*







Ghi chú trong ngày


*

Hạnh Bố Thí

"Nếu không biết nhận, chưa chắc đã biết cho"


To the end of the land của David Grossman: Đích thực là một tác phẩm đẹp và buồn. Xin khất một entry.

Blog GM

Cuốn oách nhất của xừ này, theo đám bạn Thầy Cuốc (1), là See Under: Love [Cái tít, thật khó dịch, vì mỗi lần tính dịch, là nghĩ bậy, nhìn bên dưới: tình yêu].
Gấu chưa đọc, nhưng đọc cuốn sau đây , trong có 1 bài, cái tít của nó cũng thật lạ: “Những cuốn sách đọc tôi”.

David Grossman kể, sau khi ông cho in tác phẩm đầu tay của ông, The Smile of the  Lamb, Nụ cười của con Cừu, thì có 1 độc giả cho biết, chắc chắn là ông bị ảnh hưởng [thuổng, thì nói đại như vậy] Bruno Schulz. Lúc đó Grossman chưa đọc Schulz.

Bèn đọc, và ngộ ra, đúng là Thầy của ông!
Có thể nói, Gấu cũng gặp y chang tao ngộ trên, khi đọc Faulkner, cuốn "Absalon, Absalon!".
Cứ như thể Faulkner viết cuốn sách để cho Gấu đọc, và cuốn sách chờ hoài, chờ hoài, để…  đọc Gấu!
Hà, hà!

(1) Edmund White so sánh “Nụ Cười Cừu” với “Âm Thanh và Cuồng Nộ” của Faulkner [lại F!], The Tin Drum, Cái Trống Thiếc của Grass, và Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez;  George Steiner gọi 1 cách giản dị, "một trong những lễ hội lớn của giả tưởng hiện đại". Cuốn sách bắt đầu với Momik, một đứa trẻ Israeli lớn lên dưới cái bóng của Lò Thiêu, chấm dứt với một bộ kỳ quái, gồm những “entries” [đầu vô] kể những cuộc phiêu lưu của những nhân vật trong sách của những đứa trẻ lớn tuổi nuôi 1 đứa trẻ ở trong vườn thú Warsaw, và xen vô, là những cuộc giải thoát, rescues, nhà văn Ba Lan Bruno Schulz, khỏi cái chết, bằng cách biến ông thành 1 con cá hồi, a salmon.

The Paris Review 4

*

Paris Review 4

David Grossman

Nghệ thuật giả tưởng

Năm 1987, để đánh dấu 20 năm Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy tay chủ bút, chủ biên của tờ tuần báo Do Thái Koteret Rashit phái tiểu thuyết gia trẻ David Grossman tới West Bank, 7 tuần, “đi thực tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn làm những chuyến tham quan dân Palestine ở trại tị nạn, thành phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám định cư Do Thái ở trong những pháo đài chung quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu định cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, Nam Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung Phần, nơi chúng phá rừng trồng cà phê, hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và vô phúc cho một người bản địa nghèo đói nào lén vô là chúng thả chó ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác ăn thịt!], và đám sĩ quan, binh lính Do Thái tuần tra những khu vực dành cho người Palestine. Thu hoạch của chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn động trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng, trong những bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi rồi, hết còn ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên văn: "Người Palestine, ngày ngày đau đớn khổ sở vì những sự tàn ác dã man của đám chiếm đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền lành, dễ bảo nữa, would be docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”, Tom Segev, một trong những tay biên tập nói. “Cho đến lúc đó chúng tôi không hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức như vậy”

Năm tiếp theo năm đó, khi báo cáo của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít trận Hoàng Phong, the Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy, intifada, của người Palestine đang tưng bừng hoa lá. Những gì Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”, biến ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:
Trong Nụ Cười của Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính] nói, “Nhà ở đâu, nói cho cùng?”, và Abner trả lời, nhà là khoảng trống rỗng giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space between the tip of his pen and the paper. Đó là điều ông cảm nhận ư?
Grossman:
Nhà là nơi mà những người tôi yêu thương ở đó, home is where the people I love are. Càng về già, thế giới đó càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra thù nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi đang viết là một cái nhà khác, cho dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành nhà. Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ cu lơ một mình, khi tôi có câu chuyện của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của mọi nhân vật và ngôn ngữ.
Giọng điệu?
Giọng điệu, sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền lập tức tôi cảm thấy mình được nối kết, connected, với những xao động, the emotional vibrations, của những con người ở Israel, điều mà tôi không thể cảm thấy khi ra nước ngoài.
Tuy nhiên, có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm, và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay làm việc cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan, một bữa gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him made me want to live more. Rồi tôi đọc những câu chuyện về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức bảo bọc. Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn giết tên Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
 [Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả hai đều xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó, tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu chuyện về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách của mình đã làm được một điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài Sshulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.

Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu. 

Source


*

Cờ Sáu Sao của Tẫu: Ngôi sao mới thêm vô là xứ Mít.

Chờ một câu trả lời

Có cái gì đó rất bí hiểm khi ông Tập Cận Bình đến sân bay Nội Bài chiều ngày hôm qua 20/12 mà không một nguồn tin chính thức nào ở VN đưa tin. Ông Trần Kinh Nghị cho biết “Tin mới nhất do phóng viên China News từ Hà Nội thực hiện và được phát trong bản tin tiếng Anh từ Bắc Kinh lúc 16 giờ 59 phút 20 giây ngày 20/12/2011. Tin không nói rõ chi tiết lễ đón tại sân bay Nội Bài, nhưng có đăng 2 bức ảnh chụp ông Tập bước trên thảm đỏ giữa hai hàng tiêu binh phía sau là nền của chiếc máy bay của hãng hàng không TQ“. Rất lạ, tại sao lại bí mật đến thế nhỉ? Chịu.

Sáng nay mình lên mạng thấy tràn ngập ảnh các cháu nhỏ cầm cờ 6 sao  mới sửng sốt, cái quái gì thế này nhỉ!

Cờ TQ đã kinh hãi rồi, đằng này là cờ 6 sao. Cờ TQ có 4 ngôi sao nhỏ quanh một ngôi sao lớn, nói như ông Lâm Khang: ” Ngôi sao lớn là dân tộc Hán, 4 ngôi sao nhỏ là tượng trưng cho các dân tộc Hồi, Mông, Tạng, Mãn. ” Vậy lá cờ 6 sao này, với 5 ngôi sao nhỏ quanh ngôi sao lớn, thì ngôi sao thứ 5 là dân tộc nào vậy ta? Hu hu.

Bây giờ mới giật mình thấy sự bí mật  vừa nêu xem chừng rất có lý, hình như người ta không muốn cho dân xem cảnh đón tiếp thực diễn ra như thế nào.

