*

 



Những ký ức Sài Gòn

Sài Gòn bây giờ náo nhiệt, thay đổi nhiều, phố xá sang trọng, kiểu cách nổi bật lên ở khu trung tâm Q.1, nhất là các đường Lê Lợi, Đồng Khởi, Nguyễn Huệ. Mỗi ngày tôi thường qua đây, nhưng vẫn không quên được góc phố cũ khu Lê Thánh Tôn - Tự Do (Đồng Khởi bây giờ) với quán cà phê Chùa (La Pagode). Xích xuống phía dưới, trước nhà hát thành phố, đối diện khách sạn Continental là cà phê Givral và rạp xi nê Eden, còn bên kia đường Nguyễn Huệ là rạp Rex.

Hồi trước, những ngày cuối năm khu vực đó thật rộn ràng, nam thanh nữ tú đưa nhau đi bát phố, vào thương xá mua quà tặng, ngồi cà phê nhìn chiều xuống chậm, đợi đèn đường bật lên sáng bừng hàng me xanh, sau đó dẫn người yêu vào rạp coi phim. Những bộ phim chọn lọc, nhớ đời. Bây giờ thú rong chơi cuối năm ấy đâu còn nữa, những quán cà phê, rạp chiếu phim ấy đã mất dấu, chỉ còn hiện ra trong hồi tưởng cuối năm thôi.

Xa hơn một chút, góc Pasteur - Lê Lợi có rạp xi nê Casino Sài Gòn, một rạp hạng B nhưng bọn trẻ yêu nhau rất thích, thường ngồi ở cánh gà A hoặc B trên lầu khá tình tứ, lãng mạn. Bây giờ rạp này mất tăm, chỗ ấy người ta đang xây dựng công trình gì đó rất hoành tráng. Tôi nhớ nhất (và nhiều người cùng thời với tôi chắc cũng vậy) con hẻm sát bên rạp Casino dẫn vào khu ăn uống với đủ các món 3 miền. Thanh niên nam nữ đi từng nhóm, các cặp tình nhân thường vào đây. Bún chả, bánh tôm, phở... thứ gì cũng có, giá cả phù hợp túi tiền học sinh, sinh viên. Tôi có quá nhiều kỷ niệm về con hẻm này. Một thời đã qua, tái hiện như giấc mơ. Thoáng chốc đã là quá khứ, đã là ngày xưa... Ai còn ai mất, ai vẫn ở Sài Gòn, ai xa cách mấy phương trời còn ngồi nhớ?

Người ở Sài Gòn trước đây hầu như ai cũng biết 3 thương xá lớn nằm ngay trung tâm Q.1, cũng có nghĩa trung tâm Sài Gòn: Thương xá Eden góc đường Đồng Khởi - Lê Lợi, ngoài những quầy bán mặt hàng tiêu dùng sang trọng còn có cả rạp chiếu phim Eden, ngày đó là một trong những rạp chiếu phim bậc nhất của Sài Gòn. Ngoài mặt tiền Eden, ngay góc đường là quán cà phê sang trọng, nổi tiếng theo phong cách Pháp, nơi báo giới đến nắm bắt tin tức, quán Givral. Thương xá Eden, rạp chiếu phim Eden và quán cà phê Givral nay cũng đã biến mất.

Ở góc Nguyễn Huệ - Lê Lợi, ngay vòng xoay hồ nước là thương xá Tax. Khu thương xá này rộng lớn, bán nhiều mặt hàng tiêu dùng: kim khí điện máy, vải vóc, vàng… Ở khu tứ giác Lê Lợi - Công Lý (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) - Trương Công Định - Lê Thánh Tôn là thương xá Cystal Palace, cao mấy tầng lầu. Ở tầng 1 tôi còn nhớ có quầy nhạc Phạm Mạnh Cương, quầy sách Tuổi Ngọc của Duyên Anh, dưới trệt là quầy nhạc Minh Phát, bên kia là quán cà phê Kim Sơn, nhà hàng Thanh Thế nổi tiếng vì giới văn nghệ sĩ thường la cà ở đó. Đặc biệt ngay góc Lê Lợi - Trương Định có quầy sách báo rất hoành tráng của cô Nga, đám văn nghệ sĩ thường gọi là Nga ốm, vì cô nhỏ con, rất gầy và… móm. Nhưng cô chủ quầy thật dễ thương, sẵn sàng cho mấy anh nhà thơ nhà văn nghèo tới đọc cọp sách báo, thậm chí cho mượn tiền uống cà phê mà ít đòi. Người thường xuyên có mặt ở đây là nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn.

Bây giờ hầu như tất cả chỉ còn trong trí nhớ.

Từ Kế Tường

 

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu


(2)

Bà cảm thấy thế nào khi sống tại nước Pháp hiện nay?

Tôi gần như luôn luôn cảm thấy mình sống trong tình trạng lưu vong. Tôi tin rằng mặc dù sống ở Pháp đã lâu vậy mà tôi chưa bao giờ nói: đây là xứ sở của tôi. Nhưng tôi cũng không nói Việt Nam là xứ sở của tôi. Tôi coi tiếng Pháp là tình yêu sâu đậm của mình. Đó là cái neo độc nhất cắm vào thực tại mà tôi luôn thấy, thật hung bạo, Tôi rất lo ngại về sự bùng phát của một thứ chủ nghĩa quốc gia dữ dằn ở Âu Châu. Tôi có cảm tưởng Âu Châu ngày càng trở nên lạnh nhạt, và càng ngày càng bớt bao dung. Có lẽ chúng ta đang ở trong một thời hòa bình chỉ ở ngoài mặt, có vẻ như hòa bình, những cuộc xung đột ngầm chỉ chờ dịp để bùng nổ, tôi sống trong sợ hãi một cú bộc phát lớn. 

Trong Cronos, bà đưa ra một lời kêu gọi, về một sự phản kháng. Phản kháng như thế nào, theo một hình thức nào, vào lúc này, theo bà?

Đó là thứ tình cảm bực tức, muốn làm một cái gì đó, muốn nổi loạn, khi tôi theo dõi những biến động, Đôi khi tôi cảm thấy gần như ở trong tình trạng bị chúng trấn áp đến nghẹt thở. Tới mức có lúc tôi ngưng không đọc báo hàng ngày, không nghe tin tức trên đài nữa. Như nữ nhân vật Cronos, tôi thỉnh thoảng ở trong tình trạng cảm thấy mình bị cự tuyệt, bị sự chối từ cám dỗ…. Như nữ nhân vật này, tôi chỉ có thể chiến đấu bằng ngòi bút. Có thể 1 ngày nào đó những biến động bắt buộc tôi phải hành động khác đi. Nhưng vào lúc này, trong xã hội mà tôi sống trong đó, khí giới độc nhất của tôi là viết.

Dù có thể chẳng được hồi đáp

Tôi luôn viết với thứ tình cảm là tôi có thể giảng đạo ở giữa sa mạc. Nhưng điều đó không đánh gục tôi. Ngược lại. Một cách nào đó, vậy mà lại hay. Đừng bao giờ cảm thấy mình viết ra là được chấp nhận. Nếu không bạn sẽ bị ru ngủ bởi sự hài lòng, thoải mái. Bằng mọi cách, cố mà đừng để xẩy ra tình trạng tự hoang phế, hay thương thân trách phận. Tình cảm hài lòng, và oán hận là hai tảng đá ngầm lớn mà tôi cố gắng tránh né.

Những cuốn sách của bà hay nói tới đề tài bị bỏ bùa…  

Đề tài này luôn ám ảnh tôi. Nó đầy rẫy ở trong những tiểu thuyết của Henry James, trong có những phụ nữ bị mồi chài bởi những tên sở khanh. Văn chương tuyệt vời nhất là khi nó mê hoặc, quyến rũ. Tôi mê những nhân vật giống như là một cái mồi, sẵn sàng phơi mình ra để mà được… làm thịt. Bản thân tôi, cũng đã từng bị mê hoặc, hết còn chủ động được, trước một vài người, trong đời tôi, và tôi luôn quan tâm tới điều này.
*

Đây là đề tài ‘ban phát’, thay vì ‘giải phóng’ bà 'Thấm Vân Thấm Dần Thấm Tới Đất' [mô phỏng cái tít “Mưa không ướt đất” của 1 nữ văn sĩ nổi tiếng trước 1975 ở Miền Nam] từng đề cập.

Và một trong những tiểu thuyết thần sầu của Henry James mà Linda Lê nhắc tới ở đây, là Washington Square.
Cuốn này đã được quay thành phim, với nhân vật thần sầu, Monty Cliff, đóng vai anh chàng sở khanh đào mỏ.
Nhân trong nước đang ì xèo về phim Cánh Đồng Bất Tận chuyển thể từ tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư, TV bèn ‘lệch pha’qua nhân vật đàng điếm sở khanh Monty Cliff, một trong những kép độc được mấy em gái thời Gấu mới lớn mê mẩn, không chỉ anh ta, mà còn, nào là Elvis Presley, Gregory Peck, Clark Gable... 

Tên nào Gấu cũng thù, do hồi đó Gấu mê một em, và thần tượng của em là những đấng trên!
Gấu Cái cũng cực mê Elvis Presley, từng trốn học đi coi phim có anh ta thủ vai chính!

*

Điểm Sách London 7 Oct 2010

MONTGOMERY CLIFT was a lush, a loser and a masochist; for more than 15 years he was also one of the finest actors in America - as Clark Gable put it, 'that faggot is a hell of an actor.' His beauty, his drinking, his homosexuality, his failure and his unaccountable talent have all re-formed themselves as elements of the icon that stands in for Clift, a potent image of the suffering star. Having seen himself in Howard Hawks's Red River (1948), Clift, so the story goes, knew that fame was coming to him, and grabbed the opportunity to get drunk anonymously one last time. In the years of his renown, it could seem as though his aim was to hold on to that anonymity while in the throes of stardom. For all that, he clearly loved the limelight, and in some perverse way tried to turn celebrity into concealment. The sad joke of his career was that his fame outlived his success; after Red River, he couldn't even be anonymous in failure. 

*

Cynthia Ozick, trả lời phỏng vấn, "Cuốn sách thay đổi đời tôi", cho biết, đó là cuốn Washington Square, của Henry James. Bà viết:

Một bữa, khi tôi 17 tuổi, ông anh mang về nhà một tuyển tập những câu chuyện bí mật, mystery stories, trong, lạ lùng sao, có truyện The Beast in the Jungle của Henry James. Đọc nó, tôi có cảm tưởng đây là câu chuyện của chính đời tôi. Một người đàn ông lớn tuổi, đột nhiên khám phá ra, ông bỏ phí đời mình hàng bao năm trời.
Đó là lần đầu tiên Henry James làm quen với tôi. Washington Square tới với tôi muộn hơn. Câu chuyện của cô Catherine được kể một cách trực tiếp, cảm động, và gây sốc. Đề tài xuyên suốt tác phẩm này là: Sự giả đò. Giả đò làm một người nào đó, mà sự thực mình không phải như vậy. Ở trong đó có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, giả đò làm một người cha thương yêu, lo lắng cho con hết mực. Có, một anh chàng đào mỏ giả đò làm người yêu chân thành sống chết với tình, một bà cô vô trách nhiệm, ngu xuẩn, ba hoa, nông nổi giả đò làm một kẻ tâm sự ruột, đáng tin cậy của cô cháu. Và sau cùng, cô Catherine, nạn nhân của tất cả, nhập vai mình: thảm kịch bị bỏ rơi, biến cô trở thành một người đàn bà khác hẳn.
Ozik cho rằng, ý tưởng giả đò đóng vai của mình, là trung tâm của cả hai vấn đề, làm sao những nhà văn suy nghĩ và tưởng tượng, và họ viết về cái gì. Không phải tất cả những nhà văn đều bị vấn đề giả đò này quyến rũ, nhưng, tất cả những nhà văn, khi tưởng tượng, phịa ra những nhân vật của mình, là khởi từ vấn đề giả đò, nhập vai.
Tuy nhiên, nguy hiểm khủng khiếp của vấn đề giả đò này là:
Những nhà văn giả đò ở trong đời thực, sẽ không thể nào là những nhà văn thành thực của giả tưởng. Cái giả sẽ bò vô tác phẩm.
[Writers who are impersonators in life cannot be honest writers in fiction. The falsehood will leach into the work].
Gấu đọc Washington Square khi còn Sài Gòn, và bị nó đánh cho một cú khủng khiếp, ấy là vì cứ tưởng tượng, sẽ có một ngày, bắt cóc em BHD ra khỏi cái gia đình có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, đảo ngược cái cảnh tượng thê lương ở trong cuốn tiểu thuyết:
Khi ông bố không bằng lòng cho cô con gái kết hôn cùng anh chàng đào mỏ, cô gái quyết định bỏ nhà ra đi, và đêm hôm đó, đợi người yêu đến đón, đợi hoài, đợi hoài, tới tận sáng bạch...

Và Gấu nhớ tới lời ông anh nhà thơ phán, mi yêu thương nó thì xách cổ nó ra khỏi cái gia đình đó, như vậy là may mắn cho cả nó và cho cả mi!
Ôi chao giá mà Gấu làm được chuyện tuyệt vời đó, nhỉ. (b)



Năm nhà văn nữ dưới mắt họa sĩ Chóe

Đúng rồi, số báo này có bài của Gấu. Bạn quí, thư ký tòa soạn order. Bài đăng lên, bị thiến mất mấy chữ, Gấu cằn nhằn, bạn quí sorry, nói, tao mà không thiến mấy dòng đó, mấy bà đó đi gặp mày, thiến luôn của quí của mày!

Thời gian này, Gấu có báo riêng. Tờ Tập San Văn Chương. Nguyễn Tường Giang bác sĩ, ông chủ lo tiền bạc, quản lý báo, nghe, bực quá, ra lệnh post lại trên báo nhà, nguyên con.
Gấu vốn tính cả nể, “chẳng dám đụng ai”, bèn nói, thôi, bỏ đi.
Cũng rét chứ bộ.
Còn nhớ một ý, hách lắm, nhân Tuý Hồng mới cho ra lò “Tôi nhìn tôi trên vách”, đại khái:
Mấy bà viết văn, thì thường là viết tiểu thuyết xã hội, [ý nói, đái không qua ngọn cỏ!], và lấy ngay cuộc sống gia đình làm đề tài.
Đàn ông viết truyện, đàn bà viết tự truyện.
Đàn ông đẻ ra nhân vật, mấy bà chẳng cần đẻ, bệ ngay ông chồng của mình vô.
Mấy ông đi từ cái bếp lên tủ sách [ý nói, ăn uống xong xuôi, bèn viết], mấy bà bê mẹ tủ sách xuống bếp, vừa viết văn vừa thổi cơm.
Đang nhặt sạn gạo, bèn lấy mẹ một hột sạn thay cho dấu chấm trên chữ i!
*
Gấu nhớ là, bài viết của Gấu có chôm mấy ý trong một bài viết của Virginia Woolf.
Cái hình ảnh, lấy hột gạo/hạt sạn thay cho dấu chấm trên chữ i, là của Woolf ?
Hẳn thế.
Gấu, sức mấy mà nghĩ ra một hình ảnh, lấy ra từ "tam giác bếp núc", của Levi-Strauss, đẹp đến như thế! (1)
Bạn có liên tưởng ra, hình ảnh một cái hột… khác, không?

(1) Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss.
Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.
*
Gấu nhớ ra cái tít của bài viết rồi, "Nhà văn nữ và tiểu thuyết xã hội". Được “lạng lách” [được gợi hứng], từ một bài của Woolf, qua đó, bà cho rằng, tiểu thuyết là thứ mạt hạng trong các thể loại văn học, và tiểu thuyết xã hội là "mạt hạng của mạt hạng", và nhà văn nữ, do tạng của họ, chỉ hợp với thứ này!

Hà, hà!

Đúng là "danh bất hư truyền": Một tên 'sa đích văn nghệ'!

Gấu cũng nhớ ra mấy câu ông bạn quí delete rồi, đại ý:
Những nhà văn nữ Việt nam đi từ thành công tới thất bại, biến tiểu thuyết thành tự truyện, biến những nhân vật tiểu thuyết thành những người thân trong gia đình!

Đi từ thành công tới thất bại!
Đểu thật!
Nhưng, so với cái tít cuốn tiểu thuyết của Tuý Hồng, thì cũng chẳng thấm vào đâu.
Như muối bỏ bể!
*
TTT rất quí Tuý Hồng, ông rất phục, đúng hơn, cái tài sử dụng chữ Mít của Tuý Hồng. Ông có nói điều này với Gấu, trong một lần ngồi Quán Chùa, nhắc tới Thanh Nam, và những ngày làm tờ Nghệ Thuật.

“Tôi nhìn tôi trên vách” quá tuyệt.
Chắc là cái tít bật ra khi nhìn bản mặt ông chồng, thấy chán như cơm nếp nát, hẳn thế?

Gấu gặp Tuý Hồng, độc nhất một lần, khi còn ở building Cửu Long, sau khi ông bê bà về đây ít lâu.
Khi ông còn độc thân, có ghé vài lần, có lần xách theo ông anh vợ hụt [ông anh BHD] cùng chai Remy, của một anh lính Mẽo già, mua cho một cô nữ điện thoại viên ở trên Đài, từ PX của Mẽo. Anh già này mua nhiều thứ lắm, toàn Gấu được hưởng, như Pall Mall, Remy.

Cô nữ điện thoại viên mà anh lính già mê, Gấu cũng mê!

Ông trưởng đài lại càng mê. Hai người bồ bịch với nhau, chẳng ai biết, chỉ đến khi ông trưởng đài bị mìn VC cùng với Gấu, tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, cô thương quá, sợ ông chết, bật khóc nức nở, thế là bể chuyện.
Ui chao chuyện về em này cũng tuyệt lắm. Bữa nào rảnh kể tiếp. Gấu gọi em là Dì Tám, bởi vì mê cháu của bà, là cái cô Mai, trong Những ngày ở Sài Gòn:

Mai, Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền.

Mai, Mai… để anh kể cho em nghe về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có sương mù…

Mai thôi làm việc. Khi chúng tôi chia tay nhau tại cầu thang, trong khi chờ thang máy, đột nhiên nàng nói: "Tôi sợ, tôi sợ lắm", nàng nói câu đó bằng tiếng Pháp. Tôi mở cửa thang máy cho nàng và bỗng chợt nhớ câu tôi hỏi vị bác sĩ người Pháp chữa trị cho tôi, khi còn nằm trong nhà thương Grall:

Như vậy là chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi? (Est-ce que la guerre est finie pour moi?).

Những ngày ở Sài Gòn (1965)

*
Năm nhà văn nữ, mỗi bà có một, hoặc hai thương hiệu. Thuỵ Vũ, “lao và lửa”, Trùng Dương, ‘mưa không ướt đất’, ‘em lên anh nhé’, Tuý Hồng, ‘vết thương dậy thì’, Nguyễn Thị Hoàng, ‘vòng tay học trò’. Ngoài ra, còn Nhã Ca, Trần thị NGH, Lệ Hằng, Ngọc Minh, nhiều lắm.
Trong Văn Học Tổng Quan Võ Phiến giải thích hiện tượng âm tính của cõi văn Mít Miền Nam, giọng văn trước, ‘ồm ồm’, sau, ‘eo eó’, là do đàn ông đi lính hết!

Nhảm thế đấy.

Trong cuộc trò chuyện giữa Volkov và Brodsky, khi được hỏi, tại sao cả trăm năm, từ Karolina Pavlov tới Mira Lokhvitskaya, đàn bà chỉ đứng khép nép bên chiếu thơ, thế rồi, bất thình lình, cùng một lúc, chúng ta có hai tài năng khổng lồ, là Tsvetaeva và Akhmatova, đứng ngang hàng với những nhà thơ khổng lồ trên thế giới, Brodsky cho rằng, vấn đề này không  liên quan tới thời gian. Nhưng, có thể, chính là vấn đề thời gian [Then, again, maybe it has].

Vấn đề theo tôi [Brodsky], là, đàn bà rất mẫn cảm với trà đạp đạo đức, với vô đạo đức, về mặt tâm lý cũng như về mặt tinh thần. Và vô đạo đức thì phổ cập, tràn lan, thế kỷ khốn kiếp của chúng ta chẳng hề thiếu!
Thành thử, sự nổi lên của các nhà văn nữ Miền Nam vào thời kỳ đó, không phải là do đàn ông đi lính hết, các bà tha hồ múa may quay cuồng, mà chính là vì sự hung bạo, tàn khốc của cuộc chiến, và nói quá đi một chút, có thể các bà đã ngửi ra cái mùi dã man từ những trại cải tạo sắp tới, cũng nên!

Như GCC được biết, bài được đăng, trong 1 số báo khác, của Văn. Tuy nhiên, nhớ, đúng là bạn quí order.



Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Trên tờ Điểm Sách London, Feb 20, 2014, có bài của James Wood, “Về Đếch Về Nhà Nữa, On Not Going Home”, bàn về đủ thứ tay nổi tiếng mà đề tài của họ, là về lưu vong, trong có ông, có Said, Sebald.... Có nhắc tới Lukacs và câu phán nổi tiếng của ông, TV đã từng chôm, “Tiểu thuyết là để diễn tả về cõi không nhà siêu việt” (The form of the novel is, like no other one, an expression of transcendental homelessness) G. Lukacs, Lý thuyết về Tiểu thuyết. Bài dài, GCC đọc sơ sơ là đã mê quá rồi, bê về nhà, nhưng không dám lôi về Tin Văn, sợ lại hứa cuội, do không có thì giờ để mà dịch. Có 1 ý thật thú, bạn phải nhớ nhà, khi bạn thực sự có nhà! Có 1 câu, trích dẫn Simenon, khi bị hỏi, tại sao không đổi quốc tịch – cách mà những người Bỉ thành công thường làm – ông trả lời, ta đếch muốn sinh là 1 tên Bỉ, thì ta cũng đếch hiểu được tại sao lại ngưng là tên Bỉ, there was no reason for me to be born Belgian, so there’s no reason for me to stop being Belgian: Chẳng có lý do gì đối với ta sinh ra là 1 tên Bỉ, thì cũng chẳng có lý do gì để ta ngưng là 1 tên Bỉ. Câu này áp dụng cho Đỗ Khờ, thật hay, nhưng phải “chế” đi: Chẳng có lý do gì ta sinh là tên Mít, thì cũng chẳng có lý do gì để ta không viết văn bằng tiếng Tẩy, nhân thấy đang om sòm giới thiệu tác phẩm mới ra lò “Sài Gòn Thứ Bảy”, của anh.  

Thấy tờ Diễn Đàn có bài giới thiệu. Đọc, thì thấy người giới thiệu không nhận ra, cái tít là từ một bài hát. DK rất có tài trong sử dụng những bài hát của Miền Nam trước 1975, làm đề tài cho 1 “cái gì đó” của anh.

DK là nhà văn hải ngoại đầu tiên GCC đọc và có viết về “xì tai” của anh, trong bài Một Người Anh:

Bao nhiêu năm nhìn lại, tôi nhìn ra thất bại của bản thân, khi tìm cách thay đổi văn mạch cũ của văn chương Việt Nam. Sự thất bại không phải vì dòng văn chương mới mẻ đó không thích hợp với quan niệm thưởng ngoạn của đa số độc giả, mà là: Tôi quá bị ám ảnh bởi vấn đề kỹ thuật. Một cách nào đó, tôi đã không lãnh hội được bài học của Kafka, khi ông cho rằng, kỹ thuật chính là hữu thể (être) của văn chương. Rõ ràng, câu văn bị kỹ thuật non nớt, sự vụng về, tham vọng làm mới văn chương... tàn phá, trở thành vụn nát. Nhưng lối viết đó không phải là một thất bại. Theo tôi, trong cuốn "Cây gậy làm mưa", Đỗ KH. cũng đã thử nghiệm một lối viết mới "na ná" như vậy, và hơn thế nữa, tác giả đưa luôn những mạch văn "ngoại lai", những ngôn ngữ " quốc tế"... vào trong văn mạch Việt Nam.

Tuy nhiên, thực khó mà tưởng tượng anh bỏ luôn tiếng Mít, để viết bằng tiếng Tẩy.

Trong bài viết của Bei Dao Kafka's Prague, ông có nhắc tới hai nhà văn Tiệp là Skvorecky,và Kundera,

There was not an empty seat in the house that evening. The audience had come to see Skvorecky, who enjoyed even more fame in the Czech Republic than Milan Kundera. In 1968, not long after the Soviet invasion, Skvorecky fled to Toronto, began teaching at a university there, and assisted his wife in setting up the 68 Publishers, which specialized in banned books by Czech authors. A Czech scholar told me that after Skvorecky fled he still made a great contribution to the Czech cause, but Kundera has always disdained his homeland and identified himself as French.

Không hiểu DK có như K không. Cũng chẳng quan trọng, như hay không như.
Trong Gặp Gỡ, Gấu nhớ là K cũng có đi bài về Skvorecky, cũng dân Toronto như GCC.
Bài viết của Bei Dao kết thúc bằng 1 cái "date" của ông, với... Susan Sontag, thú, nhưng chưa thú bằng câu của Sontag:
"That's right, nobody wants to bring back the old system, but could it be that this emptiness is what they want?"
Bài essay của Bei Dao thật tuyệt, lệch hẳn ra ngoài cách viết khoa bảng, nhà trường, giống 1 cái récit, nhưng khác ở những tìm tòi, điều tra, nghiên cứu dành riêng cho đề tài ông viết, một Prague của Kafka, ở đây. GCC sẽ dịch bài này, tặng mấy đấng chưa từng biết 1 bài essay nó ra làm sao.

Kafka's Prague

Prague của Kafka

Prague isn't willing to leave nor will it let us leave. This girl has claws and people must line up or we will have to light a fire at Vysehrad and the Old Town Square before we can possibly depart.

-Excerpt from a letter from Kafka to Oskar Pollak

Xề Gòn đếch muốn bỏ đi, mà cũng đếch muốn GCC bỏ đi.
Ẻn có răng, có móng, có vuốt, sắc lắm!  

Về hai mùa xuân lớn và về anh/chị em nhà Skvorecky 

1 

Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris dưỡng thương vài ngày. Josef và Zdena Skvorecky cũng có ở đó. Hình ảnh 1 chàng thanh niên trở lại với tôi, và 1 giọng điệu thật hung hăng: “Đám Tchèques như các người, thực sự muốn gì? Bộ tụi mi quá chán chủ nghĩa xã hội rồi ư?”
Cũng trong những ngày đó, chúng tôi lèm bèm đã đời với một nhóm bạn Tẩy, và họ, mắt sáng ngời khi nói đến nổi dậy, vùng lên, đến hai mùa Xuân, một của Tây và một của Tchèque. Nghe thì sướng thật, nhưng có sự khác biệt.
Cú vùng lên Mai 1968, bất ngờ, không ai đợi chờ, trong khi Mùa Xuân Prague, là một thành tựu của một chặng đường dài, cắm rễ trong  Khủng Bố Stalin vào những năm đầu sau 1948.
Mai 1968, khởi động do những người trẻ tuổi, mang dấu ấn của một thứ cách mạng trữ tình, đẹp như thơ [như mơ thì cũng được, lyrisme révolutionaire]. Mùa Xuân Prague, hứng khởi của nó, là từ chủ nghĩa bi quan hậu cách mạng của đám người lớn.
Mai 1968 phản đối lại - bằng 1 cuộc nổi dậy do ham vui mà ra - văn hóa Âu Châu, mà đám trẻ này coi là bực bội, công chức, cứng ngắc. Mùa Xuân Prague, phản đối, cùng thứ văn hóa đó, nhưng trong bao năm bị nghẹt thở dưới sự ngu dốt đần độn ý thức hệ, và nhằm bảo vệ tính Ky Tô nhiều hơn là vô tín ngưỡng phóng đãng, l’incroyance libertine, của nghệ thuật hiện đại (tôi nói hiện đại, không phải hậu hiện đại).
Mai 1960 dán cho nó tấm biển, chủ nghĩa quốc tế.
Mùa Xuân Prague muốn, lại đem đến cho 1 quốc gia nhỏ bé nguồn gốc và sự độc lập của nó. 

2 

Cái sự khởi đầu của Mùa Xuân Prague được ghi dấu ở trong tôi bằng cuốn tiểu thuyết đầu tay của Sk., Những kẻ hèn nhát, xb năm 1956, và được đón nhận bằng những đợt pháo bông lớn lao của lòng thù hằn của những VC cầm quyền Tchèque, [VC thì ở đâu cũng mắm xốt, Bắc Kít, Chếch Kít, Mao Ít….]. Cuốn tiểu thuyết đánh dấu bước đi đầu tiên của văn chương thì nói về bước đi đầu tiên của lịch sử: một tuần lễ của Tháng Năm 1945, trong thời gian đó, sau 6 năm bị Đức đô hộ, nở ra cái gọi là Cộng Hòa tchécoslavique.
Nhưng, tại sao thù hằn như thế?
Cuốn tiểu thuyết cực chống VC?
Không phải. Tuyệt không, cực không. 

Sk kể câu chuyện 1 chàng thanh niên 20 tuổi, yêu đến phát khùng nhạc jazz (cũng như Sk), và phát khùng lên vì thành quả cách mạng, về một vài ngày chấm dứt cuộc chiến, quân đội Đức quỳ gối, lực lượng kháng chiến tchèque vụng về xoay sở, nhận ra họ, và, sau cùng là sự xuất hiện của quân đội Nga.

