*

TƯỞNG NIỆM




Trong cuốn dvd đúp, Ngày Trở Về, Phạm Duy cho biết, bài Thuyền Viễn Xứ được sáng tác, trong dòng những bài trước đó, của Hoàng Quý, của Đặng Thế Phong... ra đời trước nó 10 năm, tuy nhiên, ông nhấn mạnh, nếu những bài hát kia mang chất Lãng Mạn, biểu hiện một thứ tình cảm cá nhân, thì bài TVX có tính hiện thực, không biểu hiện một cõi tôi cá nhân. Thí dụ như câu:
Sóng Đà giang thuyền qua xứ người.

Theo Gấu, bài Thuyền Viễn Xứ là một bản nhạc không mang tính hiện thực, mà là tính tiên tri. Nó đã được sáng tác ra, cho những người Việt ở hải ngoại, mãi sau này, ngay cả khi PD đã trở về, và họ, không thể trở về, chỉ còn cách hát bản nhạc của ông, cho đỡ nhớ quê hương:
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người.
*
Khủng khiếp thật, quyền năng, sức mạnh tiên tri.
Chỉ một bản nhạc!
*
Trong một video, đài VNCR phỏng vấn PD trước khi ông trở về, Đài này trích một câu ông nói, tôi thương hại những người chỉ trích tôi, phê bình tôi, vì họ không hạnh phúc như tôi... . Chính vì câu này mà Gấu phải tò mò nghe cho hết cuộc phỏng vấn. Hóa ra ông thương hại họ là người không có cái hạnh phúc của một thằng nghệ sĩ, nắm bắt đúng cái bước đi của thời gian, và đẻ ra được những sáng tác thật là tuyệt vời, như ông.
Nhưng có những người rất đau lòng vì chuyện PD trở về, đó là những người nâng niu những khúc nhạc tuyệt vời trên, và cái đa số thầm lặng này không hề chỉ trích, không hề phê bình PD. Họ chỉ đau lòng, PD, người nghệ sĩ luôn nắm bắt kịp cái hạnh phúc, chẳng lẽ không bắt kịp cái đau xót của những người yêu mến ông, trân trọng tài năng của ông?
Gấu nghĩ đám đa số thầm lặng này rất thương hại PD, như PD thương hại, không phải họ. NQT
*
Với tôi, Phạm Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc tình. Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án.
Lần đó, ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ được. Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ thỉ một mình. Những gì ..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau này, mỗi lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến còn nguyên đó, đối với riêng tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên xa Sài-gòn, xa cô bạn. Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở trong trại cải tạo còn thê thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...

Mùa thu, những di dân
Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
"Ở bẩn sống lâu" hay "không thành công thì thành nhân", bạn muốn thứ nào?
Trong "Lessons of the Masters" [Harvard University Press, bìa mỏng, 2005], ông 'nghiên cứu sinh' Steiner vinh danh Alain, một trong những Vị Thầy Suy Tưởng, Maitres à Penser.  Steiner viết, Alain - thầy của Simone Weil, André Maurois -  dậy học trò một câu thật quái dị: đừng thành công [ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức, the supreme moral rule.
Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải...  bẩn! Phải chiều theo luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải thỏa hiệp.
"Nỗi khổ" của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính là sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người nghệ sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".
Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành công thì rất ư là thành công, nhưng không... sống sót!
Nhưng cũng vẫn Alain, đã gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza [Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest good], đó là:
[Hãy] kinh nghiệm niềm vui của tư tưởng và [hãy] tha thứ cho Lão Tặc Thiên. Tha thứ cho ông trời già độc địa.
[to experience the joy of thought and to pardon God].
Trời kia mà còn "tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
Vụ Án

Nói Thuyền Viễn Xứ được sáng tác cho những thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn dặm, thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo, tinh thần thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì cứ nói đại, cho dù chính tác giả của nó cũng chẳng thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù VC đâu, thính giả đích thực của bản nhạc TVX,  là đám tù cải tạo.
Nói, "nó còn nhắm tới", có lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền năng huyền bí của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích dẫn Lévi-Strauss, sự phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng".
Gấu, tên tù cải tạo, vào lúc không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên 'quê hương' xuất hiện, không phải như là một 'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về khổ đau" (1), mà như một món quà tặng thật là tuyệt vời.