Anh Ba Sàm nhắc lại: “trong chương trình thời sự 19h ngày 14/10/2011 của VTV1 cũng đã đưa lá cờ quái dị này, độc giả phát hiện, BS đã loan tin. Sau đó VTV1 lặng lẽ gỡ bỏ video lưu trên mạng mà không một lời giải thích. May mà VTC còn lưu.  Khi đó mình cũng nghĩ thầm, chắc thằng vẽ cờ ngu, nó không biết cờ TQ 5 sao hay 6 sao, anh em VTV1 lại không để ý nên mới xảy ra nông nổi vậy. Bây giờ thì ” rõ rồi nhé, rõ mồn một rồi nhé!” ( Đỗ Trung Quân). Than ôi!

Việc đón ông Tập Cận Bình bằng cờ 6 sao là chuyện nghiêm trọng, nó phỉ báng tình yêu Tổ Quốc của người Việt Nam. Nếu thật sự do sơ suất thì hãy dũng cảm đứng ra xin lỗi dân một câu. Nếu bảo chúng ông chủ trương thế đấy làm gì nhau nào, thì cũng nên nói to cho dân biết.

Dân chúng đang ngửa mặt chờ một câu trả lời

Blog NQL

*

Ngửa mặt cái con củ xê.
Thế khi thằng Tẫu nó trang bị đến tận Bác Hồ của anh Bộ Đội Cụ Hồ, thì cúi mặt ư?

NQT


*

Tại sao Mít chúng ta cần Nobel?

Số NYRB, Dec 22, 2011 còn 1 bài thật thú vị, thư của Trùm Nobel, trả lời bà...  LTH, sau khi nghe phàn nàn, tại làm sao mà Mít chúng ta cần Nobel, [đọc YB lẫy lừng ở trong nước, đọc hàng đầu, đầu hàng, vượt trội hải ngoại… mà không đã, không đủ sao!] thứ giải thuởng văn học của tụi mũi lõ, bị đám mafia Do Thái lũng đoạn?
Hà, hà!

Sự thực Trùm Nobel trả lời 1 ký giả Mẽo, sau khi ông này “xổ nho”, vì cái chuyện thư ký Nobel chê văn chương Mẽo, như “kít”, thứ văn chương của tụi di dân, không với tới tầm cao nhân loại… không xứng đáng được Nobel!

Sau đây là thư của ông Trùm Mafia, ấy chết xin lỗi, Trùm Nobel, trả lời Bà H:

Here is Per Wastberg's response:

May I, as a reader for decades of your journal, give a more factual background to Tim Parks's article. This year's laureate, Tomas Transtromer, has been proposed, for years, by former laureates Joseph Brodsky, Seamus Heaney, and Derek Walcott. In New York in 2000, Susan Sontag told me that Transtromer was the Swede most well-known in the US. He is translated into sixty languages; there are cafes named after him in China and Slovenia. And in Sweden we have all read and loved him since we were young.
The Nobel Committee consists of five members out of the rest of the Swedish Academy. By February we get about 220 suggestions from all around the world. By April we have concocted an "expectancy" list of twenty. By May we get the Academy to approve a short list of five to be read during the next four months. No one could get the prize without having been on the list for at least two years. Be sure we read a select group of American, Canadian, and Australian writers continuously!
We have, of course, Mr. Parks, read even Jelinek's Greed, though it was hard going. And so much else! For my part I try to read one book a day to keep ill health away. We master thirteen languages in the Academy but when we suspect a genius hidden in an unknown language we call on translators and oath-sworn experts to give us generous samples of that writer.
We go for an individual's life's work regardless of nation, gender, or religion. We could, if need be, give it to Portugal or the US five times in a row, or to essayists, historians, or children's book writers. We do not have a human rights criterion. We award, for example, Orhan Pamuk for his outstanding novels and essays; then the award becomes politically interpreted.
In the committee we are obsessed readers since childhood and so have a rich background to judge from. None of us has a university job; we are all free writers with our own manuscripts to take care of in between.

Per Wastberg
President
The Nobel Committee for Literature
The Swedish Academy Stockholm, Sweden

Là Trùm Nobel, nhưng cũng còn là độc giả của Bà H, chủ diễn đàn Gió To, tôi xin được đưa ra 1 số sự kiện liên quan tới vấn đề Bà nêu ra, Mít đâu cần Nobel của mũi lõ.

Nobel năm nay, Tomas Transtromer, được đề nghị nhiều năm rồi, bởi những đấng cựu Nobel như Joseph Brodsky, Seamus Heaney, và Derek Walcott. Tại Nữu Ước, vào năm 2000, Susan Sontag biểu tôi, Mẽo mê đọc thơ Tomas Transtromer lắm. Ông được dịch ra 60 ngôn ngữ, trong có tiếng Mít của Bà H, do đại thi sĩ Mít, Diễm Châu dịch, từ đời thuở nào, đâu cần đợi được Nobel...


*

Lần về HN lần đầu, 2001, DMT đèo xe máy đưa G tới gặp HNH, tại tư gia, đúng thời gian HNH bị tố ngụy tạo tài liệu, bởi vậy, khi bà vợ ông mang nước trà ra đãi khách, đã hỏi khéo, hải ngoại có còn chửi ông chồng tôi nữa không.
Bà lầm G với ông cớm văn nghệ, vì nghĩ hải ngoại bé tí, không nó, thì là bạn của nó!
G nhớ là, HNH mặt một đống, lấy tay xua bà vợ, ra ý thôi đi chỗ khác, U Tha Cho Mi [Bà tha cho tôi, thưa bà!].
Nhìn vẻ mặt của HNH lúc đưa bài viết, thì rõ ra là, ông muốn G đi một đường giới thiệu.
Phải nói rõ ra như vậy, vì sau đó, bài này được đăng trên talawas, và khi G mail hỏi, có gì khác so với bài trên TV, thì SCN mail trả lời, HNH cho biết, chưa cho phép ai đăng bài này hết.
Khi trả lời như thế, là SCN muốn chỉ ra tôn chỉ của talawas, không đăng bài đã đăng rồi, trên các diễn đàn khác. Ðồng thời tố cáo G ngụy tạo tài liệu!
Bắc Kít nhiều đòn lắm, phải 1 thằng Bắc Kít khốn nạn cỡ G thì mới hiểu được lòng dạ của chúng!
Chứng cớ, sau đó, HNH từ chối không cho phép talawas đăng bài phỏng vấn ông.
Là vì ông bắt buộc phải từ chối, nếu xin phép ông!
Vụ này, G có giải thích trên TV rồi, để coi lại coi trong
bài viết nào.
Vì vậy, khi trở về Canada, Gấu đã mất công gõ bài viết, cho đăng cùng 1 lúc trên trang Tin Văn, và trên tờ Việt Báo online. Mấy anh nhà văn Mít hải ngoại thấy đại giáo sư VC nhắc đến mình, sướng điên lên, bèn trích lại, đăng búa xua trên trang nhà, nhưng lại rét, vì thời gian đó, chính G cũng bị đám Chống Cộng Ðiên Cuồng dọa xin tí huyết [nói đùa cho dzui thôi], thế là bèn đăng thì đăng, nhưng chú thích nguồn, là tờ Việt Báo, và thanh minh thanh nga, tôi không có hân hạnh được quen ông HNH!
Nghĩa là đếch thèm cám ơn thằng cha G đã mất công gõ bài!
Tư cách như thế mà viết lách cái chó gì không biết!