Chẳng có tí chống cộng điên cuồng ở đây, nhưng thay vì vậy, thì là một không khí, một thái độ không chính trị: nhẹ như mây, thoáng như khí trời, “không-ý thức hệ một cách cực kỳ vô lễ” [impoliment non-idéologique]!

Kundera: Une Rencontre 

Không ý thức hệ cực kỳ vô lễ: Tuyệt!
Chắc cũng giống như ị một bãi cực bự, ở nơi ta đã từng ở, rồi.. về.
Về đâu?
Hà Nội chứ còn đâu nữa! 

Và rồi thì là chỗ nào cũng tưng tửng, têu tếu, một thứ khôi hài không đúng lúc. Điều này làm tôi [Kundera] nghĩ, tất cả những nơi khác trên thế giới, người ta không cười như thế. Làm sao mà chê được cảm quan về cái cười, ý nghĩa của sự khôi hài ở Bertolt Brecht? Nhưng sự chuyển thành kịch tác phẩm “Anh bộ đội can đảm Chveik” [Brave Soldat Chveik] cho thấy, ông chẳng hiểu tí chó nào về chất tếu của Hasek. Tính tếu của Sk (như của Hasek hay của Hrabal), là thứ tưng tửng bất cần đời [giống của GNV?] của những kẻ ở cách xa quyền lực hàng ngàn cây số, và giả như có vời họ tới để mà dâng hiến quyền lực thì họ cũng đếch thèm, và còn điều này, họ coi lịch sử là 1 con mụ phù thuỷ già, mù, và những lời phán đạo đức của nó làm họ bật cười, thí dụ,"lước Việt Lam nà một"! Và tôi nhận thấy 1 điều thật ý nghĩa, đúng là cái tinh thần không nghiêm trọng, chống lại đạo đức, chống lại ý thức hệ, chính nó đã bắt đầu vào lúc rạng đông của những năm 1960, một thập niên lớn của văn hóa tchèque (vả chăng, có thể nói, đó là lần cuối cùng, nó được coi là ‘lớn’) 

3 

Ui chao, thập niên 1960 mới đẹp, mới đáng yêu làm sao [Câu này thì Kundera nói giùm GNV]. Tôi có thể nói, có tí đểu giả trong đó: một chế độ chính trị, thứ lý tưởng, là 1 chế độ độc tài đang rã ra, c’est une dictature en décomposition, cái bộ máy kìm kẹp của nó, tuy ngày càng rệu rạo, nhưng vẫn còn có đó để mà tạo những cú hích cái tinh thần phê phán và nhạo báng của nhân dân! Vào mùa hè 1967, bị quê bởi đại hội táo bạo của Hội Nhà Văn, và có thể nghĩ, sự trâng tráo đã đi quá xa, Bắc Bộ Phủ bèn ra lệnh bóp chặt chim và cu và bướm của chúng lại, đi 1 đường chính trị cứng rắn, durcir leur politique. Nhưng tinh thần phê phán đã nhiễm tới cả Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng, và vào Tháng Giêng, họ đưa ra 1 ông VC vô danh ra làm Chủ Tịt: Alexander Dubcek. Mùa Xuân Praque bắt đầu: Thú vị nhất, xứ sở bèn từ chối cách sống được Cẩm Linh đặt để: Những biên cương, cửa ải, hải quan.. đều mở toang, và những cơ quan tổ chức xã hội (nghiệp đoàn, hội đoàn, tổ chức, cơ sở), vốn được thành lập để thông báo, và tuân theo đường lối của nhà nước, trở thành độc lập, biến thành những dụng cụ, cơ cấu không chờ đợi của một thứ dân chủ không ngờ. Một hệ thống ra đời (chẳng hề có 1 phương án dự trù có trước, sans aucun projet préalable), và có lẽ phải nói, trước đây chưa hề có: một nền kinh tế nhà nước hoá, nationalisée, 100%, một nền nông nghiệp ở trong tay tiểu điền chủ, không phải những người quá giầu, cũng không quá nghèo, trường học, và y tế, free, khỏi phải trả tiền, và còn điều này: chấm dứt quyền lực thuộc về cớm, chìm cũng như không chìm, chấm dứt đàn áp, bách hại chính trị, tự do, tha hồ viết, bãi bỏ kiểm duyệt, khởi đi như thế, làm sao mà không có trăm hoa nở rộ: văn chương, nghệ thuật, tư tưởng, tạp chí. Tôi không biết những viễn ảnh trong tương lai của 1 hệ thống như thế; trong một vùng địa lý-chính trị như ở đó, làm gì có, nhưng ở một khu vực địa lý chính trị khác?, ai mà biết được, nhưng trong bất cứ trường hợp, chỉ nội nghĩ đến nó, vào cái giây phút đầu tiên 1 hệ thống như thế hiện hữu, cái giây phút đó mới tuyệt vời làm sao.

Trong Phép Lạ ở [Miracle en] Bôhême, (hoàn tất năm 1970), Sk kể về cả một thời kỳ này, từ 1948 đến 1968. Điều ngạc nhiên, là ông đưa ra 1 cái nhìn bi quan không chỉ về tính ngu si nhảm nhí, la bêtise, của quyền lực, mà còn về những kẻ nghi kỵ, tranh cãi, sự múa may bông phèng nhố nhăng của họ, leur gesticulation vaniteuse, trên sàn diễn Mùa Xuân Prague. Chính vì điều này mà ở Tchécoslavique, sau thảm họa xâm lăng của Nga xô, cuốn sách không chỉ bị cấm, như tất cả những tác phẩm của Sk, nhưng mà còn chẳng được yêu thích ở cả những kẻ chống đối, đám này bị nhiễm trùng, virus, của chủ nghĩa đạo đức, không làm sao chịu nổi sự tự do phóng đãng, l’inopportune liberté, của cái nhìn, tự do phóng đãng của cái cười, tiếu lâm, hài hước, [l’ironie].

4 

Khi, vào tháng Chín 1968, ở Paris, đám Sk và tôi đã bàn cãi, tranh luận với những người bạn Pháp, về hai mùa Xuân của chúng tôi, chúng tôi không thoát khỏi những lo lắng: Tôi, về cái ngày trở lại Prague, còn họ, chuyện di trú khó khăn tới Toronto. Đam mê văn chương Mỹ và nhạc Jazz của Josef đã khiến anh chọn lựa thành phố này. (Như thể, ngay từ khi còn trẻ măng, mỗi một trong chúng ta đã chọn lựa cho mình một nơi chốn lưu vong, tôi, thì là xứ Tẩy, họ, Bắc Mỹ). Nhưng, dù là những tha phương tứ xứ, cosmopolites, anh em nhà Sk là những kẻ "yêu nước". Nhưng, tôi biết, bây giờ, dưới những cuộc khiêu vũ được dẫn dắt bởi những kẻ đồng phục, uniformisateurs, thay vì yêu nước [patriote], thì phải nói, (1 cách khinh bỉ, avec dédain), những kẻ quốc gia (nationaliste). Nhưng xin lỗi các bạn, vào cái thời thê luơng này, en ces temps sinistres, làm sao mà có thể nói, "không" yêu nước? Anh em nhà Sk có 1 căn nhà nhỏ ở Toronto, và họ dành 1 phòng lo in ấn, xb những nhà văn tchèques, [y chang nhà văn THT của chúng ta, nhưng ông THT này chỉ in ấn những nhà văn phe của ông mà thôi!], bị cấm tại xứ sở của họ.

Chẳng có gì quan trọng hơn 1 việc làm như thế. Quốc gia tchèque không sinh ra (nhiều lần sinh ra), nhờ những chiến thắng quân sự, mà luôn luôn là nhờ văn học. Và tôi không nói văn học, như là một võ khí chính trị. Tôi nói văn học như là văn học. Vả chăng, chẳng thể có 1 thế lực chính trị, hay một cơ sở, tổ chức chính trị nào lật đổ một nhà xb theo cái kiểu của… THT, ấy xin lỗi, của anh em nhà Sk! Họ là những nhà xb chỉ trông cậy vào sức lực, hoàn cảnh, điều kiện của riêng họ. Và tất nhiên, sự hy sinh, cũng của riêng họ. Tôi chẳng hề quên điều này. Tôi không hề quên họ. Tôi ở Paris, và trái tim quê nhà của tôi, le cœur de mon pays natal, đối với tôi, thì ở Toronto [Kundera lại nói giùm GNV!].

Sự xâm lăng và đô hộ của Nga xô chấm dứt, chẳng có lý do gì để in ấn, xb ở nước ngoài những tác phẩm tchèque. Kể từ đó, Zdena và Josef thỉnh thoảng về thăm Prague, nhưng luôn luôn trở về sống ở trong tổ quốc của họ [là cái xó Toronto. NQT]. Trong tổ quốc của xứ sở lưu vong cũ của họ. Dans la patrie de leur vieil exil.

 

*

GCC làm quen với James Bond, bản tiếng Tây, nhà xb Plon, đúng thời gian ăn mìn VC tại nhà hàng Mỹ Cảnh. Mê quá.
Gặp lại Bond, ở trại tị nạn Thái Lan, khi đã qua thanh lọc, chờ gặp phái đoàn. Một cuốn tiểu sử không được phép của Bond, do 1 tác giả viết tiếp Fleming. Thần sầu. Sợ còn hay hơn cả nguyên mẫu!
Tờ Obs giới thiệu một Tân James Bond, trong số đặc biệt về Ukraine, với tấm trát “Lệnh Truy Nã” Sáu Dzũng, anh y tá dạo ngày nào!

*

*


Người Sài Gòn 

Mar 6 at 4:28 PM

Tác Giả: Nhị Nguyên

SGTT.VN - Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học. Tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau. Ở thì không lo vì đã có nhà người quen ở bên kia cầu chữ Y. Chỉ lo cái chuyện ăn uống giữa hai buổi thi.

Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán mà bụng vẫn trống không. Nhỏ lớn ở quê khi nào đi đâu xa thì cơm đùm cơm bới mang đi theo chứ có khi nào ăn cơm tiệm để mà biết kêu cơm thêm. Kêu thêm dĩa nữa thì không dám vì sợ không đủ tiền ăn cho ngày mai, ngày kia… Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ, người một trái, người hai trái. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Vậy là, chỉ một loáng nguyên cả nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ.
Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn rồi nhìn chằm chằm, thi thoảng lại liếc qua bà chủ quán đang đứng gần đó cười mím chi thì đâm lo. Không biết tiền mang theo có đủ để trả không.
Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, bỗng nhiên chủ quán bước lại. Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu.
Chỉ có nải chuối, cho thấy tính cách người Sài Gòn.

Cuộc sống không thẳng tắp. Bon chen lên Sài Gòn không phải lúc nào cũng dễ kiếm tiền. Cũng trong những năm thập niên 1980, có lần, tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Mượn chiếc xe của ông chú vào buổi sáng, lúc ấy chú cho xe ở nhà để ngủ sau một đêm chạy mối chở hàng. Lần đầu tiên chạy xích lô chỉ có chạy xe không từ bên này sang bên kia cầu chữ Y đã muốn hụt hơi. Thế nhưng vẫn ráng vì trong túi không còn tiền. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: Xích lô!
Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại hỏi: Anh chị đi đâu?
– Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?
Dân miền Đông mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. Thôi đành chơi trò may rủi: Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho.
Tưởng không biết đường thì người ta không đi, ai dè cả hai thản nhiên leo lên. Người con trai nói: 15 đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi tui chỉ đường.
Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối, liệu sức không thể nào qua khỏi dốc cầu đành tính chước bỏ của chạy lấy người. Xuống giọng: Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.
Ai ngờ người con trai ngoái đầu lại: Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!
Thế là, vừa được khách chở, lại vừa được lấy tiền. Không phải 15 đồng mà tới 20 đồng.
Chắc cũng chỉ có người Sài Gòn mới khoáng đạt như vậy!

Người Sài Gòn tốt bụng, chia sẻ không từ những chuyện cá biệt, người nơi khác vào Sài Gòn hỏi đường thật dễ chịu. Già trẻ lớn bé, gặp ai hỏi người ta cũng chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm. Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn nghĩ cách viết hoặc bỏ tiền ra đặt làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Đôi khi, kèm theo một câu đùa, câu trách rất Sài Gòn ở cái bảng này khiến ai đọc cũng phì cười. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh mới đây: "Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường. Hỏi hoài mệt quá!"

Đi xe ôm, taxi, gặp đúng dân Sài Gòn thì mười người hết chín không lo bị chặt chém, vẽ vời. Đôi khi, kêu giá là vậy, nhưng khách không có tiền lẻ hoặc hết tiền người ta còn bớt, thậm chí cho thiếu mà không cần biết khách ở đâu, có trả hay không. Với người Sài Gòn, đó là chuyện nhỏ.
Ở Sài Gòn, cho tới bây giờ vẫn còn nhiều nhà để một bình nước suối trước nhà kèm thêm một cái ly, một cái bảng nước uống miễn phí. Và bình nước này không bao giờ cạn, như lòng tốt của người Sài Gòn.
Có người đã phát hiện, khi bạn chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó chạy theo nhắc bạn gạt cái chân chống hay nhét lại cái ví sâu vào túi quần thì đích thị đó là người Sài Gòn.

Note: From TV’s friend & reader

Tks. NQT

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu


Khi điểm tập truyện ngắn “Mây Bay Đi” của Nguyên Sa, và nhìn ra, đây là một tác phẩm của một nhà văn dễ dãi và hạnh phúc, Gấu chưa đọc Kafka. Và cú đánh quá nặng, vì trúng ngay tim của ông, khiến ông phát khùng lên, và ban cho Gấu cái nick thật là tuyệt vời, tên "sa đích văn nghệ".
Còn nhớ, ngồi với ông anh tại Quán Chùa, nhìn cái mặt nhăn nhó của thằng em, ông an ủi, làm người thì phải có người ghét, người yêu, cứ tròn xoe như hòn bi lăn đâu cũng được, thì nhảm quá. Nhưng ông cảnh cáo, giá mà mày viết về mấy thằng bạn văn của mày, y như vậy, thì thành nhà phê bình được đấy!
Phải đến khi đọc Kafka, thì Gấu mới tìm ra câu trả lời, cho những đòn của Nguyên Sa và ê kíp, trong có Duyên Anh, dưới tên Thương Sinh, đánh Gấu ròng rã cả gần một năm trời trên nhật báo Sống.
Gấu có một kỷ niệm cũng thật là tuyệt vời về chuyện này. Đó là lần đến thăm cô học trò, con ông chú T, Gấu có nói tới trong bài viết Tên của cuộc chiến. Cô lôi ra cả một tập báo Sống, nói, anh đọc đi.
Hóa ra là cô nhớ Gấu quá, và, thù Gấu quá, vì cái chuyện đi lấy vợ Nam Kỳ, bèn cắt tất cả những bài viết chửi Gấu, để dành đọc chơi!
Nhưng kỷ niệm "ôi nhìn nhau lần cuối đi em", mới thật ảo não.
Gấu có ghi lại, trong bài viết về Bình Nguyên Lộc, post lại ở đây:

Gòa không, Gòa không?

Bình Nguyên Lộc là nhà văn Miền Nam thân cận nhất đối với thằng bé di cư-tôi ngày nào. Tôi làm quen với Sài-gòn là qua ông. Cái trò ngồi quán nhâm nhi ly hồng trà, ngóng chờ hồn ma cũ, trong khi tương lai đang đợi ở một ngã tư nào đó, là do ông, phần nào.
Ông già tôi khi còn sống, đặt cho tôi một biệt hiệu: thằng Mõ Phố. Ông làm nghề dậy học, cứ bị đổi trú sở hoài. Nghe nói Tây không ưa ông. Thằng con, ngay những giờ phút đầu tiên đến đất lạ đã lân la làm quen, từ người đến cảnh. Chưa kịp làm quen người bố, ông đã bị đảng phái thủ tiêu.
Mõ Phố vào Nam, việc đầu tiên, mua một tấm bản đồ thành phố Sài-gòn, rồi "khốn khổ khốn nạn" vì nó. Chả là, thằng nhỏ tin theo bản đồ, lần theo đường chỉ, đụng ngay một đồn Bình Xuyên. Thành phố những ngày đầu di cư, bản đồ nào "cập nhật hóa" cho nổi! Người lính gác, chắc chỉ muốn cho thằng nhỏ Bắc-kỳ một bài học, bắt đứng đó đến chiều tối; mỗi lần buồn buồn, anh lên cò súng lách cách, hăm: Tao bắn bỏ mày! Anh ta làm sao biết thằng nhỏ bị gắn khằn trong trí tưởng, hình ảnh một ông bố bị cột đá bỏ sông.

Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc lúc đó rất ăn khách, và những tờ nhật báo tại Sài-gòn thường in kèm như phụ trương. Bạn mua tờ báo, mở ra, truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc là một "cahier" khổ nhỏ kẹp ở giữa.
Nhớ đến ông, tôi nhớ đến một người viết khác, ông anh rể của tôi, Nguyễn Hoạt.

Nguyễn Hoạt thuở mới vào cũng ham viết tiểu thuyết về miền nam. Cuốn Trăng Nước Đồng Nai của ông kể lại việc kiếm cơm miền nam bằng nghề dậy học tại Biên Hòa. Ông quá mê thằng nhỏ xe "lô" (location), mời chào khách: Gòa không, Gòa không? (Hòa không, Hòa không?). Ông tả những cô gái miền nam tự nhiên đến nỗi mặc "đồ ngủ", leo cây, hái trái!
Ông chú Th. của tôi cười ngất, buông một câu: Bộ nó tưởng gái Miền Nam "dễ dzô" lắm sao?
Bà thím tôi ngồi kế bên cười tủm tỉm. Hai người sắp thành ba người, mới lo làm đám cưới!

Nhân đó, ông hỏi tôi thường đọc ai, tôi nói: Cháu mê Bình Nguyên Lộc. Ông gật gù, trúng ý. Trên bàn là một tờ báo hàng ngày, với truyện ngắn mới nhất của ông.
Ông chú này, tôi đã nhắc tới, nhân đi tìm "cái tên", cho một cuộc chiến. Gọi là chú, vì cùng học với ông già. Ông thi rớt, bỏ vào Sài-gòn lập nghiệp từ khi còn "nước Nam-kỳ", "tân thế giới" của những chàng trai xứ Bắc. Bà thím gốc xa xưa Tiều, rất hiền. Bà kể lại, kỷ niệm lấy chồng. Ổng nói, nếu ngày đó, tôi "hỏng" chịu cưới, bà tính sao? Đành ôm bầu, đẻ con, chịu làm "gái ngoan" chứ làm sao giờ!
Kỷ niệm trên, dù sao cũng vui.

Buồn: những ngày làm ăn khá giả, khi chưa xẩy vụ di cư, bà sợ nhất cảnh đếm tiền mỗi lần ông đưa về. Sau bà nghĩ ra một cách thật giản dị: dùng đấu, để đong, như đong gạo!
Là một thương gia giầu có nhưng có thể do bỏ Miền Bắc, ông lại càng tin vào một "mùa Thu" mà ông đã không có dịp được thưởng thức khí hậu. Mãi sau này, ân hận, nhưng cũng may, mất trước khi mất miền nam, không phải chứng kiến cảnh kiểm kê tài sản.

Cô con gái thứ của ông là mối tình đầu của tôi.

Tôi mê cô cùng lúc mê Bình Nguyên Lộc. Thương thằng nhỏ con người bạn học, ông chú kêu tôi về làm trợ giáo cho mấy đứa con ông. Không hiểu ông có một vầng trăng thề nào không, khi rời xứ Bắc, vì mấy cô con gái đều mang tên người đẹp cung Quảng. "Đệ nhị tiểu thư" được cưng nhất, nhưng không vì vậy mà bớt sợ bố. Ông là một "hung thần" trong gia đình.

Lần cuối, tôi tới thăm nhưng "vô ý" mang luôn đôi dép dính bùn vô nhà. Cô hoảng quá la lớn: Anh để dép bên ngoài! Tôi quay ra, dép theo luôn. Mãi sau này, khá trộng tuổi, cô mới lấy chồng. Bây giờ hình như hai vợ chồng ở Úc. Không hiểu khi chọn tôi làm "trợ giáo" cho mấy đứa nhỏ, ngoài chuyện thương đứa nhỏ mồ côi, ông chú tôi có bị ảnh hưởng Bình Nguyên Lộc hay không?

Nếu Miền Nam của Sơn Nam là một miệt vườn, hoặc "trước" thuở miệt vườn, một hình bóng cũ; Miền Nam trong Bình Nguyên Lộc, là cảnh nhập nhằng kẻ chợ, người quê. Những nhân vật của ông cũng nửa quê nửa tỉnh. Đây là lý do theo tôi, dân Sài-gòn rất mê ông, nhất là những độc giả "nhựt trình". Trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc đã manh nha một Sài-gòn sắp sửa biến mất, như một Miền Nam biến thành huyền thoại, ở Sơn Nam. Người ta tự hỏi mấy cô gái trong Đò Dọc, lo chạy giặc Tây giạt về một xóm quê, suốt ngày lóng ngóng không biết làm gì, suốt đời chờ đợi một người lái "đi xem heo", họ sẽ sử sự ra sao, sau này, khi quân đội Mỹ và đồng minh đổ xô tới...



Văn chương ai điếu

[Note: Bài này đầu tháng lòi ra]

*

GCC & NDT & VTD & DPP với mấy đấng nữa, không biết tên

Cali 3.08

Hà Nội

Bài này, nữa, nằm trong loạt bài viết song song với BL

Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa 

It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn how to write realistically of human beings; at the beginning he invented life... these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called "the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens

Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật trong Oliver Twist  giản dị chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là "những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ

Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!

Tôi tự hỏi, đoạn văn trên có ảnh hưỏng tôi không, bởi vì chắc chắn tôi đã đọc Bếp Lửa, trước khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn.

"Hà Nội... tiếng khóc nức nở của một cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc nức nở, không phải sợ hãi, không phải…"
Những ngày ở Sài Gòn

Những ngày thì ở Sài Gòn, nhưng những kỷ niệm, thì là của Hà Nội. Chính vì vậy, mà một ông bạn mới quen sau này, ở hải ngoại, khi đọc xong tập truyện đầu tay của Gấu, đã lắc đầu: Treo đầu dê bán thịt chó!
Về cái vụ cô gái bán rau muống bị Tây hiếp, Gấu nghe ông cậu, cậu Hồng, cùng tuổi Gấu, con Bà Trẻ, lúc đó cũng trọ họ ở Hà Nội, nơi nhà chị Giậu, vợ ông Hiếu Chân, tại Bạch Mai, kể lại. Thực sự Gấu không tận mắt chứng kiến.
Người đàn ông bị giết nằm ngay bên đường xe điện cũng nghe kể lại.
Cộng, kỷ niệm thực với hồi ức đọc, ra đoạn văn của Gấu, chắc thế.

Nhưng bị thằng bé đánh giầy chơi mất chiếc mũ dạ, là có thật. Đến bây giờ, về già, lâu lâu trong giấc mơ, vẫn còn trở lại:

[Khúc này Hải Âu mê lắm, hà, hà!]

Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện... Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.
Những con dã tràng
*

Đoạn văn tả cuộc nói chuyện giữa ông Chính và Tâm, và nói rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán, sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã hoàn tất  phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.

Chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương là như vậy.

Bạn nào đã từng xem phim OK Corral, chắc là còn nhớ, trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn, chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...

Với bậc thầy, cái sự sửa soạn mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình nhân, đi vài bước tới  tính cho con bú, nhưng tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá, bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô nói với anh: Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.
Như thể, cô nhìn thấy và còn nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm trong nôi, với người yêu còn là thằng nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài ca dao sau đây.

Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái nằm ngang,
Thương Em từ thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín cái nằm chồng,
Thương Em từ thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái nằm xoay,
Thương Em từ thuở Em hay khóc nhè.

Và nhớ luôn cả vẻ mặt của ông bạn thân, và còn là người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHD:
-Làm sao mà mày có thể mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn, từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên dưới hồi nhà nó còn ở đường PDP.

Hà Nội

1 2 3 4 5 6 7

 



*

*

Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ Thùy ở nhà. Thùy gọi Kiệt về. Kiệt chần chừ: về để làm gì? Làm gì ở đấy? Em nhìn chung quanh em xem? Sang với anh. Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể bỏ em; không phải anh chọn lý tưởng hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ chọn em, một mình em và đứa con sắp chào đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng kêu xốn xang của em sao?

Kiệt nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở về.

Ban đầu Kiệt làm việc tại An Hoà Nông Sơn. Sau đó Kiệt bỏ Sàigòn làm cho một công ty ngoại quốc và rồi bị gọi vô Thủ Đức. Từ ngày ấy, đã sáu năm, Thùy thế chỗ Kiệt ở sở cũng như ở nhà. Ra trường Thủ Đức, Kiệt về quân nhu, làm trong phòng thí nghiệm tại một kho dầu. Ở trong quân đội, Kiệt thấy mình hao mòn sa sút, vô công rồi nghề, Kiệt quyết định với sự đồng thuận và khuyến khích của Thùy xin một học bổng du học của quân đội. Chàng được thuyên chuyển lên quân trường đợi ngày đi. Nhưng năm ngoái, phút chót đến ngày làm thủ tục xuất ngoại, Kiệt đổi ý. Khi có lệnh biệt phái, Kiệt được Bộ Kinh Tế xin, bị nhà trường ngăn chặn, trừng phạt tội cãi lệnh khước từ du học.
Bây giờ Kiệt chỉ thấy con đường duy nhất của ngày về với gia đình: giải ngũ. Nhưng đến bao giờ?

“Bếp Lửa,” là từ biến động 1954 mà ra, và cùng với nó, là định nghĩa: Nhà văn là kẻ đến sau biến động.
MCNK, không.
Không ai có thể hiểu nổi, bằng cách nào, vào những ngày sôi động như thế, TTT đã hình dung ra được 1 kẻ bỏ chạy, thoát cuộc chiến, để rồi bò về, để chết, cái chết của tên sĩ quan Ngụy, bị chính đồng đội của mình, bắn chết, vì lầm là VC.

Kiệt đổi ý.

GCC cũng đã hơn 1 lần, đổi ý, như thế! 

Hà, hà!

Tưởng niệm 7 năm TTT mất

&

Joseph Brodsky @ Toronto Oct 1995 (1)

An interview with Joseph Brodsky

Bởi vì ông nhắc tới những nhà thơ lớn lao, tôi nghĩ có lẽ chúng ta xoay câu chuyện quanh đề tài này, và nhắc tới 1 nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ. Wystan Hugh Auden

Tuyệt! Rất tuyệt [Cười lớn]

Ông nhắc tới, trong bài “Ðể làm hài lòng một cái bóng”, “To Please a Shadow”, một trong những lý do ông học tiếng Anh, hay trở nên ngày càng quấn quít với nó, là để “thấy mình gần gụi với một người mà tôi nghĩ là một đầu óc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Wystan Hugh Auden". Và rồi ông bàn về những phẩm chất của ông ta. Những phẩm chất mà tôi đặc biệt thích thú của ông ta, là ‘equipoise’ và ‘wisdom’. Vai trò của Auden trong sự nghiệp của ông như là 1 thi sĩ, là gì?

Tôi sẽ trả lời câu hỏi này như tôi có thể. Ông ta đi vô tôi, enter, theo 1 nghĩa nào đó, ông ta đi vô cuộc đời của tôi. Thì cứ nói như vầy, chúng ta đang nói chuyện, ở đây, tôi đang ngồi đây, và tôi cảm thấy ông ta là một phần của tôi… Khi tôi gặp ông ta 22 năm trước đây, tôi 32 tuổi, và ông ta chỉ còn sống được 1 năm nữa…

Cũng trong cùng bài essay, ông nói về sự quan trọng đối với mọi độc giả là có ít nhất 1 nhà thơ để mà lận lưng.  Với ông, hẳn là Auden. Nhưng ngoài Auden ra, liệu Eugenio Montale có xứng đáng…

Xứng đáng quá đi chứ. Tôi nghĩ phải thêm vô Thomas Hardy, Robert Frost… Tôi thấy mình gần Frost hơn so với Auden. Bạn có nhớ không Lionel Trilling đã từng gọi Frost là 1 nhà thơ khủng khiếp. Còn Eliot.... Bishop, bà này Canada chính gốc. Trong số ngoại nhân, làm sao bỏ qua Milosz. Wislawa Szymborska mà không bảnh sao, a wonderful lady…

... Ông ta [the emcee, Brodsky] bắt đầu nói về những tin tức mới nhất về cuộc đời tình ái của Princees Diana, và hỏi: “ Có ai chưa ngủ với công nương?"
Tôi [Solecki] liền giơ tay, câu trả lời của Brodsky thì mới thú vị, và bay bướm. Mặt ông ửng đỏ, và ông bật ra, bằng thứ tiếng Anh sặc mùi Nga:

"Ðừng bao giờ quên, bướm của em là bướm vương giả, còn chim của bạn thì không!”

*

Số Brick, Nhật ký văn học, đặc sản Toronto, cây nhà lá vườn, tình cờ Gấu cầm nó lên ở tiệm sách, và ngỡ ngàng khám phá ra cả 1 lô bài viết thật là tuyệt vời, đa số về thơ. Chưa kể bài viết về Trăm Năm Cô Ðơn của Garcia Marquez, của 1 tay đồng hương với tác giả, phải nói cực ác, và vấn nạn mà nó nêu ra: Làm sao những xứ sở Mỹ Châu La Tinh tiếp tục viết, dưới cái bóng khổng lồ, ma quỷ của Trăm Năm Cô Ðơn?

