nqt

 1


SN_GCC_2016

*

*

The Man Who Invented the Drug Memoir:
Kẻ phịa ra Hồi Ức Ken

Thomas De Quincey’s intoxicating prose derived its power from the writer’s opium habit.
By Dan Chiasson

http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/17/the-man-who-invented-the-drug-memoir

Borges, trong Hồi ức của Shakespeare, nhắc đến De Quincey, ông này phán, bộ óc của chúng ta thì giống như miếng da lừa, a palimpsest. Bản văn mới phủ lên bản văn trước đó, cứ thế, cứ thế.
Nhưng gặp một tay có bộ óc khùng như GNV, thí dụ, thì cái bản văn cũ gọi là ‘quá khứ có BHD’ cứ luôn luôn là bản văn mới nhất, nó phủ lên mọi bản văn khác, kể cả bản văn sẽ có!


*

manhhai
Saigon Street Scene 1967 - Đường Ngô Đức Kế, nhìn về Nguyễn Huệ
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29813129434/

UPI office, 19 NDK, phía bên kia hè đường. Có 1 bà cũng gánh 1 cái gánh như thế, bán đồ ăn sáng, hình như là cơm tấm, ở phía trước văn phòng, thời gian, chắc cũng vào giờ này, khi tấm hình  này được chụp

*

Saigon Street Scene 1967 - Đường Nguyễn Thiệp, đường ngang phía trước là Nguyễn Huệ

Cái tay Phương, manager tiệm radio International, là chồng Bích Hợp, nổi danh 1 thời.
Tay Phương có thời cũng rất mê ngồi Quán Chùa, với….  GCC. Nhớ, 1 lần, nhìn thấy Viên Linh, từ ngoài đi vô, chắc thế, 1 buổi sáng Sài Gòn mưa, chàng kéo cái cổ áo mưa lên, tay Phương nhìn, mê quá, phán, đúng là văn sĩ!
Lần đầu tiên Gấu nghe Bích Hợp hát, là
trong 1 vở cải lương, Tình Vương Ý Nhạc, hình như thế, và là bài "Người ngồi bên đây, lặng nghe nước chảy....", "cái con mẹ gì đó" (1) của PD, thế là nhớ đời, y chang chàng Phương nhìn VL xốc cổ áo mưa, hẳn thế!
Nghệ thuật làm dáng?
Cùng thời gian bức hình đưọc chụp?

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/30146656340/in/photostream/


(1) Gõ Bác Gúc:

Hẹn Hò

Một người ngồi bên kia sông
im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy phương nào
Trời thì mưa rơi
mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông
mong cho chóng tạnh mùa Ngâu

Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau
cách một biển sâu
hẹn hò tàn thu sang xuân bên nhau
biết thuở ban đầu
dù tình không nguôi
đôi ta xin cho hứa vui về sau
trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi
cách biệt dài lâu...

Nước vẫn trôi mau
mắt vẫn hoen sầu
đành để hồn theo nước trôi không màu
Số kiếp hay sao?
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần nhau..

Một người bèn ra ven sông
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu?
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau

GCC chưa từng được gặp Bích Hợp, nhưng nhớ là, tay Phương này, rất mê vợ mình, và hình như là, BH do cảm động quá, bèn gật đầu


My Old Saigon


2515. Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013 do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện


http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/da_lat_4.html

Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cầm Dương Xanh

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.
Ai cho phép mi là thi sĩ?
*

Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương thất lạc, không còn tìm thấy mình, thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.

Borges đã từng suýt soa, dịch bản bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn của nó.
Ở trong dịch bản!

Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia, của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!

Mình là cái quái gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
 *

Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp chết, là bò về nghĩa địa...

"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"

"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".


Một Chủ Nhật Khác

Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, giống như một bài toán đố. Những chi tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm cách chứng minh bài toán, tìm ra cái định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng, tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào, người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người tìm có tí dấu vết mà lần mò.

Hai Lúa còn nhớ, có lần, tác giả Một Chủ Nhật Khác kể là, hình như trong một bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!

Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?

Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó, sao mà... thảm thế!










*

Bên kia đường, phiá bên phải, là Quán Chùa, La Pagode
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/

ELEGY FOR A PARK
The labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night



Tập san Văn Chương là gì?
http://www.tanvien.net/tg/tg_tapsan_vanchuong.html

Tập san Văn chương ra mắt độc giả khoảng 1972-74, tại Sài-gòn. Chết trước ngày 30/ 4/ 75. Hình như là do bác sĩ kiêm quản lý bất đắc dĩ, Nguyễn Tường Giang, chán chuyện đi lấy quảng cáo, mặc dù đi là có; và mặc dù tập san có nhà in riêng - nhà in ABC của thân phụ anh Phạm Kiều Tùng. Có lần, trên tạp chí Thơ, tôi đã viết về cái đức sửa mo-rát, sửa lỗi chính tả của anh. Tôi vẫn còn nhớ tiểu đề một số tập san, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm Thấy, do anh đề nghị. Bằng tiếng Tây: Soleils Perdus, Soleils Retrouvés. Đây là một dị ứng, một phản ứng tự vệ, trước sự hiện diện, không phải với mấy anh chàng Yankee đứng ngơ ngẩn ở ngã tư đường phố Sài-gòn, tò mò nhìn phố xá, dòng người qua lại, vào những buổi cuối tuần, những ngày mới tới, mà là những thay đổi quá nhanh chóng của thành phố, cùng với sự hiện diện của họ.

Y hệt như một phim Viễn Tây, trên đường phố Sài-gòn đang biến dạng.

Note: Cái anh chàng Yankee mà Gấu nhìn thấy, là ở góc đường này, từ Quán Chùa
Nhớ hoài!


My Old Saigon

*

Chất kể lại, hồi nhỏ nhà tớ ở gần hồ Trúc Bạch. Ông cụ tớ, một bữa đạp xuồng dạo chơi trên mặt hồ, không may xuồng lật. Khi đó ông cụ mới 29 tuổi, bà cụ 24. Bà cụ giao tụi tớ cho bà ngoại ở Đáp Cầu, và lo buôn bán xuôi ngược. Cụ vô tận trong Nam, tình cờ gặp bà cô tớ, thế là cụ đem hai thằng vô Nam nhờ bà cô trông coi giùm.
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà C, bà Th. cậu biết rồi.

Lần đầu đọc Cuối Đường, Gấu cứ thắc mắc, liệu tự truyện, và tác giả đã có lần ở Sài Gòn?
Như vậy, cũng như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô tả trong Bếp Lửa đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng, bà xã bạn Chất nói, tụi này đã từng gặp cô Thanh Tuyền.
Cô Thanh cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chị Ng nói thêm: Tui không đọc được từ màn ảnh PC, anh Chất phải in ra cho tui đọc, nhưng chẳng thấy những chi tiết sự kiện nào liên quan tới anh Chất hết. Không lẽ anh không viết gì về những mối tình của anh Chất, giống như mấy anh em khác trong... Thất Hiền?
Chất cuời: Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà sống chứ! Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có nickname là Ông Thánh!

&

Gấu đậu Tú đụp năm 1958, kỳ 2. Rớt kỳ 1, trước khi lao vào học, bà cụ Chất cho cả ba đứa đi Nha Trang nghỉ mát. Bốn đứa: Chất, Quốc, Gấu và Hải, con bà Cảnh, anh cô bé Khanh. Truyện ngắn đầu tay Những con dã tràng được thai nghén từ gió biển cát Nha Trang:
Villa trông ra biển....
Chất không ưa truyện này. Còn bà cụ phán, thằng này bịnh!
Chắc là do những dòng sau đây:
Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.

Chỉ đến khi Gấu trình diện Những ngày ở Sài Gòn, bạn Chất mới gật đầu: Được!

Tên khốn Lang Băm, Thầy Đạo làm sao có cái bằng Toán, như trên!
Khi Gấu qua hai cửa ải Tú Tài, chưa tên nào học xong Trung Học Đệ Nhất Cấp!





Steps

“Những con dã tràng”, truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên Sáng Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái mớ bài vở còn dư đó, qua báo Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán vậy, nhưng cũng chẳng nói gì với ông anh. Vả chăng vào lúc đó, lo học, lo tốt nghiệp, ra trường, có việc làm kiếm ra tiền, nuôi gia đình, và nếu có cơ hội, học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện ngắn đầu tay “Những Ngày Ở Sài Gòn” thì Gấu mới biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ kiếm ra sư phụ và kiếm ra văn phong của mình. Đây là cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể đọc 1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản của TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà TTT lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán, nó sẽ đi xa hơn.

“Những con dã tràng”, với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và khác biệt hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao của thứ văn chương “hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm không là đêm” nhưng mà là “đêm tóc rối”!

Gấu nhớ bà cụ thân sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này bịnh.

Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc “The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.

Trong "The Steps", có 1 chương - Gấu đọc cuốn này khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas, sau này nhớ lại, lầm là tập truyện ngắn - trong có xen y chang trong “Những Con Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều:

Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn.

Xen này, 1 vị độc giả, trên Blog NL, lôi ra để đi 1 đường còm.
Một vị thân hũu, nhà văn, quen biết từ hồi Quán Chùa, thì suýt soa, cực "sex"!

Trong Steps, là xen, hai nhân vật nam & nữ, khoả thân, làm tình qua gương:

One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.

Cái việc ném vô thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện ngắn đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm cảm ơn số phận. Nếu không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!

Cái chuyện gặp được Faulkner, may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác, cũng của ông, cũng hỏng cẳng!

Thầy Trò cũng đếch nhận ra nhau!

GCC đã từng phán, toàn bộ tác phẩm của… Cô Tư, là từ cái khúc mở ra Absalom, Absalom!, dù Cô Tư chẳng hề đọc Faulkner.
Trường hợp GCC thì cũng xêm xêm.
Khác, là có đọc.
Anh sinh viên miệt vườn, trước khi từ giã quê nhà, vô Đại Học, được bà cô nhắn, đến gặp bả.