Source

Đọc trên trang LH, thì ST, cựu học sinh Dũng Lạc, Hà Nội, một trường tư, không bảnh bằng Chu Văn An, số 1, và Nguyễn Trãi số 2. Theo gia đình di cư 1954, học hành, đỗ đạt, làm 1 viên chức lớn (Chánh Sự Vụ) trong chế độ VNCH, sau 1975, đi cải tạo 1 năm, được Đảng tha về, mở quán cà phê, 1985 qua Canada theo diện bảo lãnh.

Ông không biết gì đến hận thù Quốc Cộng, không nhà tù, “ghét tô” nào giam giữ ông. Có th như thế mà ông viết như chẳng có gì xẩy ra. Và ông coi cái đất nước nhận ông, chẳng có ơn nghĩa gì, vì mày không nhận tao, thì tao ở VN, mà làm sao mày không nhận tao được, nếu tao đủ điều kiện để vô nước mày theo chính sách của mày, về đoàn tụ gia đình?
Nhưng, đó chính là câu trả lời của đám tù thanh thiếu niên, phần lớn Bắc Kít, mà GCC đã từng đi uý lạo, với tí quà bánh của HNV, trong 1 dịp lễ lạc nào đó, của Canada, hay của xứ Mít không còn nhớ, trong 1 nhà tù thành phố. Một trong đám này biểu Gấu, mi về nói với chính quyền Canada tại làm sao lại bắt tao, mà còn tính trả tao về Việt Nam? Tao đâu có muốn đến Canada đâu. Khi ở Trại, họ năn nỉ chúng tao tới Canada [quả có thế, vì Canada cần lấy đủ người theo “quota” với Cao Uỷ Tị Nạn, những người Miền Nam, Mẽo OK; Bắc Kít, No, thành thử đa số Bắc Kít chọn Canada là như vậy]. Bây giờ lại đuổi chúng ta về VN, là sao?
Mấy ông tướng này, qua Canada không lo làm ăn mà chỉ lo làm bậy, bị bắt, nhiều lần, Canada đành năn nỉ VC nhận lại giùm…

ST cũng đã từng được chấp nhận làm nhân viên của Mẽo, nhưng sau chót, hỏng cẳng, theo bài viết của LH, về ông. Hóa ra ông chẳng hề muốn sống ở Canada, thật, như bạn của ông là ông số 2!

Khác hẳn Gấu. Đã từng làm bồi Mẽo hơn 10 năm ở Miền Nam trước 1975, Gấu tởm Mẽo quá, may được Canada nhận, mừng quá, biết ơn quá, quá!

Câu chuyện ở Bồng Sơn

*

Note: Tks Tuyen Vu.
Merry Christmas to both of U
NQT

- Đặt chân đến Bồng Sơn, họ vô cùng bất ngờ khi thấy tấm bảng “Trường tiểu học Bồng Sơn” nằm chễm chệ trên tòa nhà mà lẽ ra phải là thư viện. Ken và Pat muốn đặt tên cho thư viện này là “Bong Son – Lucky Star Library and Learning Center” vì Lucky Star chính là đơn vị mà Ken phục vụ thời chiến tranh. Chính quyền địa phương đã tự ý đổi tên và đổi cả chức năng của tòa nhà mà không hề báo một lời với vợ chồng ông – những người đã bỏ tiền xây nên tòa nhà đó – chưa nói đến việc xin ý kiến của vợ chồng ông. Ken nói với mình “I paid for it, but they changed the name. I want my money back.”
*

Lèm bèm ngoài lề:
Cái tên, là, rất quan trọng. Nó như dấu ấn của 1 nhà văn. Đọc 1 nhân vật tự xưng là Nguyễn, thí dụ, là biết ngay của Nguyễn Tuân rồi.
Chính vì thế mà không ai dám đặt tên cho mình, hay nhân vật của mình là Nguyễn nữa.
Ngoại trừ nhà thơ NXT!
Đây là 1 sự kính nể những người đi trước nữa. Một khi bạn cố tình vi phạm, là phải có vấn đề.
NMG, khi chọn cho nhân vật của mình là Tường, là phải có vấn đề, không thể khơi khơi nói tôi hư cấu được, thứ nhất cuốn tiểu thuyết của ông viết đúng vào thời kỳ có ông Tường đó đó.
Bởi thế, có 1 bạn văn cũng khá thân quen, có vẻ bực mình, vì GCC đặt vấn đề này, nghĩ là GCC không ưa NMG.
Phải nói ngược lại mới đúng.
[Jean-Paul Sartre, viết Những kẻ bị cầm tù ở Altona, Les séquestrés d'Altona (1959), phịa ra 1 nhân vật, không ngờ tên của nhân vật này trùng hợp với 1 người có thực, có thế giá ở ngoài đời, thế là đành phải lên tiếng xin lỗi, và cho thu hồi toàn bộ những ấn bản đã cho phát hành. NMG mà không làm chuyện đó, sợ không còn nhiều thì giờ! Bởi vì chỉ có cách đó mới bão vệ sự vẹn toàn của MBD, như là 1 giả tưởng văn học.]

NMG đã từng bị làm phiền về chuyện này rồi, khi chính ông T đó lên tiếng hỏi, tại làm sao ông lấy tên của tôi đặt cho nhân vật của ông.
NMG trả lời, tôi hư cấu, nhưng ở 1 chỗ khác, ông lại nhận, có lấy một số chi tiết đời thực của T đưa vô tiểu thuyết.

Nhảm. Cực nhảm. Bởi vì chỉ 1 chi tiết như thế, là phải vứt cuốn sách vô thùng rác. Giống như bạn đánh cờ, mà chưa sạch nước cản. Bắc Mỹ chia là làm hai, giả tưởng, và phi giả tưởng, là theo nghĩa đó. Giả tưởng, tha hồ phịa. Phi giả tưởng, không có quyền phịa, dù chỉ 1 chi tiết. Ba thứ hồi ký ghi là memoir, là phải coi như sự thực, không phải giả tưởng.

Ở những bậc đại tài, một khi mà giả tưởng lừng lẫy quá, thì, 1 cách nào đó, nó chiếm ngay 1 chỗ trong lịch sử, trong đời thực.
Đây là trường hợp xẩy ra với “1984”, của Orwell, hay với mẫu tự K, của Kafka.
Hoặc, với Bếp Lửa của TTT.
Nhắc tới Bếp Lửa 1 phát, là lập tức 1954 xuất hiện!

Kỳ tới, GCC sẽ lèm bèm tiếp, về cái sự li kỳ của con số 1984, và mẫu tự K, qua bài viết của G. Steiner: The Killing Time, Thời Giết Người

*

Gấu đi tầu Rắn Biển, Marine Serpent, khi đó, chắc cũng giống như chú bé trong hình, nhưng vác theo hai cái rương nhỏ, đựng toàn sách, mua tại Chợ Trời Hà Nội.
Không nhớ tới Sài Gòn ngày nào, nhưng nhớ, chuyến đó ở trên tầu hơi lâu, vì còn chờ Đức Hồng Y Spellman ghé ban phước lành. Cũng phải những ngày cuối chiến dịch Passage To Freedom, vì phải chờ đến lúc Hải Phòng sắp hết hạn 300 ngày, Gấu mới từ giã nổi Hà Nội.