[Ui chao, Gấu lại nhớ đến Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh: Có vẻ cái vía của nó khủng quá, khiến đám nhà văn VC, kể cả Bảo Ninh, như bị teo chim, hết còn viết được nữa!]

Bài phỏng vấn Brodsky cũng quá tuyệt, trong có 1 nhận xét của ông về thơ tự do, thần sầu. Cuộc phỏng vấn xẩy ra 1 năm sau khi Gấu tới định cư Toronto, Canada, cũng là 1 chi tiết thú vị. Hai bài về nhà thơ Vat cũng thần sầu, 1 ông kể kinh nghiệm lần đầu làm thơ, khi còn là 1 đứa con nít, và cũng là 1 lần tiên khám phá ra 1 cái nơi mà người ta gọi là nhà tù. Về già, ông vưỡn cứ làm thơ, bất chấp người ta nói: Già như mi cớ sao làm thơ?

Gấu về già mới có được cái thú làm thơ, dịch thơ, thành thử rất tâm đắc với câu trên:
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

**

Thấy cái hình cuốn sách dịch sắp/mới ra lò, và bài viết trên FB NL, bèn bệ về, và lèm bèm thêm. (1)

Cái tít tiếng Việt, perdu, lạc lối, thú thực, đếch đúng, ít ra là với những người như GCC. Mất mẹ nó rồi, mới đúng. Như cả Miền Nam [đừng lái qua chính trị hèn mọn nhe, không thì hỏng hết].
Trong cuốn Bảng tổng kết đầu sau Tận Thế, Premier bilan après l'Apocalypse, Frédéric Beigbeder có đi 1 đường về cuốn “Un pedigree” (2005) của tay này- xếp hạng 50, trong 100 cuốn - ngắn thôi, nhưng tuyệt lắm.
Ông viết, đã từ lâu tôi tin là Patrick Modiano luôn luôn viết cùng 1 cuốn sách, le même livre; thực sự, ông chỉ viết có mỗi 1 cuốn; en réalité il n’en écrivait qu’un seul…. Modiano, chính là 1 Proust buồn, laconique.

Ui chao, đọc, thì lại nghĩ tay này viết về Gấu Nhà Văn, chán thế!

Và cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất lấy quán cà phê làm bối cảnh hẳn là “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối” của Patrick Modiano, sắp được xuất bản tại Việt Nam.
Blog NL

Tếu thật, Gấu mua cuốn trên, là cũng tính làm"chim mồi", nhằm làm sống lại cái quán ngày xưa hay ngồi với BHD mỗi buổi sáng trên đường chở em tới trường.

Gấu đã từng viết về cái quán này, thời gian làm cho ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, và còn chủ trương tờ Mây Hồng, giao cho Từ Kế Tường trông coi. Gấu bèn đóng góp bài vở, và cái bài Gấu viết, là về cái quán xưa, cái gì gì, “như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn đánh dấu vào mạn thuyền, nơi cây gươm rớt xuống, chàng trở lại quán xưa, tìm dư âm ngày tháng cũ, dấu hài của BHD trên ngọn cỏ mờ sương…”, ái chà chà, vãi linh hồn quá sá… Ông Nhàn đọc, kêu Gấu tới, lắc đầu, báo thiếu nhi mà sao anh đi bài này!

Cái bài viết ngắn đó, Gấu lôi ra viết lại, và cho đăng trên Tập San Văn Chương, khi quen Joseph Huỳnh Văn, và Nguyễn Tử Lộc, và vì cả hai mà Gấu nhận lời viết cho tờ báo này, dù cả đám đều là bạn quí của Gấu ngày nào cả!
Gấu nhớ là Nguyễn Tử Lộc mê quá; anh gật gù, làm chủ, maitrise, chữ của NTL, ngòi viết được đến như thế, thì cực là bảnh.

Nguyên con cái tít, là 1 câu được tác giả dùng làm đề từ, và theo như câu này, thì "perdue", không thể dịch là “lạc lối”, mà là, “mất mẹ nó rồi”, như cái quán ngày nào của Gấu, thuộc về 1 tuổi trẻ đếch còn, như Sài Gòn cũng đếch còn:

À la moitié du chemin de la vraie vie, nous étions environnés d'une sombre mélancolie, qu'on exprimé tant de mots railleurs et tristes, dans le café de la jeunesse perdue
Guy Debord

[Tạm dịch: Ở cái đoạn nửa đời người, chúng ta bị bao quanh bởi 1 thứ buồn buồn ảm đạm, và bèn diễn tả nó, bằng vô số là từ, tếu và buồn, ở quán cà phê tuổi trẻ đã mất]

Note: Đọc lại, thì Gấu hiểu ra, cái từ "lạc lối", tương tự "Lạc Đường" của Đào Hiếu, và có thể đây là lý do Modiano trích câu của 1 ông Mác Xịt làm đề từ cuốn truyện của ông về 1 thời cà phê cũng buồn, như tuổi trẻ vậy:

Ôi tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bày

Thơ TTT, nhớ đại khái, trong Liên Đêm, hình như vậy (2)


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Malcolm Pryce's top 10 expatriate tales

Michael Caine in The Quiet American.

Michael Caine as Fowler in The Quiet American. Photograph: PR
Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
Ostensibly it is about the eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the 50s. But what lingers is the relationship between the world-weary newspaper correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly skewers the superfluity of western notions of love that invariably inform such situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.
Cuốn Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.
Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của tay này mới thật là đểu: Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency. [Bên dưới cuộc tình thơ mộng là sự tính toán của bà chị, lợi dụng nhan sắc cô em để đảm bảo cuộc sống gia đình].

Nhưng mà đúng y chang!
*

Trong 10 tác phẩm về những kẻ xa xứ, có.... "Tứ Tấu Khúc về Sài Gòn và BHD" của Gấu, nhưng than ôi, Malcolm Pryce “chọn lầm” là Tứ Tấu Khúc về thành phố Alexandria, tức là nguồn của nó:

3. The Alexandria Quartet by Lawrence Durrell

After reading this many years ago I vowed never to visit the city. How could it possibly live up to its fictional portrayal? An unnamed English teacher on a Greek island looks back on his sojourn in Alexandria between the wars. He considers the intertwined fates of the people he met there; they are numerous, but the real protagonist is the city herself, exquisitely presented in all her shifting moods and lemon-tinged light. Some tastes might find the relentlessly extended languor a touch too much, in which case John Crace's satirical digested read [http://www.guardian.co.uk/books/2008/nov/29/digested-classics-justine-lawrence-durrell] of the first book, Justine, is a perfect antidote.

Những dòng tay này viết về “Tứ Tấu Khúc Alexandria”, và chọn Justine, tuyệt nhất, đúng như Gấu phán, thú thế.

Bạn không  tin ư?  Hãy đọc, “Sài Gòn nghĩa là gì?”

GCC tự hỏi, làm sao mà ông lại bỏ quên Paris của "thế hệ bỏ đi"?

Không quên, nhưng thay vì "Mặt Trời Vẫn Mọc" thì anh ta chọn "Paris là 1 ngày hội", trong khi tờ Obs chọn đúng cuốn Gấu dịch.

*


5/1/09

Họ bắn vào hòa bình, chúng tôi bắn vào hòa bình

Về Bảo Ninh, nếu muốn phản đối việc người ta cứ nói là cả đời ông ấy chỉ có mỗi Nỗi buồn chiến tranh, thì có thể nêu tên truyện ngắn "Gió dại". Nhưng nếu bảo ngoài hai cái đó nữa còn có gì, thì thực sự là khó. Bảo Ninh còn cả loạt truyện ngắn đặc sắc, nhiều truyện rất hay, như truyện về Hà Nội hồi những năm trước 1975 có "Người anh hùng thời đại" để ria theo lối chất nghệ (tên Vinh hay sao?), hay gần đây hơn là "Bội phản". Thỉnh thoảng viết bút ký cũng rất giỏi, chẳng hạn như gần đây nhất là "Đêm cuối cùng ngày đầu tiên". Nhưng cái hay của những cái ấy là cái hay bình thường. Đặc biệt thì chỉ có Nỗi buồn chiến tranh và "Gió dại".

"Gió dại" trên Internet: đọc tại đây, bản dịch tiếng Anh của Phan Huy Đường và Nina McPherson ở đây.

Thời gian của truyện là giai đoạn ngay trước 30/4/1975. Ẩn dụ "gió dại" ngay lập tức cho thấy tính chất vô nghĩa, nhỏ nhoi, thảm hại của con người, và của cái chết, trong một cuộc chiến tranh như cuộc chiến tranh Việt Nam. Cái nhìn của người kể chuyện đặt ở bên phía bộ đội, lúc đó đóng quân tại một vùng vừa chiếm được, một vùng theo đạo có ông cha cố, và nhất là có một cô ca sĩ vì loạn lạc mà bị kẹt lại và sống luôn ở đây, đêm đến vẫn thường tiếp khách đàn ông, đều là bộ đội.
Chuyện tình duyên giữa Diệu Nương cô ca sĩ và anh lính phụ tá anh nuôi nhanh chóng trở thành một thảm kịch. Thảm kịch này giống như là một tiếng thở dài, rất dài - sở trường của văn Bảo Ninh. Văn của Bảo Ninh phải đi theo từng hơi một, cay đắng, buồn bã, không thể vui được, và những trường hợp tác phẩm khác không được thành công lắm có lẽ là bởi vì cái hơi này không đủ dài.

Và đặc biệt là "Gió dại" có một câu kết không thể nào quên: "Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hòa bình, vậy mà hòa bình vẫn đến." Nghe nói câu văn này một thời đã gây sóng gió (truyện này hình như được viết cuối những năm 1990), thậm chí một thời gian đã bị cắt khỏi truyện, như một hình thức kiểm duyệt. "Những người báo trước hòa bình" là cô ca sĩ Diệu Nương và người tình bộ đội của mình trên đường chạy trốn, khi bị bắt gặp họ xin được tha mạng vì "chẳng làm hại gì cả", "không chống lại ai", nhưng các đồng đội của anh lính (trong đó có "tôi", người cũng đã từng nhiều lần ngủ với Diệu Nương) đã xả súng qua đám cây. Sau khi bắn xong rồi họ mới nhìn thấy xác hai con người kia, quấn chặt vào nhau.

Bây giờ cứ mỗi dịp 30/4 xem người ta kỷ niệm hào hùng mà thấy mệt. Phần lớn khăng khăng tô màu đỏ màu hồng rộn ràng cho một cuộc chiến đáng tởm. Một số khác tìm cách chứng minh rằng tất cả đều rất tởm, nhưng chúng tôi ít tởm hơn, và một số khác nữa: tất cả đều rất tởm, nhưng chúng nó tởm hơn chúng tôi.

Blog Nhị Linh.

Note: Bài này tuyệt quá, tình cờ mò ra được. Post lại, gửi bạn quí, họa sĩ NTK, và những ngày ở nhà in của linh mục Cao Văn Luận, cũng trên đường NBK, gần nhà Gấu, làm tờ Mây Hồng, dịch sách cho ông Nhàn, nhà xb Vàng Son.


Bảo Ninh by Việt Chiến

Có lẽ phải đến hơn 3 tháng sau khi được trả lại tự do, tôi mới gặp lại nhà văn Bảo Ninh, bạn đồng niên 1952 thân thuộc và đã cùng nhau một thời quân ngũ gian lao. Hẹn gặp nhau ở quán “cũ” cuối phố Phan Đình Phùng (Hà Nội), Bảo Ninh nhắn “Tôi mang một chai rượu chivas ngon đến, các ông chờ tôi…”. Tôi cùng 2 nhà thơ Nguyễn Bình Phương và Trần Anh Thái ngồi chờ. Một lúc sau, Bảo Ninh đi taxi đến, tay ôm khư khư chai rượu ngoại. Tóc anh bạc hết cả rồi mà cuốn tiểu thuyết mới vẫn chưa viết xong (sau “Nỗi buồn chiến tranh” không hiểu anh viết về “nỗi buồn” gì đây?).
Có người nói như đinh đóng cột, dạo này Bảo Ninh “kiêng rượu để viết chuyện” nên không hay la cà với bạn bè. Hôm nay, anh lại cho phép mình uống rượu chắc vì sự có mặt của tôi chăng? Hình như thế mà không phải thế. Vì nhìn cách Bảo Ninh nhấm nháp rượu mạnh một cách sành sỏi như một người Tây uống rượu Scot (cứ phải “lim dim” nhẩn nha ngửi ngắm khá kỹ trước khi nhấp môi) là đủ hiểu anh ngày nào cũng phải uống cũng như ngày nào cũng phải viết chục trang tiểu thuyết, phải không Bảo Ninh?


Đọc, nhớ lần gặp thứ nhì Bảo Ninh, khi về Hà Nội lần thứ hai. Cũng có chai rượu ngoại, cũng lời giới thiệu, “Tôi có chai Chiva này…”, đại khái như vậy, nhưng Gấu, dân nhà nghề, vừa ngó chai, nói liền, vẫn chai lần gặp trước, năm trước, chắc là hết mùi rượu rồi, khiến NVH vừa cầm lên, hoảng quá, bèn đặt chai trở lại chỗ cũ.

NVH mới là tay uống rượu cừ, theo lời giới thiệu của NHT. Gấu chưa từng uống lần nào với anh, nhưng đụng trận với NTS thì khá nhiều.

Nghe nói “Em của Gấu”, nữ thi sĩ, cũng thuộc loại có hạng, Gấu cũng chưa có hân hạnh hầu rượu, và ba thứ linh tinh khác!

Gấu biết NVH tay hảo hán trong làng rượu, là do NHT, lần Gấu mời ông, nhưng ông lắc đầu, và hẹn sẽ đưa thằng em ra để thay mặt ông anh, chấp nhận cuộc thách đấu.

Kỷ niệm trận rượu thần sầu quỉ khốc của Gấu, với tay NTS, là ở một cái hầm, nơi có đủ thứ ăn chơi của Hà Nội, chắc thế, nhưng Gấu, do chỉ lo nốc, thành ra chẳng để ý gì đến những mặt khác.

Gần như bò ra khỏi hầm, và khi sắp lên xe, tay chủ quán chạy ra, gửi lại ông anh cái hộp đựng thuốc lào mặt hổ phù Vang Bóng Một Thời, ấy chết xin lỗi, ba thứ lẩm cẩm Gấu bỏ quên, trong có cái camera, "cây gậy thần", như ông cậu Toàn của Gấu đặt tên cho nó, trong lần trở về thăm lại làng Vân Xa, thăm lại dinh cơ của ông Bá Quán, tức ông ngoại của Gấu.


Một lần tôi vào xóm chơi bời, đi theo một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ, hôi hám, chật hẹp. Ngọn đèn dầu le lói chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi quay lại nhìn, cô gái nằm trên giường, thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới tôi. Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.

Những Con Dã Tràng

Bà cụ C. khi đọc Những Con Dã Tràng, truyện ngắn đầu tay của Gấu, được ông anh nhà thơ khen um lên, bèn lắc đầu, thằng này bịnh, chắc là cụ muốn nói đến cái đoạn trên. Tuy nhiên một anh bạn phán, khủng khiếp nhất, sex nhất, là cái xen đánh đu:

Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười giòn, nhẹ và ấm vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong gió có những con vật bé li ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát.

Sau này, Gấu đọc Steps, của Jerzy Kosinki, có 1 truyện, trong có đoạn, y chang đoạn trên, nhưng bịnh hơn nhiều, tuyệt hơn nhiều. Cảnh cái đu tới, rồi lui, rồi lui, rồi tới, được tái tạo, qua 1 tấm gương.

GCC hăm he hoài với chính mình, phải chôm, giới thiệu với độc giả TV. Cái đoạn này còn làm GCC nhớ đến 1 ông bạn trong Thất Hiền, là Phạm Năng Cẩn, có người yêu là cô Phượng, hình như vậy. Cô này, bạn học cùng lớp, thường đóng học phí giùm cho bạn Cẩn, GCC kể đâu đó rồi. Trước khi cô lấy chồng, hẹn gặp bạn Cẩn ở 1 phòng khách sạn. Bạn Cẩn mừng quá, sướng run lên, và khi gặp, cô ra lệnh, anh quay mặt đi, khi nào tôi cho phép thì hãy quay lại. Và khi Cẩn quay lại, thì nhìn thấy cặp oản trắng nõn của cô qua tấm gương trong phòng.

Tuyệt, nhỉ! (1)

*

GCC đọc Steps, qua bản tiếng Tây, Les Pas, Những Bước Chân, khi còn nhà sách Xuân Thu, còn Sài Gòn. Cuốn khủng khiếp của ông, là The Painted Bird, GCC cũng đọc, qua bản tiếng Tây, dịch là Con Chim Sặc Sỡ, L'oiseau Bariolé. Trên TV cũng đã giới thiệu Jerzy Kosinski. Ông sau tự tử.


(1)

GCC biết đến Jerzy Kosiński rất sớm từ những ngày còn Sài Gòn, khi cuốn sách của ông nổi đình nổi đám, và được tờ Văn nhắc tới, và dịch cái tít theo bản tiếng Tây là Loài Chim Dị Chủng, L'Oiseau bariolé, và liền sau đó, nghĩa là, liền sau khi cày thêm 1 job cho UPI, Gấu bèn ghé Xuân Thu tậu 1 cuốn của ông, cũng thật là bảnh, Les Pas, bản tiếng Tây của Steps.

Đúng là thần sầu.

Thần sầu hơn nữa, là, 1 cái truyện ở trong đó, rất giống trường hợp đã xẩy ra với bạn Phạm Năng Cẩn, 1 trong Thất Hiền của Gấu.
Bạn còn nhớ ông bạn Cẩn này, hồi đi học, sống nhờ ông anh, có bà chị dâu tàn khốc, và do đó, thường là quên đóng học phí, và được 1 em học cùng lớp thương, cứ nhét tiền vào trong vở bạn Cẩn, trả học phí giùm.
Sau em đi lấy chồng, và trước khi đi lấy chồng hẹn gặp bạn Cẩn ở.... khách sạn.
Ui chao bạn Cẩn tới, sợ run, mừng run, và em ra lệnh, anh quay mặt đi chỗ khác.
Cẩn không chỉ quay mặt đi chỗ khác, mà còn nhắm kín cả hai mắt. Khi em ra lệnh, quay mặt lại, và mở mắt ra, thì Cẩn nhìn thấy cái lưng trần của em và hai trái táo bự ơi là bự, ở trong gương!
Cẩn chỉ được hưởng hương, hưởng hoa, trước khi em đi lấy chồng.
Trong Les Pas có 1 truyện tương tự, nhưng khủng hơn nhiều, bịnh hơn nhiều, chứ không thanh cao, trong trắng như trong trường hợp của bạn Cẩn.

Gấu Cà Chớn cũng gặp 1 trường hợp tương tự bạn Cẩn. Trước khi lấy Gấu Cái, cũng 1 em đến gặp, tự động phơi hến ra, như cái em trong bài thơ của Sebald, cho anh đấy, hàng "zin", anh nhìn hai cái núm vú đỏ hỏn của em thì biết, nhưng chỉ với điều kiện, phải lấy em, phải bỏ cái cô có bầu với anh.
Gấu không thể bỏ Gấu Cái, thế là đành lắc đầu, dù rất thèm!

Hà, hà!

Cô này, lần Gấu về lại Sài Gòn, gặp lại. Có chồng, nhưng bỏ nhau đã nhiều năm, 1 mình lo cho đàn con. Gấu rủ đi chơi, OK, nhưng tới khi đề nghị kiếm… khách sạn thì cô lắc đầu, ngày trước, còn zin, cho không anh, anh chê, bây giờ nát bấy như quê hương mỗi người chỉ có một, có đáng gì nữa, nhưng chỉ sợ anh già rồi, chẳng làm gì được, hến của tôi lại thẹn thêm một lần nữa.

Dã man thật.

Mà có thể thế thật!

*

Cả hai cuốn đều tuyệt cú mèo. Gấu nhớ, hồi đó đó, đọc tờ Paris Match, kể về Kosinski, học tiếng Anh bằng cách gọi cho mấy cô ở Tổng Đài, và, cùng lúc, viết tiểu thuyết bằng tiếng Anh.
Sau vỡ ra là ông phịa.
Cuốn tiểu thuyết khủng khiếp số 1 của ông, cũng là phịa, trong khi ông cứ khăng khăng chuyện thực.
Và sau tự tử để chứng minh, nó là thực.
Vưỡn chẳng ai tin.
Ngu thế. Giả mới bảnh chứ thực thì…. chán chết.
Gấu coi sách, coi phim, mà thấy câu 'dựa trên chuyện thực' là vứt vô thùng rác.


.**

Un « écrit non écrit », l'ombre de l'inconscient

Si Duras a toujours revendiqué son indépendance face à la psychanalyse, elle peut décrire le processus d'écriture en des termes évoquant les pensées freudienne ou lacanienne.
Par Florence de Chalonge

Viết như không viết.

Khi sử dụng cụm từ này, để miêu tả cách viết của Thảo Trần, qua cảm nhận của Thảo Trường và Nhật Tiến, khi đọc Nơi Dòng Sông Chảy Về Phía Nam; một vị độc giả của TV còn khen TT viết tự nhiên hơn Cô Tư, và Tara của TT mới đúng là Tara, của Cô Tư có mùi Cách Mạng, [nhân tiện đây, xin cám ơn], GCC không nghĩ là lại có người chôm của Gấu, để gọi cách viết của em Đầm thực dân đã từng sống ở Sa Đéc.
Nhưng với Florence de Chalonge, tác giả bài viết, "viết không viết" của Duras là viết dưới bóng của vô thức. Còn với TT, là sự tự nhiên của đời sống thực chuyển vào ngòi viết.
Khác nhau.

*

Ngày, tháng, năm

Má,

Má, xin má hãy tha thứ cho con. Khi còn nhỏ dại con đã nhiều lần xúc phạm đến má. Tuổi trẻ vô tri tàn nhẫn, thậm chí con còn trả lời bạn bè: tao mồ côi cả cha lẫn mẹ, bà đó khùng, tao đâu phải con bà. Con còn làm nhiều điều đại nghịch, bất hiếu bất nghĩa với má mà giờ đây mỗi khi nghĩ lại con đau khổ vô cùng.

Ngay từ khi bắt đầu bước chân ra đời, con đã nhận ra ngay lầm lỗi của con đối với má, nhưng bản tánh ngoan cố con đã ngụy biện đổ thừa cho hoàn cảnh này, hoàn cảnh nọ. Điều con nhận ra trước hết là khi sanh con ra, má mới 21 tuổi đời, chồng thì chết, nhà ngoại lại nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát, Tây ruồng bố mỗi ngày lại thêm bọn cường hào ác bá dựa hơi tác oai tác phúc, mà má lại trẻ đẹp thì làm sao có thể ở vậy nuôi con. Lầm lỗi thứ hai của con là oán trách má đã không nhìn nhận con khi ngoại dẫn con đi thăm má sau 12 năm con sống với ba má nuôi, với người dưng nước lã, dù ba má nuôi con rất thương yêu con, nhưng những kẻ ác mồm ác miệng họ gọi con là đồ trôi sông lạc chợ. Lúc đó mọi chuyện đã an bài. Má không thể nhìn con để bỗng chốc đổ vỡ cái hạnh phúc mong manh của má và của mấy đứa em cùng mẹ khác cha với con. Lúc đó con nghĩ là má hạnh phúc trong cảnh nhà cao cửa rộng, lắm bạc nhiều tiền nên đã không ngó ngàng gì đến đứa con côi cút mà chính mình đã rứt ruột đẻ ra rồi bỏ rơi nó từ khi hai tuổi. Con nào hiểu được là ngoại đã đưa con đi thăm má không đúng lúc, ngoại cũng đâu biết gì, thấy con vừa thi đậu trung học đệ nhứt cấp, ngoại mừng quá nên muốn chia sẻ với má.

Người chồng sau của má, con trai thừa tự của một gia đình thế gia vọng tộc, đã có một người đàn bà khác, và sẵn sàng kiếm cớ để bỏ má. Vì phải bảo vệ quyền lợi của mấy đứa con, nên má đã ngậm đắng cay sống nhịn nhục, khổ đau và buộc lòng từ chối không nhìn nhận đứa con tội nghiệp mà mình đã bỏ nó hơn 12 năm trời.

Khi má ly dị xong xuôi, được hưởng phân nửa gia tài, lúc này má mới yên lòng và tìm cách đi thăm con, con còn nhớ năm đó con đã học xong trung học và đang học sư phạm, con đã từ chối không gặp má, không nhận bất cứ thứ gì má mua cho con dù con rất cần, vì ba má nuôi con nghèo, không thể cho con đủ những thứ cần thiết, mà một thiếu nữ ở tuổi con thời đó cần, con không thể quên được lần cuối cùng má đến trường thăm, con đã giận dữ đuổi má ra khỏi cổng trường, ném theo sau quà bánh vật dụng mà má đã mang cho con. Má bước đi chan hòa nước mắt, con đã làm cho má hết sức bẽ bàng với bạn bè con…  Má ơi mỗi lần nhớ đến đoạn này là con nghe tim mình đau buốt.

Ngày cưới con má cũng không về, năm đó nước lụt ngập tràn quốc lộ, phải rước dâu bằng thuyền, con sắp bước vào cuộc đời làm vợ, làm mẹ mà không hề nghe được một lời dặn dò thân thiết nào của ngay chính người đã sanh đẻ ra mình. Sau này con mới biết là ba má nuôi con không cho má hay, khi má hay thì con đã theo chồng. Ba má nuôi con đã yêu thương con như ruột thịt đã nuôi nấng cho con ăn học nên người, họ cũng không muốn mất con và cũng có nói xấu má, những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức con, rồi khi lớn lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho con hợm mình và tưởng đâu chính mình mới là người có quyền tha thứ cho đấng sanh thành.

&*

"Đập Ngăn Thái Bình Dương" được coi là tuyệt tác thế giới (Obs). GCC cũng chỉ mê có cuốn này của Duras. Vấn đề là, liệu có 1 sợi chỉ Adriane, nối kết Duras, với một Cô Tư, một Thảo Trần, một…. Mai Ninh?  TT viết, “nơi dòng sông chảy về phía Nam”, Duras thú nhận, "Quê hương tôi là một xứ nước, Mon pays, c’est une patrie d’eau". Cô Tư thì khỏi nói, văn của cô là cả 1 miền sông nước.

Nguyễn Ngọc Tư và Mai Ninh

&

Woolf vs Duras
abt Death

Note: Woolf, GCC cực mê. Còn Duras, chỉ mê “Đập ngăn TBD”.
Tuy nhiên Duras Sadec làm nhớ tới Cô Tư Camau.
Và "bấn loạn [vấn nạn]", liệu hai nữ văn sĩ này đều là đặc sản Nam Bộ, hoặc, có gì mắc mớ?

Một bà là sex và chế độ thực dân thuộc địa.
Một bà là “Cánh đồng bất tận”, bướm nhiều hơn muỗi rừng U Minh!

*

Đây là 1 khiá cạnh khác nữa, của "vấn nạn" “Oẳn Tà Roằn": Sắc dân và Sex, vào cái thời còn mẫu quốc.

*

Cắm Faulkner vô 1 vùng đất, Miền Nam Sâu Thẳm, thì không có nghĩa giản trừ, hoặc khoanh vùng - theo kiểu của 1 tên ngu  khi gọi NNT là "đặc sản Nam Bộ", thí dụ. Ngược hẳn lại... kẻ sáng tạo khủng khiếp những huyền thoại, được chuyển  động, múa may quay cuồng, từ luồng hơi thở sử thi, tác giả “Giáo Đường” - với NNT là “Cánh Đồng Bất Tận”, theo GCC, chẳng thua gì "Giáo Đường" - đã biến nó thành 1 vũ trụ tâm thần.

"Nghệ sĩ là kẻ sáng tạo bị kiềm chế bởi những con quỉ của người đó", Faulkner phán, trước khi chết ít lâu.
"Nghệ thuật thì đếch mắc mớ gì tới hài lòng, bình an".


+ Đọc blog của Nguyễn Quang Lập (cái này chắc ai cũng biết rồi chẳng cần quảng cáo thêm): ngày xưa tôi đọc Những mảnh đời đen trắng thấy chán, xem mấy cái phim thấy sến, giờ đọc kiểu viết blog thấy nhiều cái hay, đầy tài năng, nhưng là tài năng của cái nhìn phía dưới đầu gối, thỉnh thoảng cũng nâng lên trên, cách được khoảng hai gang tay.

Nhị Linh's Blog.

Đọc NQL mà hiểu như vậy, thì hơi khí nặng tay với tác giả.

Phải đọc, như những truyền kỳ, về một thế giới hồ ma của Liêu Trai, hay như những "cửa sổ" nhìn ra thế giới bên ngoài, như cách Kundera đọc Kafka, trong Những di chúc bị phản bội, hay đọc song song với "Ba thằng lăng nhăng" của Tô Hoài...

