, cũng ngắn thôi, vì…  quá thú: Bolano viết về chuyến viếng thăm Argentina của Naipaul, và nhà văn nhớn ngửi ra liền thảm họa, political illness, của xứ này, và còn truy ra được nguồn gốc của nó - sự bí ẩn của Cái Ác – chẳng khác gì Gấu Cà Chớn, tìm thấy nó, ở trong chính nó: Cái Ác Bắc Kít!

Hà, hà!

*

Boris Pasternak and Olga Ivinskaya at his dacha in Peredelkino, late 1950s

 The CIA’s ‘Zhivago’

Tôi mất niềm tin vào giải văn chương Nobel từ khi tôi biết CIA đứng phía sau, vận động cho nhà văn Nga đoạt giải. Phải Boris Pasternak không, hay Solzhenitsyn? Cái này chắc phải hỏi nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, tôi hay lờ mờ lẫn lộn những chi tiết quí báu này, nên hễ nói ra là sai bét. Một cái giải thưởng cao quí đến thế mà nếu muốn thì thế lực này thế lực nọ đều có thể khuynh đảo đưa ra kết quả theo ý muốn của họ. Thế thì còn gì là công bằng.

Blog HH

Cái sự kiện CIA can thiệp vô Nobel, trường hợp Pạt, tưởng là cà chớn, nhưng thật là tuyệt vời, và nó làm nhớ tới trường hợp cuốn của Conquest, được lén đem vô nước Nga, nếu không có nó, là bỏ mẹ, là người dân Nga mù tịt về cái số phận khốn nạn của họ. 

Không chỉ CIA, mà luôn cả Vatican, cũng góp phần vào cái việc đưa lén cuốn sách về nước Nga, qua du khách ghé thăm Vatican.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng những cuốn tiểu thuyết thần sầu về Miền Nam được viết trước 1975 - thần sầu theo cái nghĩa, chỉ mô tả trung thực xã hội Miền Nam - lọt ra xứ Bắc Kít, nơi người dân chỉ được nghe 1 cái đài nhà nước, qua cái loa ở đầu ngõ?
Ngay ngày đầu tiên tới thiên đường Miền Nam, nghe người dân chửi Thiệu như điên, bà DTH bèn ngộ ra 1 phát, và bèn ngồi xuống lề đường Xề Gòn, khóc 1 phát
, và phán, cũng 1 phát:
Đù Má Tụi Bay, Tụi Bay Lừa Cả 1 Nửa Đất Nước!

Cái sự cho Nobel năm nay, theo GCC, có mắc mớ, 1 cách nào đó, theo tính ẩn dụ gì đó, cũng có thể, đến số phận thê thảm của xứ Mít như bây giờ.
Nhận ư, thì nhận luôn 3 người triệu người chết trong cuộc chiến và triệu triệu người chết sau đó, trong Trại Tù, trong Vượt Biển, trong Bụng Cá, trong, trong... và 1 nước Mít tang thương như hiện nay, thưa nhà nhạc sĩ phản chiến vĩ đại?

Đâu có phải tự nhiên PXA khóc ròng, nắm tay vợ, đi không được?
Em ơi, kíu anh với, triệu triệu hồn ma đòi mạng....
Rồi Võ Tướng Quân?
Rồi đao phủ Mậu Thân?
Đếch thằng nào đi được!

Nhận là nhận luôn cái nhục của cuộc bỏ chạy tán loạn?

I merely wish to remind the reader once again (and Robert Conquest knows this very well) that the Soviet state was not created out of thin air, that its inhabitants were the inhabitants of yesterday's Russian state who awoke one fine morning to find themselves under the so-called Soviet regime. The October revolution and the civil war that soon followed led to the exile and destruction, or de-civilizing, of the Europeanized Russian population (by Europeanized I mean people who were literate, educated; who possessed a work ethic, a developed religious consciousness, respect for law and reason; and who were also familiar with Europe and the achievements of world culture). Those who survived and remained in Russia lost the right to speak their mind and were too frightened or weak to influence anything. Russian society, though it wandered in the dark for centuries, had nonetheless by 19I7 given birth not only to an educated class but to a large number of people with high moral standards and a conscience, to honest people who were not indifferent to issues of social good. This is the intelligentsia - not really a class but a fellowship of people "with moral law in their breast," as Kant put it. Lenin hated them more than anyone else, and they were the first to be slaughtered. When Maxim Gorky wrote to Lenin in their defense, saying that "the intelligentsia is the brain of the nation," Lenin answered with the famous phrase: "It's not the brain, it's the shit."