Và nghe bả kể, về “Miền Nam Sâu Thẳm”.
Về Colonel Sutpen 
* *

JERZY KOSINSKI: STEPS

The next afternoon I found a pretext to visit the sanatorium. Patients in brightly patterned pullovers and tight pants strolled about the corridors. Others slept huddled in blankets. Filmy shadows cut across the deserted deck chairs on the sunny terrace, and the canvas snapped in the sharp breezes that scattered down from the peaks. I saw a woman reclining in a chair. Her shawl, casually thrown around her shoulders, exposed her long, suntanned neck. As I lingered, gazing, she glanced at me thoughtfully, and then smiled. My shadow fell across her when I introduced myself. The visiting rules were very strict, and I was permitted to spend only two hours a day in her room. I couldn't get too close to her: she would not let me. She was very ill and coughed continually. Often she brought up blood. She shivered, became feverish; her cheeks flushed. Her hands and feet would sweat. During one of my visits she asked me to make love to her. I locked the door. After I had undressed she told me to look into the large mirror in the corner of the room. I saw her in the mirror and our eyes met. Then she got up from the bed, took off her robe, and stepped over to the mirror. She stood very dose to it, touching my reflection with one hand and pressing her body with the other. I could see her breasts and her flanks. She waited for me while I concentrated more and more on the thought that it was I who stood there within the mirror and that it was my flesh her hands and lips were touching. But in a low yet urgent voice, she would stop me whenever I took a step toward her. We would make love again: she standing as before in front of the mirror, and I, a pace away, my sight riveted upon her. Her life, was measured and constantly checked by various instruments, recorded on negatives, charted and filed away by a succession of doctors and nurses, reinforced by needles piercing her chest and veins, breathed in from oxygen bottles and breathed out into tubes. My brief visits were interrupted more and more frequently by the- intrusion of doctors, nurses, or attendants who came to change the oxygen cylinders or give- new medicines. One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.

As time went on her condition visibly deteriorated. I sat in her room, staring at her pale face lit only by an occasional flush. The hands on the bedspread were thin, with a delicate network of bluish veins. Her frail shoulders heaving with every breath, she surreptitiously wiped off the perspiration which rose steadily on her forehead. I sat quietly and stared at the mirror while she slept; it reflected the cold, white rectangles of the walls and ceiling. The nuns glided silently in and out of the room, but I succeeded in never meeting their eyes. They bent over the patient, wiping her forehead, moistening her lips with wads of cotton, whispering some secret language into her ears. Their clumsy dresses flapped like the wings of restless birds. I would step out onto the terrace, quickly closing the door behind me. The wind was ceaselessly driving the snow over the crusted fields, filling the deep footprints and diagonal tracks left from the previous day. I held the soft plump cushion of fresh snow from the frozen railings. For a moment it shimmered in my warm palm before turning into dripping slush.

More and more often I was denied access to her room, and I spent those hours alone in my apartment. Later, before going to sleep, I would pullout from the desk drawer several albums filled with my photographs of her, carefully enlarged and painstakingly pasted onto stiff cardboard. 'I would place these enlargements in a corner of my bedroom and sit in front of them, recalling the events of the hospital room and the images within the mirror. In some of the photographs she was naked; now I had them before me, for myself alone. I looked at these pictures as if they were mirrors in which I could see at any moment my own face floating ghost-like on her flesh. Then I would step out on my balcony. Around the sanatorium the lights from the windows touched the snow, which no longer seemed fresh. I would gaze at the faint lights until they began to disappear. From beyond the breadth and width of the valleys and hills, streaked by wooded slopes, the moonlight lit up frozen peaks and streams of vaporous clouds being lured from the shadows of narrow defiles, A door clanged shut; a car horn sounded in the distance. Suddenly figures appeared between the snowdrifts. They scrambled through the fields toward the sanatorium, now and then lost, as if straining against the stifling dust storm of a drought stricken plain.




My Old Saigon
Hai Anh commented on this.
Follow
Lê Hoài Anh added 4 new photos.
11 hrs · Ho Chi Minh City, Vietnam ·

Hai hôm trước thấy mọi người khen món bún ốc nguội, bún ốc nóng ở một chỗ là ngon nhất vịnh Việt Nam . Mình tò mò mua về ăn thử . Nói thật một cách khiêm tốn nhất ngon bằng 70 % mẹ mình nấu thôi nhé . Mình cả 10 năm nay không ăn bún ốc của ai nấu vì không ai nấu ngon bằng mẹ . Nịnh bà cho công thức Post lên cho cả nhà tham khảo nhé . Bạn nào thích nấu thử đi bảo đảm có món bún ốc thần thánh gia truyền của cô giáo Thiện ( mẹ mình Hà Nội gốc 8 đời ) Nhé
Chuẩn bị nguyên liệu (...

Continue Reading

Ui chao, đây là 1 trong những món Bắc Kít, Gấu cực mê.
Về già, Gấu tự hỏi mi mê nó, tất nhiên là do ngon, nhưng còn do 1 điều gì khác nữa, đúng không?
Quả có thế.
Chỉ đến khi trở lại đất Bắc, thì Gấu mới vỡ ra được.

*

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29160587460/



My Old Saigon

*

*

Ngã Sáu Saigon

*

CARREFOUR ROSE
Ngã Sáu Hồng

Le carrefour est familier comme un souvenir

Ngã Sáu thân quen như 1 kỷ niệm hồng
như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả....
Tứ tấu khúc

Déjà la nuit ne retient plus ses yeux; ils plongent à cha-
    que carrefour,
sécheresse flairant une prochaine pluie.
Déjà tous les chemins approchent,
même le chemin du miracle.
Le vent apporte l'aube engourdie.
L'aube est notre peur de faire des choses différentes et elle
    s'abat sur nous.
J'ai marché toute la sainte nuit
et l'inquiétude me laisse
dans cette rue comme les autres.
Voici encore au vague horizon
a certitude de la pampa,
le terrain vague se dé
faisant en touffes d'herbe et en fils de
    fer,
et l’almacén (1) clair comme la lune nouvelle d'hier soir.
Le carrefour est familier comme un souvenir
avec ses longs soubassements et la promesse d'un patio.
Qu'il fait bon t'attester, rue de toujours, puisque ma vie a
    regardé si peu de choses !
Déjà l'air est rayé de lumière,
Mes années ont parcouru les chemins de la terre et de
    l'eau
Et mon coeur ne sent que toi, rue dure et rose.
Je doute si tes murs n'ont pas concu l'aurore,
almacén bnilant clair vers le bout de la nuit.
Je pense, et devant ces maisons
ma pauvreté trouve une voix pour s'avouer :
montagnes, fleuves, mers, je n'ai rien regardé
,
mais la lumière de ma ville est mon amie,
et ma vie et ma mort en ont forge leurs verso
O grande rue, et rude sous l'épreuve,
voilà bien le seul chant que connaisse ma vie.

1. L'almacé
n (mot que nous retrouverons fréquemrnent dans ce recueil) tient du bazar et de l'épicerie-buvene : c'est un établissement des plus modestes. Sa facade est, ou était, souvent peinte en rouge ou en rose.
Jorges Luis Borges: Oeuvre poétique 1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra

*


Street with a Pink Corner Store

Gone into night are all the eyes from every intersection
and it's like a drought anticipating rain.
Now all roads are near,
even the road of miracles.
The wind brings with it a slow, befuddled dawn.
Dawn is our fear of doing different things and it comes over us.
All the blessed night I have been walking
and its restlessness has left me
on this street, which could be any street.
Here again the certainty of the plains
on the horizon
and the barren terrain that fades into weeds and wire
and the store as bright as last night's new moon.
The corner is familiar like a memory
with those spacious squares and the promise of a courtyard.
How lovely to attest to you, street of forever, since my own days have
            witnessed so few things!
Light draws streaks in the air.
My years have run down roads of earth and water
and you are all I feel, strong rosy street.
I think it is your walls that conceived sunrise,
store so bright in the depth of night.
I think, and the confession of my poverty
is given voice before these houses:
I have seen nothing of mountain ranges, rivers, or the sea,
but the light of Buenos Aires made itself my friend
and I shape the lines of my life and my death with that light of the street.
Big long-suffering street,
you are the only music my life has understood.
-S.K.

J.L. Borges: Selected Poems [ed Penguin]

My Old Saigon

Anh NQT quí mến,

Vừa nhận được Lần Cuối Sài Gòn trưa nay. Đọc trên chuyến xe lửa từ nhà trở lại sở. Đọc thích thú. Đọc chia sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn, có lẽ những thành phố anh đang gợi lại đã vĩnh viễn ngoài chúng ta, có phải thế?
Hà Nội là một chiếc bóng đằng sau Sài Gòn. Sài Gòn là một chiếc bóng đằng sau hiện tại. Chữ gợi lại chập chùng những bóng. Những người đã từng có mặt. Những chỗ ngồi. Những góc đường. Những tàng cây.
Mới cách đây vài hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke và tập Duino Elegies, vẫn còn bần thần, vì nhận ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn cái gì, là lập tức cái ấy đã là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là Lần Cuối. Chúng ta tới đây, như để có mặt, một lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi qua đi.
Đọc mới xong phần đầu của bút ký, và thơ, đã đầy cả Sài Gòn của một thời kỳ kỳ lạ, tan hoang, lãng mạn, đổ vỡ, và bi tráng của nó.
Cám ơn anh đã gửi sách. Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn xuống con nước Thị Nghè, trưa có mây - hay là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng xa xa Thủ Đức].
Vài hàng viết gấp kẻo anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ đọc tiếp Lần Cuối tối nay. Anh vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.

TQ (1998)

1998
Trong số những nhà văn nhà thơ hải ngoại, Gấu chưa từng quen biết, chỉ nghe đến tên, chỉ đọc họ, những ngày đầu ra hải ngoại, lần ra sách đầu tiên, cố tìm địa chỉ để gửi sách tặng, chỉ có TQ là viết thư trả lời. Còn những tên như nhà thơ ngồi bên tách cà phê, không. Nhớ, lần đầu làm quen, gửi cho hắn 1 bài viết về TTT, lúc đó hắn đang làm 1 trang báo, hắn bèn tự nhiên như người Hà Nội, đăng liền, chẳng thèm xin phép cái con mẹ gì.
Thời gian đó, hăm hở với giấc mơ vá lại cái bướm nát tan của bướm Mít, bản đồ Mít…  như 1 ẩn dụ của Borges, Gấu bỏ qua hết, báo nào cũng viết, nào gió đông, nào cánh én, nào là ta là gì, bị cả 1 bầy chó hải ngoại xúm lại tính xẻ thịt con sói đơn độc
, (1) bỏ qua hết, chỉ đến khi biết rằng vô phương, vô ích, chỉ đến khi đó, mới làm trang Tin Văn, hy vọng 1 thân 1 mình làm được điều không 1 tên Mít nào làm được, đâu có phải tự nhiên mà vị bằng hữu K chúc, đừng để ý đến bất cứ tên nào, tẹt kệ cha tẹt, lõ kệ cha lõ, chỉ làm thơ thôi!
Bằng hữu mà biết đến tận gan tận ruột Gấu như thế, nhờ làm trang TV mà có được, thì quá xứng đáng 1 đời lưu vong rồi, còn đòi hỏi gì nữa?
Hà, hà!