Biến thái của nó, sau 30 Tháng Tư, là dòng văn Bóng Đè, dòng thơ Mở Miệng, dòng thơ đóng đinh thập tự của Nguyễn Viện...
Đây cũng là cách Mishra đọc Ma Jian, Tiananmen's wake, coi sexual love là antidote chống lại sự kiểm soát của Đảng!

(1) Nên nhớ NQL là thuộc thế hệ Chống Mỹ Cứu Nước, khác hẳn thế hệ... Nhị Linh. Thay vì chọn cách viết của mấy ông kia, hay những ông như Đào Hiếu, Lữ Phương, ông chọn cách viết "truyền kỳ".
Cũng là một cách nhìn lại thời của ông! (1)

(1)
Không có đời mình trong đó, nhưng đọc thấy đời mình, đời bạn bè mình, thấy lại trước mắt năm tháng đã qua, những năm tháng hiện hữu trong các câu chuyện và cả ở khoảng trống giữa các câu chuyện. Thời thơ ấu, tuổi học trò, mối tình đầu, tang thương chiến tranh, đời văn, quê nhà và tha hương lang bạt. Trần Vàng Sao. Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoàn Anh Thắng. Phùng Quán. Bạn bè ở Huế…", Bảo Ninh bày tỏ.

Ai điếu cha đẻ AK-47

*

Nghệ sĩ Tây dưới thời bị trị.

Số này còn 1 bài về khẩu AK-47, dịch từ tờ Ðiểm Sách Luân Ðôn, rất thú vị. Tuy nhiên, bài viết không nói tới sự khủng khiếp của tiếng súng AK-47. Bài ai điếu trên The Economist cũng không, thành ra Gấu tin rằng, người viết bài chưa từng sống cái kinh nghiệm khủng khiếp, khi nghe tiếng ùng ục của AK 47! bạn nghe tiếng ùng ục của AK 47, và không thể nào suy đoán ra được, nó từ phía nào vọng tới bạn. Khác hẳn tiếng M16.

Người dân Sài Gòn những ngày Mậu Thân đã từng được hưởng kinh nghiệm này, và GNV từng lèm bèm về nó, và tin rằng, thứ âm thanh quay vòng tròn, surrounded, là được mặc khải từ tiếng AK.



*

Sài gòn, lần đầu

Lần chạy trốn quê hương, rời bỏ Sài Gòn, ngồi trên xe, nhìn ngoái lại, tôi có cảm tưởng, mọi nhà, mọi người đang tiễn tôi bằng câu hát đứa em trai vẫn thường nghêu ngao một mình, trước khi bỏ đi luôn.

Đồn anh đóng bên rừng mai
Nếu mai không nở anh đâu biết xuân về hay chưa.

Tôi không thể ngờ câu hát là dấu báo của tai ương, không chỉ của đứa em trai, mà còn của biết bao con người.
Tôi không biết, trên trái đất, ngoài quê hương, có nơi nào, Mai nở mỗi khi Xuân về, và, tuy Mai vẫn nở trên quê hương, nhưng Xuân vẫn tàn trên những nấm mồ mà chúng ta đành bỏ lại.
Đó là lần cuối nhìn lại Sài Gòn.
*

Lần đầu chú bé di cư vừa mới mất Hà Nội, ngu ngơ, rụt rè làm quen phố phường, con người Sài Gòn, qua tấm bản đồ cầm trên tay. Khi đó lực lượng Bình Xuyên còn đang làm chủ thành phố. Tin theo bản đồ, chú bé băng qua một con lộ, không ngờ khu đó là một đồn binh. Người lính gác bắt thằng nhỏ đứng suốt buổi, lâu lâu, buồn buồn, lên cò súng lách cách, tao bắn bỏ mày.
Lần khác, là một buổi sáng lang thang trên con phố Bonnard, gần chợ Bến Thành, nhìn thấy một người đàn ông đánh đập thật dã man một người đàn bà, không quên bài học công dân giáo dục, hôm sau là ngày đi thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, chú băng qua đường, chạy vô bót Lê Văn Ken, ngay kế bên nhà thương Đô Thành, níu áo một ông cảnh sát. Bị ăn bạt tai, bị sỉ vả, chú bé khăng khăng đọc cho hết bài học Công Dân giáo dục thuộc nằm lòng, ông cảnh sát điên tiết, xách tai thằng bé Bắc Kỳ di cư buớng bỉnh, kéo xềnh xệch, từ đường Bonnard qua bùng bình Chợ Sài Gòn, tới nhà giam Quận Nhất, nằm phía sau rạp Đại Nam, đường Trần Hưng Đạo, khu Cầu Ông Lãnh. Khóc lóc, năn nỉ tới gần nửa đêm, ông cai ngục thương tình thả ra, cho kịp ngày mai đi thi!
*

Như thế, lần đầu, là một đứa bé Bắc Kỳ mồ côi bố, mồ côi quê hương, được thành phố miễn cưỡng chấp nhận.
Lần cuối, một đứa con bị bà mẹ đứt ruột đuổi đi, vì không muốn nó cùng cùng chết theo với mình.
*

Gấu quen Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, “Ba bù long, Babulong,” và đám bạn Miền Nam, qua ông anh của Bông Hồng Đen, khi ông học Văn Khoa cùng với HPA.
Khi đó, Gấu, tuy ghi danh, nhưng ít khi tới đại học, vì còn bận làm công chức Bưu Điện.
Để kỷ niệm buổi sơ ngộ, chúng tôi rủ nhau lên xóm. Khi cả bọn lần lượt đi vô những căn phòng ở phía bên trong, bà chủ hỏi Gấu, cậu có ‘đi’ không? Gấu ngớ người, lắc đầu, chẳng hiểu ‘đi’ nghĩa là gì.
*

Sau thì quá quen.
Nhà Gấu lúc đó ở một con hẻm thuộc đường Nguyễn Huỳnh Đức, phiá sau Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Buổi chiều đi làm về, đạp xe đạp, từ số 11 Phan Đình Phùng, qua khu Tân Định, qua cây cầu Phú Nhuận, qua đường Nguyễn Huỳnh Đức, không quẹo vô, về nhà, mà cứ thế đạp thẳng lên ngã tư, tới xóm, gần nhà thương Cộng Hòa.
Có khi, đi, xong, là về, có khi ngủ luôn tại xóm. Sáng hôm sau, tạt về nhà, đánh răng, rửa mặt, thay quần áo, rồi vội vã đi làm.
Những buổi chiều, tan sở, tới xóm, mấy đứa trẻ vừa thấy bóng, là tranh nhau ra dắt xe. “Ba dzề, Ba dzề!”
*

Anh cu Gấu Bắc Kỳ di cư chẳng hề nhìn thấy cảnh tượng con người ta yêu nhau như thế nào, cho đến khi được một em bướm dậy cho.
Cái lần đầu tiên, nhìn ông bếp già, làm cho ông Tây Trẻ, “đi” một em bên ngoài hành lang, nơi căn nhà villa ở đường Nguyễn Du, trời tối đen, Gấu chẳng nhìn thấy gì, mà còn bị bà cô tát mấy cái nổ đom đóm mắt.
Gấu đã kể chuyện này, trong Hà Nội Của Gấu.
*

Mới đây, đọc blog của một em bướm người Anh, mở ra bằng cái câu, tôi mở hai cánh đùi ra, và rồi khép nó lại, nghề của tôi giản dị chỉ có thế, Gấu bồi hồi nhớ lại lần đầu được em bướm mắng bảo, sao ngu thế, phải làm như thế này này, và cùng lúc nhớ lại, hai nghi lễ thiêng liêng, một của dân da đỏ Mỹ Châu, và một của Khổng Học.
Nghi lễ thứ nhất, khi một đứa con trai da đỏ tới tuổi, bộ lạc đem nó đến giao cho một em bướm, dậy cách làm người lớn.
Với Khổng Học, là nghi lễ đội mũ.

Gấu này thiển nghĩ, hai nghi lễ đó đều quan trọng như nhau, và bổ túc cho nhau.
*
Đoạn mở ra Ba Người Khác, nói về bệnh tim la của thằng địa, cộng kỷ niệm những ngày ở Hà Nội, khiến Gấu viết ra được những dòng liên tưởng này: Cái thằng địa, anh bần cố, và có thể, cả nhà văn Tô Hoài, đều chẳng hề được chỉ cho biết, hai nghi lễ thiêng liêng trên.
Riêng về nhà văn Tô Hoài, chính cái câu đóng lại đoạn trên, khiến Gấu nhận ra sự thực.
"Thế nào mà anh ấy bị lây cái máu dê của thằng địa đến tận giờ. Cơm hội nghị có thịt bò thịt lợn, lại chắm chép, đâm rửng mỡ, lúc nào cũng cuồng lên, đâm hủ hoá lung tung. Ngồi trước mặt cô nào cũng hau háu mắt nhìn cái đũng quần. Anh ấy phải kiểm điểm mấy trận tơi bời đau đớn. Rồi bị thải hồi trả về cơ quan huyện. Cả mấy chị cũng phải đuổi về xã. Tôi không quan tâm đến họ, mà chỉ nghĩ: thì ra cái máu chó của thằng chó kia truyền sang mày, gớm cái giống chó má chết tiệt"
Như thể, Tô Hoài đã tiên tri ra được cái sự biến thành bọ, sau khi rửng mỡ, vì hàng họ Miền Nam, nhưng ông đổ tội cho tên địa làm lây bệnh !
Đúng là cái giống chó má khốn kiếp, chết tiệt…
*
Gấu đã từng kể là, trong lúc xơi mìn VC, nằm Đồn Đất, tức nhà thương Grall, vừa tỉnh, vừa bớt đau, ông anh vợ hụt, tức anh BHĐ vô thăm, đưa cho tờ Nghệ Thuật, trong có bài thơ của Cao Thoại Châu, thế là Gấu hết cả đau, bèn lôi mớ bản thảo truyện ngắn đầu tay Những Ngày Ở Sài Gòn ra sửa. Sau đó, nhờ Trần Công Quốc, một trong Thất Hiền, khi vô thăm, đưa xuống cho ông anh nhà thơ, khi đó đang coi tờ Nghệ Thuật cùng với Thanh Nam, Mai Thảo.
Báo của Vũ Khắc Khoan. Học trò cho tiền làm. Năm trăm ngàn.
Sau học trò, Tướng Râu Kẽm, xì ra, mọi người mới biết.
*
Phải tìm một cách viết mới và từ đó, văn chương sẽ đổi khác. Chỉ mãi sau này, vào năm 1965, khi tôi bị tai nạn phải nằm trong nhà thương Grall, đúng lúc đó tôi đọc một bài thơ của một người bạn, Cao Thoại Châu, trên tuần báo Nghệ Thuật. Bài thơ như tạo hứng cho tôi, thế là tôi lôi mớ bản thảo cũ, sửa lại, gửi đi. Đó là truyện "Những ngày ở Sài-gòn" đăng trên Nghệ Thuật số 9, cùng với truyện ngắn cũng đầu tay, chắc vậy, của Cung Tích Biền: Ngoại ô Dĩ An Và Linh Hồn tôi. Lần đó tôi nhờ Quốc, khi anh tới thăm tôi tại nhà thương, đưa cho anh T. Tên truyện lòng thòng: "Những ngày JL và SR ở Sài-gòn". JL và SR là tên tắt, dùng trong nghề nghiệp khi phải liên lạc trên mạch viễn ký, của hai chuyên viên Phi Luật Tân, Limchoc và Soriano, tới Sài-gòn giúp Bưu Điện thành lập mạch viễn ký dành cho báo chí, thông tấn ngoại quốc, sau chết tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Anh T. rút ngắn tên truyện và sửa giùm tôi một lỗi nặng: khi đọc Faulkner, tôi đã lầm lẫn hai từ "climatique" (khí hậu) và "climatérique" (khổ đau).

Truyện ngắn kết thúc bằng những dòng chữ: "Tôi mơ ước khi đứng trước cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời và lúc đó chiến tranh đã hết." Khi viết câu đó, trí tưởng tôi hoàn toàn bị chế ngự bởi hai câu thơ của Cao Đình Vưu, tức Cao Thoại Châu: "Xin lấy máu làm dầu thắp sáng. Cho con cháu mình soi tỏ mặt nhau".

Một Người Anh 

Nhưng đấy chỉ là... văn chương.
Kỷ niệm đời sống, mới "khủng khiếp".
Cao Đình Vưu, NTV, và Gấu, có thể nói, gặp nhau ở xóm, nhiều hơn ở... ngoài xóm. 

Nói một cách khiêm tốn, hễ gặp nhau là hất hàm, "đi" chứ?
Trong Thất Hiền, thì là Phạm Năng Cẩn.





Thời Tập

*


Ui chao, sắp đi rồi, được đọc bài viết từ hồi nảo hồi nào, mới ngộ ra là, BHD bỏ anh cu Gấu, thì cũng giống như Lan bỏ Điệp:
Mi đầy sân si, mê ba cái danh hão, nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, chẳng xứng với ta! (1)

(1) Bây giờ đọc TV chán rồi, N. không thích style chửi nhau, hạ nhục nhau, mắc gì phải phanh phui… cứ thấy ai viết “hớ” là chửi liền, làm dơ trang viết nhiều lắm. Mình nói người ta chợ cá Đồng Xuân mà mình thì chợ Đông Ba. Bỏ mục Dọn đi. Đúng là style thích gây chiến của đàn ông.
Chán khi đọc xong một bài về abc thì bị đọc thêm một câu: Ấy, cái bọn abc ngày xưa không hiểu gì về cái này hết…
Văn là người, một người thích chửi, thích vạch lá thì ai dám đến gần, Bông hồng đen hồng đỏ có sống lại cũng không dám đến gần
Đã qua cái thời ngây thơ hàng me, bây giờ chỉ còn cái tâm mà tâm chửi dù cho chửi người đáng chửi thì ai dám đến gần.
Độc giả TV
*
Đa tạ. NQT

The Name is Bình, Tống Văn Bình

Đỗ Kh.

Năm tôi lên cấp 2, lớp tôi có 2 nhân vật nổi tiếng nhờ gia thế. Đứa thứ nhất, là con của tướng Linh Quang Viên, bộ trưởng vào cái thời nhất tướng-nhì sư-thứ ba nhà thầu quân đội Mỹ. Những chàng trẻ em thời loạn chúng tôi, thấy cảnh sát đeo súng cũng đã đầy thán phục rồi, nói gì đến ông tướng. Đứa thứ nhì, to béo, hồng hào và phụng phịu, lúc nào cũng chỉnh tề quần Tergal đen áo sơ mi trắng, xách cặp Samsonite da đen (loại cứng mà đại cán vẫn ưa dùng cho đến tận thập niên 90). Tạng cậu, kiểu ông cụ non chững chạc, chỉ có bị đầu gấu ăn hiếp (trường tôi không bắt mặc đồng phục cho nên “học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca-rô / học sinh cao bồi hủ tíu ăn năm ba tô”, ai mà tự trọng không bao giờ mặc áo trắng). Vậy mà bạn này còn được nể hơn là quí tử của tướng Viên. Bộ trưởng cũng là chuyện thường, con của nhà văn mới là danh giá. Đố ai còn biết Lại Bộ Thượng thư hay Hữu Tả Thừa tướng là những vị nào vào thời của Cao Bá Quát, Đoàn Thị Điểm? Thằng bạn cùng lớp này là con của nhà văn, mà nhà văn khét tiếng Người Thứ Tám, tác giả và cha đẻ của Z28, điệp viên lừng lẫy Tống Văn Bình. 

 Tôi đã quên tên họ bạn, ngay cả vào lúc đó, vì mọi người đều gọi cậu là Tống Văn Bình! Ông bố, chúng tôi vẫn thường được chiêm ngưỡng dung nhan vào mỗi dịp ông thả con xuống trường hay là đến rước. Ông hơi thấp bé và tròn trĩnh, nhưng không hổ danh nhân vật mà ông đã khai sinh trên giấy. Ông ưa mặc quần tây nhạt đúng thời trang, loại có đai giây lưng cài chéo nút, áo Montagut nhẵn thín, đầu bóng lộn chân đi giày không giây simili Gucci. Ông hút thuốc Jasmin cán vàng nhãn Sobranie, thứ 25 đồng 1 điếu (thuốc lá thường, lúc đó 20 đồng 1 bao) và cái xe con ông lái mới là độc đáo, Fiat 800 coupe 2 cửa rất ít thấy, đối với Sàigòn thì cũng sport không kém cái Ford Mustang GT Cobra của Z28. Chúng tôi phục sát đất, cậu con còn kể là bố nó không đọc sách mà chỉ đọc… Encyclopedia, từ chữ A đến chữ Z. Nhưng tôi ngờ là sách thì ông cũng có đọc, chí ít là đọc truyện James Bond và đọc những điệp vụ không kém kỳ tình bằng tiếng Pháp của Hubert Bonisseur de la Bath, tức OSS117. 

 Nếu OSS117 là một phó sản của 007 dành cho khu vực Pháp thoại thì Z28 là một phó sản của OSS117 dành cho độc giả tiếng Việt. Tuy vậy, đây là một thành tựu lớn của nền văn học giải trí, không kém phần quan trọng so với truyện võ hiệp. Chẳng phải vì tôi ghen tỵ vì tôi không được ngồi chung lớp với con của Kim Dung, nhưng Người Thứ Tám đã có công Việt hoá cẩn thận một nhân vật phớt tỉnh như Bond, mặn nồng như Bath, Nhu đạo Huyền đai Đệ ngũ đẳng, trong đêm 30 mà mắt vẫn sáng như là thiếu tá Bob Morane. Tống Văn Bình đương nhiên là đại sát gái, nhưng cú atémi của chàng mềm mại, để cho những thiếu nữ hương sắc tuyệt vời nằm quằn quại từ Bangkok đến Paris. Lệnh Hồ công tử hay Đoàn Dự trước và sau gì cũng vẫn là… Tàu, nói xin lỗi nhe, Văn Bình tuy họ Tống nhưng chính xừ lủy mới làm rạng rỡ dân tộc Việt. Sếp của chàng, không hương xa mà di chuyển bằng Daimler Limo Anh Cát Lợi như là “M”: Ông Hoàng dùng cái xe con không thể nào Việt Nam hơn là cái taxi con cóc Renault 4, tuy máy có xoáy xi-lanh đặc biệt để đạt vận tốc 200 km/giờ!

Nhưng tại sao tôi lại lẩn thẩn về thời lớp 6 khi bài viết này để bàn như đã có hứa, về cách Quỳnh Thi hoán chuyển tựa bài thơ Bùi Chát thành “C.L.Q.”. Tính cách kỳ bí của nó, tôi cho là độc đáo, khiến liên tưởng ngay đến bạn cũ trường xưa đã tả ở trên. Thông thường, để tránh tục, người ta dùng lối viết tắt kèm theo ba chấm, như “con c...” hay “cái l...”. Những từ văng tục, người viết kép “Đ.M.” là hết đất, ít khi nào tắt đến 3 chữ, chẳng hạn “C.L.B.” (xin hiểu là Câu Lạc Bộ, tức Club, chứ không phải là C.L... Bè!). Để chỉ bộ phận không được coi là quý phái trên cơ thể (dĩ nhiên, quý phái hay không tuỳ người... đối diện) người ta cũng không dùng “C.L.” hay là “C.C.”, thí dụ ở đây “C.L.Què”. Một cách khác, là nói trại khi huý kị (còn được áp dụng vào trường hợp tên cúng cơm của ông bà cha mẹ hay là thiên tử, bề trên, hoàng đế). Trong trường hợp chúng ta là, thí dụ “Cái Lìn”. Có ăn học thì dịch sang Hán tự, “Cái Âm Hộ” (nhưng nói nhanh có thể nghe nhầm thành “Cái Hâm Mộ”), hay tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng La Tinh. Trong quân đội miền Nam trước kia, để lịch sự thì dùng mã truyền tin Hoa kỳ, gọi là “Cái Lima”. Mã truyền tin Việt * thì phải gọi là “Cái Lê Lai” nhưng như thế lại đâm đưa lầm sang vấn đề cứu chúa? Động não để mỹ miều hoa gấm thì phóng tác (kiểu Hoàng Hải Thuỷ “Ông Mãnh Súng Vàng”) thành “Quân Anh đổ bộ”, “Cái mu mắc võng” hay là “Máu nhuộm bãi Thượng hải”. Nhưng tất cả các cách vừa kể đều không ổn, Bùi Chát đã có một tựa bài thơ thật là độc, và để tránh nó Quỳnh Thi lại còn một cách gọi độc hơn.

 “C.L.Q.” như đã được Quỳnh Thi dùng, không đi thẳng mà cũng không đi xéo, mang sự việc và sự vật này sang một bình diện khác. Đã đành, chẳng bình diện nào hơn bình diện nào cả nhưng ở đây Quỳnh Thi không bẻ lái, không rẽ sang một ngã khác mà bưng nguyên đặt sang một bình diện song song. Nghĩa là như 2 đường… thẳng, sẽ không bao giờ gặp. Như trong sự tích... bánh dầy, bánh chưng (!) chẳng hạn, thì cái bánh dầy bánh chưng của Bùi Chát đã được Quỳnh Thi biến thành đất, thành trời. Chỉ một cái hất hàm bằng 3 dấu chấm, Quỳnh Thi đã dựng ngược lại Bùi Chát đang chúi mũi. Chữ với nghĩa, theo tôi, cũng chỉ có thể đến như vậy. 

Văn chương, thi ca quả thực vô thường. Đại tá Văn Bình không còn và không phải là Commander Bond, mỗi kẻ để một dấu ấn (son?) riêng nơi người đọc. Mai hậu và 300 năm sau, khi nhắc đến hiện tượng “Nàng về nay đã cụt chân / Máu đào đã thấm lên thây bao nhiêu... bông gòn” này, ai là kẻ sẽ khóc Quỳnh Thi và ai là người sẽ thương Bùi Chát? 

* C.L.Q. “Charlie/Lima/Quebec” hay “Cải Cách/Lê Lai/Quả Quyết”, mã số truyền tin.

[Trích Tạp Chí Thơ]

Note: GCC mới kết bạn với Đỗ Khờ, qua Face Book. Để kỷ niệm, bèn post bài này, 1 trong “top ten” hàng tháng, theo server.
Ngoài đời,
Đỗ Kh bà con với NKL, bạn thân của GCC.

Đọc bài này, thì cũng nên đọc thêm bài này, trên diễn đàn "Đặc Trưng", vì có “liên can” [không phải “liên quan”, related]. GCC bonus thêm 1 giai thoại liên quan tới “password” CLQ.
Mật khẩu này làm nhớ tới mật khẩu QCQ, tức ‘quần chân què’.

NTV kể, có lần ngồi với nhà thơ TTT, và nghe ông nhắc tới quần “chân hoè”, phụ nữ mặc khi gặp đèn đỏ. NTV bèn phản biện, ông hiểu sai rồi, phải là “chân què”, tức thứ quần thiếu vải, nên đắp thêm một miếng, đúng chỗ “tam giác sắt”, “mảnh đất xéo”, nơi chốn âm u ẩm ướt, thượng đế thường ẩn náu, cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo [chữ của Henry Miller, GCC đã từng chôm để viết về thế giới ẩm ướt của NDT]… bởi thế nó được coi là chân thứ ba, tức “chân què”, so với thứ quần hai chân bình thường.



*

Cuốn Mémoir của Hitchens, xưa rồi, nhưng giờ mới tậu, vì, cũng chỉ mới mê tay này, nhân chuyến đi Mẽo vừa rồi, có vớ 1 cuốn của ông, viết về cái chết của chính ông, Morality. TV đã từng giới thiệu Hit, nhưng là từ những bài viết trên báo về ông.

Cuốn “Trong quán cà phe của tuổi trẻ mất mẹ nó rồi”, cũng xưa rồi, nhưng đọc cái tít thì lại thú quá, bèn quơ luôn, tính đọc, như “chim mồi”, lấy hứng viết về cái quán ngày nào trên đường đưa BHD tới trường Gia Long:

Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông bèn đánh dấu nơi mạn thuyền, Gấu Cà Chớn trở lại quán xưa, tìm vết giầy của BHD còn lờ mờ ẩn hiện trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng như văng vẳng đâu đây...

Nhắc tới Hitchens, thì lại nhớ đến lời khuyên mà ông nhận được từ Nadine Gordimer.

In his 1988 book of essays, “Prepared for the Worst,” Christopher Hitchens recalled a bit of advice given to him by the South African Nobel Laureate Nadine Gordimer. “A serious person should try to write posthumously,” Hitchens said, going on to explain: “By that I took her to mean that one should compose as if the usual constraints—of fashion, commerce, self-censorship, public and, perhaps especially, intellectual opinion—did not operate.” Hitchens’s untimely death last year, at the age of sixty-two, has thrown this remark into relief, pressing upon those of us who persist in writing the uncomfortable truth that anything we’re working on has the potential to be published posthumously; that death might not be far off, and that, given this disturbing reality, we might pay attention to it. (1)

Bài viết này quả là thần sầu! Gấu mê quá, tính dịch hoài, rồi lại lu bu, quên mất.
Đúng là 1 lời khuyên quá tốt cho lũ Mít viết văn mần thơ: Hãy viết văn mần thơ như là mi đã ngỏm rồi.
To die your whole life. Despite the morbidity, I can’t think of a better definition of the writing life.

Bây giờ thì lại nhớ ra, là, Hannah Arendt cũng đã từng phán, tương tự như Gordimer, về Walter Benjamin.

Fama, nữ thần được (người đời) say đắm nhất, có nhiều bộ mặt, và danh vọng (fame) tới với họ bằng đủ kiểu - từ tiếng tăm một-tuần cho tới vượt-thời-gian!
Danh vọng "muộn" (posthume) - sau khi đã xuống lỗ - ít được người đời ham chuộng, tuy đây là thứ vững vàng nhất. Thứ hàng (nhà văn) có lời nhất, thì đã chết, và do đó, không phải là đồ "lạc xoong" (for sale).
Trong vài món hiếm muộn, phi-thương, phi-lợi (uncommercial and unprofitable), có Walter Benjamin.

Không nổi tiếng, tuy có được người đời biết đến, như là một "cộng tác viên" cho vài tạp chí, trang văn nghệ nhật báo trong thời gian chừng 10 năm trước khi Hitler nắm quyền, và cuộc tống xuất "tự nguyện" của riêng ông.
Cái chết "tự nguyện" sau đó, vào những ngày sắp sửa đứt phim, thời kỳ 1940, đối với nhiều người cùng gốc gác và thế hệ ông, đã đánh dấu một thời điểm đen tối nhất của cuộc chiến - mất nước Pháp, Anh quốc bị hăm dọa, hiệp ước Hitler-Stalin (lúc đó) còn nguyên vẹn, và hậu quả đáng sợ nhất, từ nó: sự hợp tác chặt chẽ giữa hai lực lượng công an quyền lực nhất tại Âu-châu.
Chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu những kẻ chiến thắng trong cái chết, là những kẻ thành công trong cuộc đời (How different everything would have been "if they had been victorious in life who have won victory in death). Danh vọng muộn, một điều chi rất ư kỳ cục, cho nên không thể trách cứ, rằng không có mắt xanh (người đời mù hết), hay là chuyện chiếu trên chiếu dưới, xôi thịt, tham nhũng... trong "đám" nhà văn, "ô nhiễm" trong "môi trường văn chương".
   Bất tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay đắng cho một kẻ đi trước thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua, người chạy nhanh nhất đã mất hút trước khi người đời kịp nhìn...
   Ngược lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù ít oi, giữa những kẻ ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông bán chừng vài trăm cuốn, nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản mạn này (chưa có một cuốn tiểu thuyết nào của Kafka được xb): không nghi ngờ chi, đây là một trong những bậc thầy của văn xuôi hiện đại.


*

Ngô Khánh Lãng & Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà

Trụ ơi !

Tớ còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này đi "bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó. (1)

Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.

Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này, phải không ?  Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến

Ngô Tùng Lam thì nhớ quá chứ, còn mấy bạn kia quên sạch.

Mai Ngọc Liên?
Có phải  anh bạn ở bên Thủ Thiêm, rớt Tú Tài I, đi Đà Lạt ngay khóa đầu?

Tớ chơi xì ke chừng vài chục năm [cc 1970-1989, cỡ đó] khi “hồi phục”, mất hẳn 1 khoảng thời gian, không làm sao nhớ lại được.
May là còn ngờ ngợ ra bạn!
Tháng tới, tớ qua Cali, sẽ gặp nhau
Gửi lời chúc tới gia đình và tất cả bè bạn

NQT

*

Đây là Phà Thủ Thiêm, nhưng trong hình, không có con phà, mà chỉ có những con đò.

Thời gian trọ học bên Thủ Thiêm, gần ngay bờ phía bên kia, hàng ngày đi học, Gấu dùng phà, vì có giá đặc biệt cho học sinh. Chỉ tới sau 1975, thì mới qua lại bằng bến đò Thủ Thiêm, nơi cột cờ Thủ Ngữ, vì phiá bên kia là khu xóm chích.
Quen Phạm Văn Hàm ở bên đó, vì cùng trọ học. Hàm dân Hố Nai, sau học Luật, ra trường làm lớn, ở Tòa Sài Gòn. Anh nhớ nhiều về thời gian trọ học, Gấu gần như quên sạch.