Đâu có tính đi?

Còn 1 chi tiết nữa. Những chuyến trước, cứ đặt chân xuống đất liền là được phát mấy trăm đồng. Sáu trăm, hình như vậy. Chuyến của Gấu, chỉ nhận 1 cái giấy chứng nhận, và đem giấy đó đến Tổng Uỷ Di Cư, ở đường Trần Hưng Đạo, gần Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành, hình như vậy, lãnh tiền.

*

Chụp với ông cậu, Cậu Toàn, 1954, trước khi chuồn xuống Hải Phòng. Gấu vận quần cụt.
Cái vụ gặp lại Ông Cậu cũng thật li kỳ, nhờ Cậu Cầu, đứng đằng sau, chót, phía bên phải.
Ông này, sau 1975 chuồn vô Sài Gòn, mua 1 căn nhà, kéo cả gia đình vô theo. Gấu về hai lần đều không gặp.
Gia đình ông Ngoại Gấu lúc đó đã chuồn về Hà Nội. Ông Ngoại Gấu, không tự tử chết như Gấu nghe tin đồn những ngày sau 1954, mà được bà vợ đem vàng ra chuộc, đưa về Hà Nội, và mất ở đó. Ông bị giam ở làng của Gấu, làng Thanh Trì, cái nôi của Cách Mạng vùng này. 

Ông Cầu đang đi lêu bêu “bát phố”, sau khi VC tiếp quản Hà Nội, thì gặp ông anh. Hỏi, có phải ông là ông Toàn, anh tôi không.
Ông Toàn gật đầu!


**

Paul Ricoeur & Heidegger

Lire:

A Auschwitz, Dieu n'a-t-il pas abanndonné les hommes ?

P.R. Je me rappelle cette reflexion entendue de la bouche d'un éminent professeur, juif polonais. Il avait connu la déportation et les humiliations: « Mon père avant cela disait : "L'homme est bon." J'ai subi toutes ces souffrances. Eh bien, au soir de ma vie, je dis la même chose que mon père." Croire en la possibilité de libérer le fond de bonté en l'homme, c'est pour moi un acte de foi fondamental.

Le pardon est-il possible tout de même ?

P.R.

Je suis très réticent à l'égard de toutes les facilités avec lesquelles on manipule le pardon. Le pardon, c'est ce qu'on demande et nullement ce qu'on donne. Et si on le demande, on doit être prêt a recevoir une réponse négative. Je rejoins ici Jankélévitch. II faut pouvoir affronter l'impardonnable. Pourquoi ? Parce que si le pardon est difficile, il doit s'articuler sur un travail double: un travail de mémoire et un travail de deuil. II ne s'agit pas d'en faire un acquittement superficiel. Non, il faut admettre l'indicible de l’aveu, le caractère inextricable des situations, l'idée de l'irrépaarable. Et le deuil ne se limite pas au deuil de ceux que l'on a perdus, il faut penser aussi au deuil d'une explication.

Heidegger a marqué votre oeuvre, inutile d'insister. Mais comment un philosophe peut-il se dévoyer politiquement comme il l'a fait en apportant sa caution à Hitler? Quel aveu d'impuissance de la part de la philosophie !

P.R. La culture, que je sache, n 'a jamais prémuni contre la barbarie. Pays de très haute civilisation, l'Allemagne, qui a sombré au plus bas de l'infame, en a offert un exemple cuisant. Cela étant, je n'ai jamais accusé Heidegger en tant que philosophe. Seulement sa philosophie, ne produisant ni morale ni politique, s'est créée en lui à une époque de doute intellectuel qui s'est manifesté par son incapacité à poursuivre Être et temps, une sorte de vide spéculatif qu'il a cru pouvoir remplir avec la figure de celui qu'il prenait pour un grand homme de l'histoire. C'est dans cet entre-deux, dans cette période de grande fragilité qu'il s'est trouve happé par le national-socialisme. Mais soyons clair, Être et temps n'est en rien un livre nazi, il s'agit, et toute la différence est là, d'un ouvrage qui ne protège pas contre le nazisme. Alors que Karl Jaspers, lui, ne pouvait pas succomber comme Heidegger car sa philosophie produisait une éthique et une politique.

Paul Ricoeur trả lời tờ Lire, số đặc biệt về Duras, Tháng Sáu, 1998.

Note:
Tình cờ vớ số báo cũ, đọc mấy câu trả lời trên, thú quá, bèn chôm luôn, đi 1 đường Phén chơi!

Ở Auschwitz, Chúa đã bỏ loài người?

Tôi nhớ tới câu của một giáo sư nổi tiếng Ba Lan gốc Do Thái. Ông ta biết về cái chuyện tống xuất, đưa người vô Lò Thiêu, và những nhục nhã: Ông già tôi trước đó, nói: Con người thì tốt. Tôi chịu đựng tất cả hậu quả [của câu nói của bố tôi]. Thế nhưng, về già, tôi phán y chang bố tôi: Con người thì tốt. Tin vào khả năng giải phóng cái sâu thẳm của thiện tâm ở nơi con người, theo tôi, đây là hành động của niềm tin cơ bản.

Sự tha thứ, nếu như thế, thì cũng có thể?

Tôi rất tởm cái trò giật dây, nào là khúc ruột ngàn dặm, nào là đừng bao giờ có 1 ngày 30 Tháng Tư thứ hai, thứ ba… Tha thứ, đó là cái người ta đòi, mà chẳng cho cái chó gì cả. Và nếu như thế, nếu người ta đòi, thì người ta phải sẵn sàng đón nhận 1 câu trả lời "cà chớn" [négative: phủ định, từ chối]. Phải dự trù đối đầu với điều: Tao đếch có tha thứ cho mày. Tại sao? Bởi vì nếu tha thứ khó, hơi bị khó, rất ư là khó, thì nó phải ăn khớp với một công việc kép: một về hồi ức và một về tang tóc. Đừng giả đò tha thứ. Thôi nhé, huề nhé! Không, phải thừa nhận cái sự không thể nói ra được niềm ăn năn, thống khổ, lời thú nhận, cái tính chất cực khó khăn của hoàn cảnh, cái ý nghĩ về sự không thể sửa chữa lại được [Cái Ác Bắc Kít, vô phương sửa chữa, thí dụ, Cái Ngày 30 Tháng Tư, sẽ còn dài dài, thí dụ]. Và nỗi tang tóc thì không phải chỉ hạn chế ở những cái tang về người đã mất, mà còn cái tang về 1 lời giải thích. 

Heidegger đã đánh dấu [thổi] tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào, nàm sao mà 1 triết gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân phò Hitler? Đúng là 1 lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!