(1)
Chôm từ 1 bài viết về DTH, trên báo Tẩy


La louve solitaire de Hanoï
Manuel Carcassonne
16 février 2006

http://www.tanvien.net/dich/louve.html



My Old Saigon

*

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29261092556/

Nam Định 1954 - Các bà quả phụ than khóc bên mộ chồng là những binh sĩ Việt đã ngã xuống. Đây là một trong những bức ảnh sau cùng của Capa.
INDOCHINA. Nam Dinh. 1954. Indochina widows with their children grieving at the graves of their fallen husbands. This image was one of Capa's last pictures.




My Old Saigon




Bùi Văn Phú liked this.
Follow
Hoàng Oanh
12 hrs ·

ANH QUỐC ƠI...

Nhờ Khanh Viet Nguyen nhắc, Hoàng Oanh mới nhớ lại trong một Đại nhạc hội ở Texas năm 2000, Hoàng Oanh trình diễn bài hát Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc của nhạc sĩ Phạm Duy. Khi bài hát chấm dứt, có một thanh niên lên sân khấu tặng hoa và cảm ơn Hoàng Oanh vì đã hát bài hát vinh danh người cha của anh là cố Đại tá Không quân Phạm Phú Quốc.

Đây là một trong rất nhiều kỷ niệm trong đời ca hát của Hoàng Oanh.

... See More

Đọc stt này, thì bèn nhớ cái thời mới lớn, mê nhạc, mê ca sĩ, mê bản nhạc do ca sĩ mình mê, hát. Và cái bài hát mà Hoàng Oanh, ca sĩ học trò, như lúc đó được gọi, vì cứ áo dài, đứng hát thật nghiêm chỉnh, và bài hát được mê, là Hoa Soan Bên Thềm Cũ.
Có những đấng chạy sô y chang nữ ca sĩ chạy sô, nghĩa là, nghe xong Hoa Soan ở phòng trà này, thì vội vàng chạy qua phòng trà, lại chỉ để nghe Hoàng Oanh hát, Hoa Soan Bên Thềm Cũ

Solex vs Áo Dài: Nhớ về Saigon xưa


http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_5.html


The Spy Who Loved Us

Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ, Cuộc Đời Greene, có đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào, trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ tự truyện, Cõi Khác, Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc dáng Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh của Remarque.

Tại sao lại có sự "lầm lẫn" như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường tra vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một số tác giả, trong số đó, có Steiner, Benjamin, Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ NhấtThế Chiến, không thể có một Mặt Trận Miền Tây nào, cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm dứt  thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)

Đây là điều những nhà phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và coi nó cao hơn Mặt Trận Miền Tây. Cao hơn không phải là do Bảo Ninh có tài hơn, mà là, chiến tranh, con người, ở trong Nỗi Buồn Chiến Tranh khác với chiến tranh, con nguời như được miêu tả trong Mặt Trận Miền Tây.
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của Greene, là phải viết Người Mỹ Trầm Lặng. Những so sánh nhắc nhở tới ông, là vì ai cũng muốn được như... ông.

Toan tính rõ rệt nhất, và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn Thời Gian Của Người của Nguyễn Khải. Nó thất bại, là do muốn hay hơn cả Người Mỹ Trầm Lặng, theo nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người, như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông tuyên bố:

“Tôi phải kiếm cho ra một tôn giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.

Nhân vật Quân [hoá thân của Ẩn,] trong Thời Gian Của Người "thánh thiện quá" [theo nghĩa thép đã tôi thế đấy], nhà văn như Nguyễn Khải, một lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như Gide nói. [Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương tồi].
Một cách nào đó, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng có một vị thế [position,status], của cuốn Bóng Đêm Giữa Ban Ngày của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án của thế kỷ.
*

"Đại tá Edward Lansdale - người được coi là khuôn mẫu cho nhân vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene".
Bass

Một anh Xịa cáo già như Lansdale làm sao lại có thể là nguyên mẫu cho một Mẽo gà mờ cù lần như nhân vật Pyle trong Người Mỹ Trầm Lặng?

Như Norman Sherry cho thấy, Pyle là tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale trong số đó. Nhưng Sherry chứng minh, Pyle bản chất là một anh Hồng Mao: Pyle is straight out of a good quality public school - in essence he is  English.

Có thể Ẩn giống Pyle, theo nghĩa này, bản chất của anh là  một Cộng Sản. Một người Bắc vô Nam trước 1954 và là một Cộng Sản, làm việc cho Bắc Bộ Phủ.
Đây là sự khác biệt giữa Trung [phi công ném bom Dinh Độc Lập] và Ẩn.

Trung là một con người, với lòng hận thù rất con người của anh. Có thể, chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này: Tụi bây giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo Cộng Sản, chủ nghĩa đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc chắn, nhờ nó, tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù hằn gì cái miền đất đã nuôi dưỡng anh, nhưng, có thể, anh tin rằng, miền đất này sẽ còn khá hơn thế nhiều, nếu nó được Bác và Đảng chăm lo. Cái tay Hoàng Tùng [?] dâng Đất Thục, cho, hết Tào Tháo đến Lưu Bị, đâu phải hắn là một tên phản quốc khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã nghĩ như vậy, khi "nằm gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả đò làm việc cho Mẽo, nhưng thực tình thì là một con ngựa Hồ hướng về, hí về... Đất Bắc! Tâm sự của anh là như vầy:

Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!

*

*

Anh George yêu quí của Em,
Em muốn cầu xin Anh một điều mà không một người đàn ông phong nhã nào có thể chấp nhận.
Em muốn trở lại với Anh.
Em hiện đang ở khách sạn Baur-au-Lac ở Zurich tới cuối tháng.
Em trông tin Anh
Ann

Cú ngửa tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì, với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!], biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có cờ rồi, chúng không có lý do nào để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!

Không có bức điện của PXA, có thể tình hình khác đi.

Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà biết thiên hạ sẽ phân ba.

PXA biết, nhưng không biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.

Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như không còn.

Vào những giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là vì những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (1)

Sep 26, 2013

Mưa chân trời

Cái nước mình nhỏ thiệt, bão ở đâu đâu mị ngoài Bắc mà chót Mũi cũng mưa tối mắt. Ai đó trong mấy anh ngồi uống trà chiều ở cái chòi sửa xe, nói bâng quơ ngó chuỗi mưa xiêu xẹo. Sáng đến chiều vẫn một màu trời âm u đùng đục, đầu đêm đến cuối đêm một thứ âm thanh rả rích. Tôi lánh cái nhìn vô cái pitong lửa leo lét cháy ép vá vỏ xe bị đinh đâm lủng, ứ hự nghĩ tới phải đội mưa đi đón hai nhóc con. Anh vá xe một tay đưa võng cho đứa thứ hai ngủ, tay kia ẵm lủng lẳng đứa sau, nói “tối nay bão vào quê, không biết thằng em chống chọi sao rồi”.
Tin báo bão trên đài nói rằng nó ráo riết nhắm hướng Tiền Hải, anh vá xe rầu. Năm trước nhà em trai anh bị bão dỡ một lần, vừa vá xong đận này chắc là lại rách. Nhiều năm nay anh không về quê. Tháng Bảy này năm ngoái, anh mất đứa con trai đầu lòng khi nó đi xúc cá bị chết đuối. Khi người đàn ông này dắt díu vợ di cư đến mảnh đất mút ngọn miền Tây, đã không bao giờ nghĩ mình sẽ vùi cốt nhục ở đây. Lần nào ghé căn chòi sửa xe này, tôi có một chút khó thở. Không hiểu vì trà Bắc chát đắng hay nhớ thằng bé người ta từ dưới đáy ao hoang đằng sau trạm xăng lên, nhớ hình ảnh thằng bé mười tuổi mà tôi vẫn thấy hay đi mua kẹo ở tiệm tạp hóa gần nhà, vắt đứa em gái trên cái hông mỏng te bén lẹm xương của nó.
Hồi còn nhỏ, tôi có nhiều kỷ niệm với những người Bắc di cư vào. Tiệm gạo nhà tôi cất ngay cửa ngõ vào cái xóm Hà Nam Ninh. Họ ở co cụm, như thể để thỏa nhu cầu nghe tiếng nói quê nhà ới ơi mỗi buổi sớm. Mùa mưa, xóm lụn trong nước và lau sậy. Những con ngỗng giữ nhà rướn cổ ném cho khách những tiếng kêu đầy ác cảm. Sân nào cũng đầy dấu chân của vịt, gà. Những thùng nước cơm cặn lặc lè yên sau xe đạp. Cô giáo dạy văn mà tôi thương nhất. Con bạn cùng lớp cạnh tranh vị trí nhất nhì. Vài chị là mối mua gạo cám của tiệm nhà tôi. Những con người ấy làm tôi thắc mắc cái xứ sở mà tôi gọi là nước Bắc không biết gần hay xa. Chắc xa, họ gọi chén bát lung tung xèng, phở thì không rau giá, canh chua không nêm đường, cà đem muối trong chum, bánh tét lại vuông. Chắc xa, năm bảy cái tết họ mới về quê một lần.
Nhưng những cơn mưa dầm tháng tám làm tôi thấy họ gần mình. Bởi những cái thở dài không phân biệt tập quán và quê xứ. Dù họ lo lắng giông bão phía quê nhà, tôi rầu đơn giản chỉ là mưa thấy rầu thôi, nhưng chắc là cộng cảm theo kiểu ai ra mưa cũng ướt, ai ở dưới trời này cũng phải chịu những cơn mưa rũ rượt. Cùng một nỗi buồn nhà dột, bán buôn ế ẩm, cơn cảm cúm mũi dãi chảy sụt sùi.
Những cuộc đi mê miết đã làm nhòa những lạ lẫm của người Nam nhìn kẻ Bắc. Cửa hàng bán đồ Bắc xuất hiện nhiều thêm trên nội ô thành phố. Nhưng phở gia truyền Hà Nội cũng rau giá đầy vun, bánh cuốn gia truyền Hà Nội với nước chấm pha đường ngọt lịm. Tết, nhà họ cũng có nồi thịt kho tàu. Lâu lâu trên đài địa phương có phát biểu của một ông giọng miền ngoài mà bắt đầu bằng mấy chữ ‘thưa bà con,”. Mấy em cộng tác viên gốc Bắc viết truyện ngắn gửi tạp chí văn nghệ dùng phương ngữ miền tây ngọt sớt. Những thế hệ thứ hai, thứ ba đã dạ thay cho vâng. Anh thợ sửa xe nói, từ khi không còn cha mẹ già ngoài ấy, thì loay hoay chỉ trung thu và tết mới thấy nhớ quê, dợm muốn về. Miền Tây không có cái không khí lễ hội của trăng rằm và dịp đầu năm. Nhưng từ mất thằng nhỏ, cất bước đi đâu cũng khó.
Anh bỏ sót mưa. Dải đất nằm nghiêng theo biển, nghe mưa dầm dề là biết có áp thấp nhiệt đới gần bờ, không tạt vô trung thì ra bắc. Mùa mưa phương Nam trùng với mùa bão lũ ngoài kia. Mưa buộc người lang bạt lại với cái gốc rễ tưởng đã bứt lìa. Anh hỏi vợ ghi số điện thoại của thằng em ở quyển sổ nào, quên mất.
Giữa cơn mưa gió ẩm ê, những cuộc gọi từ cuối đất phập phồng theo cơn bão ở chân trời.