Đầu tiên người chủ trọ là 1 ông đàn ông, sau ông ngày nhường mối cho 1 người bà con, có chồng, nhưng chồng mất, có mấy đứa con, hình như đều là con trai.
Để căn chừng người đàn bà có con không có chồng, là ông bố chồng. Hàm còn nhớ tên tất cả, có lần qua Cali, Gấu hỏi, anh trả lời, nhưng lúc này, Gấu chẳng nhớ.
Nhưng nhớ cái kỷ niệm thật đáng nhớ về bà chủ trọ, kiêm nấu cơm trọ, cho 1 đám thanh niên mới lớn.

Gấu nhớ là, đứa con trai của bà rất thông minh, và hay quấn quýt với Gấu. Một lần, bế thằng bé, Gấu chỉ trái bầu trên giàn, hỏi trái gì, nó nói, trái bầu, hỏi tiếp trái bầu giống cái gì, nó nghĩ và trả lời, giống cái chai, hỏi nữa, nữa, sau cùng trở lại với trái bầu, và khi Gấu hỏi trái bầu giống cái gì, nó khóa họng Gấu bằng câu trả lời:
-Giống 1 trái bầu khác!

Tuyệt!

Gấu xoa đầu thằng bé khen um lên, bà mẹ cũng mừng quá, cười quá là cuời, cái cảnh Gấu bế thằng bé, tung lên trời rồi ôm vào lòng, và hình như là bắt đầu thương....  Gấu, đúng vào lúc đó!
Hà, hà!

Phải đến chót đời, thì Gấu mới hiểu được người đàn bà có chồng một mình nuôi con này thương… Gấu, khi nhớ lại một buổi trưa, nhà chẳng có ai, Gấu và thằng bé đang nô đùa, người đàn bà nói, ông cụ nhà tôi chửi tôi mê trai, Gấu ngạc nhiên, hỏi mê trai, mà mê ai chứ, người đàn bà mặt đỏ ửng, bẽn lẽn nói, mê... cậu.

Gấu khi đó, thực sự không biết ba cái chuyện này, ngu thế. 
Thành thử nghe xong, cũng…  bỏ qua, chán thế!
Về già, tiếc hùi hụi!

*

Quái đản quá, lướt net trúng đoạn này, cũng nói về phần thịt (1) 

Vào khoảng 1997, 1998 gì đó, Nguyễn Hưng Quốc về nước có đến thăm tôi. Anh vốn là học sinh ở Sài Gòn dưới thời Nguyễn Văn Thiệu. Sau 30-4- 1975, anh ở lại thành phố và học văn ở Đại học sư phạm Sài Gòn. Tốt nghiệp, anh được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Ít lâu sau, anh vượt biên sang Pháp rồi sang Úc và hiện đang làm việc ở đấy. Anh nói, sở dĩ anh vượt biên không phải vì sợ khổ mà cảm thấy tương lai mù mịt. Anh kể tôi nghe một chuyện thật tội nghiệp.

Hồi ấy còn chế độ bao cấp, mọi thứ thực phẩm đều được phân phối theo tem phiếu, mà tiêu chuẩn thì rất hạn chế. Tuy nhiên do sự tháo vát của công đoàn, thỉnh thoảng anh em cũng được mua thêm ít thịt, ít cá ngoài tiêu chuẩn. Anh nhớ hôm ấy công đoàn kiếm đâu được một mớ thịt đem về chia đều cho mỗi người một suất. Tất nhiên dù chia cẩn thận đến thế nào vẫn không thể đều nhau tuyệt đối được. Trong khi chia thịt, mọi người đứng vây xung quanh. Không ai bảo ai nhưng người nào cũng chăm chăm quan sát các suất thịt xem miếng nào ngon hơn, miếng nào nhỉnh hơn. Chia xong, bắt đầu nhận phần. ưu tiên nhận trước phải dành cho bậc cao niên nhất trong khoa, ấy là thầy Viễn – Lê Trí Viễn. Do đã nhằm sẵn, nhằm kỹ trước rồi nên được lệnh, thầy chộp ngay lấy một miếng ngon nhất và có phần nhỉnh hơn các miếng khác một chút.

“ Ôi! – Nguyễn Hưng Quốc nói tiếp – em phấn đấu đến bao giờ mới thành giáo sư Viễn để được chộp lấy miếng thịt kia! Phải vượt biên thôi! Vượt biên thôi!”

Tình cảnh cán bộ, trí thức hồi ấy, giờ nghĩ lại, muốn rớt nước mắt. Hoàng Ngọc Hiến, sau 1975, có vào Sài Gòn, đến thăm một người họ hàng. Anh nói, khi trở về Bắc, chỉ mong người ta tặng cho mấy thứ đồ điện như tivi, tủ lạnh hay quạt máy. Nhưng do kính trọng ông giáo sư Bắc Hà quá, người ta lại chỉ gửi ra toàn đồ mỹ phẩm đắt tiền để tặng bà giáo.

Anh Lê Quang Long vào Huế cũng gặp phải một trường hợp được kính trọng một cách tai hại như thế. Năm 1977, tôi và anh được mời vào dạy cho Đại học sư phạm Huế – gọi là thỉnh giảng. Trường cao đẳng sư phạm ở gần kề trường đại học mời anh sang nói chuyện. Họ đón tiếp rất long trọng: tặng hoa, và giới thiệu giáo sư bằng những lời lẽ rất to tát, sang trọng. Nhưng chẳng thấy đưa phong bì gì cả. Đợi mãi mấy hôm cũng không thấy gì. Té ra ở trường này có một anh bạn cũ của Lê Quang Long dạy học ở đấy từ trước 1975. Người bạn này một hôm đến gặp anh Long và nói: “ Bọn giám hiệu Cao đẳng nó ngu quá! Nó định đưa tiền cho anh đấy”. Tôi vội gạt đi: “ Đừng làm thế, bất lịch sự! Ông ấy là giáo sư đấy!”

Lê Quang Long nói với tôi: “ Mình chỉ mong nó khinh mình, chứ kính trọng thế thì tai hại quá!”

Hồi Ký NDM

*

Cùng một sự việc, mỗi người cắt nghĩa một khác, và khác ở đây, còn do cái tâm, do cái ngộ, do cái cơ may của mình. Tay NDM này, tâm địa ác, cay cú thành thử nhìn cái gì cũng lệch cả, thí dụ ông ta tả bộ dạng NDT khi gặp Tố Hữu, hay bà vợ HNH nói về chồng, ông ấy ai mà kêu đi ăn là nhanh lắm. Những câu trả lời ấy, thường là những lời nói đùa, không để coi là thực được. Cũng vậy, tuy chẳng ưa gì ông học trò Miền Nam dưới thời Ngô Đình Diệm, [lý do thì mọi người đều biết], gặp lúc đổi đời, phải thờ chủ mới, thì cũng là chuyện thường của cả một miền đất, tuy nhiên, cắt nghĩa lý do, từ cái vụ chia phần thịt, đành phải vượt biên, như ông ta hiểu, thì sai, vì chính bản thân Gấu, đã rời bỏ Hà Nội vào Nam, một phần nào giống như thế, tức là ngộ ra cái điều Đảng làm nhục kẻ sĩ, và tất cả nhân dân, bằng cách quản lý bao tử.

Năm 1954, Gấu ở lại Hà Nội, chẳng hề muốn đi Nam. Một bữa đi học, đến chậm, cổng trường đóng, đúng lúc đó, ông thầy Anh văn của Gấu, cũng ở lại, cũng đi trễ, anh VC gác cổng đếch cho vô, và khi cho vô, ông thầy phải làm tờ tự kiểm rồi mới được vô lớp dậy.

Cái vụ mà ông học trò thời Ngô Đình Diệm bỏ đi, cũng là vì ngộ ra rằng, giả như mình phấn đấu, để được tới địa vị như LTV, và để được cái vinh dự, như ông ta, thì nhục quá!

Hồi 1954, VC ở rừng về, còn làm nhục dân Hà Nội ở lại, những công nhân viên, giáo sư… bằng cách trả lương y như trước, tức là gấp hàng chục lần, so với lương của chúng, những cán bộ VC, đến nỗi mấy ông bà này ngượng quá, xin được ăn lương như Cách Mạng, chúng trả lời, lũ chúng mày biết đếch gì về hy sinh, về chịu đựng gian khổ, về một lòng một dạ với Cách Mạng, lũ chúng mày là Việt gian, làm sao xứng đáng chịu khổ vì Cách Mạng?

Khổ đã không xứng, làm sao sướng xứng?

Chẳng thế mà khi Gấu đi học tập, một anh cán bộ, khi nghe nói Ngô Đình Diệm là bạn của Bác Hồ, đã, mặt đỏ gay, chửi, thằng Việt gian đó mà là bạn của Bác Hồ ư?

*

Ông ấy ai mà kêu đi ăn là nhanh lắm!

Cứ giả như câu nói này thực sự là bà vợ HNH có nói, và thực sự đúng như vậy, thì cũng là chuyện thường. Có lần Gấu nghe, hình như người ta chê trách Chế Lan Viên, hay Huy Cận, hay... vì cái tật ham ăn, và chính khổ chủ cũng tự nhận, Gấu lúc đầu cũng.. chê, nhưng sau hiểu ra, đây là khí giới chót của sĩ phu Bắc Hà để phản kháng nhà nước theo đúng truyền thống miếng thịt ngoài đình.

Xưa, làng nào mà chẳng có thằng Mõ, việc khốn nạn nhất nào trong làng, mà không giao cho nó, trong đó, có việc chặt thịt, chia phần thịt tại đình làng, và Mõ, tất nhiên, lựa cho Mõ miếng ngon nhất, vậy mà chẳng có ông tiên chỉ, ông chủ tịch nào dám lên tiếng, ấy là vì đó là phần thưởng làng dành cho nó, do suốt đời chịu nhục cho làng.

Ngài LTV gì, thì cũng thế!

Thú thực Gấu không nghĩ có ngày được đọc lại những trang TSVC. Đọc 1 phát, là kỷ niệm cũ những ngày mới quen Joseph Huỳnh Văn trở lại. Cái truyện ngắn dịch Joyce, anh thích lắm, cái dòng giới thiệu, “mười lăm truyện ngắn trong Dubliners đúng là mười lăm mảnh đời xé ra từ xứ Ái nhĩ lan, từ thành phố Dublin nghèo khổ.”

Không có Joseph, không có Tử Lộc, là GCC không viết cho tờ TSVC. Lúc đó GCC quá chán đời rồi. Quá chán viết nữa. Bao nhiêu bài viết phê bình đọc sách, dịch dọt, vứt thùng rác sạch, thế rồi bây giờ lại được đọc lại, trước khi đi xa, cảm khái chi đâu.

Sau 1975, GCC chỉ còn có 1 người bạn, là Joseph HV.

Trước 1972, thì cũng đã thế rồi. Những lần chịu không nổi, là mò tới anh, anh bày 1 cái chiếu ra ở dưới bếp, không phải chỉ để nhậu, mà là để cho thằng bạn mình ngồi xuống, khóc.

Đến nhà như thế, mà hầu như chưa 1 lần Gấu nói gì với mấy đứa nhỏ, cũng như bà xã anh, dù 1 câu chào hỏi.
Nhớ có lần khóc khủng khiếp quá, rống lên như bò, chắc thế, cả nhà chạy xuống bếp, bà xã anh và mấy đứa nhìn Gấu sợ quá, không hiểu chuyện gì xẩy ra

Lần nói chuyện đầu tiên với bà xã anh, là qua điện thoại, sau khi anh mất. Bà có vẻ bực đám bạn trẻ, sau 1975. Theo Bà, mấy người bạn cùng ngồi bàn cà phê bữa đó giá mà biết anh bị tim, ngất đi, cứ để anh nằm xuống, nghỉ ngơi một lát, có thể anh chưa mất. Họ hoảng quá chở anh tới 1 tay bác sĩ ở gần đó, tay này hoảng quá, kêu chở ngay đi nhà thương, do di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra...
Không phải như vậy, theo NDT, cũng có mặt bữa đó. Anh nói, Joseph đang ngồi, gục xuống, và đi liền lúc đó....
Ghi lại ở đây, để gia đình hiểu rõ về lúc ra đi của anh.

Chỉ có mấy người bạn cũ của anh ấy những ngày trước 1975 là tôi còn nhớ, chị viết, trong mẩu giấy gửi anh bạn, nhà thơ HT, thay mặt Gấu tới nhà đốt nén hương trước bàn thờ của anh.

Lạ là GCC không phải thứ hay khóc, trước người khác, tuy bi lụy. Như thể có 1 đấng nào đó biết, GCC rất cần khóc, nên ban cho Gấu Joseph HV. Anh nói, mi bi lụy quá.
Và với NLV: Tội thằng Trụ quá.
Y chang Bà Trẻ của Gấu than thở, uổng quá, mi dư sức đi tu, làm đệ tử Phật, nhưng bi lụy quá, thành ra sống cũng khó, mong gì tu.
Rồi những bài thơ của Joseph nữa. Những bài viết của Tử Lộc.
Cám  ơn tất cả các bạn, và… quê nhà, ở bên đó.

NQT

Ui chao, giá mà Gấu đi tu, nhỉ!
Không đi tu thì thờ Cô Ba cũng thế!
Hà, hà!

Từ trước 1975, đúng hơn, từ lúc xin làm đệ tử Cô Ba, Gấu gần như chẳng gặp bạn văn, đừng nói bạn quí. Điều mà Gấu tự hào, là chưa từng ngửa tay xin tiền bạn, để đi hút, hoặc chích; trước 1975, thì cũng dễ, nhưng cả sau 1975; và điều này là nhờ Gấu Cái, bà lo gia đình, lo mấy đứa nhỏ, Gấu chi phải lo cho thân Gấu, về mặt cơm đen!
Bạn C có lần ra Bưu Điện kiếm Gấu, trao tiền [hình như 20 đô, hồi đó quí lắm, của bạn Luận, 1 trong Thất Hiền từ Mẽo gửi về cho], mà còn phải gật gù khen, cậu hơn tớ, tớ chẳng biết kiếm tiền, chỉ trông vào Viện Trợ Mẽo!

Ý anh muốn nói, từ bà con đi thoát được. Nhưng cái cụm từ “Viện Trợ Mẽo” còn có ý nghĩa khác: Thời gian Gấu còn ăn bám bà cụ C, mỗi lần bà cô của bạn C. tức phu nhân Đại Tá Út, tỉnh trưởng Bạc Liêu, về Sài Gòn, là bạn C trịnh trọng thông báo Thất Hiền, Viện Trợ Mỹ tới rồi, hà, hà!
Cho tới khi gặp Joseph.
Biết anh cùng đám bạn cũ của Gấu làm tờ TSVC, Gấu vì quá quí anh nên cầm lại cây viết.
Không phải hoàn toàn không cầm đến cây viết, nhưng chỉ những khi kẹt quá, thì đành ghé VL, lấy tiền, rồi sau đó, viết bài cho tờ TT, trừ.

Sau này, về già, Gấu tự hỏi, giả như tình cờ gặp bạn quí, ngửa tay xin tiền đi chích, thì sao, nhỉ?

Hà, hà!

Sea Gull, lần đầu đọc thơ Joseph Huỳnh Văn, la, lạnh, lạnh quá, lạnh hơn cả thơ TTT.
Em hỏi, "Còn bài nào nữa không"?

Ui chao, phải đến khi - vừa mới đây thôi, đọc bài viết trên ML, số về Kafka Coupable, trong nhắc tới 1 Kafka, thi sĩ của tủi hổ và của phạm tội, thì mới hiểu được thơ của bạn mình.

Trong thơ Joseph HV có cả nỗi tủi hổ của VC thắng trận, lẫn sự kiêu ngạo của Ngụy, mà "lịch sử" gọi là sự phạm tội!

*

Số báo này có mấy bài thật tuyệt. TV sẽ dần dà giới thiệu

Trước đó, trước 1975, thi sĩ đã nhìn ra cuộc chia ly giữa những bạn bè

Đọc Joseph 1975, Akhamatova 1917

Chúng ta hãy so sánh những bài Mùa Cầm Xanh, của thi sĩ Joseph Huỳnh Văn, được làm vào thời kỳ miền nam tương đối thanh bình, với những bài sau này, như Em đẹp như cách mạng [1972], hay Cây Đa Bến Cũ Hồn Ta [1975], là thấy rõ.
Những bài Mùa Cầm Xanh, giống như một cõi Thiên Thai của Văn Cao. Hai bài sau, đã nhuốm mùi trần tục: Thi sĩ sửa soạn, dọn mình, để cùng đau với cả một miền đất, với bạn bè của ông.

Mùa Cầm Xanh làm năm 1970, như để chào mừng Tập San Văn Chương, tờ báo của đám bạn, với ông là Tổng Thư Ký!
Ông, và đám bạn của ông có thể tự hào, Tập San Văn Chương [1972-1974?] là "đỉnh cao" cuối cùng của văn học miền  nam, trước khi được dán nhãn phản động đồi trụy tuốt luốt.
1972, nghĩa là, sau Mậu Thân 1968?

Đúng như vậy, và do đó, theo tôi, có lẽ phải đọc Mùa Cầm Xanh  theo dòng của Tống Biệt,"suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi", "mấy năm năm tiên cảnh [1954-1975], một bước trại giam".

Muối mặn chưa trao ngày nhạt nắng
Miếng gừng cay đắng tới ngàn sau

Và đây là cảnh chia ly, ‘bước chân xuống thuyền nước  mắt như mưa”:

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi

Nguyên bài thơ trích dẫn ở trên, của Akhmatova, là được viết cho một người bạn sắp sửa bỏ nước ra đi, nhưng như Dmitri Segal chỉ ra, Akhmatova gọi xứ sở của bà là tội lỗi, theo nghĩa, [nó đẻ ra những tên như] Rasputin và sự thoái hóa sa đọa của chính thế hệ của bà.
Và còn điều này, bài thơ được làm vào tháng Giêng 1917, đây là thời kỳ đầu cách mạng Nga, và tội lỗi, vô thần [godless], là có liên quan tới đám người Bôn-sê-vích.

Bài thơ trước đó, Prayer, mới thật bảnh. Xuất hiện lần đầu trên nhật báo Pravo naroda [Quyền của Nhân Dân], vào ngày 9 tháng Chạp. Nguyên được viết như là một nguyện cầu về cuộc chiến 1915; nhà thơ nói, ta sẽ ôm trọn mọi khổ đau mà ông Trời giáng xuống, "So that the stormcloud over darkened Russia/Might become a cloud of glorious rays",  [Để cho đám mây bão phủ trên nước Nga tối xầm/Có thể thành áng mây dương quang chói lọi], nhưng qua nội dung, đây là nhằm tố cáo đám người Bôn sê vích, mà vào lúc đó, không ai nghĩ có thể nắm quyền lực. Bài viết đi kèm bài thơ trên nhật báo nói thẳng ra điều trên: "Đám Bôn sê vích đã có tiếng nói của họ. Bây giờ, là tiếng nói của nhân dân."
[Akhmatova, thi sĩ, nhà tiên tri. Roberta Reeder. Nhà xb Picador USA. NY].

 Hơn ai hết Akhmatova hiểu rằng ý thức hệ Bôn-sê-vích chống lại mọi biểu hiện tôn giáo. Dưới mắt những tín đồ, những người Bôn sê vích sẽ là những kẻ huỷ diệt linh hồn Chính Thống Giáo của Nga. Bà hiểu rất rõ, những dòng thơ của bà mang tính tố cáo chính trị. Bà biết mình đang đóng vai trò của Cassandra, mà chồng bà đã tiên đoán về bà, số phận của Cassandra là người nhìn thấy tương lai, nhưng chẳng ai thèm nghe.
Với riêng tôi, bài thơ của Joseph Huỳnh Văn, Cây Đa Bến Cũ Hồn Ta, là cũng được làm theo tinh thần của bài thơ của Akhmatova, nhưng nhẹ nhàng hơn, thi sĩ chỉ nhớ tiếc:

Giữa đời ngước mắt dõi chiêm bao. [J. Huỳnh Văn]
Bạn nói niềm tin của chúng ta  - mơ mộng hão [Akhmatova]

Liệu câu thơ, "Núi sông xương máu một câu thề", là nhắm nhắc tới câu: "Thề phanh thây uống máu quân thù", của Văn Cao?

Ngay giữa bạn thân của thi sĩ, chỉ mới đây, khi biết, bài thơ làm khi nào [1975] ẩn dụ của nó mới lộ ra.
Cũng như bài Em đẹp như cách mạng, 1972, tức là phải sau Mậu Thân, sau Mùa Hè Đỏ Lửa, mới làm được.

Nếu bài thơ của Akhmatova, là giữa một kẻ sắp rời bỏ đất nước, và người ở lại, bài thơ của Jopseph Huỳnh Văn, cuộc bắt tay lịch sử 30 tháng Tư 1975:

Cầm tay muốn hỏi người sơ ngộ
Thôi thế tình sau thương ý trước

Nhưng trước đó, trước 1975, thi sĩ đã nhìn ra được cuộc chia ly, giữa bạn bè:

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi.

Giấc mơ về cuộc bắt tay lịch sử giữa kẻ đi người ở sau 1975: Và nếu trách cứ là về phần chúng tôi, những người ở lại, If the blame were ours - thì mọi chuyện vẫn còn có cơ cứu rỗi, và chấn chỉnh:

Người đi đi mãi chưa về
Cây đa bến cũ hồn quê đợi chờ.

[Tưởng niệm Joseph Huỳnh Văn Hiến, mất ngày 20/2/1995 tại Sài Gòn. Bạn có thể đọc thơ Joseph Huỳnh Văn trên báo Văn, số Tháng Hai & Ba, 2004. Hoặc trên tanvien.net].

NQT

NNT chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom! của Faulkner

Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges

Tuyệt!

Khen 1 tác phẩm của Faulkner, bằng 1 tác phẩm khác, cũng của Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư Thiếu Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà sư nổi danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh Đỉnh, để cứu cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!

Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công của chính Ngài!

Ẩn tàng trong giai thoại trên, là bí mật của sáng tạo: Mi muốn viết văn là phải kiếm ra vị Thầy của mi, và mi sẽ dùng chính môn võ công của Thầy mi dậy mi đó, để làm thịt Thầy!

Tôi cầu mong đám trẻ chôn tôi! Trần Dần phán.

Dương Nghiễm Mậu:  Thật chững chạc, thật cảm động...

Nhớ đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghé ngồi hút thuốc lá thấy ở bên cạnh mình một cái sọt rác đựng đầy những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt lên những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là bản thảo một truyện ngắn.

-Bỏ đi tất cả đấy à?
-Ừ đã đọc rồi bỏ không đăng.
-Moa lấy đi được không?
-Để làm gì vậy?, người bạn ngạc nhiên hỏi.
-Mặc moa, tôi nói và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn vào túi áo, trở về đăng ngay nó nguyên văn không sửa một dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang làm.
(Mai Thảo, Chân Dung nhà văn). 

Trong thế giới văn chương, những trường hợp như trên không nhiều, nhưng cũng không phải là quá hiếm hoi. Bel Kauffman, tác giả cuốn Lại lên cầu thang đưa xuống En remontant l’escalier qui mène en bas, kể lại, một bữa bà đưa con đi coi xiếc, trên đường đi, bà mua cho con một trái bóng bay. Đứa bé từ lúc đó, chỉ mải mê phiêu lưu cùng chiếc bong bóng bay trên trời, chẳng thèm để ý đến những chú voi khổng lồ đang diễn trò. Và bà chợt nhận ra, đứa con đã nhìn thấy nhiều hơn là những đứa trẻ khác đang cùng ngồi trong rạp.
Trường hợp En remontant cũng thật ly kỳ: tiền thân của nó là mấy mẩu giấy học trò, trong một giỏ bỏ giấy vụn, tại một trường tiểu học tại New York; một ông Mai Thảo nào đó tò mò lượm lên, rồi được một nhà xuất bản New York đăng (1962). Cuộc phiêu lưu của mấy mẩu giấy vụn chưa chịu ngưng ở đó: nó biến thành những chiếc bóng bay, khi một nhà xuất bản lớn tình cờ đọc mẩu chuyện nho nhỏ, và đã đề nghị tác giả viết lại, từ bốn trang giấy vụn. 

Đề tài trong En remontant (theo tờ Thời Mới, Temps Nouveaux, một tạp chí tiếng Pháp của Liên-xô) có thể tóm gọn: giữa Sự Thực và Tình Thương, cái nào hơn? Câu trả lời: Tình Thương. 

Trí nhớ thường lầm lạc, có khi còn do cố ý, hoặc tiềm ẩn, hoặc hiển nhiên; đây là một trong những bản năng của con người, luôn luôn muốn tái tạo quá khứ, cho những nhu cầu hiện tại. Trong Chân Dung nhà văn, cùng bài về Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo viết... kỷ niệm với mỗi người mỗi khác, (với) Thanh Tâm Tuyền, (là) căn gác xép ám khói ở Tòa soạn Dân Chủ (của Vũ Ngọc Các, thập niên 1960), hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Trong khi đó, qua bài viết của Thanh Tâm Tuyền trên tạp chí Thơ (số Mùa Xuân 1998), nhà thơ nhận ra bạn mình ngay lần gặp mặt đầu tiên, sau khi nhận được một bản thảo đánh máy... Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc... 

Còn điều này nữa, cơ duyên truyện đầu tay, nhiều khi tự nó đã là một giai thoại. Như sau đây, tôi viết lại theo trí nhớ. Qua kể lại của Simone de Beauvoir, Sartre trong khi viết Buồn Nôn, La Nausée, lúc nào cũng cảm thấy có “cua bò trên lưng”! Gửi bản thảo tới nhà xuất bản Gallimard, bị chê: phần đầu ảnh hưởng Dostoevsky... một cuốn tiểu thuyết bình dân! Sartre thời gian đó, suốt ngày chầu chực ở văn phòng nhà xuất bản; một bữa ông đang ngáp gió, thấy một ông vô, trong khi nói chuyện với bè bạn, ông này lấy thuốc lá, loay hoay tìm hộp quẹt, Sartre nhanh nhẩu tới làm cử chỉ đẹp. Ông này hỏi, xin lỗi ông là ai, Sartre tự giới thiệu. Hóa ra là Jean Paulhan, ông chủ tiệm. Phần tiếp theo, chắc các bạn đoán ra được...

Trường hợp Dương Nghiễm Mậu, giả sử Mai Thảo không buồn tay, có thể chúng ta vẫn có một Dương Nghiễm Mậu, nhưng thiếu Rượu Chưa Đủ, thì thật là một vô cùng thiếu sót. Bởi vì đây là một truyện ngắn, như một loài chim hiếm quí, khi nó xuất hiện, văn chương sẽ... không còn như trước nữa! 

Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở một nơi khác. Rượu Chưa Đủ bản thân nó cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền đất khác (1), âm thanh của nó như được nén lại, ra tới nơi quê người, mới thực sự rền rĩ. Ở đây, chúng ta như mường tượng ra bức địa đồ tỉ lệ xích 1/1 của Borges, mà người Việt cố mang ra ngoài để vá víu lại, cho nó như xưa. Chúng ta càng nghe rõ âm thanh của tiếng chuông lạ này, khi đọc Mai Thảo, viết về đoạn kết Rượu Chưa Đủ:

Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện, chỉ nhớ cái anh chàng nào đó, với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu Chưa Đủ một kết thúc tuyệt hay. Đoạn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồ côi cha mẹ từ sớm (một ẩn dụ về một Hà-nội?, người viết bài này thêm vô). Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố không có một đồng xu nhỏ (những ngày đầu di cư của họ Dương?). Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, anh dẫn em vào công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình sông núi với em để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp, buồn rầu một ý niệm về một điểm tựa, về nguồn gốc. Thật chững chạc và thật cảm động. Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu. Một công viên vắng lặng... Hình ảnh con đường văn chương Mậu mở ra và đi trên đó một mình... Những mô hình sông núi quê hương. Đứa trẻ mồ côi, nghiêm chỉnh sớm hiểu biết, ý thức trong truyện chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong, rất hoàn chỉnh, những mô hình sông núi cho cõi văn cõi viết của mình... Và Mai Thảo kết luận: Cuối cùng là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn đầu tay của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ côi là những kẻ khác kia. 

Hay khi đọc Thanh Tâm Tuyền viết về Đêm Giã Từ:

Đấy là một truyện không cốt truyện. Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe - theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của nó -, ở sự dồn đẩy khôn nguôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới chốn nhòa tắt tiếng... 

Năm di cư thứ hai mươi (1974), khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh ở cả hai miền lúc ấy...

Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hà-nội đợi giờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên thềm ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai 'Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy', câu của Anh vẳng ngân như một câu thơ. (Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn, tách khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc).

Cái nền thiếu vắng, những mô hình sông núi tưởng tượng, tiếng chuông ngân ở một nơi khác: mồ côi là những kẻ khác, nhưng Rượu Chưa Đủ, Đêm Giã Từ, Bếp Lửa... mãi mãi vẫn chỉ là những đứa con tư sinh của một miền đất.

Hình ảnh con đường Mậu mở ra và đi trên đó một mình..., câu này chỉ có thể coi như một nghi vấn, thay vì một khẳng định. Nói một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh của một miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh Tâm Tuyền "khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một bên là bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) (2) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những con người đứng bên lề...

Dân làng sau đó, tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh tiếng chuông trở về, từ đó, nó bình thường như mọi quả chuông khác. 

Nguyễn Quốc Trụ

Chú thích: (1) Dương Nghiễm Mậu vào Nam năm 1954.