Văn hoá như tôi biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với 1 nền văn minh đỉnh cao chói lọi như Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và đó là 1 thí dụ nhức nhối, đau thương. Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội Heidegger, như là 1 triết gia. Chỉ điều này, triết học của ông không sản sinh ra cả đạo đức lẫn chính trị, và gây ra ở trong ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí thức, và điều này được biểu lộ ra bằng sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục Hữu thể và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ rằng, có thể làm đầy bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của lịch sử, cha già của dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy minh bạch 1 điều, Hữu thể và Thời gian không phải là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và đây là sự khác biệt rất ư khác biệt, một tác phẩm không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi. Trong khi đó, Karl Jaspers, ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì triết học của ông sản sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.

Note: Bài phỏng vấn thần sầu, được thực hiện khi Paul Ricoeur cho ra lò cuốn Suy nghĩ Thánh Kinh, Penser La Bible. TV sẽ đi hết cả bài, sau, nhân dịp Noel năm nay

Hà, hà!

Thời gian đầu mới qua Xứ Lạnh, gặp lại cô bạn cũ, nghe lời đề xuất của vợ chồng cô, học thi lấy cái lai xần bán bảo hiểm nhân thọ, cùng lúc, thấy Hội Người Việt cần thiện nguyện viên trông coi tờ báo của Hội, [đếch có lương nhe, chỉ được 100 đô tiền xe/một tháng, thêm vô tiền trợ cấp xã hội], GCC bèn xung phong, chỉ để thử sức, liệu một mình mi lo nổi cả 1 tờ báo, đếch cần thằng chó nào khác, hà, hà].
Chính là trong những ngày đó, GCC được cái bà lo việc xã hội, cho phép đi cùng vô nhà tù Canada, thăm tù Việt, ra ý chúng tôi không quên mấy người đâu. Không phải tù người lớn, mà thường là đám thanh thiếu niên, và đa số Bắc Kít!
Cái chuyện đa số Bắc Kít là cũng có nguyên do của nó. Phái đoàn Canada thuộc Cao Uỷ Tị Nạn thường nhận người Bắc, vì Mẽo không chịu nhận. Trong thời gian chiến tranh, đám phản chiến, Miền Nam, đi du học, mê Bác Hồ, chọn nơi này làm quê hương tạm, thì cũng giống như nhà văn ST, quê hương mỗi người chỉ có một, ở đây là ở tạm…

Nabokov có 1 từ để gọi thứ văn chương tạp ghi của Mít, là “poshlost”, theo nghĩa “ăn cắp của ăn cắp”, imitations of imitations. Tuy nhiên nghĩa của từ này rộng hơn nhiều, như ông giải thích, khi trả lời tờ The Paris Review. TV post lại ở đây, rồi nhẩn nha bàn tiếp.

Nabokov vốn, vừa bạo miệng, vừa phách lối. Với ông, những tác giả được chấp nhận [accepted authors] chẳng có nghĩa gì: Tên của họ được khắc trên những cái mả rỗng, sách của họ toàn đồ bá láp… Brecht, Faulkner, Camus và nhiều người khác tuyệt đối chẳng là gì đối với tôi.

Tuy nhiên, câu trả lời sau đây, thì thành thật. Khi được hỏi, ngoài chuyện viết ra, ông làm gì, hay thích làm gì, ông phán:

-Ô, săn bướm, lẽ dĩ nhiên, và nghiên cứu bướm. Những lạc thú và phần thưởng nhờ cảm xúc văn chương, chẳng là gì hết so với khám phá ra 1 loài bướm lạ, và ngắm nó dưới ống kính… Giả như không xẩy ra cách mạng ở Nga, thì tôi đã dâng hết đời mình cho “lepidopteroloy” [ngành nghiên cứu bướm và  bướm đêm, moth] và chẳng thèm viết một cuốn tiểu thuyết nào hết.

*
(1)

Đọc Phén, Tạp Ghi, Dựa Hơi, Thơ Tán Gái, Thơ Ngồi Bên Tách Trà thì quả là "chẳng có gì xẩy ra" thật.

Nhưng quá một chút, thì lại vớ phải ông Nabokov, khi Ngài chửi cái vẻ trịnh trọng, làm dáng:
“Chúng ta đều chia sẻ cái tội Lò Thiêu"!
[We all share in German’s guilt].
Khó thật.

(1)

Văn nhân và Nghệ sĩ nhất
Đẹp như thơ
Thanh Tâm Tuyền.
Thank you, GNV.

Đa tạ. NQT


“Death is very likely the single best invention of life.”
–Steve Jobs
Steve Jobs nói cái chết là phát minh riêng của đời sống

TMT

Cái chết thì rất ư là phát minh đơn, lẻ, [“single”, đâu có phải là “own”], đẹp nhất của cuộc đời.
Sự thực, phải coi ông này nói câu này trong trường hợp nào. Chứ GCC thấy khó hiểu quá!

Chết ít khi đẹp lắm, nhất là đi tù VC mà chết ở trong rừng vợ con chẳng biết, ngoài mấy ông bạn tù, thì đơn lẻ, đúng, nhưng đẹp nhất, lại không đúng!
Mà cũng chẳng phải phát minh cái con mẹ gì.
Đói quá thì đi thôi.

Lần trước, đọc được 1 câu, ông Steve Jobs này chôm của James Dean, nhưng bị thiến mất 1 khúc:

Khi 17 tuổi, tôi [Steve Jobs] đọc ở đâu đó rằng: "Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một ngày nào đó bạn sẽ đúng".
Câu trên, của James Dean.
Tay này cũng đúng là 1 trường hợp "Hãy Ðói, Hãy Ðiên", và chết vì Ðiên, vì "La Fureur De Vivre".
Chàng phán thật bảnh:
“Dream as if you'll live forever. Live as if you'll die today.”
Hãy mơ mộng như bạn sống hoài hoài. Hãy sống như bạn sẽ chết ngày hôm nay.

Source


*

Biển

 Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà. 

Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả 

Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này

Số phận còn thua hạt cát. 

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời 

Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...

22/01/2010

Tôi được đọc bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào. 

Trong email trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình, tôi thích cái bút danh đó.

Khi tôi chụp hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi lại gặp một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì "thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...