Blog Sầu Riêng

Nhắc đến Cao Bồi “nằm gai nếm mật” bao nhiêu đời, nhân đọc NNT, bài viết thật tuyệt, nhưng bị mấy cái lỗi “hỏi ngã”, tiếc quá, bèn sửa, và post lại ở đây.
Cũng 1 cách “buộc người lang bạt…”
Hà, hà!

Tiện thể. Trên trang Gió O của bà Huệ, "hỗ trợ", không phải "hổ trợ".
Lại nhớ Gấu Cái.
Hồi Bả "tập" viết văn, chỉ cho phép Gấu sửa lỗi chính tả, cấm sửa văn, cho "còn nguyên" mùi Nam Kít, không bị pha tạp!

Trang FB của GCC

Link ở đây, để lỡ GCC vội - "đột xuất", chữ của Vẹm - đi  xa, Gấu Cái/Jennifer Tran thông báo độc giả TV, giùm.
Bả không biết làm sao post trên Tin Văn!

Bài đầu gia nhập Facebook

August 8, 2011

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Em còn nhớ hay em đã quên?
Nhớ Sài gòn những chiều lộng gió
Lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
Có không gian màu áo bay lên

Note: Thần sầu! Mỗi lần nghe, là Gấu lại nhớ đến bài viết của Borges, về những tiền thân của Kafka, về "một vài người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà."

TCS là thứ người đó, ông không thể xa Sài Gòn, đành ở lại, ôm lấy nó, cho tất cả chúng ta!

Có lần Gấu phán ẩu, nhưng thật đã, thật đúng, cái hồn văn chương Miền Nam ở trong những bản nhạc sến là thế. Nhạc TCS thì cũng thứ nhạc sến, hiểu theo một nghĩa nào đó.
Cái sến nhất của nó, là làm người ta quên cuộc chiến, trong khi nhạc lính, ôm lấy nó. (b)

INTERVIEWER
In your interview with Gordon Lish in Genesis West, you say that there are two kind
My Old Saigon

*

Bên kia đường, phiá bên phải,
là Quán Chùa, La Pagode
Công viên Chi Lăng đường Tự Do 67-68
Photo by Henry Bechtold
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/6593043587/in/photostream/

*


https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29762351640/

Saigon after Tet 1968 - Photo by Philip J. Beaver - Đường Trương Minh Giảng
phía bên trái là chợ Trương Minh Giảng, bên phải là ĐH Vạn Hạnh (cả hai đều nằm ngoài hình).
Hình G0894: Xe thiết giáp dẫn đường của Đại đội C, Tiểu đoàn 720 Quân Cảnh trong đoàn hộ tống đoàn công-voa đi xuyên qua trung tâm Saigon, ngay sau cuộc Tổng tấn công Tết 1968 của Cộng sản.
Photo G0894: C Company, 720th MP Battalion lead Armored Personnel Carrier, C102 on the Tay Ninh Convoy escort through Saigon, South Vietnam just after the 1968 Tet New Years Communist Offensive. Courtesy of SGT Philip J. Beaver, A Company, 720th MP Battalion, 89th MP Group, 18th MP Brigade, August 1967 to August 1968.
Source: History of the 720th APC's In Vietnam
720mpreunion.org/history/vehicles/apc/history.html

Phiá sau, bên phải là Đại Học Vạn Hạnh. Phía trước, đi quá 1 chút nữa, là hẻm nhà Joseph Huỳnh Văn, quá nữa là Cổng Xe Lửa số 6. Bên trái, là nhà thờ, hẻm nhà Ngọc Dũng, hẻm nhà ông anh rể Hiếu Chân.
TTT có viết 1 cuốn tiểu thuyết dài, từ khu này, Đêm Xóm Lách Mịt Mùng, nhưng bỏ dở.
 

Cảnh đẹp VN

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

War_Pix
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life

Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi


Blog TV

Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Bếp Lửa trong văn chương

Báo Văn [Phê Bình] cũ, có bài của GCC

Mù Sương
Hồi Ký Viết Dưới Hầm
Nghĩ về phê bình
Mây Bay Đi
Nguyễn Du giữa chúng ta
  "Tạp Ghi" by Tuấn Anh
Chữ và Việc
TSVC
Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

Xuân Vấn Đề Kỷ Dậu

Truyện ngắn Võ Phiến

Những ngày ở Sài Gòn
nhà xb Hoàng Đông Phương

Mộ Tuyết
[Hồi bắt đầu đi làm]

Happy Birthday GCC

Cali 3.08

Cali Tháng Tám 2011

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

Cali 2012 With H/A

Lolita vs BHD







Văn chương ai điếu

[Note: Bài này đầu tháng lòi ra]

http://www.tanvien.net/Day_Notes/Gau_Saigon_6.html

*

GCC & NDT & VTD & DPP với mấy đấng nữa, không biết tên

Cali 3.08

Hà Nội

Bài này, nữa, nằm trong loạt bài viết song song với BL

Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa 

It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn how to write realistically of human beings; at the beginning he invented life... these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called "the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens

Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật trong Oliver Twist  giản dị chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là "những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ

Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!

Tôi tự hỏi, đoạn văn trên có ảnh hưỏng tôi không, bởi vì chắc chắn tôi đã đọc Bếp Lửa, trước khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn.

"Hà Nội... tiếng khóc nức nở của một cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc nức nở, không phải sợ hãi, không phải…"

Những ngày ở Sài Gòn

Những ngày thì ở Sài Gòn, nhưng những kỷ niệm, thì là của Hà Nội. Chính vì vậy, mà một ông bạn mới quen sau này, ở hải ngoại, khi đọc xong tập truyện đầu tay của Gấu, đã lắc đầu: Treo đầu dê bán thịt chó!
Về cái vụ cô gái bán rau muống bị Tây hiếp, Gấu nghe ông cậu, cậu Hồng, cùng tuổi Gấu, con Bà Trẻ, lúc đó cũng trọ họ ở Hà Nội, nơi nhà chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, tại Bạch Mai, kể lại. Thực sự Gấu không tận mắt chứng kiến.
Người đàn ông bị giết nằm ngay bên đường xe điện cũng nghe kể lại.
Cộng, kỷ niệm thực với hồi ức đọc, ra đoạn văn của Gấu, chắc thế.

Nhưng bị thằng bé đánh giầy chơi mất chiếc mũ dạ, là có thật. Đến bây giờ, về già, lâu lâu trong giấc mơ, vẫn còn trở lại:

[Khúc này Hải Âu mê lắm, hà, hà!]

Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện... Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.
Những con dã tràng
*

Đoạn văn tả cuộc nói chuyện giữa ông Chính và Tâm, và nói rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán, sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã hoàn tất  phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.

Chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương là như vậy.

Bạn nào đã từng xem phim OK Corral, chắc là còn nhớ, trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn, chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...

Với bậc thầy, cái sự sửa soạn mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá, bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô nói với anh: Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.
Như thể, cô nhìn thấy và còn nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm trong nôi, với người yêu còn là thằng nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài ca dao sau đây.

Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái nằm ngang,
Thương Em từ thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín cái nằm chồng,
Thương Em từ thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái nằm xoay,
Thương Em từ thuở Em hay khóc nhè.

Và nhớ luôn cả vẻ mặt của ông bạn thân, và còn là người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHD:
-Làm sao mà mày có thể mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn, từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên dưới hồi nhà nó còn ở đường PDP.

Nhưng cái kỷ niệm sau đây, nhờ NTV mà Gấu nhớ lại được, thì thật là tuyệt vời, chưa kể cái kỷ niệm, lần cả hai đứa xém chết vì lên xóm

http://www.tanvien.net/Notes_2/kyniem_2.html


* *

Gọi Người Đã Chết
Call For The Dead

John Le Carré, Gấu cũng tự mình khám phá ra, cũng một cú tự sướng, lần ghé tiệm Xuân Thu, kế bên Quán Chùa, tình cờ cầm lên cuốn L’espion qui venait du froid, Gián điệp về từ miền lạnh, vừa đọc đến ‘du froid’ một phát, là lạnh run người, con vai-rớt Bắc Kít, bật nhỏm dậy, bao nhiêu sợi nắng, sợi mưa Sài Gòn cũng chịu thua, hà, hà, đúng là tâm trạng đó, cú mặc khải đó, khi Gấu bập vô cuốn truyện.
Rồi mò tới Gọi người đã chết, bản tiếng Tây, loại sách bỏ túi đóng dấu IC, giá tiền bằng giá tại gốc,10 đồng, tiền ông Diệm, đọc thì đọc, nhưng không cảm.
Phải tới khi vô nhà tù quốc tế Bangkok, nhờ bản tiếng Anh, của một tay thanh niên người Mã Lai, nằm kế bên, thì mới thấm đòn, và nhận ra, đây mới là cuốn hiển hách nhất của Le Carré.