(2)

Thằng bồ nhặt một thanh sắt cầm tay đứng giữa sân rình rập. Con nhỏ lắng tai thấy tiếng giầy im lặng, bất thình lình nó xô lão Chà vùng dậy, nhảy xuống đất, ngã chúi va đầu vào tường và la lên:
- Anh ơi.
Nó hốt hoảng chạy vội ra giữa sân ôm lấy thằng bồ. Thằng này hỏi:
- Nó đâu?
Con nhỏ chỉ tay về phía xe hơi nhưng níu tay thằng này lại, lắp bắp trong hơi thở:
- Không có gì hết, chưa có chuyện gì hết.
Thằng này dằng tay ra xăm xăm bước tới, con nhỏ chạy theo níu kéo không được. Lão Chà vịn vào thành xe nhẩy xuống, té và đống dầu nhớt, thằng nhỏ cầm thanh sắt đập liên hồi, con nhỏ bưng mặt khóc. Thấy lão Chà chỉ còn thoi thóp, nó bảo con nhỏ cùng nó khiêng xác lão Chà để lên thùng xe. Con nhỏ thút thít nói:
- Thôi chạy đi anh ơi.
Nó quắc mắt dữ tợn bảo:
- Đừng lôi thôi.
Đặt lão Chà vào đúng chỗ nằm lúc trước của con nhỏ, nó đập bể ve dầu thơm ở bên cạnh, lột hết quần áo của lão liệng vào góc.
- Anh làm gì vậy?
Nó không đáp và truyền lệnh:
- Cởi cái xú chiêng liệng vào đống quần áo đó.
Con nhỏ còn ngần ngừ, nó bật tung nút áo và nắm tay dật đứt cái bao vú liệng vô đống đồ của lão Chà. Vừa lúc ấy lão Chà hồi tỉnh một vài giây, ngửi thấy mình nằm trên dầu thơm, thân thể trần truồng và con nhỏ đang nhìn xuống, ngực nó không cài trắng muốt. Rồi tiếng thanh sắt liệng xuống thành xi măng...
*

Note:

Vu Hatue Haizzz, mình ko có quyển của ông Viên Linh.

Trong quyển này, [Chân Dung Nhà Văn, MT] MT có kể về chuyện nhặt bản thảo của ông DNM từ trong giỏ đựng giấy vụn và đem về đăng trên báo, thú vị phết. Tuy nhiên khi mình hỏi ông DNM về chuyện này thì ông ấy bảo không phải vậy, bản thảo đó ông ấy đưa ông Trần Dạ Từ nhờ chuyển cho ông Mai Thảo (lúc này hai ông MT và DNM chưa quen nhau, chỉ mới biết tên nhau). :)

Blog NL

Chuyện nhặt từ sọt rác, thì xẩy ra nhiều rồi, trên TV cũng có nhắc tới 1 trường hợp thú vị, cái gì gì “lên cầu thang đi xuống”, để check lại.

Chắc là MT đã từng đọc 1 thứ giai thoại như thế, luôn giai thoại lầm bạn quí với tên thợ sắp chữ. Xếp chung cả lại, thì có câu giải thích của Todorov, con người có cái quí là, nhớ lại [hồi ức… ] sao cho, có lợi cho nhu cầu hiện tại của nó: MT khi viết cuốn Chân Dung 15 nhà văn, là đúng theo kiểu này! 

Vậy là trường hợp truyện ngắn đầu tay của DNM hơi giống truyện ngắn đầu tay của Gấu. Gấu gửi thẳng xuống tòa soạn báo Sáng Tạo. TTT đọc, về khoe um lên với bà cụ, thằng Trụ nó viết văn, và nó có thể còn đi xa hơn DNM [cái này là Gấu nghe qua bà cụ thân sinh của nhà thơ: Suốt thời gian quen biết gia đình ông anh, và sau này, TTT chưa bao giờ nhận xét về văn tài của Gấu cả!] 

Câu của Todorov, do Ozick trích dẫn, trong bài viết về Anne Frank, về chuyện nhân loại bóp méo nhật ký của cô để phù hợp với nhu cầu hiện tại.
Và Ozick đưa ra giả thuyết, theo đó, đúng ra là cái bà phúc thần của Anne Frank nên đốt bỏ cuốn nhật ký, khi tình cờ tìm thấy nó [bà này, sau kể lại, nếu như tò mò đọc, thì chắc là đốt bỏ], là vì loài người khốn kiếp không có ai xứng đáng để đọc nó.

Nhưng theo Gấu, phải là câu cách ngôn của Tẫu mà Brodsky trích dẫn, thì mới đúng với cas MT: Kẻ nào ngồi bờ sông lâu, thể nào cũng có lúc nhìn thấy xác kẻ thù trôi qua.

Khi viết Chân Dung, MT nhìn thấy toàn xác bạn quí của mình trôi qua.

Và nếu như thế, bạn quí hay kẻ thù thì cũng rứa!
*

Tháng 10, năm 1999, lần đầu tiên tôi gửi bài cho báoVăn Học. Gửi thử thôi. Không có hy vọng báo đăng. Một vài cây viết kỳ cựu trước 1975 bảo tôi, Văn Học, Văn “tuyển” bài lắm. Có người còn dọa, làm thơ phải biết “nhậu”, viết văn phải biết xã giao, phải có quen biết, có gửi gắm,... Đóng cửa như tôi thì viết có mà để giun dế đọc.
Tôi không tin. Một nhà văn đích thật, tự nhiên sẽ quý văn người như văn mình.
“Không tin ư?” Bạn tôi nói. “Văn của Dương Nghiễm Mậu từng bị quăng vào sọt rác, thơ Nguyễn Tất Nhiên cũng phải chầu chực, lòn cuối mới được đăng.”
Tôi xót xa, “Thế còn gì là văn chương?”
Cả ngày, tôi lan man thương cảm cho những ngòi bút còn mịt mùng trong quên lãng.
Bạn tôi “bồi” thêm, “Vì sao mà Đối Diện, Trình Bày, Ý Thức,... ra đời? Vì sao có những tên tuổi bây giờ lại chưa từng có mặt trên Bách Khoa, Văn Học, Văn... thuở trước?”
NTTA

Những nhận xét trên đây, không đúng. Cái người được gọi là “bạn tôi” có định kiến, và không chỉ 1 người, mà gần như có cả 1 nhóm người.

Tờ Văn, theo như tôi được biết, việc đọc chọn bài, Trần Phong Giao tin tưởng ở 1 số người quen, và nhờ họ. Những người này rất công tâm, chẳng có bè nhóm gì cả. Tôi, NQT xuất hiện đầu tiên trên Nghệ Thuật, NDT, 1 trong những người đọc/chọn bài cho Văn tự động gặp tôi, đề nghị viết cho Văn. Tôi đâu có nhờ cậy ai?
Tờ Đối Diện, Trình Bày, sở dĩ có, là do chính trị nhiều hơn là văn chương.
Tờ Ý Thức, đa số là cầm súng và cầm viết, và của đa số những nhà văn Miền Trung. Họ muốn có riêng 1 tờ báo viết về lính, về cuộc chiến… còn tờ Văn có khuynh hướng nhìn ra bên ngoài, thế giới… 
Ý Thức không bàn về tiểu thuyết mới, thí dụ.
Tôi cũng đâu biết Thảo An là ai, vậy mà đọc, và giới thiệu.
Nói Nguyễn Tất Nhiên mà phải “luồn cuối” là không đúng. Thơ NTN như thế, cần gì luồn cúi ai?

Cái chuyện liên quan tới DNM, sợ chỉ là... giai thoại. Giống giai thoại MT lầm bạn quí, bạn thân của ông với 1 tên thợ sắp chữ.

Tờ Văn Học của NMG thì do NMG đọc và chọn. Khuynh hướng viết của ông ra sao thì ông chọn bài như thế. Chính vì thế mà khi ông từ chối không đăng bài tôi dịch Steiner, tôi, lúc đó được nhà nước Canada cho ăn tiền bịnh, khỏi phải đi làm nữa, thế là bèn nghỉ viết cho Văn Học, làm trang Tin Văn. Cái sự cộng tác giữa báo và người viết, phần lớn là do người viết quyết định, chứ đâu phải do tòa báo, theo tôi.
Khi bạn gửi bài cho Văn Học, hay cho Văn, là bạn đã chọn rồi.

"Vì sao có những tên tuổi bây giờ lại chưa từng có mặt trên Bách Khoa, Văn Học, Văn... thuở trước?"

Câu này, chịu, không thể trả lời được! NQT

Vào thời kỳ đó, bạn chỉ cần 1 truyện ngắn là nổi tiếng. Truyện Rượu Chưa Đủ của DNM là như vậy. Vừa ra lò là rúng động cả Sài Gòn. Cũng thế, là Những Ngày Ở Sài Gòn, của NQT, Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi của Cung Tích Biền, Trăng Huyết của Ngọc Minh. Thử hỏi NM coi, có phải luồn cúi ai không. DNM còn sống, thử ai đó ở Sài Gòn hỏi ông coi, có phải MT lôi truyện ngắn của ông từ thùng rác lên không.

Đâu có phải tự nhiên mà TTT khi đọc truyện của GCC, nói với bà cụ, nó sẽ đi xa hơn DNM. Vì ông biết, văn học Mít phải vượt quá Bình Định, Phan Thiết, Sài Gòn….

Tờ Văn, độc giả của nó đa số là từ Miền Trung, dân Miền Nam ít đọc báo văn nghệ, mà đọc nhựt trình, đọc truyện dài đăng từng kỳ trên báo hàng ngày. Thành ra TPG rất cần những nhà văn Miền Trung. Làm gì có chuyện tờ Văn dìm những tác giả Miền Trung?

Đừng bao giờ nghĩ là có sự kỳ thị, như “ông bạn” nào đó phán. Những nhà văn đang có mặt ngày hôm nay, ngày xưa không thể ló mặt ra được, có ai có được, chỉ 1 truyện ngắn mà độc giả nhớ đời, sau khi đọc?

Huyền thoại bị dìm, phải luồn cúi... GCC nghe đến nhức cả đầu từ hồi còn giữ mục Tạp Ghi trên Vấn Đề. Đám nhà văn bị dìm này còn viết thư cho VKK, phàn nàn, sao không chịu giới thiệu họ. Thầy Vũ Khắc Khoan nhắn GCC, qua MT, biểu nó phải thổi mấy thi văn đoàn Mũi Né, Hòn Tre...  GCC than với TTT, ông nói lại với MT & VKK. Sau đó MT biểu GCC, anh thích viết gì cứ viết, vờ tụi đó đi!

Hà, hà!

Những Cây Cọ Dại

"Lịch sử tan rã ra bằng hình ảnh, không phải bằng tự sự." ["History decomposes into images, not into narratives." Walter Benjamin, trích dẫn bởi Coetzee].

Hình ảnh cái đầu khổng lồ rã ra từ một bức tượng khổng lồ của Lênin. Hình ảnh một con người chặn cả đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn. Cái bóng (có thực, hoặc tưởng tượng) của một người đàn ông lỡ độ đường, lom khom với bọc quần áo, in lên nền trời, mỗi lần hoả châu rực sáng, trong truyện ngắn "Dọc Đường" của Thanh Tâm Tuyền.

Độc giả "Gió Ngược" sẽ tự hỏi, tại sao hình ảnh một con mèo lại ghi đậm trong trí một người tù, thay vì những hình ảnh khác?
 

Cái truyện ngắn đầu tay của Gấu, Những Con Dã Tràng, quả là bị quăng vô sọt rác tòa soạn của tờ Văn Nghệ thiệt. Gấu có kể về chuyện này rồi, trong

Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp...", truyện ngắn "Những con dã tràng", truyện đầu tay của tôi được viết ra từ cát, biển Nha Trang, nhưng thực ra là từ cái không khí "chết người" của Kẻ Xa Lạ, của Buồn Nôn: Tôi tự hỏi cớ sao lại sợ hãi một thế giới bình thường như vậy...(Sartre. La Nausée). 

Khi đó Dương Nghiễm Mậu, với truyện ngắn "Rượu chưa đủ", đăng trên Sáng Tạo bộ mới đang là một xôn xao trong đám chúng tôi, những đứa trẻ vẫn mơ hồ hy vọng, con đường độc nhất để thoát ra khỏi cuộc chiến, để đừng bị nó huỷ diệt một cách tức tưởi, chỉ là con đường văn chương. Khi tôi viết "Những con dã tràng", chủ yếu là để giải tỏa cơn đau do Kẻ Xa Lạ gây nên, và tuy hứa với lòng mình, đó là con đường phải chọn, nhưng chưa phải lúc này. Tôi vẫn nghĩ, phải học đã, rồi muốn gì thì muốn. Vả lại khi đó đam mê đọc mạnh hơn nhiều. Đọc hối hả, đọc ngày, đọc đêm, đọc bất cứ cái gì vướng vào mắt. Đọc như để chạy đua với chiến tranh. Hơn nữa, sách tiếng Pháp loại bỏ túi, chương trình Thông tin & Văn hóa, IC (Information & Culture), được chính phủ Pháp tài trợ cho nên giá rất rẻ, để "cạnh tranh" với văn hóa Mỹ, theo suy nghĩ của A. Malraux: người Pháp đã ra đi, nhưng nước Pháp vẫn ở lại (Anti-mémoires). 

Viết xong, tôi gửi thẳng tới tòa soạn, hình như ở đường Cô Bắc, hay Cô Giang [đúng ra là đường Ký Con]. Vài hôm sau, một buổi tối, bà cụ Chất hỏi tôi: "Mày viết truyện hả?. Tôi ngớ người. Bà cụ cho biết, anh T. có nói tôi viết "được" và tiên đoán, tôi có thể "đi xa".
*

Puzzles and ambiguities in 'Crime and Punishment'
Oliver Ready

*

Không chỉ Hóa Thân, mà Tội Ác và Hình Phạt cũng có bản dịch tiếng Anh mới, ra lò tháng tới, Feb, 2014, theo tờ TLS số Jan 24, 2014, trong có bài Intro từ bản dịch mới này. Trên đường về từ tiệm sách, ngồi subway, GCC đọc được câu này, thực thú:

"Raskolnikov có máu ở trong vớ, và mực, ở ngón tay. Chàng trẻ tuổi sửa soạn tội ác bằng cái đọc thật căng, by extensive reading, và, như chúng ta biết sau đó, mà còn như 1 cú tập tành viết, by attempting his literary debut."

Bài Intro khá dài, nhưng thật bõ công, đọc. TV sẽ đi 1 đường scan, và có thể, sẽ dịch nó, trong 1 toan tính nhớ lại những tác phẩm đọc trong khi chờ BHD tại 1 địa điểm nào đó, trong Xề Gòn thời mới lớn của Gấu.

Lại nhớ “Bếp Lửa”, tất nhiên, cũng tác phẩm đọc đầu đời, và anh chàng Đại, trong khi chờ ra bưng, theo Kháng Chiến, giết Việt Gian, thì bèn đọc Dos, và làm thịt cô con gái riêng của ông Chính.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu


*

Bếp Lửa

Quả đúng như Gấu còn nhớ, về cái màu vàng của nó, như trong bài viết “Gấu đọc BL ở đâu” –cái tít được gợi hứng từ “Đọc Lolita ở Teheran”.


Huyền thoại "nhặt truyện ngắn từ sọt rác" theo như blogger VHT, quả đúng như Gấu đã nghi, MT phịa ra:

Vu Hatue Haizzz, mình ko có quyển của ông Viên Linh.

Trong quyển này, ông MT có kể về chuyện nhặt bản thảo của ông DNM từ trong giỏ đựng giấy vụn và đem về đăng trên báo, thú vị phết. Tuy nhiên khi mình hỏi ông DNM về chuyện này thì ông ấy bảo không phải vậy, bản thảo đó ông ấy đưa ông Trần Dạ Từ nhờ chuyển cho ông Mai Thảo (lúc này hai ông MT và DNM chưa quen nhau, chỉ mới biết tên nhau). :)

Chuyện nhặt từ sọt rác, thì xẩy ra nhiều rồi, trên TV cũng có nhắc tới 1 trường hợp thú vị, cái gì gì “lên cầu thang đi xuống”, để check lại.
Chắc là MT đã từng đọc 1 thứ giai thoại như thế, luôn giai thoại lầm bạn quí với tên thợ sắp chữ. Xếp chung cả lại, thì có câu giải thích của Todorov, con người có cái quí là, nhớ lại [hồi ức… ] sao cho, có lợi cho nhu cầu hiện tại của nó: MT khi viết cuốn Chân Dung 15 nhà văn, là đúng theo kiểu này!

Vậy là trường hợp truyện ngắn đầu tay của DNM hơi giống truyện ngắn đầu tay của Gấu. Gấu gửi thẳng xuống tòa soạn báo Sáng Tạo. TTT đọc, về khoe um lên với bà cụ, thằng Trụ nó viết văn, và nó có thể còn đi xa hơn DNM [cái này là Gấu nghe qua bà cụ thân sinh của nhà thơ: Suốt thời gian quen biết gia đình ông anh, và sau này, TTT chưa bao giờ nhận xét về văn tài của Gấu cả!]

Đọc cọp "Bếp Lửa" trên vỉa hè Sài Gòn, thời 1950's

Trong một bài tạp ghi, tản mạn - được gọi hứng từ một bài điểm cuốn ‘Đọc Lolita tại Teheran’, trên phụ trang văn học của tờ Thời Báo Luân Đôn, TLS -  Gấu có viết về hình ảnh của chính mình, khi đứng ngay trên vỉa hè Sài Gòn, đọc cọp cuốn Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, được ông chủ nhà xuất bản của nó, là Nguyễn Đình Vượng đem ra bán xon, lấy lại vốn, chắc là vì chẳng có ma nào đọc. Gấu còn nhớ cuốn sách bìa mầu vàng
Gấu nói đọc cọp, là vì hồi đó, nghèo quá, không thể nào có tiền mua nhiều thứ, không cứ gì sách: một xa xỉ phẩm!

Hình như đó là lần đầu Gấu biết đến cái tên Thanh Tâm Tuyền, tác giả cuốn Bếp Lửa.
Đúng ra, biết Bếp Lửa.
Thời mới lớn, mới biết đọc, Gấu ít khi để ý đến tác giả cuốn sách

Lần thứ nhì, là biết đến tờ Sáng Tạo của nhóm bạn bè của ông.

Cũng là qua một anh bạn cùng lớp Nguyễn Hải Hà, học cùng với nhau năm Đệ Nhị, tại trường Hồng Lạc, khi đó còn là một lớp học, trên đường Sương Nguyệt Anh, ở gần vườn Bờ Rô, ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập Tự.

Kỷ niệm lần đầu đọc Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn làm tôi liên tưởng tới một mẩu chuyện của nhà soạn nhạc lừng danh, thuộc dòng nhạc Thời Đại Mới, New Age, Yanni, người đã từng mang cả bộ sậu tới chơi tại Đền Thiêng Ấn Độ, và Tử Cấm Thành Bắc Kinh.

Và cũng có thể ngược lại: chính câu chuyện của Yanni làm tôi nhớ đến cái cảnh đứng như trời trồng, giữa vỉa hè Sài Gòn. ngấu nghiến đọc Bếp Lửa, đọc xong len lén đặt nó trở lại vỉa hè, rồi len lén bỏ đi, tránh cặp mắt chẳng có gì là hài lòng của người bán!

Ông Yanni này tâm sự với thính giả, qua một lần phỏng vấn trên TV, hình như vậy, là ông rất biết ơn ông bố của ông. Vào năm ông chín tuổi, biết ông con quá mê âm nhạc, và quá cần cây đàn piano, ông bố bèn đem cầm cố căn nhà, tài sản độc nhất mà ông có được, để mua cây đàn cho ông con.
Ông nói, mua chậm là hỏng. Năm đó, tôi rất cần cây đàn. Tất cả những gì gọi là mầm nhạc ở trong tôi, chúng đòi hỏi cây đàn. Để chậm một tí, là những mầm đó héo đi, sau đó có được cây đàn thì cũng cẩm như không!

Kinh nghiệm của tôi đọc cuốn Bếp Lửa cũng như vậy. Phải đọc đúng vào lúc đó [Lúc đó, là lúc nào, tôi sẽ xin nói rõ, sau này]. Từ nó, mà ra những anh em bà con họ hàng của nó, thí dụ như Buồn Nôn, Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, và nói rộng ra, cả thế giới văn chương.

Có lần, Gấu hùng dũng tuyên bố, đọc những tác giả khác, thí dụ Thanh Tâm Tuyền, thí dụ Sartre, thí dụ Camus, là để hiểu Gấu, cũng là theo ý nghĩa đó.

Nói bạo hơn một chút: Những kỷ niệm của riêng Gấu tui, chỉ Gấu tui biết, nhưng nhờ đọc họ, mới thấy ra được. Mới biết là mình có những kỷ niệm đó đó. Chúng thực sự ở trong Gấu, nhưng Gấu không thấy, không hề biết đến chúng. Nếu không có họ, như những mầm âm nhạc mà Yanni nói đó, chúng cứ thế mà khô héo đi, cùng với cuộc đời thường của mỗi con người thường… 

Gấu lấy thí dụ, một lần đọc Salman Rushdie, ông kể lần trở về thành phố quê hương, Bombay, nhìn tấm hình căn nhà cũ, hình đen trắng, vẻ lem luốc tiều tụy của nó làm bật ra ở nơi ông giấc mộng lớn văn chương: Ta sẽ viết một cuốn sách thay thế cho tấm hình nghèo nàn dơ dáy kia. Cuốn sách của ta sẽ là một bức hình mầu Technicolor về thành phố Bombay.

Đọc tới đây, đột nhiên Gấu nhớ ra kỷ niệm về cây viết chì xanh đỏ lần đầu tiên có trong đời.

Cây viết chì đó thực sự không phải của Gấu, mà của một ông cậu, em bà cụ thân sinh ra Gấu. Cậu Cầu. Con Bà Ba, tức vợ thứ ba của Ông Ngoại Gấu.
Nhà Gấu nghèo, bố mất sớm vì tai họa đảng phái ngay năm 1945, bà cụ phải đem mấy đứa con ăn chực nơi bà con, mỗi người è cổ chịu một đứa. Gấu được Ông Ngoại, sau khi Bà Ba gật đầu, nuôi, một phần là để ba cậu con của Bà Ba có người hầu.

Trong số ba cậu, Cậu Cầu là người thương Gấu nhiều nhất.

Lần đó, Bà Ba đi Hà Nội, khi về mua khá nhiều quà cho ba cậu con, trong có cây viết chì đầu xanh đầu đỏ. Cậu Cầu đưa cho thằng cháu chơi một tí. Thấy thằng cháu mê quá, không muốn trả, ông tặc lưỡi, thôi cho mày, nhưng giấu thật kỹ nhé, thằng mắt lác!

Chả là Gấu vừa lùn lại vừa lé [lác]. 

Có thể nói, giống như Rushdie, Gấu viết văn bằng cây viết chì xanh xanh đỏ đỏ mà ông cậu cho, vào lúc chín, hay muời tuổi…

NQT

(1) Cuốn Bếp Lửa sau đó, được tái bản mấy lần. Lần sau cùng là vào năm 1974, nhà xuất bản Kẻ Sĩ do nhà thơ Tô Thuỳ Yên chủ trương.

[Trong mấy cuốn trên, Gấu chỉ biết hai, cuốn đầu và cuốn chót]

Lạ một điều, hành động trên của Nguyễn Đình Vượng như tiên đoán ra được số phận của cuốn Bếp Lửa, phải tái sinh từ những tro than của vỉa hè Sài Gòn, cũng như số phận của cả một nền văn học trước miền nam, tái sinh từ những tro than của cuộc phần thư 1975.

Khi TTT nói, sẽ đi xa hơn DNM, ông đã nhìn ra 1 tên Gấu bây giờ, khi đang làm trang Tin Văn. 

Nếu Đi Hết Biển

Tôi đề nghị anh đọc Đời Nhẹ Khôn Kham, của Kundera... để anh thâm nhập và nhận diện bộ mặt của cộng đồng Việt ở hải ngoại.

Nguyễn Thị Hoàng Bắc trả lời Trần Văn Thuỷ.

Theo tôi, đa số độc giả, đọc Kundera, không phải để thâm nhập và nhận diện bộ mặt của bất cứ cộng đồng, mà là bộ mặt của cộng sản. Tác phẩm của ông, là về kinh nghiệm sống dưới chế độ toàn trị.

Và đây là lý do Nguyên Ngọc đã dịch hai cuốn Những Di Chúc Bị Phản Bội, và Nghệ Thuật Tiểu Thuyết của Kundera. Ông muốn độc giả trong nước thâm nhập và nhận diện bộ mặt cộng sản, đặc biệt, bộ mặt cộng sản Việt Nam, bị che giấu dưới quá nhiều mặt nạ...

Lần viếng thăm Tiểu Sài Gòn mới đây, ghé Người Việt gửi anh em tòa soạn cuốn sách mới ra lò, tôi gặp lại HKP. Anh đưa tôi ghé thăm nhà anh, căn nhà được miêu tả trong Nếu Đi Hết Biển, qua bài phỏng vấn HKP của Trần Văn Thuỷ. Anh nói, những lần tới, cứ tự nhiên coi như nhà của Gấu. Nhân tiện, anh rút trên giá sách cuốn Nếu Đi Hết Biển

-Nếu ông thực tình muốn viết về 'nó', thì ít ra cũng phải đọc hết cuốn sách.

***

Thú thực, tôi ít khi có ý định, "thực tình" viết về, bất cứ một cuốn sách. Bất cứ một điều gì.

Những bài viết của tôi, đa phần là tản mạn, manh mún, và đều ở dạng "chưa hoàn tất". Một lần, PTH tỏ ý thích một bài của tôi trên tanvien.net, tôi ngần ngại, nói, bài chưa viết xong.

Bà "quạt" lại liền:

- Anh chỉ cho tôi một bài viết nào của anh, mà coi như là đã hoàn tất? 

Thường ra, tôi  "tạm ngưng" một bài viết, khi nghĩ rằng, đoạn kết, hay câu kết của bài viết đó, mở ra bài viết mới, tiếp theo sau.  Nói một cách khác, mỗi bài viết mới nào đó của tôi, là một tiếp tục một bài viết chưa hoàn tất nào đó.

Lần viết bài cho PTH [một bài về NHT], tôi không thể nào "tạm ngưng" nổi bài viết, và cứ thế liên tục gửi những revised texts, đến nỗi PTH thương hại, nói, anh cứ chấm dứt đại nó đi, tại làm sao mà làm khổ mình như vậy.

Còn NMG, chủ báo VH, có lần nói, tôi ưa "cầu toàn", chẳng bao giờ hài lòng với một bài viết.

Chỉ tới khi, tôi mường tượng ra được, lý do tại làm sao, sau Tướng Về Hưu, Nguyễn Huy Thiệp gần như ngưng viết...

Chính vì thế, bài trên net, một trang net của riêng mình, là một hình thức viết phải nói là tuyệt hảo cho tôi.

Bất cứ lúc nào, cũng có thể lôi xuống, sửa lại, rồi lại post tiếp.

Trở lại với bài viết cho PTH. Đó là bài viết 'Mỗi trường hợp mỗi khác", viết về ba nhà văn miền bắc, là Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, và Phạm Thị Hoài. Tôi nhìn ra được, khi viết Tướng Về Hưu, Thiệp muốn gửi vào nhân vật này, ý thức tự vấn của một miền đất, sau những lầm lẫn của nó. Để viết, phải có một quãng cách với thời đại của mình, và đó là những năm tháng cô đơn của NHT ở miền núi, mà kết quả trước, là Những Ngọn Gió Hu Tát, và sau, Tướng Về Hưu, một thứ Le Repos du Guerrier, Khi Người Hùng Trở Về, "sống", trên đống xương vô định đã cao bằng dẫy... Trường Sơn bị xẻ dọc, và "nhờ" đàn lợn, được vỗ béo bằng những thai nhi. 

Câu hỏi làm tôi nhức đầu, khi viết "Mỗi trường hợp mỗi khác" là: Tại làm sao ý thức tự vấn của Nguyễn Huy Thiệp lại 'tạm ngưng', sau khi ông viết xong Tướng Về Hưu. Hay, nói như Nguyên Ngọc, ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp cùn rồi, ông ta hết xí oát rồi?

Liệu chiến thắng miền nam là một hồi chuông báo tử cho "cách viết" của Nguyễn Huy Thiệp?

[Có thể có người bắt bẻ, Tướng Về Hưu xuất hiện sau 1975, nhưng, như đây là một thứ truyện ngắn vào lúc tận cùng của một thời kỳ. Nó giống như Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, dính cứng vào biến cố 1954]. 

Liệu, ý thức của tự vấn của miền đất, ở nơi NHT, như là một người đại diện của nó, đã không chịu nổi cú "đụng độ", khi va chạm với cái mà tôi tạm gọi là "thiên tài của nơi chốn", hay là ông thần miệt vườn, của một miền đất khác? Ngược lại, miền đất này cũng không thể làm sao hiểu nổi, cái ác của một miền đất khác, biểu lộ ra bằng hành động, thí dụ như, nhét 'gì gì đó" vào miệng đám sĩ phu, để cho nó thoát ra khỏi cơn mê muội vong thân, lành nọc độc, là chủ nghĩa cộng sản?

***** 

Home is where one starts from.
In my beginning is my end.
What you own is what you do not own.