Merry Christmas.
Please take care and forgive.
NQT

Christopher Hitchens, 1949-2011

Note: Bạn thân của Martin Amis.
Người đòi đưa Kissinger ra tòa vì tội ác chống lại nhân loại

4. Ngài Henry thân mến,
(Dear Henry,)

Henry ở đây, là Henry Kissinger, ông vua đi đêm, ảo thuật gia trong ngành ngoại giao. Nếu Stalin có một hồ sơ nho nhỏ, về những năm tháng còn mang bí danh là Koba, và đã tìm đủ mọi cách để cho nó ngủ yên, cùng với những người không may biết đến nó, sau đây người viết xin được cống hiến, khuôn mặt giấu kín của ông vua đi đêm, qua bài viết "Dear Henry", trên tờ "Người Quan Sát Mới" (Le Nouvel Observateur), số đề ngày 9 tháng Năm 2001. Theo tác giả bài báo, cần phải đưa Kissinger ra toà án quốc tế.
Bài báo là một trích đoạn, từ cuốn "Những Tội Ác của Ngài Kissinger" ("Le Crimes de Monsieur Kissinger", tác giả Christopher Hitchens, nhà xuất bản Saint-Simons, 206 trang, 99 F).
 Trong mười năm, từ 1969 tới 1977, Henry Kissinger là kiến trúc sư về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ. Trùm Cố Vấn Quốc Gia về An ninh, và, từ năm 1972, Bộ trưởng Ngoại Giao, ông cho áp dụng lý thuyết về những liên hệ quốc tế, đã từng được ông điều nghiên và đem ra giảng dậy khi còn làm giáo sư môn khoa học chính trị tại đại học Harvard.
 Xuất thân từ một gia đình tiểu-trưởng giả (petite-bourgeoisie) Do Thái, tị nạn Nazi tại Mỹ vào năm 1938, con người - được coi là bộ não chiến thuật của Richard Nixon, và sau đó của Gerald Ford – đã từng say mê Metternich và "trật tự Âu Châu" nửa đầu thế kỷ 19. Viễn ảnh thế giới của Kissinger - ông ta đã cố gắng đem ra áp dụng, từ Việt Nam tới Cận Đông, từ Moscow tới Bắc Kinh – là một viễn ảnh dựa trên sự khinh miệt đối với những ý thức hệ, và một tiếp cận mang tính thực dụng, những tương quan quyền lực. Đi đêm với Bắc Kinh, kết quả, Hoa Kỳ công nhận Trung Quốc. Đi đêm với Lê Đức Thọ, kết quả, chấm dứt chiến tranh Việt Nam, người Mỹ ra đi trong danh dự; kết quả, đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với họ Lê vào năm 1973. Luôn luôn đóng vai trò con người bình dị, khiêm tốn, trên chính trường quốc tế, nhưng đằng sau "Ngài Henry thân mến", là khuôn mặt giấu kín, sặc mùi máu. Chính bộ mặt này đã được ký giả Christopher Hitchens quan tâm. Dựa trên những hồ sơ mật tại Bạch Cung, tại Bộ Ngoại Giao, tại CIA, bây giờ đã được để cho công chúng coi, ông đã cố gắng chứng minh, thật khác xa con người được những kẻ ái mộ coi là một ảo thuật gia trong ngành ngoại giao, Kissinger đã chơi một trò chính trị mù mờ (confuse), không đem đến kết quả (inefficace), và mang tính tội ác (criminelle), và phải đem ông ta ra tòa án quốc tế.
 Bài báo trích dẫn, là về vai trò của Kissinger, trong vụ làm thịt tổng thống Salvador Allende của nước Chile, và kết quả là sự lên ngôi của nhà độc tài Pinochet.
 Từ năm 1962, tại Chile - cũng như tại Ý và một số quốc gia khác - CIA đã tài trợ những đảng phái "ngoan ngoãn". Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Chín 1970, ứng cử viên tả phái, Salvador Allende đã thắng thế. Chỉ nội tên Dr Salvador Allende không thôi, đã là một cái gai đối với những đảng phái cực hữu, những công ty đầy quyền lực như ITT, Pepsi-Cola, Ngân Hàng Chase Manhattan, và CIA.
 Cái gai chẳng mấy chốc làm "nhức nhối" tổng thống Nixon, gì thì gì cũng còn chút ân tình với Donald Kendall, chủ tịch hãng Pepsi-Cola, thời gian Nixon không thành công trong chính trị, "đành" gia nhập một văn phòng luật nơi Phố Tường. Mười một ngày sau khi Allende chiến thắng bầu cử, một chuỗi hội họp đã diễn ra tại Washington, số mệnh của ngài tân tổng thống tả phái, và tương lai chính trị xứ Chile đã được quyết định. Sau khi bàn bạc với Kendall, với David Rockefeller (Ngân Hàng Chase Manhattan), và với Richard Helms, trùm CIA, Kissinger cùng Helms tới Văn Phòng Bầu Dục tại Bạch Cung. Qua những ghi chú của Helms, Nixon chẳng úp mở gì, cho biết ngay "ao ước" của ông: Allende không được rớ tới cái ghế tổng thống (Allende ne devait pas occuper ses fonctions électives). "Bất kể những rủi ro có thể xẩy ra. Không được để dính dáng tới tòa đại sứ. Trước hết là 100 ngàn đô la tiền mặt, sau cần nhiêu chi nhiêu. Làm việc ngày đêm. Chọn toàn dân xịn, thứ cừ nhất mà chúng ta có. Chương trình hành động: 48 giờ đồng hồ."
 Những tài liệu bây giờ cho thấy, Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, khi đó chẳng biết gì về Chile, một xứ sở mà ông ta mô tả, "mũi dao nhọn nhắm thẳng vào trái tim Nam Cực". Nhưng gì thì gì, Sếp muốn là Trời muốn. Một nhóm người được triệu tập tại đại bản doanh CIA ở Langley, và một kế hoạch "đòn kép" được đề ra: một đòn "dương", nghĩa là công khai, về mặt ngoại giao, và một đòn "âm": đòn đánh lén. Bộ Ngoại Giao và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Chile coi như không biết tới đòn này. Mục tiêu: tạo bất ổn định, bắt cóc, ám sát…. nhằm đưa tới một cú đảo chánh bằng quân sự.
 Kế hoạch gặp một số trở ngại, ngắn và dài hạn, nhất là trước khi Allende làm lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Trở ngại dài hạn, là do truyền thống của đất nước Chile, quân đội vốn giữ vị trí trung lập, đối với quyền lực chính trị. Trở ngại ngắn hạn nhắm vào Tướng René Schneider. Với chức năng Tổng Tư Lệnh Quân Lực, ông công khai bầy tỏ sự chống đối, bất cứ một âm mưu dùng quân đội đảo ngược kết quả bầu cử. Chính vì vậy, sau một cuộc họp vào ngày 17 tháng Chín 1970, một quyết định được đề ra: phải cho ông Tướng đi chỗ khác chơi.
 Kế hoạch "đốt nhà" được giao cho những sĩ quan cực đoan, rồi đổ tội cho những phần tử tả phái, ủng hộ Allende, là "đích danh thủ phạm". Phải làm sao tạo được một sự hỗn loạn khiến quốc hội không chấp nhận Allende làm tổng thống. Tiền thưởng 50 ngàn đô sẽ chi cho một, hoặc một nhóm sĩ quan chịu chơi. Helms và viên phụ tá đặc trách chiến dịch đòn ngầm, Tomas Karamessines, giải thích cho Kissinger họ không được lạc quan về chiến dịch. Thành phần sĩ quan tỏ ra ngần ngại, hoặc chia rẽ, hoặc trung thành với Tướng Schneider và hiến pháp Chile. Như ghi chú của Helms cho thấy: "Chúng tôi cố gắng làm cho Kissinger hiểu chuyện thành công là rất mỏng manh". Kissinger ra lệnh thật là minh bạch cho Heilms và Karamessines, tiếp tục chơi, với bất cứ giá nào.
 Ngày 15 tháng Chín 1970, Kissinger được thông báo, đã kiếm ra viên sĩ quan chịu chơi, tướng (général) Roberto Viaux; tay này có những liên lạc mật thiết với nhóm cực hữu Patria y Libertad, bản thân ông ta cũng là một tay cực hữu. Ông chấp nhận lấy 50 ngàn đô để trừ khử tướng Schneider. Danh từ được sử dụng để chỉ viên sĩ quan chịu chơi là "kẻ bắt cóc", tuy nhiên lại có lệnh hãy cung cấp súng máy, và lựu đạn cay cho những cộng sự viên của Viaux, họ cũng chẳng hề hỏi lại đàn anh, sau khi bắt cóc tướng Schneider, thì phải cư xử ra sao với ông ta.
 Sau đây là trích đoạn, một "thông điệp mật" của CIA, đề ngày 16 tháng Mười, sau cuộc họp mật cấp cao của viên chức Hoa Kỳ, vào ngày 15 tháng Mười, nhằm kiểm tra đánh giá những hoạt động của bọn chủ mưu. Thông điệp này được coi là "hướng dẫn chiến dịch", gửi cho những nhân viên CIA ở Santiago:
 … Allende phải bị lật đổ bằng một cú đảo chánh… Tốt nhất là trước ngày 24 tháng Mười (ngày tổng thống chính thức nắm quyền). Nhưng những cố gắng nhằm đạt được mục đích vẫn tiếp tục sau thời hạn trên. Chúng ta phải tạo áp lực tới mức tối đa, sử dụng mọi phương tiện thích ứng.. Bắt buộc phải hành động trong bóng tối, phải làm sao cho chính quyền Hoa Kỳ không bị mang tiếng…
 [Viaux và đám đệ tử, theo như đánh giá sau đó, là không thể kiểm soát được, có thể gây phiền nhiễu cho CIA và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, cho nên bị loại bỏ, và kế hoạch Schneider được giao cho một bộ phận quân đội được kính trọng hơn, cầm đầu bởi tướng Camilo Valenzuela, sĩ quan trưởng đạo quân ở Santiago.]
 Chiều ngày 19 tháng Mười 1970, nhóm Valenzuela, được tăng cường bởi vài người thuộc nhóm Viaux, với lựu đạn cay do CIA cung cấp, đã toan bắt cóc tướng Schneider khi ông rời một bữa ăn tối. Thất bại, do Schneider không dùng công xa như thường lệ, mà lại dùng xe riêng. Sau cú bắt cóc hụt này, CIA Washington ra lệnh phải khẩn cấp hành động, bởi vì phải trả lời cấp trên vào sáng ngày 20 tháng Mười, và hai phong bì, mỗi cái 50 ngàn đô, được trao cho Valenzuela, và phụ tá chính của ông, với điều kiện phải thực hiện bằng được mục tiêu. Cú thứ nhì diễn ra vào chiều ngày 20 tháng Mười, nhưng cũng thất bại. Ngày 22 tháng Mười, những khẩu súng máy "đã được sát rrùng" (có nghĩa là không thể nào tìm ra xuất xứ), được trao cho nhóm Valenzuela nhằm thực hiện cho được âm mưu kể trên, nhưng trong cùng ngày, tướng René Schneider đã bị nhóm Roberto Viaux ám sát.
 Cuộc đảo chánh đẫm máu lật đổ tổng thống Salvador Allende xẩy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 1973, trong lúc Ngài Henry thân mến đang điều trần trước Thượng Viện, trước khi được phong chức Bộ Trưởng Ngoại Giao. Ông ta đã nói dối, khi quả quyết chính quyền Hoa Kỳ không có mắc mớ gì tới chuyện làm thịt tổng thống Allende. Những hồ sơ bây giờ được cho công chúng coi, cho thấy ngược lại. Trong số đó, có một, của tùy viên quân sự (thuỷ quân lục chiến) Hoa Kỳ, Patrick J. Ryan. Viên sĩ quan này đã ghi lại từng chi tiết, những liên hệ chặt chẽ giữa ông ta với những viên sĩ quan phản loạn dính líu vào âm mưu lật đổ tổng thống Allende. Viên sĩ quan này đã coi ngày 11 tháng 9 năm 1973 là "Ngày J", tương tự như ngày đổ bộ Normandie của quân đội Đồng Minh chống lại Quốc Xã, và nhận xét một cách hoàn toàn thỏa mãn, là "cú đảo chánh tại Chile gần như hoàn hảo" ["le coup d’Etat (sic) au Chili était presque parfait).
Jennifer Tran