Ui chao, bạn đọc đoạn sau đây, khi Smiley bị vợ bỏ, ông bạn VC người Đức tên Dieter thì lại tha thứ cho anh, không thèm làm thịt, và gieo mình xuống sông Tà Mi tự trầm, rồi nghĩ đến những thân phận PXA, thí dụ, bị chính cái Miền Bắc của anh bỏ rơi, sau khi vắt sạch, chết không nổi, cứ ngắc nga ngắc ngoải, vì địa ngục chật quá rồi, và cỡ như anh, Diêm Vương cũng lắc đầu không dám nhận, hay nghĩ đến thân phận thằng cha Gấu, cũng sắp đi rồi, mà đi về đâu, về đâu… hà, hà?

Smiley put this on one side and turned to the next letter. Just for a moment he did not recognize the handwriting; just for a moment he looked bleakly at the Swiss stamp and the expensive hotel writing paper. Suddenly he felt slightly sick, his vision blurred and there was scarcely strength enough in his fingers to tear open the envelope. What did she want? If money, she could have all he possessed. The money was his own, to spend as he wished; if it gave him pleasure to squander it on Ann, he would do so. There was nothing else he had to give her - she had taken it long ago. Taken his courage, his love, his compassion, carried them jauntily away in her little jewel case to fondle occasionally on odd afternoons when the time hung heavy in the Cuban sun, to dangle them perhaps before the eyes of her newest lover, to compare them even with similar trinkets which others before or since had brought her.
My darling George.
I want to make you an offer which no gentleman could accept.
I want to come back to you.
I'm staying at the Baur-au-Lac at Zurich till the end of the month. Let me know.
Ann
Smiley picked up the envelope and looked at the back of it: 'Madame Juan Alvida'. No, no gentleman could accept that offer. No dream could survive the daylight of Ann's departure with her saccharine Latin and his orange-peel grin. Smiley had once seen a news film of Alvida winning some race in Monte Carlo. The most repellent thing about him, he remembered, had been the hair on his arms. With his goggles and the motor oil and that ludicrous laurel-wreath he had looked exactly like an anthropoid ape fallen from a tree. He was wearing a white tennis shirt with short sleeves, which had somehow remained spotlessly clean throughout the race, setting off those black monkey arms with repulsive clarity.
That was Ann: Let me know. Redeem your life, see whether it can be lived again and let me know. I have wearied my lover, my lover has wearied me, let me shatter your world again: my own bores me. I want to come back to you ... I want, I want ...
Smiley got up, the letter still in his hand and stood again before the porcelain group. He remained there several minutes, gazing at the little shepherdess. She was so beautiful.
*
Đoạn hai tay kẻ thù bạn cũ đụng độ trên cầu, trên sông Ta Mì, cũng thật là tuyệt cú mèo:
Anh ta [Dieter] đi rồi, bầy mình ra, như một sự hy sinh của con người cho sương mù London và dòng nước khùng điên, đen ngòm ở bên dưới...
[He was gone, offered like a human sacrifice to the Lodon fog and the foul black river lying beneath it.]
Chắc là đành phải 'như một cú hi sinh con người', và lụi cụi dịch hết cuốn truyện này thôi !

Kỷ Niệm

- Mỗi người, ông và nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía sau, vung cao hai tay như trên một cây đu, nàng quay đầu để tránh bụi bay mù, nàng nheo mắt và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông? Tôi biết thói quen của nàng quá mà? Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại thoạt đầu gập đôi, sau đó gập tư, và trong lúc làm việc đó, nàng luôn miệng nói đùa và nô giỡn chứ gì? Phải vậy không ông? Phải vậy không ông?
Bác sĩ Zhivago [VN thư quán]
Đây có lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu, của cuốn tiểu thuyết.
Anh chàng VC Nga, Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt, trở về căn nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago. Hai người đàn ông tranh nhau nói về người đàn bà.
Câu văn trên Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên được.
Có một cái gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh nào đó, làm Gấu nhớ hoài.
Chỉ tới khi về già, Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.

Bạn đọc Tin Văn thử đoán coi?
Chắc là thua.
Đọc đoạn trên, là Gấu nhớ đến lần nhờ một anh bạn đem thư cho BHD, anh ta vô nhà, mải nói chuyện với ông anh của BHD, quên mẹ thằng Gấu ở ngoài, khi ra về, thấy Gấu thật là tang thương xơ xác trên chiếc xe đạp, chờ như chờ từ ngàn ngàn kiếp!
Để chữa... quên, anh ta còn lầu bầu, tao bị em của mày sai như nô lệ, anh V, giúp em khiêng cái giường!
Chả là em mới dọn nhà.
Ui chao, cứ nghĩ đến cảnh được phục vụ em, mà thèm! (1)

(1)

Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...  chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
Kỷ niệm

Note: Thi sĩ Hà Tuệ còn là thính giả đầu tiên nghe thơ TTT được phổ nhạc, ở trong nhà tù VC
http://www.tanvien.net/tg_vn_01/30.4.ttt.html

Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền

Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ  viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].

Bài nhớ thi sĩ

Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu

Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới

Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau

Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục

Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút

(Bình minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm

Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn

Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.

Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79

Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa

Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý.

Ghi chú của người sao lục:

Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả [Thính giả?] đầu tiên của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác giả Nắng Hồng Phương Nam cho biết.

Trong đất trời nhau, là từ thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin anh đi xa, là để chỉ Mai Thảo đã vượt thoát. Quê ngoại là hải ngoại.

... Hôn thụy, ngủ mê, như Gấu tôi được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển từ "coma" [hôn mê] sang tiếng Việt. Trong một lần hai anh em ngồi Quán Chùa, TTT tâm đắc với từ này, và gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
Nhưng phải đợi đến đầu năm 87 ở Lao Kay, lần đầu tiên nhận được tin nhà, biết Mai Thảo đã vượt thoát, Thanh Tâm Tuyền mới chợt tỉnh giấc hôn thụy, và chúng ta mới thấy hết ý của lời khen của TTT dành cho bạn mình là Tô Thuỳ Yên [luý dịch hay thật!].
Một lời khen biến thành một lời tiên tri, cho số phận của ba nhà thơ.

- Mai Thảo, chắc chắn là nhận ra được lời nhắn gọi của bạn mình [Trong thơ tui có thơ anh], nên đã trở lại với thơ, nhờ vậy chúng ta có Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền.
- Tô Thuỳ Yên tiếp tục làm thơ, và có Ta Về.
- Thanh Tâm Tuyền, có Thơ Ở Đâu Xa.
Toàn bài thơ là từ "chợt tỉnh giấc hôn thụy", mà ra:

Sáng nay, thức giấc, nhà giam
Nhớ thơ làm hồi trẻ
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo.
Cũng qua cơn hạn khác thường...

Note: Bài thơ này, Gấu mê nhất, trong Thơ Ở Đâu Xa

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm


NXH's Poems of the Night
Đọc/Viết mỗi ngày

*

Carnet de lecture

par Enrique Vila-Matas

ÉCRIRE POUR DISPARAITRE

une fois achevée, l'oeuvre écrite témoigne de la dissolution de l'auteur

Que l'histoire de la subjectivité en Occident ait toujours été la chronique d'une disparition annoncée, d'une disparition qui n'en finit pas de se produire, semble se confirmer définitivement. Pour l'heure, il ne s' agit que d'une chronique qui va de Montaigne a Blanchot, sans que, bien sur, il faille forcément en déduire que cette histoire ne se déroule qu'en France. II n'y a pas longtemps, Jose Luis Pardo disait au sujet des excellents travaux menés par Christa et Peter Burger sur la disparition du sujet : « Sur ce point, l'histoire ne commence pas avec la naissance du sujet ni ne se termine avec sa mort ; c'est l'histoire de la facon dont la tendance du sujet occidental à
s' affirmer soi-même comme fondement le conduit à une étrange volonté d'annihilation de soi, et de la facon dont ces tentatives suicidaires sont, à leur tour, des tentatives d'affirmation du moi.»
Nous sommes done confrontés à 1'histoire d'une disparition ambigue et qui n'en finit pas de se produire. Parce que, en ce bas monde, personne n'a encore disparu et, en même temps, tout le monde l'a fait. Le premier a s'en aller fut Dieu, joyeusement enterré par Nietzsche. Pourtant il est bien là, tout a fait vivant, remuant la queue, ranimant le feu de la Maison Blanche. Quant à l'homme, on a dit de lui qu'il embolterait le pas à Dieu et que lui aussi s'effacerait, on a annoncé amaintes et maintes reprises «1a mort du sujet », il n'êmpeche qu'aujourd'hui, l'histoire des lettres occidentales, la passion de disparaitre, se produit à l'intérieur du sujet en même temps que ses plus retentissantes manifestations d' affirmation. Écrire pour disparaitre, dirait Blanchot, qui est celui qui a réflechi à ce problerne jusqu'au vertige ; il s' est promné avec l' écriture de la disparition à l'extrême bord de l'abime, conscient que tout, absolument tout, s'effacera. Lui-même s'effaca, disparut des accessoires actuels du monde littéraire et fut conscient de l'horreur d' écrire pour être photographié. Quoique, comme dit Antoni Mora, « affirmer spontanément que Blanchot fut un écrivain secret suffit à compromettre cette hypothèse ».Nous sommes confrontés à ce secret discutable et bruyant qui dit que «d'abord nous pensons, ensuite nous existons», et qui aurait fait rire Montaigne avec compassion. Montaigne consacra sa vie à l'interminable processus de l'acquisition de l'expérience dans son propre moi, tandis que Descartes découvrit dans le moi abstrait, universel, le fondement d'un savoir sur. Tout s'effacera, même ce savoir, conduit jusqu'à ses demières extrémittés par Blanchot avec une phrase lapidaire qui, elle aussi, s'effacera: «Je suis, je suis seulement parce que j'ai fait du néant mon pouvoir, parce que je puis ne pas être (1), » Nous en arrivons ainsi à L'Avventura, le film d'Antoniont qui, it y a deux mois et avec tous les honneurs (honneurs qui, eux aussi, vont devoir s'effacer), réapparut en France en DVD aux Editions Montparnasse, un film qui illustre magistralement - il s'agit d'une oeuvre essentielle de l'art contemporain -la disparition d'un personnage principal du récit qui nous a été raconté jusque-là. L'Avventura relate l'histoire de jeunes amis qui, naviguant dans les Iles Éoliennes, voient disparaitre l'un des leurs sur le ré
cif de Lisca Blanca. Au fur et à mesure qu'avance la recherche d'Anna, la disparue, on se rend compte que ce n'est pas exactement la disparition de la jeune fille qui compte le plus, mais la sensation de vide, de hasard et d'errance qui tire les fils de la vie de quelques personnages en train de chercher la disparue et qui, en realité, se cherchent eux-mêmes, tout comrne ils tentent de trouver le Dieu que Nietzsche n'avait pas réussi à connaitre. Pour ma part, it me semble que dans L'Avventura résonnent comme jamais n'ont résonné les mots de Blanchot, l'héritier de Montaigne, quand il nous dit que l’oeuvre écrite produit et manifeste l'existence de l'écrivain, mais que, finie, elle ne témoigne plus que de sa dissolution, de sa disparition, de sa défection et, pour le dire sans ménagernent, de sa mort dont, par ailleurs, il ne reste jamais de preuve définitive .•

Traduit de l'espagnol par Andre Gabastou

(l) L'Espace littéraire. Maurice Blanchot, éd. Gallimard, col. Polio essais, p. 215.