T. S. Eliot

Nhà là nơi mà bạn bắt đầu
Trong cái bắt đầu của tôi là cái tận cùng của tôi
Cái bạn sở hữu là cái bạn không sở hữu

Indians are proud of their ancient, surviving civilization. They are, in fact, its victims.
Người Ấn tự hào về nền văn minh cổ xưa, còn hoài của họ. Hóa ra, họ là nạn nhân của nó.

Naipaul: Lần viếng thăm thứ nhì  [in trong Nhà văn và Thế giới] 

Nguyễn Huy Thiệp đã từng mơ 'đi hết biển', nhưng đi được một đoạn đường, ông quay về. Ông giải thích, 'vì nghĩ đến mẹ'.

Mẹ ở đây, là 'ẩn ngữ', chỉ văn minh lâu đời, dai như đỉa: nền văn minh đồng bằng sông Hồng? 

Nhưng Văn Cao, chẳng hề mơ giấc mơ này. Như Joseph Roth, đã từng có vé của PEN, mời đi Mẽo: ông bèn quẳng vào thùng rác, và uống tiếp: Người đã viết một câu để đời, nói lên nỗi đau của cả một miền đất trong trận đói khủng khiếp năm đó, "Thề phanh thây uống máu quân thù," người đó không thể bỏ đi. Vinh quang của một  tướng về hưu là như vậy. Vinh quang đấy, mà thất bại cũng đấy. Thất bại, vì không thể hiểu được một miền đất  khác. Những người dân ở đó nói tới nghĩa khí ở đời, nói trung hiếu với bố mẹ, anh em, bằng hữu...  chứ không với Dân, hay với Đảng.

Note: Đầu năm, đọc lại loạt bài này, nhân server lôi ra, Gấu ngạc nhiên quá đỗi, ở cái giọng văn của nó, rất ư là lịch sự!


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu



**

Origin: Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel, Crime and Punishment

From Dante's Inferno, where hell seems a good deal more interesting than heaven, to Milton's Paradise Lost, where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's Othello, where Iago's intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers have learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps the banality of good. Yet in Fyodor Dostoyevsky's Crime and Punishment, the author passes rapidly over his main character's evil deeds-the pointless murders of an innocent old woman and her half-sister-to explore their psychological consequences.
    Dostoyevsky understood punishment not as a concept but as bitterly lived experience. A parlor radical in his youth, he was arrested, along with dozens of utopian associates who questioned the regime of Czar Nicholas I, and put through a mind-bending form of psychological torture: he was convicted of treason, sentenced to death, blindfolded and put in front of a firing squad-only to be given a reprieve at the last moment and sentenced to four years of exile in a Siberian prison camp.
    The author's years in chains deepened and darkened his view of the human condition and inspired his creation of Raskolnikov, the impoverished former student whose love of idealistic concepts outpaces his love for the messy realities of human life and leads him to justify his murders as an expression of his self-declared superiority over the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the chilling trajectory of the sort of evil that begins with grandiose visions of the superhuman, only to end in the death camps of Hitler's Germany, the gulag of Stalin's Russia and the horrors of the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty young man is the dark prophet of the 20th century's false gods.

Time: The 100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất chưa hề sống.

Note: Bài điểm thần sầu. Mít mũi tẹt khó mà viết nổi những bài như vầy, lý do là, viết như kít, cả 1 đám băng đảng xúm lại hít hà rùi!

Hà, hà!

GCC đọc Tội Ác đúng thời mới lớn, quen BHD, khi chờ Em, trong 1 quán cà phê túi của Sài Gòn, cùng những tác giả của thời mới lớn như Sartre, với Buồn Nôn, Camus với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và những tác giả Mác xít như Henri Lefebvre, Lukacs..

Cùng với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài người.
*

Từ Inferno, Hỏa Ngục, của Dante, nơi địa ngục xem ra thú vị hơn nhiều, một cái “deal” - tạm dịch từ này, theo 1 nghĩa tiếng Tây, dễ hiểu hơn so với tiếng Anh, một “áp phe” tốt, so với thiên đàng, tới Thiên Đàng Đã Mất của Milton, nơi quỉ Satan có được những dòng tuyệt cú mèo, tới Othello của Shakespeare, nơi những mưu đồ của Iago xem ra bảnh [compelling: ép buộc] hơn so với đạo hạnh của Othello, những nhà văn đã học được cái bí mật đen thui của giả tưởng: Cái Ác mới là bố chó xồm, chứ không phải Cái Tốt! [Cái dáng vẻ của cái ác, đẹp hơn nhiều, so với bộ dạng tầm phào, nhà quê, cù lần của….  GCC, ấy chết xin lỗi, của cái tốt của con người]. Tuy nhiên, trong Tội Ác và Hình Phạt, của Dos, tác giả nháng 1 phát, qua hai cú giết người, mụ già cầm đồ và cô em/chị, của nhân vật chính, và dành thì giờ triển khai những hậu quả tâm lý của chúng.
Dos hiểu hình phạt, không như 1 quan niệm, mà là kinh nghiệm sống chát chúa. Vừa chập choạng vào đời, mê tư tưởng cấp tiến, bèn bị mã tà, lính kín, của nhà nước tóm, cùng với chừng một tá bạn bè cũng không tưởng như anh ta, khi cả đám dám tra vấn, hỏi tội chế độ Nga Hoàng Ni Cô La Đệ Nhất, và trải qua 1 cuộc tra tấn tâm lý: anh bị kết tội phản bội, bị án tử, bị buộc vô 1 cái cột, mắt bị bịt kín, chờ 1 viên đạn kết thúc đời mình từ đội hành quyết, nơi pháp trường, chỉ tới phút chót thì mới biết, án chết được đổi thành án lưu đày bốn năm nơi trại tù Siberia.
Những năm trong xiềng càng làm sâu tối thêm cái nhìn của tác giả về phận người, và tạo hứng cho ông đẻ ra nhân vật Raskolnikov, anh chàng cựu sinh viên nghèo mà tình yêu những quan điểm lý tưởng vượt lên khỏi cõi đời thực làm xàm, bát nháo, dẫn anh ta tới chuyện biện minh cho hai cú làm thịt người, như là để trình diễn tính ưu việt của 1 thứ cá nhân con người như anh ta, so với hạ cấp đồng loại là toàn thể nhân loại còn lại kia. Qua nhân vật Raskolnikov, Dostoyevsky vẽ ra quỹ đạo ớn lạnh của 1 thứ ác, bắt đầu bằng những viễn ảnh hoành tráng về siêu nhân, than ôi, sau cùng bèn chấm dứt bằng những trại tử thần của 1 nước Đức của Hitler, bằng Gulag của một nước Nga của Xì Ta Lỉn, bằng những ghê rợn của cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa của một nước Tẫu của Mao Xếnh Xáng, bằng Lò Cải Tạo của 1 Bắc Kít của Bác Hát. Anh chàng trẻ tuổi tội lỗi này đúng là 1 nhà tiên tri u ám của những vị thần dởm của thế kỷ 20.

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Lần Gấu “sống sót” hai trái mìn VC (hai, chứ không phải một), một đồng nghiệp làm Bưu Điện [Mười Mưu], biểu Gấu, anh như vậy là khó chết lắm!

Primo Levi, cũng “bị” 1 ông bạn gật gù, ông phải “thế nào”, thì mới sống sót Lò Thiêu. Cáu quá, Primo Levi bèn tự làm thịt cái mạng mình, hà hà!

Sống sót hai trái mìn VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, ở bờ sông Xề Gòn, chưa ghê bằng sống sót Cô Ba. Gấu Cái mà còn phải ngạc nhiên, mi bảnh thật, làm thất vọng đám bạn quí của mi, ta thú quá!

Lần về lại Xề Gòn, Gấu có ghé thăm Mười Mưu, nhà ở chung cư Bưu Điện, đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, anh mừng quá, và xin lỗi, về cái lần gặp Gấu ngồi viết mướn ở Bưu Điện, đúng lúc đói cơm đen, ngáp lên ngáp xuống, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng, “lần đó, thú thực muốn giúi vô tay anh tí tiền đi làm 1 mũi, nhưng gửi cái điện xin tiền người bà con ở nước ngoài xong, chẳng còn đồng nào!”



Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Những con phố sau của Hà Nội

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.

Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá cà chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.

Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.

Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu

Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.

THE BACK STREETS OF MOSCOW

Buzzati and Kafka (3): Drogo hears the news that a battalion of Tartars may at last be approaching the Fort. Feeling too weak to fight, he tells himself that the news will prove mistaken. "He hoped that he might not see anything at all, that the road would be deserted, that there would be no sign of life. That was what Drogo hoped for after wasting his entire life waiting for the enemy."


Drogo nghe tin mấy chục binh đoàn Rợ Tác Ta ở ngay bên ngoài thành Xề Gòn. Sẽ có Biển Máu!
Nhưng chàng quá già, [tay thì bị gẫy vì mìn VC], thành ra bèn hi vọng, tin dởm. Làm đếch gì có chuyện đó!
Đó là điều Drogo hi vọng, sau khi mất tiêu cả cuộc đời, chờ đợi một kẻ thù đếch có!

I [Manguel] loved someone who died. The last time I was with him, death made him look as if he had woken up in the past, magically young, as he had once been when he was without experience of the world, and happy because he knew that everything was still possible.

Tớ yêu một kẻ đang chết. Lần chót tớ ở bên, cái chết làm cho kẻ đó như sống lại từ quá khứ, trẻ thơ một cách thật diệu kỳ, như chưa từng có một tí kinh nghiệm gì từ thế giới, và hạnh phúc, vì hắn ta biết, mọi chuyện thì vẫn có thể.

Bientôt, je serai tout le monde. Je serai mort. Borges.
Chẳng bao lâu đâu, ta sẽ là cả thế giới. Ta sẽ ngỏm.

The Palestinian poet Mahmoud Darwish: "I am myself alone an entire generation."
Ta, chỉ mình ta, là trọn cả một thế hệ.

*

Lưu vong

Có những bàn tay dưới mặt bàn.
Có một bông hồng trầm ngâm.
Hừng đông đỏ như trái cây chín mọng. 

Bây giờ, xứ sở của tôi xa dần cùng với những người ra đi.
Bây giờ, nỗi buồn và thời gian thì giống nhau.
Xa dòng sông, con suối mất con đường của nó.
*

… Ông dịch bài thơ Lưu Vong:

"Có những bàn tay dưới mặt bàn (table)
Có một bông hồng trầm ngâm.

Đúng ra:

Có những bàn tay dưới cát (sable)
Có một bông hồng trầm ngâm.

Đường xa ...mắt mờ? :-)

Kính

G.

*

Sẽ sửa lại.

Kính.

NQT

TB: Tôi nhớ ra rồi, bàn [table] chứ không phải cát [sable], vì bàn kết hợp với bông hồng sầu muộn.
Đây là cảnh đã xẩy ra ở ngoài đời, tôi lẫn lộn giữa dịch và sống lại một kỷ niệm.

Cám ơn bạn một lần nữa.

NQT



Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Cicadas

The hawk, a little lost,
I thought,
circled over an azure sea.
The cliffs warmed and grew.
We swam a long time, buried in the water.
A minibus dropped off mongoloid children
with pale faces
like unfinished marble statues.
My skin tasted salty,
I'd become a rock, a mineral.
We read our hot books lazily.
Resin melted in the pines.
We exist between the elements,
between fire and sleep.
Pain chases
or outstrips us.

Adam Zagajewski

Ve Sầu

Diều hâu, hơi lạc lõng
Hẳn thế,
Lượn vòng vòng trên biển xanh.
Vách đá ấm lên, lớn ra
Đôi ta tắm thật lâu, chìm trong nước.
Một chiếc xe mini-bus đổ ra những đứa trẻ bị bịnh
Mặt nhợt nhạt
Như những pho tượng cẩm thạch chưa hoàn tất
Da Gấu mặn
Gấu biến thành một hòn đá, một cục khoáng.
Đôi ta đọc những cuốn sách nóng của chúng ta
một cách lười biếng
Nhựa thông tan ra trong những thân cây.
Đôi ta hiện hữu ở giữa những phần tử
Giữa lửa và ngủ
Nỗi đau rượt đuổi
Hay bỏ xa đôi ta

Ui chao, quỉ thế, đọc bài thơ, thì bèn nhớ đến Quán Con Ve Sầu ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao.
Cũng gần nhà Gấu.
Bạn C, em TTT,  mê ăn tối, và nhìn thiên hạ nhảy đầm ở đây lắm.
Chủ, một anh Tây, [quỉ thế, lại nhớ anh Tây quen Greene, trong Ways of Escape], chiều chiều dạo bộ với đấng con trai.

NQT

*

*

Bạn nhìn bức hình, thì nhà hàng La Cigale, Con Ve Sầu ở phía sau lưng bạn. Cà phê Duyên Anh cũng đâu đó. Rồi “Con Bò Khùng” Crazy Cow [?], một “snack bar” nổi tiếng thời Sài Gòn đầy Mẽo. [Hình 1967-68]

AN AGELESS MAIGRET

as Penguin republish 75 of Simenon's detective stories, Simon Willis finds the master of the genre well served in translation

From INTELLIGENT LIFE magazine, January/February 2014

ENGLISH TITLE THE HANGED MAN OF SAINT-PHOLIEN

ORIGINAL TITLE LE PENDU DE SAINT-PHOLIEN

AUTHOR GEORGES SIMENON

ORIGINAL LANGUAGE FRENCH

TRANSLATOR LINDA COVERDALE

Inspector Maigret—resolute, taciturn, "a pachyderm plodding inexorably towards its goal"—was Simenon's most indelible character, and by far his busiest. This was one of ten Maigret books that Simenon wrote in 1931 alone. There are 75 in all, now being republished by Penguin at the rate of one a month. He was a master of northern-European drear, dusky railway stations and seedy hotels. This investigation begins with all three, and a suicide in Holland. He was also a master of ambiguity. The suicide may or may not be connected with a crime, but either way Maigret's determined suspicions are its proximate cause. The story rivets you with its reversals. By the time you get to the climax, the line between victim and perpetrator is as foggy as the weather.

Linda Coverdale's new translation achieves what translations should: invisibility. When he was young, Simenon got some advice from an estimable source—Colette told him to "cut, cut, cut". His prose, shorn of adjectives and adverbs, seems in Coverdale's hands to be ageless, and delivers a lot with a little. In 138 pages, we move between Bremen, Rheims, Brussels and Paris, the internationalism lending glamour to the grit as Maigret sheds light on a shady group with a dark secret. As the clues pile up, so does the weight on Maigret's shoulders. The novel's clincher, and Simenon's gift, is to wring sympathy from the sinister mood, so that the big reveal isn't just about whodunnit but a heavy dilemma set up with a light touch.

Kẻ bị treo cổ ở Saint-Pholien.
GCC chưa đọc cuốn này!

Simenon 1 ông Thầy dạy tiếng Tây, sau thì quá mê. Thời gian vừa mới ra trường, Diệm còn, hai năm làm chuyên viên sửa máy tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng VTD Bưu Điện, số 11 Phan Đình Phùng Saigon, mỗi lần đi công tác Đài địa phương, để sửa máy tại chỗ, là phải mang theo 1 cuốn Simenon! (1)

“Thằng ngu thiên tài” như 1 "Thầy" gọi ông.

Simenon trả lời The Paris Review

Câu hỏi chót. Ông có bao giờ bị bực mình vì những lời phê phán của mấy ông phê bình gia, và có khi nào sự phê phán của họ khiến ông thay đổi cách viết?

Chẳng bao giờ có chuyện đó. Tôi rất cứng cựa trong cái việc viết của tôi, và tôi đi theo đường của tôi. Trong vòng hai mươi năm trời, mấy thằng vỗ ngực xưng tên là phê bình đó, chúng chỉ nói, cùng một điều: Đã đến lúc thằng cha Gấu phải cho ra đời một cuốn tiểu thuyết tổ chảng, trong đó có chừng hai chục tới ba chục nhân vật. Chúng ngu quá không hiểu Gấu chỉ viết Tạp Ghi, viết Tin Văn, viết Net… Gấu sẽ chẳng bao giờ viết một cuốn tiểu thuyết lớn. Cuốn tiểu thuyết lớn của Gấu, là trang Tin Văn, trên đó khảm tất cả những gì Gấu viết. Ông hiểu Gấu chưa?

Hiểu. Nhân tiện, chúc mừng sinh nhật ông Gấu!

Tks
*
Mi cứ viết ba cái lăng nhăng, nó lậm tới xương, tới tuỷ, làm độc tới cái phần ngu ngơ nhất của trái tim của mi rồi, Gấu ơi!

Gấu Cái
*
Vào cái lúc đầu đời, có tác phẩm, tác giả nào ông mặn?

Có lẽ người gây ấn tượng mạnh nhất ở nơi tôi là Gogol. Và tất nhiên, Dos, nhưng không ghê bằng Gogol.

(1) 

Mộ Tuyết

Ba Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu, không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.
 

Chính là nhờ Diệm chết mà Gấu được chuyển qua bộ phận Quốc Tế, rồi tình cờ run rủi, làm thêm cho UPI, quen PXA và một số phóng viên, nhiếp ảnh viên nước ngoài, đời Gấu qua 1 khúc ngoặt khác hẳn....



Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Happiness

Whoever embraces a woman is Adam. The woman is Eve.
Everything happens for the first time.
I saw something white in the sky. They tell me it is the moon, but
what can I do with a word and a mythology.
Trees frighten me a little. They are so beautiful.
The calm animals come closer so that I may tell them their names.
The books in the library have no letters. They spring forth when I open
them.
Leafing through the atlas I project the shape of Sumatra.
Whoever lights a match in the dark is inventing fire.
Inside the mirror an Other waits in ambush.
Whoever looks at the ocean sees England.
Whoever utters a line of Liliencron has entered into battle.
I have dreamed Carthage and the legions that destroyed Carthage.
I have dreamed the sword and the scale.
Praised be the love wherein there is no possessor and no possessed, but
both surrender.
Praised be the nightmare, which reveals to us that we have the power to
create hell.
Whoever goes down to a river goes down to the Ganges.
Whoever looks at an hourglass sees the dissolution of an empire.
Whoever plays with a dagger foretells the death of Caesar.
Whoever dreams is every human being.
In the desert I saw the young Sphinx, which has just been sculpted.
There is nothing else so ancient under the sun.
Everything happens for the first time, but in a way that is eternal. I
Whoever reads my words is inventing them.

Note: Đây là bài thơ đầu tiên của Borges, Gấu đọc qua bản tiếng Pháp, thời gian mới quen thi sĩ Joseph Huỳnh Văn, bèn dịch tặng bạn. Bạn thích quá, nói, mi giỏi tiếng Tẩy, hỉ?
Cũng là lần đầu Gấu biết Borges.

Hạnh Phúc

Kẻ nào ôm 1 em, thì kẻ đó là Adam. Em đó là Eve.
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu tiên
Tôi nhìn thấy 1 cái gì trắng trên bầu trời. Họ biểu tôi mặt trăng
Nhưng tôi làm gì với 1 từ và một huyền thoại học
Cây cối làm tôi hơi có tí sợ. Chúng mới đẹp làm sao
Những con vật êm ả tới gần, thật gần đến nỗi tôi có thể nói cho chúng biết tên của chúng
Những cuốn sách ở trong thư viện không có chữ. Chúng chồm ra khi tôi mở những cuốn sách.
Rong ruổi qua bản đồ, tôi phóng chiếu hình dáng Sumatra.
Bất cứ kẻ nào đốt cây quẹt trong đêm tối, kẻ đó phịa ra lửa.
Bên trong tấm gương một Kẻ Khác rình
Bất cứ kẻ nào nhìn biển, thấy Xứ Ăng Lê.
Kẻ nào hót Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm, kẻ đó biến thành Quỉ Đỏ.
Tôi mơ Carthage và những binh đoàn tàn phá, huỷ diệt Carthage
Tôi mơ cây gươm và lớp rỉ sét
Cầu xin tình yêu, một khi mà đếch có kẻ sở hữu, chiếm đoạt cũng như kẻ bị làm thịt, nhưng mà có hai kẻ cùng đầu hàng!
Cầu ác mộng, nó vén lộ cho chúng ta rằng, chúng ta có quyền năng tạo ra Địa Ngục
Bất cứ kẻ nào mò xuống sông, kẻ đó mò xuống Sông Hằng.
Bất cứ kẻ nào nhìn đồng hồ cát, kẻ đó nhìn thấy sự tan rã của một đế quốc.
Bất cứ kẻ nào chơi với dao găm, kẻ đó tiên tri cái chết của Casear.
Bất cứ kẻ nào nằm mơ, kẻ đó là con người
Nơi sa mạc, tôi nhìn thấy con Nhân Sư. Nó vừa mới được tạc.
Chẳng có gì cũ, xưa, cổ…. dưới ánh mặt trời.
Mọi chuyện xẩy ra, thì đều là lần thứ nhất, nhưng theo 1 đuờng hướng, thiên thu vĩnh viễn, hằng hằng.
Kẻ nào đang đọc những dòng này, kẻ đó phịa ra chúng.





*

Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố


Đọc, như nhìn lại được cả hai lần Miền Nam ăn đòn Yankee, một mũi lõ, một mũi tẹt!

*

*

Malaparte: Tên Du Côn Thần Sầu

This is the first unexpurgated English edition of Curzio Malaparte’s legendary work The Skin. The book begins in 1943, with Allied forces cementing their grip on the devastated city of Naples. The sometime Fascist and ever-resourceful Curzio Malaparte is working with the Americans as a liaison officer. He looks after Colonel Jack Hamilton, “a Christian gentleman … an American in the noblest sense of the word,” who speaks French and cites the classics and holds his nose as the two men tour the squalid streets of a city in ruins where liberation is only another word for desperation. Veterans of the disbanded Italian army beg for work. A rare specimen from the city’s famous aquarium is served up at a ceremonial dinner for high-ranking Allied officers. Prostitution is rampant. The smell of death is everywhere.

Subtle, cynical, evasive, manipulative, unnerving, always astonishing, Malaparte is a supreme artist of the unreliable, both the product and the prophet of a world gone rotten to the core.

In The Skin the war is not yet over, but its conclusion is already decided. The bombs are still falling, but falling now on a different Europe. Yesterday no one had to ask who was the executioner and who the victim. Now, suddenly, good and evil have veiled their faces; the new world is still barely known … the person telling the tale is sure of only one thing: he is certain he can be certain of nothing. His ignorance becomes wisdom.

—Milan Kundera

Graham Greene

Ways of Escape

&

The Life of Graham Greene
Volume 2: 1939-1955
Norman Sherry

"Về nhà với Phượng. Quên mẹ Lực Lượng Thứ Ba đi."
Fowler, anh ký giả già Hồng Mao, ghiền, khuyên Pyle, Người Mẽo Trầm Lặng

Ngô Đình Diệm mang trong ông huyền thoại về một con người Mít hoàn toàn Mít, không đảng phái, không Đệ Tam, Đệ Tứ, không Việt gian bán nước cho Tây, cho Tầu, cho Liên Xô. Cùng với huyền thoại về một vĩ nhân Mít hoàn toàn Mít đó, là huyền thoại về một lực lượng thứ ba, như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, đây là đề tài của cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng" của Greene. Fowler khuyên anh chàng Mẽo ngây thơ, trầm lặng, mang Phượng về Mẽo, quên mẹ nó lực lượng thứ ba đi: lịch sử diễn ra đúng như vậy, nước Mẽo đã dang tay đón bao nhiêu con người Miền Nam bị cả hai bên bỏ rơi, những cô Phượng ngày nào. (1)

Cả cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng" xoay quanh nhân vật Thế, “Lực lượng thứ ba”, không có Thế [LLTB] là không có nó. Chúng ta tự hỏi, liệu có LLTB?

The's influence is central to the plot of The Quiet American. He is the catalyst who reveals Pyle's 'special duties” '. The's desperate actions in the novel are based on historical fact. Greene also asserts, both in the novel and in his non-fictional writing, that the CIA was involved with The, providing him with the material to carry out nefarious actions. This is what so scandalized Liebling in the New Yorker: 'There is a difference . . . between calling your over-successful offshoot a silly ass and accusing him of murder.’

In his dedication to Rene Berval and Phuong, Greene mentioned that he had rearranged historical events: 'the big bomb near the Continental preceded and did not follow the bicycle bombs. I have no scruples about such small changes.'

Ảnh hưởng của Thế là cốt lõi trong "Ván Bài Bật Ngửa" [Bật, không phải Lật. NQT], tức "Người Mỹ Trầm Lặng" của GG. Anh ta là chất xúc tác vén lộ những đặc vụ của Pyle. Những hành động liều lĩnh của Thế trong cuốn tiểu thuyết được dựa trên những sự kiện lịch sử. G cũng xác nhận, cả trong cuốn tiểu thuyết, lẫn những bài viết không có tính giả tưởng, rằng bàn tay lông lá của Xịa cung cấp vật liệu cho Thế, để thực hiện những cú bỉ ổi...




Trong "Tiểu sử Graham Greene", Tập Ba, Norman Sherry cho biết, tay ký giả ghiền Hồng Mao, Fowler, ngồi ở Quán Chùa, khi cú mìn nổ xẩy ra trên đường phố Catinat.

Tác giả cú mìn nổ, là TMT, “lực lượng thứ ba”, mà Xịa cố tìm, để đấu với cả hai phe CS lẫn Tẩy, thực dân cũ, và cùng với nó, là chủ nghĩa thuộc địa, “nguồn” đầu tiên, của “Người Mẽo Trầm Lặng”, khi GG nghe 1 tên Xịa, say, phọt ra, lần trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn.

Gấu quen Cao Bồi, là ở Quán Chùa, qua TTT, trong một lần đang ngồi uống cà phê, với nhà thơ, thì Cao Bồi tạt qua. Khi đó, Cao Bồi còn thỉnh thoảng ghé Quán Chùa, và chưa nổi tiếng. Có lần, CB ngồi với Gấu rất lâu, vào lúc sáng sớm, quán không có ai, và trong lần đó, anh có nói về cái vụ Time tính tìm hai đấng nhà văn đại diện cho hai miền, cùng lèm bèm về cuộc chiến Mít, đại khái thế. CB cũng đã có lần ghé nhà GCC đánh xì, khi Gấu chưa lấy vợ. Khi CB trở thành Tướng Givral, thì Gấu đã từ giã Quán Chùa từ khuya, như CB, và thay nó bằng Quán Đen, rải rác trong khắp Sài Gòn, trong những tận cùng ngõ hẻm của nó.

Tập Ba của bộ “Tiểu Sử GG” kết thúc bằng chương “Đêm Trắng Albany”, với những trang viết về Cơm Đen, thật tuyệt vời.

"Từ biệt xứ Mít, GG mang theo cùng với ông, 1 kỷ niệm của nó, là cái tẩu hút thuốc phiện, “thần vật cổ” mà GCC đã từng nhiều lần chiêm ngưỡng, bên ánh đèn dầu lạc. Greene cảm thấy ông sẽ chẳng bao giờ lại được nhìn thấy cảnh ‘mặt trời lặn lạ thường trên Vịnh Hạ Long, hay, ngọn lửa đèn dầu lạc chiếu sáng mặt anh bồi tiêm, khi nướng thuốc”. Xứ Mít lùi vô sau tấm màn bằng nhựa, xen diễn cuối, the last performance, bắt đầu. Những ngày Catinat hết rồi, ông sẽ nhớ những quán cà phê hai bên đường, những nhà hàng, những người đàn bà thanh lịch, trong chiếc “ao dai”, chiếc áo cổ truyền, quốc gia của xứ Mít.
Vào lần thăm viếng chót Vietnam, G hút hơn thường lệ, vốn ba bi, hoặc bốn, nhưng lần đó, cô đơn, alone, tại Sài Gòn, trong khi chờ 1 cái visa khác, tiếu lâm thay, 1 visa VC, ông hút đến bất tỉnh nhân sự, he smoked himself inert. Những lần đi Quán Đen trước đó, thường là với sĩ quan Tẩy, mỗi tuần quá hai lần; bây giờ, trong ba lần ghé Quán Đen, ông chơi 10 bi mỗi đêm. Một "đô" như thế cũng chẳng trở thành ghiền, một tên ghiền, má hóp lại, thường là phải chơi ít lắm là 100 bi, một ngày!
G hy vọng, hít tô phe để tìm lại những ngày tháng hạnh phúc cũ. Ông nhớ, trong một bản thảo không in ấn, có tên là “Thuốc phiện ở Albany”, Sir Tan Chen Lock có lần phán: Tôi không hiểu bằng cách nào 1 người đàn ông, ở quãng nửa đời mình, có thể kham nổi công chuyện, nếu không có sự trợ giúp của thuốc phiện”. Một người bạn đã mang về từ Persia, cho G một thỏi sô cô la - trông bề ngoài -nhưng mà là thuốc phiện. Và cái thú hít tô phe trong Albany đêm trắng, đã trở thành hiện thực. Chàng bèn mời em của chàng, Catherine, chia với chàng bi chót. Đếch có đèn dầu lạc, bèn đốt 1 ngọn nến!"