When Martin Amis, his closest friend on earth, published a book in which he took Christopher to task for what he viewed as inappropriate laughter at the expense of Stalin’s victims, Christopher responded with a seven-thousand-word rebuttal in The Atlantic that will probably have Martin thinking twice before attempting another work of historical nonfiction. But Christopher’s takedown of his chum must be viewed alongside thousands of warm and affectionate words he wrote about Martin, particularly in his memoir, “Hitch-22,” which appeared ironically—or perhaps with exquisite timing—simultaneously with the presentation of his mortal illness

“[Mother Teresa] was not a friend of the poor. She was a friend of poverty. She said that suffering was a gift from God. She spent her life opposing the only known cure for poverty, which is the empowerment of women and the emancipation of them from a livestock version of compulsory reproduction.”

Christopher Hitchens (1949-2011): A Career in Quotes

Trong ba phê bình gia phán về ST, thì cả ba đều có tí vấn đề ["lợn cợn" đúng hơn].
NVK, thực sự khó mà gọi là 1 nhà phê bình, biên khảo.
Nhận xét của phê bình gia NMG về ông, chỉ là 1 ông quản thủ thư viện, sẵn sách đó, ông copy tưới và viết thêm vài câu, thường là khen, bất cứ 1 tác giả, và dán cái tên của mình vô.
NVK là 1 người thật tốt bụng, và làm quản thủ thư viện, phán về ông như vậy là quá đúng, theo GCC.
Ông HNH thì cũng có vấn đề. Một ông ở trong nước, được Mẽo WJC cho tí tiền qua Mẽo chơi, và cũng…  viết, "miễn cho xong một sô", như PNH phán, thì hay làm sao nổi, và làm sao đúng: Ông biết gì về văn học hải ngoại?
Chê làm sao được, như người ta nói, khách đến nhà mà lại chê chủ nhà thì láo quá!
Thành thử những gì gì "hội nhập, hội nhiệc" ở nơi nhà văn ST, là nhảm cả, đừng có tin.
Còn NMG?
Ông này cũng có gì lợn cợn.

Bị cái "ghét tô", là đám Chống Cộng Điên Cuồng, xém tí nữa xin ông tí huyết, nếu không xin lỗi chúng, làm sao mà ông không cần đến 1 ông ST, nhà văn "hội nhập, thoát ra ngoài lằn ranh, thù hằn Quốc Cộng", như… ông?