"Ở nơi đó, cũng vậy, giữa những ống khói, trong những quãng ngừng của khổ đau, có một cái gì giống như là hạnh phúc.... Vâng, đúng là nó đấy, hạnh phúc ở trại tập trung, điều mà tôi sẽ nói tới sau này, khi có người hỏi. Thì cứ giả dụ như sẽ có người hỏi. Thì cứ giả dụ như chẳng bao giờ tôi quên nổi, hạnh phúc."
Kertesz
(1) Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
Con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau.
W. Faulkner

*
Buổi tối, lần Gấu nghe tay bạn tù cải tạo chơi ghi ta bảnTVX, và miệng lẩm bẩm hát theo, thật là tuyệt vời.
Tuyệt vời và Ngỡ ngàng.
Thứ nhất, Gấu không hề nghĩ rằng, tay này biết chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm vô cái đàn ghi ta của cấm đó, anh chàng lại chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi tận đáy lòng mình, tưởng đã quên nó rồi, lôi ra và tấu nó lên, ở giữa khoảng trời đất mênh mông là trại cải tạo thuộc đặc khu Rừng Sát ngày nào, ngoài kia là trùng trùng lớp lớp rừng tràm rừng đước, là trùng trùng lớp lớp mồ hôi, sức tù đổ xuống, và trên trời kia, là trăng sáng đang đổ xuống....

Đúng ra phải nói, anh ta moi bản nhạc từ đáy sông Đà, con sông khốn kiếp ám ảnh hoài thằng Gấu xứ Đoài mây trắng lắm, bỏ chạy nó, và bị nó hành, mỗi khi trái nắng trở trời, mỗi khi đời sống sang mùa, hệ thống tự bảo vệ của cơ thể oải theo, thế là con 'vai rớt' Bắc Kỳ làm ngụy!
Sư phụ Faulkner chẳng đã từng phán: Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
*
Viết tới đây, Gấu lại nhớ đến một độc giả Tin Văn.
Độc giả quí hóa này, lần đầu tình cờ trượt vô trang Tin Văn, bấm trang Chuyện Văn, thấy bài đầu tiên của nó, là về Weil, bèn sửng sốt la lên, tại sao cái thằng Gấu ngu này lại biết đến tác giả favorite của riêng ta?
Ta cứ nghĩ, trên đời này, ngoài ta ra làm gì còn có một tên Mít nào khác đọc Weil?
Theo như Gấu biết Weil còn là tác giả favorite của Đỗ Long Vân.
Ông này mê cả thầy lẫn trò, tức Alain và Weil.
*
Bao nhiêu năm rồi, Gấu vẫn còn nhớ tên anh bạn tù. Hùng Võ Sĩ.
Cũng xin được đi một đường mở ngoặc ở đây. Những tên tuổi tù cải tạo, để phân biệt với nhau, thường đi kèm với một nickname, thí dụ Hùng Ghẻ, Hùng Võ Sĩ, Hùng Lêu Bêu... Lần đầu gặp một ông, tự xưng danh, tôi là Sơn Mê Ô, Gấu cứ nghĩ ông này gốc gác mũi lõ. Đến lúc ông chơi một bi thuốc lào, rít mạnh quá, miệng lệch qua một bên, lúc đó Gấu mới ngộ, đây là ông Sơn Méo. Méo, đọc kiểu Tây chẳng là Mê Ô sao?
Còn một ông kêu là Thái Dúi. Ông này lười tắm, nên... dái thúi.
Bỗng nhớ đến Dương Văn Ba, ông bạn sau làm dân biểu. Tụi này hồi đó đặt cho anh biệt danh là Ba Bù Loong. [Bù loong là cái con vít, từ tiếng Tây qua, viết theo đúng tiếng Tây, không bỏ dấu, thì nó lại có một ý nghĩa tiếng Việt hoàn toàn khác]
Anh tức điên lên!