Human life is short. For many people, delving into history's depths is boring, frightening, and they have no time for it. Furthermore, in the West the sense of history has weakened or completely vanished: the West does not live in history; it lives in civilization (by which I mean the self-awareness of transnational technological culture as opposed to the subconscious, unquestioned stream of history). But in Russia there is practically no civilization, and history lies in deep, untouched layers over the villages, over the small towns that have reverted to near wilderness, over the large, uncivilized cities, in those places where they try not to let foreigners in, or where foreigners themselves don't go. Even in the middle of Moscow, within a ten-minute walk from the Kremlin, live people with the consciousness of the fifteenth or eleventh century (the eleventh century was better, more comprehensible to us, because at that time culture and civilization were more developed in Russia than in the fifteenth century). When you have any dealings with these people, when you start a conversation, you feel that you've landed in an episode of The Twilight Zone. The constraints of a short article don't allow me to adequately describe this terrifying feeling, well known to Europeanized Russians, of coming into contact with what we call the absurd, a concept in which we invest far greater meaning than Western people do. Here one needs literature- Kafka, Ionesco; one needs academic scholars like Levy-Bruhl with his study of pre-logical thought.

Đời người thì ngắn ngủi. Với nhiều người, cái việc đào bới quá khứ thì chán ngấy, chưa kể đáng sợ, và họ chẳng có thì giờ. Vả chăng, ở 1 xã hội Tây Phương, ý niệm lịch sử yếu dần nếu không muốn nói, biến mất theo với năm tháng: Tây phương không sống với lịch sử, nó sống với văn minh (qua cái từ này, tôi muốn nói 1 thứ tự quan hoài, của 1 nền văn hóa liên quốc gia, mang tính kỹ thuật, đối nghịch với dòng tiềm thức, không tra hỏi của lịch sử). Nhưng ở Nga, gần như không có cái gọi là văn minh, và lịch sử thì nằm trong những tầng sâu, chưa ai mó tới, trên những làng xóm, thành phố nhỏ mấp mé bờ tiền sử, thời hoang sơ, trên những thành phố lớn ở những khu vực rộng, không biết đến cái gọi là có văn hóa, nơi ngăn cấm những người nước ngoài, và chính họ cũng chẳng dám mò tới. Ngay cả ở trung tâm thành phố Moscow, vẫn có những khu vực mà đời sống ở đó, thì “huy hoàng thế kỷ” 15, hay 11; thế kỷ 11 thì dễ hiểu, dễ thông cảm hơn, vì vào thời kỳ này, nước Nga phát triển nhiều về mặt văn hóa, văn minh, so với thế kỷ 15)

Tây Phương sống bằng văn minh, Mít sống bằng lịch sử. GCC thuổng ý này, khi viết về Bác Hồ, giống như cái xác ướp của Đức Thánh Trần, thí dụ, từ quá khứ bốn ngàn năm bèn sống lại, hoặc, buồn quá, bèn vỗ vai Hùng Vương, “toa” có công dựng nước, còn “moa”, giữ nước!


Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử, cho nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già dân tộc.
Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ.
Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn chương sử nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra, và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".