Một nhà văn được "người ta" chứa chấp trong nhà của người ta hàng mấy chục năm trời, không chỉ một mình mà toàn thể gia đình, không phải 1 đời mà còn dài dài nhiều đời, phán về cái đất nước chứa chấp ông và gia đình ông, như ông nhà văn ST, liệu có thể coi là "hội nhập" không?

Hội nhập gì mà…  vô ơn đến mức như thế?

Hay là lý do là vì không nói được tiếng của người bản xứ, nên không có được cái nỗi hạnh phúc, bàng hoàng “không hội nhập”, như Loseff, ông bạn của Brodsky, qua Mẽo 30 năm mà vẫn như ngày đầu:

“Bây giờ, đã sống ở đó 30 năm, tôi đôi khi vẫn cảm thấy một sự phấn kích lạ kỳ, mình đó ư, nhìn đất lạ này, với cặp mắt của chính mình, ngửi cái mùi lạ như là mùi của mình, nói tiếng lạ như là tiếng của mình”.

ĐỌC VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Hoàng Ngọc Hiến

Lời dẫn: Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện của tôi, được trích từ một bài viết về Văn Học Việt Nam tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến, nhà phê bình văn học, hiện cư ngụ tại Hà Nội. Tôi chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông Hoàng Ngọc Hiến nên chưa có cơ hội xin phép trích đăng đoạn văn này. Tôi xin mạn phép tác giả lấy từ trang nhà của Việt Báo Online. Việt Báo Online đã đăng bài phê bình này trong nhiều kỳ báo. Quý vị độc giả muốn có toàn văn bài viết xin vào www.vietbao.com số ngày 30 tháng 7 năm 2001 và các số kế tiếp. ( ST )
[Trích trang net của Song Thao].

Như GCC đã lèm bèm, bài viết của HNH đăng trên VHNT, của PCL, mục Tin Văn, do GCC phụ trách, cùng lúc Gấu gửi cho ông bạn văn PTH phụ trách Việt Báo online, đăng song song.
ST và GCC chẳng xa lạ gì nhau, cùng dân Canada, và GCC đã từng gặp ông đôi ba lần, đã từng cộng tác với báo của nhóm của ông, đã từng làm MC "ca" tác phẩm của các bạn của ông... đôi bên chẳng có chuyện gì cả, như vậy, tại làm sao mà ST không nhắc đến VHNT, là nguồn chính của bài viết, và, tiện thể xin phép PCL, là người chủ biên, và hỏi thăm, say Hi một tiếng, với GCC, là người mất công gõ bài đưa lên net?

Thường lệ, khi trích đăng, người ta nhắc tới nguồn, và xin phép nguồn. Ngay 1 tác giả, khi gom bài đã từng đăng báo, để in thành sách, thì cũng lịch sự ngỏ lời xin phép tờ báo đã từng đăng bài, vì đây còn liên quan đến vấn đề nhuận bút nữa. Bài của bất cứ tác giả, khi gửi đăng báo, là đã lấy tiền nhuận bút, và như thế tòa báo mới đích thực là người sở hữu bài viết.

Ông ST này chắc là không biết đến những chi li trong nghề như trên, dù đã từng viết báo từ những năm trước 1975, tại Miền Nam.

GCC suy ra là ông rét. Thành thử mới thanh minh thanh nga là tôi chưa từng quen HNH.

Cái chuyện vờ thằng gõ bài, thì cũng có lý do, nhưng rét mới là chính, bởi là vì, NMG lên tiếng khen um lên, truyện ngắn vượt ra ngoài "ghét tô" thù hận giữa người Việt, mà NMG thì đã từng khốn khổ với “ghét tô” đó, nay khen ST, là để kéo phe đảng.
ST đâu có ngu, nhận lời khen, nhận quen biết HNH là tụi nó lại hỏi thăm sức khoẻ của mình, như đã từng, với ông NMG.
Đếch có được.

GCC này đã từng phán, do kinh nghiệm mà biết, đếch có 1 tên Bắc Kít nào ngu cả, và đó là cái lý do nước Mít sa xuống đáy địa ngục!
Đâu phải những ông như HC, như Nobel Toán...  không nhận ra, cờ đến tay mình là phất, nghĩa là lịch sử đã chọn mình, như đã từng chọn Akhmatova, Brodsky, hay Milosz, hay Mandelstam… nhưng họ đều lắc đầu, đếch phất cờ, ngu sao mà… chết.
GGC lại nhớ đến anh cu Nils, và lần viếng thăm thành phố bị trời đày ở đáy biển cả, và chỉ cần có 1 người bỏ tiền ra mua 1 món đồ, do cư dân của thành phố này làm ra, bằng sức lao động của mình, thì lời nguyền mất linh, thành phố được cứu rỗi. Anh cu Nils mê 1 món đồ kỷ niệm quá, thò tay tính lấy bóp, thì hóa ra để quên ở nhà!

Chỉ cần 1 tên Bắc Kít ngu thôi, là cả xứ Mít được cứu rỗi.
Đếch có thằng BK nào ngu cả. Khổ thế!

Đã không ngu, mà còn vô ơn nữa.
Cái chuyện vô ơn, thì GCC suy ra, nhân lần đi thăm tù… VC ở 1 nhà tù ở Canada, khi làm thiện nguyện cho Hội Người Việt.

[Có thể có vị độc giả, đọc những lời chửi BK kinh quá, khủng quá, ở trên, bèn vặc Gấu, mi bảo BK sợ chết ư, thế thì tại làm sao lại thắng được cuộc chiến, đánh bại được cả hai thằng thực dân cũ, mới, đã từng nhỏ máu đầu ngón tay xin tình nguyện vô chiến trường Miền Nam…

Chuyện này thì lại có cái lý do của nó, GCC xin giải thích sau, trong kỳ tới, và nó liên quan tới lý do hiện hữu của giống Mít, có gì tương tự với lý do hiện hũu của giống dân Do Thái.]

Băng NM ở Montreal, trong có ST, Gấu quen, qua NTV, vào những ngày mới tới Xứ Lạnh. Đó là lần cả đám xuống Toronto, và NTV kéo Gấu tới, dù Gấu không được mời, vả lại, vào lúc đó, Gấu còn đang mơ giấc mơ “hợp tung”, kéo cả thế giới về bên mình, và phiá bên kia là..  Việt Cộng.
Gấu nhớ có thời Gấu viết cả cho báo Đông Âu, Đức, như Cánh Én, Gió Đông.
Và đó là lý do Gấu tự động viết bài cho báo NM, đếch làm cao làm kiếc gì cả, nhưng băng này thì lại làm như là Bố Chó Xồm, như cái lần Gấu làm MC không công cho họ, khi ra mắt sách của 1 đấng trong băng, Gấu đã lèm bèm vài lần rồi.
Bài viết về Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và trong bài viết, là kỷ niệm về Cao Bồi liên quan tới ông anh nhà thơ.
Hay là bài thơ “thần sầu” [“hào khí nhất trời,” như 1 ông bạn đã mất, cùng đi tù Bangkok của Gấu là nhạc sĩ Nguyễn Phước ở Úc, khen tặng]:

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về

Quả là những kỷ niệm thật đẹp.