Bốc phét mà phán, thì cả 1 bài viết thần sầu trên đây, chỉ để vinh danh, chỉ 1 câu văn của GCC:

Viết, một cách nào đó, là....  chết:

une fois achevée, l'oeuvre écrite témoigne de la dissolution de l'auteur: một khi hoàn tất, tác phẩm chứng kiến tác giả của nó tan rã ra!

http://www.tanvien.net/sangtac/st03_lan_cuoi_sg.html
 
Lần Cuối Sài Gòn

Viết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".

Một tiệm sách có tấm bảng hiệu, vừa níu kéo một chút quá khứ, vừa làm lan can cho căn gác lửng, và là chỗ tôi thường đứng tỳ tay nhìn xuống đường, nhìn buổi chiều, đợi chờ cô bé trở về nhà trên đường đón em học trường mẫu giáo Aurore ở gần ngã tư Cao Thắng-Phan Đình Phùng. Ngay ngã tư có tiệm Thanh Xuân, nơi hân hạnh được cô bé tới chụp hình cho cuốn học bạ, nhờ vậy tôi cũng được ăn theo, tấm hình sau được họa sĩ Ngọc Dũng thương tình chuyển thành phác họa, khi cả bọn xúm quanh anh thuở còn đi học cứ ba tháng hè kéo nhau tới nhà anh T. ăn bám bà cụ. Kỷ niệm độc nhất đánh dấu những buổi chiều hạnh phúc, báo trước cuộc chia ly kéo dài...

Khi gặp lại, cô bé đã đậu tú tài phần một, được ông bố khắc nghiệt cho đi thăm Đà Lạt. Mỗi sáng thứ bẩy, tôi theo chuyến xe đò sớm nhất vượt quãng đường mấy trăm cây số, rồi chiều chủ nhật trở về cho kịp thứ hai đi làm, trong đầu đầy ấp hình ảnh Đà Lạt với quán cà phê Tùng, tiếng hát Sylvie Vartan, "J'attendrai que ma vie recommence"... bóng dáng cô bé xuất hiện nơi đầu con dốc, tha thẩn bên hồ, thấp thoáng xa gần giữa vườn thông, trước ống kính máy chụp hình tôi mượn của một người bạn Phi làm cùng sở. Khi đó tuy ông Diệm không còn, nhưng Miền Bắc chắc còn đang lo đấu tố, thanh trừng địa chủ nên bỏ qua cho hạnh phúc nhỏ bé của chúng tôi.

Note: Truyện ngắn này, sáng tác những ngày ở trại tị nạn Thái Lan.
Gửi đăng trên tờ Làng Văn ở Toronto.
Cô bạn có đọc, như sau đó cho biết, và nói, tôi cứ nghĩ là anh ở Sài Gòn, viết, gởi ra hải ngoại, đăng!


  *

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29186979254/in/photostream/


Larry Burrows

In 1997 Horst Faas and Tim Page published Requiem, a homage to the 135 photographers who died while covering the wars in Indochina and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down on the border with Laos in 1971, was central to that undertaking. Vietnam, a more extensive selection of his work, enables us to see his achievement more extensively and to define it more clearly.
    Burrows was born in London in 1926. He left school at sixteen and got a job in Life magazine's London bureau, where he printed thousands of pictures by Robert Capa and others. It would be hard to exaggerate the effect of this apprenticeship on his subsequent career. Capa practically invented the genre of combat photography and defined the standards by which it would be judged. If your- pictures aren't good enough, he was fond of saying, thats because you're not close enough. Burrows took Capa at his word. In Vietnam a colleague decided that Burrows was either the bravest man in the world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery are legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens . . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned, Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It is possible to detect these qualities in the formal elegance of the work. While Capa said he would 'rather have a strong image that is technically bad than vice-versa', Burrows was obsessed with making strong, technically perfect images. Looking at his best photos reminds me of some documentary footage I once saw of men coming suddenly under fire in Bosnia. Everyone hit the dirt. It took a while to take in what was so strange and unnerving about this footage. Then I realized that the camera recording it all had remained absolutely steady
    This unflinching quality is seen to dramatic effect in a black-and- white' photo-essay published in Life in April 1963. Burrows was photographing a Marine helicopter' squadron, focusing on James Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner. In the course of what was expected to be a routine mission the squad comes under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time they are airborne again two badly wounded men are sprawled on the floor of the helicopter. One of them dies. The resulting photos have all the cramped panic and horror of Snowdon's death in Catch-22. But what makes them into a perfect story is the shot of Farley back at base, sobbing, aged by more than a decade in the course of a dozen photographs.
    That was the luxury of working for Life: an absence of deadlines and the freedom to construct a narrative around photographs rather than taking them to illustrate breaking news. Burrows used these freedoms to similar effect in the color sequence on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous image of the wounded black sergeant apparently reaching towards his white comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated image of the chaos, mud and blood of the aftermath of combat. But it is also a classic Life-like image in that it is, simultaneously, a statement of fact (this really happened) and, precisely by virtue of the unimpeachable quality : its evidence, an illustration of a larger truth (in this case the equality of suffering and tenderness between races) which might not : true at all. What we have, in other words, is a vivid example of e camera's unique capability: not the creation of a myth but its depiction.
    It would be a mistake, therefore, to see images like this as proof the photographer's anti-war stance. At that time, in fact, Burrows was still, in his own words, 'rather a hawk'. It was only later, in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That was the title of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of the war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam were 'more tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's well-known 1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own face. He looks exactly like one of the combat-numbed grunts he had so often pictured: a sign of how the gap between photographer and his subjects was shrinking, lethally. This is suggested still more powerfully by Henri Huets picture in ReqUiem of Burrows helping to carry a wounded soldier, whipped back by a chopper's downdraught. Burrows' thick- framed spectacles make him instantly recognizable, which is slightly odd given that the photo is so like one by him, thereby forcing the viewer to concede that a Burrows image is not as instantly recognizable as is often claimed. Indeed, to this observer, Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable. Since the two photographers died together on that helicopter flight on the Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages of Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American fire- power as Page was. Two almost identically framed shots, taken at the same moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the other in black-and-white by Griffiths - of a blood-drenched woman with a soldier kneeling over her, staring nine hundred yards into the distance, crop up in both Vietnam and Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be seen in the bottom right-hand comer of Burrows' picture). *
    This is not to diminish Burrows' individual talent or achievement. It is simply to recognize the accuracy of Sontag's judgement from the '70s, namely that 'the very success of photojournalism lies in the difficulty of distinguishing one superior photographer's work from another, except insofar as he or she has monopolized a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting the same subject. Similarly, Burrows has always been praised for his humanity and compassion when, if you think about it, what would really set a photographer apart would be the ability to photograph injury, suffering and death with a lack of compassion, even, possibly, with a touch of glee. No, Burrows is a great photographer less because of what distinguishes him as an artist than because of what he has in common with his colleagues and subjects. And I think that those trademark spectacles of his enable us to view his legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate: whether to take photographs of the injured or to try to help them. Burrows repeatedly took photographs of wounded men being helped by their comrades, even when they were themselves wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized that ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve it. Looking at photos like this it is striking how often one or more of the people doing the helping are wearing spectacles like Burrows'. Maybe it's just a coincidence (though that in itself is almost meaningless in a medium that is about visual coincidences) but it is difficult not to regard these bespectacled helpers as the active representatives of Burrows's own seared conviction: that showing the wound was also a way of tending to it.

2002

* Actually, they are even more similar than I thought: although Jones Griffiths' image is printed in black-and-white in Vietnam Inc., it was shot in color.

Note: Kinh Cầu, trước Tin Văn có post, lấy từ trang báo điện tử của Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm, trang báo cũng cấm luôn.
Nghe nói, nó được về VN, thêm hình ảnh nhiếp ảnh viên VC.
Cũng được.

Tin Văn post bài này, nhân nhớ bạn cũ Sawada, và cái lần anh mò lên nhà Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, nhân có hình cần gửi gấp.

L' Appel Du Mort

Photo Booth: Josef Koudelka’s “Invasion Prague 68”

Bạn phải tưởng tượng ra 1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì mang theo 1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.

*

Vào ngày 21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người đàn ông với cái camera, nửa đêm nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã vượt biên giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi cơ vận tải với những binh đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo..  hạ cánh xuống phi trường Ruzyne, ngoại vi Prague. Ðây là 1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh sĩ thuộc Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và lời bảo đảm của thượng cấp, chuyến đi này không phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời kêu gọi “giải phóng” MN của MTGP!

Mùa Xuân Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho mớ võ khí nặng sau cùng đã đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.

Tôi rời Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là ban đêm. Chúng tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street nhắm hướng Kremlin. Chúng tôi đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế Chiến.
-Sao tụi mi la lớn thế? 
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi tôi vừa giải phóng Prague.
Ông già quạt lại:
-Câm miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và đó đúng là một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi đã từng nghe được.

-Ðảng không dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn cướp.