V/v Văn chương huề vốn.
Đặng Tiến: Thanh Tâm Tuyền khước từ lối « văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò » (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp Lửa  ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là « trích diễm »
Nguồn


 

Milosz, trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS đã được "thanh toán".

Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.

Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.

Hãy hát tình ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã mất.
“Cái từ giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai chữ: Tình Yêu.”
*
 Tôi thu tôi lại...

Hạt bụi nào...

He has turned into the life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang

Akhmatova
Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó

D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
Note: Trang này có lâu rồi, mà... quên. NQT
*

Milosz, trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng với nó nữa.
Trong suy nghĩ đó, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS, cũng đã được "thanh toán".

Milosz cho rằng, cuốn sách [Cầm Tưởng] không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.

Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.
*
Gấu có, chỉ một kỷ niệm với TCS, như đã kể ra trong bài viết, thật ngắn, ngay khi ông vừa nằm xuống.
Có thể nói, bài của Gấu là bài đầu tiên trong những bài ai điếu TCS.
Ông "trúng đạn" [có được cái vé đi chuyến tầu suốt], chưa kịp té xuống tới đất, là đã có bài ai điếu rồi!
Sau này, Gấu vẫn thường tự hỏi, tại sao mà mình bắn nhanh như vậy !
Mãi mới hiểu ra, đó là nhờ cái cảm giác bực mình, trong cái lần gặp gỡ đầu tiên và cũng là độc nhất tại Quán Chùa.
*
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng Bắc.
Những ngày TCS

Sắp đi như ông, Gấu mới hiểu ra rằng thì là, chính nhờ ông, nhờ cái cảm giác bực mình đó, mà Gấu có được những người bạn "Huệ" thật là tuyệt vời, như Joseph Huỳnh Văn, ngày nào còn Sài Gòn, và... ngày này không còn Sài Gòn.
*
Đúng như người Việt mình nói, ghét của nào, Trời 'trao' của đó.
Hay như Borges, phán: Hài lòng hay bực mình thì cũng rứa!
[... that the satisfaction and disturbance are one  feeling. James E. Irby trong lời Tựa cho cuốn Other Inquisistions, 1937-1952, của Borges]
*
Cám ơn ông Trời, luôn cả ông Borges, một phát!
NQT


Blessed is he who visited this world
In its fatal moments
Akhmatova: Third Elegy [1945]
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,
Vào đúng lúc thê thảm như thế này.*

Ba nhạc sĩ của một thời, thời của chúng ta, mỗi ông là một số mệnh dị thường.
Dị thường theo nghĩa của Manea, khi ông nói về "an authentic testimony to true patriotism", "một chứng thực về lòng ái quốc không thể giả mạo".*
Văn Cao với bản chúc thư liên quan tới trường hợp ra đời của bản quốc ca.
Phạm Duy, với những đi và về cùng một nghĩa như nhau.
Còn Trịnh Công Sơn?
Có thể ông sẽ văng tục, bởi vì cả đời chưa hề một lần văng tục, khác hẳn Gấu.
Tao đếch thèm đi đâu cả, nhà của tao ở đây, thành phố của tao ở đây, quê hương của tao ở đây, cho dù thằng khốn nạn nào làm chủ thì cũng vậy!
*
Người Đức sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì cái vụ Lò Thiêu!
Những người Cộng Sản sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho đám Nguỵ, vì đã không giải phóng miền Bắc. (1)
(1) Bạn Gấu, NKL, sĩ quan thám báo, 13 niên, đã từng bị nhân dân mắng vốn: mấy cháu đánh đấm ra làm sao mà đến nông nỗi này? Mấy bác cứ mong hoài ngày chúng cháu ra giải phóng đất Bắc!
*

Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966:
"Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài "Tình Nhớ", gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết nhau.
Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc , vì họ đều tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất" .
Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề.
Tình Nhớ 
thì can dự gì đến phản chiến?
Bài hát đại khái:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...
Nói về nhạc phản chiến, cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?
Đặng Tiến: Trịnh Công Sơn
Cái nhận định, hình học là nghệ thuật lý luận đúng, trên một hình vẽ sai, Gấu thực sự không hiểu Đặng Tiến moi ở đâu mà ra.
Hay đây chính là điều thầy Nguyễn Văn Phú gọi là đường may mắn. Ai đã từng học toán, môn hình học, đều biết, có những bài toán hình học, không thể nào giải được, nếu không tự dưng "phịa ra" một đường, thế là bài toán được giải!
Vả chăng, Gấu này không nghĩ như Đặng Tiến, khi ông cho rằng: Tình Nhớ thì liên can gì tới phản chiến?
Và đây không phải là một trường hợp có thể qui về phạm trù văn học có tên là 'liên văn bản'.
Tình Nhớ chính là nhạc phản chiến, hiểu theo nghĩa trân trọng nhất của từ này.
Của nhạc này.
Nếu có một phần liên văn bản của nhạc TCS, thì cái phần này phải được hiểu theo nghĩa của Gide, khi ông phán về tác phẩm nghệ thuật, nhân đọc Dostoevsky: Tác phẩm lớn có sự tham dự của Quỉ.
Nhạc Trịnh Công Sơn có sự tham dự của con quỉ chiến tranh.
Nói rộng ra, có vẻ như, tất cả các tác phẩm văn học nghệ thuật của Miền Nam trước đây, đều được viết theo cách nhìn đó: Viết, sáng tác, trong nỗi lo sợ, hoặc nghệ thhuật, hoặc tác giả, bị trù ẻo, nguyền rủa, huỷ diệt....
Thanh Tâm Tuyền coi đây chỉ là bước đi [nhịp điệu] của thời gian.
Brodsky nói khác một tí: Thời gian được tái sắp xếp lại.
Cái nhịp của nhạc TCS chính là đại bác ru đêm.
Đó là phần liên văn bản của nó!


*

Đường may mắn.
Hình trên, là một bài toán lớp Đệ Ngũ.
Trên hai cạnh một góc nhọn, lấy hai đoạn bằng nhau AB và CD. Chứng minh:
MN - đường nối trung điểm AC và BD - song song với đường phân giác của góc.
 Gấu đã giải được, nhờ phịa ra thêm một đường.
Thiếu đường vẽ thêm đó, là vô phương!

Có những con đường may mắn như thế, phải đợi tri âm của nó, hàng bao nhiêu thế kỷ!
Koestler, trong Hành động sáng tạo, The Act of Creation, viết về trường hợp Kepler: Hình học "cô níc" đã từng được Apollonius of Perga nghiên cứu từ thế kỷ thứ tư, trước BC, chỉ để vui đùa, giải trí, và phải đợi Kepler, hai ngàn năm sau, mới biết cách sử dụng nó, vào việc nghiên cứu quĩ đạo các hành tinh. Mấy định luật về cô-níc, [hình e-líp, ở đây], Kepler khám phá ra, là nhờ đo đạc đường bay của mặt trời, mặt trăng, và khi biết, nó là hình e-líp, ông đã hoảng hồn, ghi vào nhật ký, tôi phải là một tên khùng, một kẻ sát nhân, bởi vì điều tôi khám phá ra đó, từ thời Pythagore người ta đã biết rồi!
Gấu viết đến đây, bỗng nhớ lại kỷ niệm tự mình kiếm ra phương trình đường thẳng, vội vàng đi khoe với bạn học, và bị ông bạn nhìn với cặp mắt thương hại, ôi chao, sao lại có thằng ngu như mày, hả Gấu, điều sơ đẳng đó, người ta đã kiếm ra từ đời nảo đời nào rồi.
Đây cũng là kinh nghiệm để đời cho mấy ông nghệ sĩ: một thằng cha sáng tạo ra cái mới phải là một thằng thuộc lòng quá khứ, và chán quá khứ quá, nên mới phịa ra cái mới, chỉ để vui chơi mà thôi!
Vui thôi mà! ĐT