During Stalin's time, as I see it, Russian society, brutalized by centuries of violence, intoxicated by the feeling that everything was allowed, destroyed everything "alien": "the enemy," "minorities"-any and everything the least bit different from the "average." At first this was simple and exhilarating: the aristocracy, foreigners, ladies in hats, gentlemen in ties, everyone who wore eyeglasses, everyone who read books, everyone who spoke a literary language and showed some signs of education; then it became more and more difficult, the material for destruction began to run out, and society turned inward and began to destroy itself. Without popular support Stalin and his cannibals wouldn't have lasted for long. The executioner's genius expressed itself in his ability to feel and direct the evil forces slumbering in the people; he deftly manipulated the choice of courses, knew who should be the hors d' oeuvres, who the main course, and who should be left for dessert; he knew what honorific toasts to pronounce and what inebriating ideological cocktails to offer (now's the time to serve subtle wines to this group; later that one will get strong liquor).
    It is this hellish cuisine that Robert Conquest examines. And the leading character of this fundamental work, whether the author intends it or not, is not just the butcher, but all the sheep that collaborated with him, slicing and seasoning their own meat for a monstrous shish kebab.
Tatyana Tolstaya

Lần trở lại xứ Bắc, về lại làng cũ, hỏi bà chị ruột về Cô Hồng Con, bà cho biết, con địa chỉ, bố mẹ bị bắt, nhà phong tỏa, cấm không được quan hệ, và cũng chẳng ai dám quan hệ. Bị thương hàn, đói, và khát, và do nóng sốt quá, khát nước quá, cô gái bò ra cái ao ở truớc nhà, tới bờ ao thì gục xuống chết.
Có thể cảm thấy đứa em quá đau khổ, bà an ủi, hồi đó “phong trào”.

Tolstaya viết:

Trong thời Stalin, như tôi biết, xã hội Nga, qua bao thế kỷ sống dưới cái tàn bạo, bèn trở thành tàn bạo, bị cái độc, cái ác ăn tới xương tới tuỷ, và bèn sướng điên lên, bởi tình cảm, ý nghĩ, rằng, mọi chuyện đều được phép, và bèn hủy diệt mọi thứ mà nó coi là “ngoại nhập”: kẻ thù, nhóm, dân tộc thiểu số, mọi thứ có tí ti khác biệt với nhân dân chúng ta, cái thường ngày ở xứ Bắc Kít. Lúc đầu thì thấy đơn giản, và có tí tếu, hài: lũ trưởng giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà vạt, đeo kiếng, đọc sách, có vẻ có tí học vấn…. nhưng dần dần của khôn người khó, kẻ thù cạn dần, thế là xã hội quay cái ác vào chính nó, tự huỷ diệt chính nó. Nếu không có sự trợ giúp phổ thông, đại trà của nhân dân, Stalin và những tên ăn thịt người đệ tử lâu la không thể sống dai đến như thế. Thiên tài của tên đao phủ, vỗ ngực xưng tên, phô trương chính nó, bằng khả năng cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ đám đông, khôn khéo thao túng đường đi nước bước, biết, ai sẽ là món hors d’oeuvre, ai là món chính, ai sẽ để lại làm món tráng miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục mà Conquest săm soi. Và nhân vật dẫn đầu thì không phải chỉ là tên đao phủ, nhưng mà là tất cả bầy cừu cùng cộng tác với hắn, đứa thêm mắm, đứa thêm muối, thêm tí bột ngọt, cho món thịt của cả lũ.

Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest, bản nhìn lại, a reassessment, do Oxford University Press xb, 1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya, 1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan, cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực hãn hữu, được đọc nó, khi vừa mới Trại, qua tờ Thế Kỷ 21, với cái tên “Những Thời Ăn Thịt Người”. Không có nó, là không có Gấu Cà Chớn. Không có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu, như 1 tên Bắc Kít, nhà quê, may mắn được ra Hà Nội học, nhờ 1 bà cô là Me Tây, rồi được di cư vào Nam, rồi được đi tù VC, rồi được qua Thái Lan... là để được đọc bài viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn bài điểm sách, đọc những đoạn mặc khải, mới cảm khái chi đâu. Có thể nói, cả cái quá khứ của Gấu ở Miền Bắc, và Miền Bắc - không phải Liên Xô - xuất hiện, qua bài viết.
Khủng khiếp thật!