My Old Saigon

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/72157665925001473

*

Tôi viết dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài-gòn. 

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.


* *


*

Note: Gấu viết truyện ngắn “Những Ngày Ở Saigon” đúng thời gian nằm dưỡng thương do xực hai trái mìn Claymore của VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Do làm cho UPI nên dưỡng thương ngay tại  Đài Liên Lạc VTD, số 5 Phan Đình Phùng.
Nhân Trần Công Quốc, 1 trong Thất Hiền đưa vợ đi làm [bà vợ là nữ điện thoại viên ở Đài] bèn nhờ anh đưa bản thảo cho ông anh TTT, khi ghé nhà thăm bà cụ. Ông anh đăng liền trên Nghệ Thuật số 9, và gọi điện thoại, nhắn, khi nào hết dưỡng thương thì xuống tòa soạn lãnh tiền nhuận bút.
Gấu vào làng văn như thế đó.
Viết cho Văn, là do gặp NDT tại tiệm phở số 44 PDP, dưới chân Đài, phía bên kia Đài Phát Thanh Sài Gòn. Anh đến bàn, tự giới thiệu, và đề nghị viết cho Văn. Truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, là Thời Gian, 1 trong Tứ Tấu Khúc. Bà vợ NDT là người đầu tiên đọc nó, trong dạng bản thảo. Lần gặp đầu tiên, khi NDT đưa tới nhà giới thiệu [nhà anh ở ngay dưới chân Đài Liên Lạc VTD, trong 1 chung cư thuộc Bưu Điện, khu Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao], bà nói, anh đúng là văn sĩ mê gái!







My Old Saigon

Steps

“Những con dã tràng”, truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên Sáng Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái mớ bài vở còn dư đó, qua báo Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán vậy, nhưng cũng chẳng nói gì với ông anh. Vả chăng vào lúc đó, lo học, lo tốt nghiệp, ra trường, có việc làm kiếm ra tiền, nuôi gia đình, và nếu có cơ hội, học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện ngắn đầu tay “Những Ngày Ở Sài Gòn” thì Gấu mới biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ kiếm ra sư phụ và kiếm ra văn phong của mình. Đây là cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể đọc 1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản của TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà TTT lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán, nó sẽ đi xa hơn.

“Những con dã tràng”, với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và khác biệt hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao của thứ văn chương “hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm không là đêm” nhưng mà là “đêm tóc rối”!

Gấu nhớ bà cụ thân sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này bịnh.

Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc “The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.

Trong "The Steps", có 1 chương - Gấu đọc cuốn này khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas, sau này nhớ lại, lầm là tập truyện ngắn - trong có xen y chang trong “Những Con Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều:

Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn.

Xen này, 1 vị độc giả, trên Blog NL, lôi ra để đi 1 đường còm.
Một vị thân hũu, nhà văn, quen biết từ hồi Quán Chùa, thì suýt soa, cực "sex"!

Trong Steps, là xen, hai nhân vật nam & nữ, khoả thân, làm tình qua gương:

One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.

Cái việc ném vô thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện ngắn đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm cảm ơn số phận. Nếu không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!

Một TTT, thứ thiệt, đẻ ra hai ông, thứ...  dởm.
Giả như Gấu không đọc được tiếng của lũ mũi lõ
, thì thêm 1 ông dởm nữa.
Chính vì thế mà TTT phán, mi sẽ đi xa hơn mấy đấng kia!

Cái chuyện gặp được Faulkner, may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác, cũng của ông, cũng hỏng cẳng!
Thầy Trò cũng đếch nhận ra nhau!

&

Note: Cuốn này, cũng tuyệt. Trong 1 bài viết ngắn, Reader's Block, Dyer, cảnh cáo thú đọc sách, và cho biết, càng ngày ông càng bớt đọc, và trích 1 câu của Nietzsche:
Sáng sớm, vớ cuốn sách đọc, tôi coi đó, là, bửn.
'Early in the morning, at break of day, in all the freshness and dawn of one's strength, to read a book - I call that vicious!'
Nietzsche: Ecce Homo

Cái kinh nghiệm đọc, đọc sách nào, về già, nhìn lại, với riêng GCC, là 1 thử thách của ông Trời, đối với 1 độc giả, và sau khi thử thách rồi, thì là món quà của Xừ Luỷ!

TV xin post lại, kinh nghiệm của Kafka, và đây là 1 dẫn nhập tuyệt hảo cho cái việc đọc:

Cuộc Xét Nghiệm [The Test]

Tôi là một người hầu, nhưng không có việc làm. Nhút nhát, lại ít khi tỏ ra hết mình, thực ra tôi chẳng chịu sắp hàng, chen lấn với người khác; nhưng đây chỉ là một lý do khiến tôi thất nghiệp; cũng có thể chẳng có chi liên can tới chuyện thất nghiệp của tôi, trong bất cứ trường hợp nào, chuyện là thế này: chẳng bao giờ người ta gọi tôi đi hầu; những người khác được gọi, tuy họ chẳng cố gắng gì hơn tôi, mà thực ra có khi họ còn chẳng cảm thấy cái ao ước được gọi, trong khi tôi, ít ra đôi lúc cảm thấy điều này một cách thật dữ dội.
Vậy là tôi nằm dài trong khu sảnh dành cho người hầu, ngó lên chùm ánh sáng trên trần, mơ mơ màng màng, chợt thức, và lại rơi vào giấc ngủ. Đôi khi, tôi bước vào quán, nơi người ta bán bia đắng, đôi khi tôi cũng nốc nó một cách ghê tởm, nhưng những lần khác, tôi uống nó…
Một lần tôi vô quán, một người khách ngồi ở chỗ tôi hay ngồi quan sát mọi người. Tôi không dám nhìn ông ta thật gần, và quay mình tính bỏ đi. Nhưng người khách gọi giật lại; hóa ra cũng là một người hầu, tôi có gặp trước đó, nhưng chưa từng nói chuyện với anh ta.
-Tại sao anh bỏ chạy? Hãy ngồi đây làm một ly. Tôi trả tiền.
Vậy là tôi ngồi xuống. Anh hỏi tôi đôi điều, nhưng tôi không thể trả lời, thực ra là tôi không hiểu ngay cả những câu hỏi của anh ta. Thế là tôi nói: "Có lẽ anh buồn vì anh đã mời tôi, như vậy tôi nên đi thì hơn", và tôi tính đứng dậy. Nhưng anh ta vươn tay qua bàn đẩy tôi ngồi xuống. "Hãy ở lại", anh ta nói, "đây chỉ là một cuộc xét nghiệm. Kẻ nào không trả lời những câu hỏi, là qua được cuộc xét nghiệm".

Nên nhớ, Kafka đã từng phán, Ông Trời năn nỉ tôi, đừng viết, NO!
Đọc, với ông, chắc
cũng rứa.
Nhưng căng nhất, là đọc cái gì?
Một anh Tẫu chẳng đã phán, thứ nhà văn bảnh nhất trên đời, là thứ, đếch thích viết!
Vưỡn cũ
ng thế, thứ độc giả bảnh, đếch thích đọc!

Có thể nói, tất cả cái đọc của GCC, là 1 thử thách, của Ông Trời, nhắm trả lời cuộc xét nghiệm, liệu mi chịu nổ
i... Lò Thiêu?
Hà, hà!
Phách lối thật
Chọc chúng chửi!

*

Larry Burrows

In 1997 Horst Faas and Tim Page published Requiem, a homage to the 135 photographers who died while covering the wars in Indochina and Vietnam. The work of Larry Burrows, who photographed the war in Vietnam from 1962 until he died in a helicopter shot down on the border with Laos in 1971, was central to that undertaking. Vietnam, a more extensive selection of his work, enables us to see his achievement more extensively and to define it more clearly.
    Burrows was born in London in 1926. He left school at sixteen and got a job in Life magazine's London bureau, where he printed thousands of pictures by Robert Capa and others. It would be hard to exaggerate the effect of this apprenticeship on his subsequent career. Capa practically invented the genre of combat photography and defined the standards by which it would be judged. If your- pictures aren't good enough, he was fond of saying, thats because you're not close enough. Burrows took Capa at his word. In Vietnam a colleague decided that Burrows was either the bravest man in the world or the most short-sighted. Tales of that myopic bravery are legion, and Burrows himself thought 'the best thing that happens . . . is when someone turns around and says, "Well, you've taken your chances with the rest of us. '" Like other photographers in Vietnam Burrows fell into- the habit of edging right up to death, but whereas Page and Sean Flynn (son of Errol) were swash-buckling, wild, stoned, Burrows was distinguished by his patience and meticulous calm. It is possible to detect these qualities in the formal elegance of the work. While Capa said he would 'rather have a strong image that is technically bad than vice-versa', Burrows was obsessed with making strong, technically perfect images. Looking at his best photos reminds me of some documentary footage I once saw of men coming suddenly under fire in Bosnia. Everyone hit the dirt. It took a while to take in what was so strange and unnerving about this footage. Then I realized that the camera recording it all had remained absolutely steady
    This unflinching quality is seen to dramatic effect in a black-and- white' photo-essay published in Life in April 1963. Burrows was photographing a Marine helicopter' squadron, focusing on James Farley, a fresh-faced twenty-one-year-old gunner. In the course of what was expected to be a routine mission the squad comes under heavy fire. One of the helicopters goes down and Farley's chopper lands nearby, attempting to rescue the crew. By the time they are airborne again two badly wounded men are sprawled on the floor of the helicopter. One of them dies. The resulting photos have all the cramped panic and horror of Snowdon's death in Catch-22. But what makes them into a perfect story is the shot of Farley back at base, sobbing, aged by more than a decade in the course of a dozen photographs.
    That was the luxury of working for Life: an absence of deadlines and the freedom to construct a narrative around photographs rather than taking them to illustrate breaking news. Burrows used these freedoms to similar effect in the color sequence on Operation Prairie (1966), which culminates in the famous image of the wounded black sergeant apparently reaching towards his white comrade, also wounded. On the one hand it's an unadulterated image of the chaos, mud and blood of the aftermath of combat. But it is also a classic Life-like image in that it is, simultaneously, a statement of fact (this really happened) and, precisely by virtue of the unimpeachable quality : its evidence, an illustration of a larger truth (in this case the equality of suffering and tenderness between races) which might not : true at all. What we have, in other words, is a vivid example of e camera's unique capability: not the creation of a myth but its depiction.
    It would be a mistake, therefore, to see images like this as proof the photographer's anti-war stance. At that time, in fact, Burrows was still, in his own words, 'rather a hawk'. It was only later, in 1969, that he attained A Degree of Disillusion. That was the title of another photo-essay, belatedly focusing on the impact of the war on the Vietnamese' as Philip Jones Griffiths had done throughout his time there. By then Burrows said the faces all over Vietnam were 'more tired' and 'dazed' than he had ever known. In Roger Mattingly's well-known 1971 portrait that fatigue can be seen in Burrows' own face. He looks exactly like one of the combat-numbed grunts he had so often pictured: a sign of how the gap between photographer and his subjects was shrinking, lethally. This is suggested still more powerfully by Henri Huets picture in ReqUiem of Burrows helping to carry a wounded soldier, whipped back by a chopper's downdraught. Burrows' thick- framed spectacles make him instantly recognizable, which is slightly odd given that the photo is so like one by him, thereby forcing the viewer to concede that a Burrows image is not as instantly recognizable as is often claimed. Indeed, to this observer, Huet's images and Burrows' are often almost interchangeable. Since the two photographers died together on that helicopter flight on the Laos border this is not inappropriate. But the images in the pages of Vietnam also have much in common with those in Page's Nam (1983). Page was spectacularly high on the 'glamour' of war; according to his epitaph in Life, on the other hand, when Burrows looked at war 'what he saw was people'. Except, it turns out, his coverage of 'The Air War' shows Burrows to be just as intoxicated by the psychedelic technology of American fire- power as Page was. Two almost identically framed shots, taken at the same moment, in 1969, in Cholon - one in color by Burrows, the other in black-and-white by Griffiths - of a blood-drenched woman with a soldier kneeling over her, staring nine hundred yards into the distance, crop up in both Vietnam and Vietnam Inc. (the Welshman's camera can be seen in the bottom right-hand comer of Burrows' picture). *
    This is not to diminish Burrows' individual talent or achievement. It is simply to recognize the accuracy of Sontag's judgement from the '70s, namely that 'the very success of photojournalism lies in the difficulty of distinguishing one superior photographer's work from another, except insofar as he or she has monopolized a particular subject' - and in Vietnam they were all shooting the same subject. Similarly, Burrows has always been praised for his humanity and compassion when, if you think about it, what would really set a photographer apart would be the ability to photograph injury, suffering and death with a lack of compassion, even, possibly, with a touch of glee. No, Burrows is a great photographer less because of what distinguishes him as an artist than because of what he has in common with his colleagues and subjects. And I think that those trademark spectacles of his enable us to view his legend (in the cartographic sense) more clearly:
It's a classic sixth-form debate: whether to take photographs of the injured or to try to help them. Burrows repeatedly took photographs of wounded men being helped by their comrades, even when they were themselves wounded. He was drawn to such scenes because they dramatized that ethical dilemma so clearly as to simultaneously resolve it. Looking at photos like this it is striking how often one or more of the people doing the helping are wearing spectacles like Burrows'. Maybe it's just a coincidence (though that in itself is almost meaningless in a medium that is about visual coincidences) but it is difficult not to regard these bespectacled helpers as the active representatives of Burrows's own seared conviction: that showing the wound was also a way of tending to it.

2002

* Actually, they are even more similar than I thought: although Jones Griffiths' image is printed in black-and-white in Vietnam Inc., it was shot in color.


Note: Kinh Cầu, trước Tin Văn có post, lấy từ trang báo điện tử của Dirck Halstead, nhưng sau bị cấm, trang báo cũng cấm luôn.
Nghe nói, nó được về VN, thêm hình ảnh nhiếp ảnh viên VC.
Cũng được.

Tin Văn post bài này, nhân nhớ bạn cũ Sawada, và cái lần anh mò lên nhà Gấu, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, nhân có hình cần gửi gấp.

Cái đọc, cái viết, cái việc làm 1 thằng kỹ thuật viên Bưu Điện trông coi mạch VTD quốc tế.... tất cả là để sửa soạn cho cú vô Lò Thiêu, khi sống đời thứ nhì của GCC, ở hải ngoại.

Phi mi ra, ai vô được....  địa ngục?

Imre Kertész: «Auschwitz a été mon école»

http://bibliobs.nouvelobs.com/actualites/20090508.BIB3392/imre-kertesz-auschwitz-a-ete-mon-ecole.html

“Auschwitz a été mon école” : Imre Kertész est mort

“Auschwitz a été mon école” : Imre Kertész est mort


Né à Budapest le 9 novembre 1929, Imre Kertész est déporté à Auschwitz en 1944, à l'âge de 15 ans, puis transféré à Buchenwald. Après la guerre, il revient en Hongrie et devient journaliste. Dans les années 1950, il se consacre à la traduction et à l'écriture. Son plus grand livre, "Etre sans destin", a connu un succès mondial. (SIPA)
En 2009, le prix Nobel 2002, qui souffrait de la maladie de Parkinson, nous avait parlé du trauma universel des camps. Entretien exclusif avec Imre Kertész, qui était un sage de notre temps

Imre Kertész : “Auschwitz a été mon école”
Lò Thiêu là trường
lớp của tôi

A 79 ans, Imre Kertész n'a rien perdu de son regard pétillant, ni de son humour Mitteleuropa. L'écrivain hongrois, lauréat du prix Nobel de littérature 2002, reçoit comme toujours dans les salons de l'hôtel Kempinski, sur le Ku'damm, les Champs-Elysées de Berlin. A deux pas de son domicile. Atteint de la maladie de Parkinson, il voyage de moins en moins.

De tous les auteurs qui ont consacré leur oeuvre à l'Holocauste, l'écrivain hongrois est certainement le plus paradoxal. Rescapé du camp d'extermination d'Auschwitz-Birkenau, ce fils d'une famille juive modeste de Budapest est l'auteur d'une oeuvre prolifique («Etre sans destin», «Kaddish pour l'enfant qui ne naîtra pas», «le Refus», «Liquidation», etc.), où se chevauchent deux univers concentrationnaires. Contrairement à d'autres artistes, Imre Kertész n'a jamais cherché à fuir la Hongrie communiste, jugeant même qu'elle l'avait d'une certaine façon «sauvé» du traumatisme de l'Holocauste.

En 2002, treize ans après la chute du Mur, il décide de s'installer à Berlin, «cette ville qui ne cache pas son passé». Il aime d'ailleurs la langue allemande (il a traduit Nietzsche, Hofmannsthal, Freud, Roth, Wittgenstein). Si Imre Kertész n'a pas publié à proprement parler de témoignage sur Auschwitz, il a recréé un univers où le romanesque et l'autobiographie se mêlent aux questions universelles de la survie et de l'exil, mais aussi de l'humain, du religieux et de l'éthique.

Il n'est pas seulement un romancier, c'est aussi un théoricien de l'Holocauste et du totalitarisme en général. A travers ses essais, considérations et discours se dessine la biographie intellectuelle d'un très grand écrivain européen.
Vous aimez cet article ?Inscrivez-vous à la Newsletter de l'Obs

Odile Benyahia-Kouider

Le Nouvel Observateur. Selon vous, Auschwitz oblige à penser la «négativité» de l'humain. Que voulez-vous dire par là?

Theo ông, Lò Thiêu bắt nghĩ “bi quan, tiêu cực” về con người? 

Imre Kertész. L'Holocauste est différent des autres génocides. Parce qu'il a eu lieu au sein de la civilisation chrétienne. Ce qui est arrivé a ruiné de manière spectaculaire toutes les valeurs qui avaient cours jusqu'alors. C'est rare d'assister à un traumatisme humain universel de cette nature.

Lò Thiêu khác những cú diệt chủng khác, bởi là vì nó là “con cưng” của tinh thần, văn minh Ky Tô, nó huỷ diệt thật cụp lạc “gia tài của mẹ”, có được từ trước cho tới bây giờ.
 

Le titre de votre ouvrage, «l'Holocauste comme culture», n'est-il pas provocateur?

Cái tít của cuốn sách của ông, cực khiêu khích, “Lò Thiêu như Văn Hoá”?

I. Kertész. En 1992, j'ai reçu une invitation de l'université de Vienne pour un colloque sur Jean Améry [opposant au régime nazi et rescapé d'Auschwitz qui s'est suicidé en 1978]. Je n'avais jamais entendu son nom. Je me suis donc empressé de lire plusieurs livres, que j'ai trouvés fantastiques. J'ai pris le risque de dire qu'Auschwitz et l'Holocauste faisaient totalement partie de notre culture, au même titre que notre langue, notre musique, notre littérature. A ma grande surprise, cet essai n'a pas été mal interprété, ni mal accepté.

Quả thế, nhưng thiên hạ coi bộ lại khoái, cái ý tưởng, không phải nền văn minh sông Hồng đưa đến Tận Thế là đây, với Mít, mà chính là Cái Ác Bắc Kít.
Rõ ràng là không có 1 tên Bắc Kít nào tỏ ra bực bội về Tù Cải Tạo, thì Tù Cải Tạo phải thuộc v
ề văn hoá, văn minh sông Hồng!

Vous expliquez avoir mieux supporté le traumatisme des camps de concentration que des écrivains comme Romain Gary, Jean Améry ou Primo Levi parce que vous avez ensuite vécu sous le communisme. N'est-ce pas paradoxal?

I. Kertész. Enfant, je n'avais connu qu'un régime totalitaire. Du coup, quand je suis revenu en Hongrie, ce n'était pas si difficile pour moi de comprendre ce qui était en train de se tramer. Les indices étaient les mêmes. J'ai vu comment on transformait l'humain en rouage d'une machinerie. J'ai vécu l'insurrection de Budapest en 1956. Dans ces situations, personne ne veut réfléchir, on veut juste vivre.

Tout était mensonge, le monde entier était mensonge. Mais la plupart ont gardé la raison dans cette absurdité. Moi, j'avais le sentiment que mon identité était déformée, que j'avais perdu ma normalité. Mais je n'arrivais pas à en trouver l'explication. Je me demandais si mon «anormalité» était devenue la normalité. Ou si j'étais devenu un autre.

http://tanvien.net/TG_TP/Jean_Amery.html

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?

http://www.tanvien.net/Tuong_niem/requiem.html

*