Và GCC bỗng nhớ đến những dòng ca ngợi rượu vang của Cô T, khi đọc những dòng sau đây, trong chương cuối, “Đêm Trắng Albany”:

"Greene bỗng nhớ Dottoressa Moor of Capri đã tặng ông 1 cái hộp thiếc, trong đựng thuốc phiện, đã hai chục năm tuổi. Ông kiếm ra cái hộp thiếc, và sững sờ, khi thấy nó tươi rói – in perfect condition: “Như rượu vang hạng thượng thừa, thuốc phiện giữ được phẩm chất của nó hàng mấy kỷ”. [‘Like a great wine opium guards its quality over the decades.’] Cực kỳ khó nướng, do lửa ngọn đèn cầy bập bùng, chao đảo, cuối cùng, cả hai cũng mỗi người hít được ba bi!"

Ui chao, lại nhớ đến bạn hút, là ca sĩ thượng thừa Sĩ Phú. Anh có tài nướng thuốc thần sầu. Đi với anh, là chẳng cần đến bồi tiêm: “Cái sự yên tĩnh của Albany thì giống như ở một quán đen, nơi, đếch ai làm phiền đến cơn trầm tư của kẻ đối diện”

**

While the novel is anti-American, it is also anti-British in the sense that Fowler, the tired cynic, commits the greatest sin in Greene's catechism - the fatal betrayal of a friend. In life Greene's loyalty to friends knew no limits. Fowler involves himself with the Vietminh because he discovers that Pyle's naive dealings with the rebel Colonel The have led to the deaths of innocent civilians." Pyle is involved in political intrigue beyond his capacity to manage.

The Quiet American is based on Greene's experiences, but it is based on other people's as well. Pyle, as we have seen, has no single source. The young unfortunate Jollye, whom Greene met in Malaya, alone made an important contribution to the creation of Pyle in the sense that Jollye's naiveté and lack of cunning gave Greene his notion of how to develop his fictional character. That an Englishman was one source for the American is ironic. Newsweek's title for its review: 'This Man's Caricature of the American Abroad' need not have burst any American blood vessels for Pyle was also 'This Man's Caricature of an Englishman Abroad'.

*

Absorption of a place and its atmosphere was a necessity for Greene. He searched for exactitude in order that his characters could come alive in their setting. He felt, as did Conrad, the necessity of doing 'justice to the visible universe'.

American journalists on their way to Vietnam, after the French had withdrawn, took in their backpacks a copy of The Quiet American. It was the most reliable account of what it was like in Vietnam: it was also prophetic. Americans writing later about the Vietnamese debacle, when they in turn lost to the Viet Cong, felt that American policy-makers should have listened to Greene. It was the truth of the situation he found in Vietnam that was important, so since he was such an accurate chronicler of the period, anti- Americanism in some form had to appear in the novel because strong anti-Americanism was historically present, most of it emanating from….

* When Greene interviewed President Diem, he asked him why he had allowed the  return when he was responsible for killing so many of his own people, Greene recalled that Diem burst into peals of  laughter and said: ‘Peut-être, peut-être '.

Tiểu sử GG. Tập Ba, Chương 33:

He who does not bellow the truth when he knows the truth makes himself the accomplice of liars and forgers.

- CHARLES PEGUY

Cái lực lương thứ ba, dù có, dù không, được, không chỉ Mẽo, mà cả VC lợi dụng. Tên VC nằm vùng Đào Hiếu chẳng đã nhận là hắn lên rừng theo VC, là vì đọc Camus, hiện sinh, nổi máu nghĩa hiệp!
Khi phán như thế, 1 cách nào đó, là thuộc lực lượng thứ ba!
Tao đéo phải là CS, đéo phải là Ngụy.
Đọc hồi ký của mấy tay nằm vùng có tí máu văn nghệ này, thật là tởm.
Kể cả cái đấng TDBC đang được đám hải ngoại ve vuốt.

Kít.

Chẳng thằng nào dám nhận lỗi trong vụ làm mất Miền Nam, mà chúng có phần "trách nhiệm" cực nặng, cực thúi [tao đọc Camus nên theo VC, thí dụ], ở trong đó. Cao Bồi, chết, đi không được, là do nhận ra cái lầm lẫn nặng nề của ông: Địa ngục đếch có chỗ cho tớ, là như vậy.

Thua tụi mũi lõ. Chúng dám làm, dám chịu, dám nhận lỗi. Jane Fonda, Sartre, thí dụ.

… it was also prophetic, nó còn có tính tiên tri. Fowler khuyên anh Mẽo “ngây thơ, trầm lặng”, quên mẹ “ lực lượng thứ ba” đi, nó từ sách vở, hay từ chốn ma quỉ nào [từ cái chuồng lợn Bắc Kít], bò ra. Quên nó đi, và đem Phượng về Mẽo.

Phượng hoàng tái sinh từ tro than của nó. Bao nhiêu em Mít đã ra khỏi cái xứ sở khốn khổ khốn nạn, kể cả làm dâu Tẫu, Đại Hàn.... là từ em Phượng của GG.

Greene provided surprising support for colonialism, suggesting the relativity of his political beliefs. Elsewhere he wrote: 'the writer should always be ready to change sides at the drop of a hat. He stands for the victims, and the victims change'. 22  In an article for Paris Match he took a more Olympian view:

It is a stern and sad outlook and, when everything is considered, it represents for France the end of an empire. The United States is exaggeratedly distrustful of empires, but we Europeans retain the memory of what we owe to Rome, just as Latin America knows what it owes to Spain. When the hour of evacuation sounds there will be many Vietnamese who will regret the loss of the language which put them in contact with the art and faith of the West. The injustices committed by men who were harassed, exhausted and ignorant will be forgotten and the names of a good number of Frenchmen, priests, soldiers and administrators, will remain engraved in the memory of the Vietnamese: a fort, a road intersection, a dilapidated church. 'Do you remember,' someone will say, 'the days before the Legions left?' 23

Elsewhere he wrote: "the writer should always be ready to change sides at the drop of a hat..."

Nghe cái nón tai bèo rớt xuống, lá cờ Giải Phóng bị vứt vô thùng rác, là phải chạy về phía Miền Nam bị tứ phía bỏ rơi, rồi. Lũ khốn VC nằm vùng, lũ tinh anh bỏ chạy bợ đít VC, chẳng còn 1 tí nhân tính, là vậy.



Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

*

Hình lấy trên net. Tân Định. Phía bên trái, là đường Trần Quang Khải. Ngay đầu đường, có nhà bảo sanh Trương Phương (?), mấy đứa nhỏ con vợ chồng Gấu đều sinh tại đây. Kế nhà bảo sanh vài căn, là nhà ông chú, Chú Th, bạn học của ông già. Gấu có nhắc tới ông chú này, trong đi tìm một cái tên cho 1 cuộc chiến.

Cầu Kiệu, Phú Nhuận ở phía sau. Phía trước, đi mãi tới Bến Tầu Sài Gòn. TOBIA là nhà hòm.

Tên của cuộc chiến

Từ văn phòng hãng thông tấn UPI, 19 Ngô Đức Kế, nhẩy mấy bước là tới khách sạn Majestic. Một bữa xuống sở, gặp nhiếp ảnh viên người Nhật, Sawada Kyoichi. Tôi bảo anh, tuần trước mới cưới vợ. Anh tròn xoe mắt, nói sao không cho biết. Đám cưới mãi tít Cai Lậy, "many VC there!" Anh bật cười, kéo tôi băng qua đường, lên terrace khách sạn, làm một chầu ăn sáng.

Quán Chùa (La Pagode) là một địa điểm quen thuộc của giới văn nghệ sĩ Sài Gòn trước đây. Theo các miêu tả thời đó thì đây là nơi chủ yếu có mặt những người thuộc một "thế hệ mới" trong văn chương Sài Gòn.
Trong lời nói đầu cho Đêm nghe tiếng đại bác của Nhã Ca (bản Nam Cường, 68), Nguyễn Mạnh Côn viết như sau:


Cái sự kiện Gấu hay ngồi ở Quán Chùa, và đám bạn cũng kéo nhau ra đó, hoàn toàn là do "ngẫu nhiên, tình cờ":
Sở làm của Gấu ở kế đó!

Gấu làm cho UPI, trụ sở số 19 Ngô Đức Kế, con đường nhỏ phía cuối đường Tự Do, một đầu đâm ra Chợ Cũ, một ra bùng binh bờ sông, có bức tượng Trần Hưng Đạo, đưa tay chỉ ra sông, ra biển. Sáng sớm, Gấu phải chạy xuống Sở, coi có hình radio photo cho cữ 8 giờ sáng, đi Tokyo. Thường là không, vì có gì, đã chuyển cữ chiều hôm trước rồi.
Khi không có hình, Gấu bèn ghé Quán Chùa.

Tuy nhiên, cái sự kiện hay ngồi Quán Chùa, thì bị hơn 1 ông Nguyễn Mạnh Côn chửi rồi. Trước nhất, là đám nằm vùng, trong có đấng Lữ Phương. Ông này dùng từ “viễn mơ” để chửi đám Gấu. Không chỉ hay ngồi Quán Chùa, đếch biết đến nỗi quê hương bị Mẽo dầy xéo, vân vân và vân vân, mà còn thờ phụng thứ văn chương hiện sinh, ăn phải cứt mũi lõ, bày đặt tiểu thuyết mới này nọ!
Rồi tới đám Ngụy cầm súng, thực sự tham chiến!

Rồi tới PCT!

Nhiều lắm. Duyên do chỉ là do Gấu Cà Chớn đầu têu!

Gấu đã viết về cái cảnh này rồi:

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.

Những buổi sáng, nếu có Radiophoto, khi xong việc, hoặc ở lại sở phụ giúp một đồng nghiệp làm ca sáng, chờ tới trưa coi UPI có hình cần chuyển, hoặc theo ông Hưng, đồng nghiệp làm cho hãng AP tới văn phòng hãng này, ở tầng lầu phía bên trên passage Eden, nhìn bức hình Huỳnh Thành Mỹ phóng lớn treo trên tường, uống ly cà phê kiểu Mỹ, nói dăm ba câu tiếng Tây với Horst Fass, trưởng phòng hình ảnh, rồi cùng ông Hưng đi kiếm mấy cuốn truyện "série noire" của một tay bán sách dạo ở một con hẻm chật cứng giữa hai bức tường gần bên tiệm thuốc tây trên đường Tự Do. Trường hợp không có Radiophoto, thường ngồi trơ cu lơ một mình trong lúc chờ bạn bè tại một bàn tại góc quán Cái Chùa, mơ màng tự hỏi không biết sáng nay cô bạn có giờ học tại Văn Khoa hay không, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ gặp một người chắc chắn hơn hẳn mi: Một người hoặc không nợ nần gì cuộc chiến nên không bị nó hành hạ đến trở thành khật khùng, hoặc thừa thông minh, thừa khôn ngoan để cùng cô thoát ra khỏi, cho dù người đó có yêu thương cô hay không thì mọi chuyện cũng chẳng liên can chi tới mi.

Hoặc ba hoa trò chuyện chán chê với đám bạn bè cho tới khi không còn kiếm ra một câu nói thật độc địa, thật cay đắng về nhau, về một cuốn sách vừa được xuất bản, một bài thơ, một truyện ngắn vừa được đăng báo, tựu chung cũng chỉ để quên đi một chốc một lát, hoặc may lắm một nửa buổi không nhớ tới cô bạn. Rồi cũng tàn câu chuyện, đám bè bạn từng đứa bỏ ra về. Huỳnh Phan Anh có thể đã đến giờ lên lớp, có thể bực mình vì thằng bạn Bắc Kỳ đổi tên cuốn truyện, Thất Lạc thành Thật Lạt, nhại cách nói của dân miền Nam. Còn Nguyễn Xuân Hoàng có lần bỏ quán Cái Chùa đến cả tuần lễ, chỉ vì cũng vẫn thằng bạn khốn nạn bầy đặt viết bài phê bình, giới thiệu cuốn sách mới ra lò của anh, Sinh Nhật, bị đổi thành Sinh Nhạt, và bài phê bình mang tên Đi Tìm Một Chiếc Mũ Đã Mất, nhại theo Proust. Bao nhiêu năm trời nhớ lại mới thấy càng thù ghét cái phần thâm căn cố đế, cái bản chất thâm độc nơi đáy sâu thân thể, bao nhiêu năm tháng, mưa gió, khí hậu, con người, vùng đất hiền hòa không sao gột rửa nổi. Ba mươi năm sau mới thấy nhớ, thấy thương bạn bè, đứa còn đứa mất, chẳng đứa nào được may mắn với cõi sống, cõi viết. Nguyễn Đình Toàn ở Việt Nam, nghe nói mắt cũng đã mờ. Huỳnh Phan Anh vợ con vượt biển không được may mắn. Còn Nguyễn Xuân Hoàng bây giờ lại ôm lấy tờ Văn, chẳng biết có nên cơm cháo gì hay không...
Cõi khác

Ngồi Quán Chùa, gọi 1 ly cà phê, 1 cái bánh croissant, rẻ hơn nhiều, so với mọi thứ ăn sáng khác, ở những quán khác. Và do Gấu cày hai jobs, thường là Gấu trả tiền, thời đó chưa có cái trò “kẻ nào ăn, kẻ đó trả”, theo kiểu Mẽo. Chẳng thế mà có 1 anh bạn, thuộc lớp đàn em, cũng lính tráng, sĩ quan, bây giờ, khi gặp lại ở Mẽo, vẫn còn nhắc, ra Quán Chùa, thấy anh ngồi đó, là "yên chí lớn" rồi!

Khi nào thèm bún ốc, thèm phở, thèm bánh cuốn Thanh Trì, thì Gấu tạt qua quán khác, xong, cũng lại về Quán Chùa uống cà phê.

Sau này, ra hải ngoại, Gấu vẫn tiếc, tới AP hoài, mà chẳng thèm ngó dung nhan Cô T, là vậy. Giả như quen biết từ hồi đó, biết đâu số phận lại khác đi, Cô T, có ông chồng tử trận, Gấu có thằng em, chẳng thua, nhưng, biết đâu nhờ vậy, Cô không quen cái băng Cờ Lăng, cũng 1 thứ sâu bọ  - ma cà rồng, quỉ, kên kên...  đúng hơn - sống bằng xác chết của ba triệu người, bám vào chủ nghĩa “Chống Cộng ra tiền”, biết đâu Cô T. làm được 1 bài thơ "Việt Nam" như bà Ba Lan, Nobel văn chương!  

Hà, hà!

Thê thảm nhất, là lần ghé Quận Cam, cùng lúc Cô T cũng từ.... Đồng Tháp xuống, Gấu bèn xin gặp, vừa uống cà phê, vừa ngắm nhan sắc, cô nói, anh tới chỗ… bữa nay ra mắt sách của băng Cờ Lăng. Ui chao, Gấu có bao giờ tới những nơi chốn như thế đâu.
Thế là lại hụt gặp!

[Khúc này viết để gửi tri kỷ, là độc giả TV, Mr. NT. Tks again. NQT]

Note: Có 1 quán, một cái xe đẩy, đúng hơn, bán bún ốc, tuyệt cú mèo, ở ngay… bên dưới tòa soạn AP, bên trong Passage Eden. Bà chủ xe bún ốc, có lần cho Gấu biết, để có ốc bán hàng ngày, gia đình quây cót, nuôi trong nhà, không cần phải đi chợ.

Ngồi ăn, nhìn ra, là thấy Rạp REX.
Gấu ăn bún ốc, xong, là trở lại Quán Chùa, tiếp bạn quí!

Note: Hai bài viết, đang Top Ten, theo server, là cũng về Xề Gòn, bạn bè ngày nào:

Tưởng Niệm Bạn Duật

* 

[Trong hình, Bạn Duật đứng hàng thứ nhì, đeo kính, đi giầy, tính từ phía trái]

Ba Trăm Năm Sau Có Ai Khóc Gấu Cà Chớn

Lại có ông, cứ mong được người đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ than: đây là nghiệp của tôi. Ông khác thì nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu được. Ôi ngứa thì gãi, nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp. Đừng để ba trăm năm sau, thiên hạ khóc cho cả… đất nước mình!

Gấu bị Thầy Kuốc thù, có thể là do đề nghị, nếu có ngứa, thì gãi, hoặc đi gặp Bác Sĩ, vì có khi, do di chứng của giang mai.

Đừng viết!

Có lần, được, chắc là đàn em “mồi”, hỏi, tại sao viết, Thầy buông độc 1 tiếng:
Ngứa!

Kẹt 1 cái, cả 1 đám đàn em sau đó, nhao nhao lập lại sư phụ, do ngứa mà viết!





Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Tôi nhớ bấy giờ là cuối năm 1970. Phạm Công Thiện, trong tư cách khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường đi Âu châu dự một hội nghị đại học quốc tế rồi đi luôn không bao giờ còn trở về Việt Nam nữa. Hết thảy chúng tôi đều sững sờ, khó hiểu. Riêng Thanh Tâm Tuyền không. Bảo tôi: “Anh phải nhìn thấy sớm muộn rồi Phạm Công Thiện cũng phải một lần bỏ đi như thế, đi hẳn thật xa, mất tích. Có như vậy mới đúng là Phạm Công Thiện. Chúng ta ít nhiều là những định tinh. Hắn hơn là một hành tinh. Hắn là một ngôi sao băng”. (Mai Thảo, Chân Dung: Mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam, Văn Khoa xuất bản, California, 1985, pp. 146–147).

Source

Cái chuyện PCT bỏ đi xa, đi hẳn thật xa, mất tích, theo Gấu, không thực sự bảnh như TTT phán.
Bảnh là phải như Kiệt, trong MCNK cơ. Bỏ đi rồi lại bò về để chết.

Vả chăng, MT phán, cũng đáng nghi lắm. Trí nhớ của ông có vấn đề, theo Gấu.

Gấu có tí kỷ niệm về PCT.

Khi đám “tiểu thuyết mới” nổi đình nổi đám, có lẽ ông bực, và đi 1 đường chửi mấy tên, bò vô nhà sách Xuân Thu, mua tờ báo Tây, ra đường, cặp nách, nhún nhảy, rồi tạt vô Quán Chùa.
Hình ảnh này, là từ Người Đi Trên Mây, theo Gấu. Anh có dáng điệu nhún nhảy đúng như PCT mô tả.
Hình như PCT cũng thấy mình hơi lố, bèn thòng 1 câu, tôi chửi chúng cũng là chửi tôi.
Ông biết, cái viết của ông, thực sự là cũng của thiên hạ.

Kỷ niệm kia, là về Simone Weil. Gấu hồi đó, tiếng Tây ăn đong, làm sao đọc nổi Weil. Đọc PCT, thấy chê Weil quá cỡ thợ mộc. Bèn bỏ qua tác giả này.
Rõ ràng là PCT không đọc, chưa từng đọc, hay có đọc mà chẳng thể nào hiểu nổi, Weil.
Thầy của ông là Henry Miller, nhưng sau này, Gấu đọc Miller, thấy PCT cũng chưa đọc thấu tay này, mà chỉ gãi ghẻ. Miller dám sống, và sống tới, viết tới, hơn PCT
PCT bảnh nhất, theo Gấu, như 1 thi sĩ. Đúng ra ông chỉ nên làm thơ, và dịch sách. NQT

Trường hợp PCT làm GCC nhớ tới Alain, và lời phán thật tuyệt của ông, trong lúc hơi có tí tự hào về… con người:

Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.

PCT lúc còn trẻ, cực kỳ kiêu ngạo [như ông viết, và được trích dẫn, trong bài viết “nguồn” nêu trên], nhưng do ông sợ cuộc chiến quá, bỏ chạy, thế là trúng thương, và đếch làm sao viết được nữa: ông “sống sót”, ngược hẳn ý của Alain, mà đúng như của Brodsky, khi phán:

"Virtue, after all, is far from being synonymous with survival; duplicity is."
J. Brodsky: "Collector's Item"

Đạo hạnh mắc mớ gì tới sống sót? Nhập nhằng, điếm thúi đồng nghĩa với nó

Cesare Pavese, viết, “Buồn ơi là buồn, khi làm hỏng những giấc mộng của đời mình, bằng cách thực hiện chúng”. (1)

GCC đã từng chép tặng PD, câu phán tuyệt vời này, khi ông mất.

Câu của CP, một cách nào đó, cũng có thể áp dụng vào trường hợp PCT.

(1)

“Il est une chose plus triste que d’avoir raté ses idéaux: les avoir réalisés”
Cesare Pavese, Le Métier de vivre, Nghề sống

Cả 1 lũ, cả 1 thế hệ, tinh anh Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC, không tên nào ra hồn, 1 cách nào đó, đều “sống sót”, theo nghĩa câu của Brodsky: Một lũ điếm thúi. 

Đâu phải tự nhiên VC cấm cửa chúng, không cho trở về lại xứ Mít? 

MT có thể coi là người độc nhất, trong nhóm ST - nếu không tính tới Ngọc Dũng, đi trước 30 Tháng Tư, 1975 - sống sót cuộc chiến Mít, sau 1975, ông không đi tù VC, và vượt biển, qua xứ Người sớm sủa, làm bạn với PCT, nghe nói, có hồi, cùng mê 1 em, và đã từng đánh lộn với nhau, vì bướm này. 

Ông nhớ lại TTT nói về PCT theo Gấu, là cũng để xoa đầu bạn quí PCT.
Với MT, TTT kể như chết rồi, nên ông nhớ “bậy” về bạn, như TV đã từng khui ra: Ông lầm TTT với 1 tên thợ sắp chữ, cũng trong cuốn sách được đám Hậu Vệ nhắc tới, “Chân Dung nhà văn” cái con mẹ gì đó. 

Cả cái vụ viết về DNM, rằng ông [MT] nhặt truyện ngắn đầu tay của DNM trong sọt rác 1 tòa soạn báo văn học Xề gòn, cũng rất đáng ngờ! DNM, còn sống, có lẽ nên đi 1 đường về cú nhớ này, nên chăng? NQT


*

Tay Pavese này bảnh hơn Gấu nhiều lắm, ổng dám đi luôn, còn Gấu, xin làm đệ tử Cô Ba, mấy lần năn nỉ, xin cho theo hầu luôn, cổ lắc đầu, mi còn phải trả nợ nhiều lắm, chưa đi được.
“Trăng & Lửa” có lẽ là cuốn tiểu thuyết “Mẽo ơi là Mẽo”, the most American novel, đã được viết bởi một ngôn ngữ nước ngoài.
Mẽo nhất, Mẽo ơi là Mẽo, 1 phần là nhờ Faulkner.
Đúng hơn, dịch Faulkner, nhưng, do viết văn, cho nên bị ảnh hưởng. Trong “Tại sao đọc những nhà văn cổ điển” của Italo Calvino có 1 bài thần sầu về ông. Gấu tính dịch hoài, quên hoài.

TV sẽ đi bài của Italo Calvino. Tuyệt.

Hé tí, sơ sơ, theo kiểu sex appeal:

Mỗi cuốn tiểu thuyết của Pavese thì lòng dòng [resolve] quanh 1 đề tài ẩn [hidden theme], một điều gì không nói ra, và đúng là điều ông muốn nói, và điều này chỉ có thể diễn tả bằng cách đừng nhắc đến [… which can be expressed only by not mentioning it]

Nơi chốn không làm sao sống nổi là nơi chốn con người cảm thấy hạnh phúc!
Một lý do tốt lành để tự tử thì không hiếm hoi ở bất cứ một con người.

Nỗi buồn lớn lao nhất một con người cảm thấy, đó là khi những lý tưởng thất bại của người đó, biến thành hiện thực!
[Câu này dịch sai, dịch như trên, mới đúng]

Những nhà văn trở thành huyền hoặc thì ít khi hạnh phúc. Vào năm 1950, khi đợp giải Strega nhờ "Trăng & Lửa", và xb cuốn tự thuật, Nghề sống, Cesare Pavese bèn tự làm thịt chính mình…. Điều mà Nhật Ký của Kafka giáng lên văn hóa Đức, thì cũng là điều Pavese mang tới cho văn hóa Ý.

Gấu mua cuốn trên, nhân 'chiều một mình xuống phố, âm thầm nhớ nhớ CM', cùng với tờ báo [Books, báo Pháp, nhưng tên báo, tiếng Anh, www.booksmag.fr, trang bìa sau dành cho quảng cáo sách của DTH], chỉ vì một câu khen thật bảnh, và thật lạ về nó, trong bài giới thiệu: "The Moon…" của Cesare Pavese, có lẽ là cuốn 'tiểu thuyết Mẽo' chưa từng được viết ra cho đến nay, bằng một thứ tiếng nước ngoài.

Đây đúng đề tài bài viết của Nhị Linh, về chuyện đem chuông đi đấm nước người: dịch những tác phẩm Mít ra tiếng nước người, của những tác giả Mít đương đại.
Chúng ta chưa có tác phẩm Mít, 'được viết bằng ngôn ngữ nước ngoài', thực sự là như vậy. Những Nỗi buồn chiến tranh, Đỉnh cao chói lọi.. thì cũng vậy vậy!

Bài giới thiệu cuốn The Moon thật tuyệt. Tác giả Cesare Pavese, sở dĩ viết một cuốn tiểu thuyết Mỹ, bằng tiếng Ý, là vì ông ở Mẽo, và là một chuyên gia dịch tác giả Mẽo, trong đó có Faulkner. (1)

Bài giới thiệu ở bìa sau, cũng thú lắm. TV sẽ đi cả hai, trong có bài của Calvino về Pavese.

Cesare Pavese

*

Cesare Pavese

Mùa Hè Tươi Đẹp

Dịch giả: Trương Văn Dân

Nhà văn và Dịch giả rất quan trọng của nền văn học Ý trong thế kỷ XX.

Là tác giả Ý đoạt được nhiều giải thưởng văn học rất giá trị:1938, tác phẩm "Người bạn" đoạt giải Salento, 1949, "Mùa hè tươi đẹp" đoạt giải Strega, tập truyện "Ánh trăng và đống lửa" được đánh giá là tác phẩm rất hay. Nhưng mặc dù đạt đỉnh cao trong văn học sự thất vọng về cuộc đời và tình yêu luôn mang cho ông cảm giác trống rỗng và cô đơn. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn ngày 27 tháng 5 năm 1950 ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn tại thành phố Torino. Trên trang nhất của tập sách "Đối thoại với Leucò" đặt trên bàn đọc sách ban đêm, ông chỉ để lại vài hàng ngắn ngủi: "Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều". Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi.









Làm thế nào Gấu bỏ Xề Gòn

Nhân thể, nhắc anh trong bản dịch Naipaul, khúc cuối, có vài ý dịch sai khi K so bản tiếng Anh .

Sáng sớm hôm sau tôi đi, buổi tối hôm trước má tôi làm bữa tiệc nhỏ mà chẳng khác chi đám tang. Người nào tới mặt cũng buồn xo, và nói, rồi tôi sẽ nhớ họ biết là chừng nào; rồi thì họ quên luôn tôi, bắt qua chuyện quan trọng: ăn nhậu.

Laura ôm hôn tôi, và tặng cái mề đay thánh Christophe. Nàng nói tôi đeo ở cổ. Tôi hứa sẽ làm, và bỏ vào túi. Tôi không biết rồi nàng sẽ ra sao. Bà vợ Bhakcu cho tôi đồng sáu "pence" đã được làm phép, và tôi nghĩ, khó mà không tiêu đồng tiền làm phép đó.
Đúng ra là "họ sẽ nhớ tôi" , và " tôi không biết về sau cái mề đay ấy lạc vào cái chỗ nào" . Và " cái đồng pence làm phép ấy trông chẳng khác gì các đồng pence khác nên tôi nghĩ tôi sẽ tiêu nó".

Không có chi quan trọng . Chỉ tiện thể thì ghi xuống vậy thôi , nhưng dịch đúng thì nét khôi hài rõ hơn .

K

Tks

Khi tôi dịch, chưa có mua bản tiếng Anh. Đọc bản tiếng Pháp, rồi dịch xong, không coi lại. Rồi cũng quên luôn. Làm sao mà K. kiếm thấy nó, cũng tài thật. Đọc lại thì quả là bồi hồi, nhớ những năm trời cực kỳ thê lương, nhưng khi qua được rồi, thì lại thật là tuyệt vời.

Bà Thảo Trần cằn nhằn hoài, sao không viết tiểu thuyết, nhưng khi đọc cái đoạn xém nhảy xuống sông Cai Lậy, tự vận, khi vừa mới cưới, từ Sài Gòn trở về lại Cai Lậy, một mình, thằng chồng bỏ đi Đà Lạt, buồn quá, giận quá, bèn ra lệnh, thôi, đừng viết nữa, đau lòng thêm 1 lần nữa.

Hà, hà!

Tks again

NQT


Gấu vs Hồ Nam

Ra nước ngoài con người NQT tu tỉnh làm ăn khá, có trang Web Tản Viên và tung ra bút hiệu mới Gấu viết có vẻ vung vít hơn HPA nhiều.
Hồ Nam.

Đa tạ. Hai chữ "tu tỉnh" tới lắm! Nói ít hiểu nhiều. Kiệm lời mà chân tình. NQT
*

Về bản chất NQT là người cầm bút có đọc nhiều, nhưng phải cái tật thích khoe chữ, thích ta đây, thành ra càng viết càng lộ vẻ "làm dáng", càng lộ những cái yếu của người có đọc nhưng chưa tiêu hóa được những cái đã đọc.
Hồ Nam.

Câu phán của Hồ Nam, thoạt đọc, bực lắm. Có thằng cha nào bị chê, mà khoái đâu.
Nhưng nghĩ kỹ, quá đúng! 

Bởi vì Tin Văn được viết, khởi đi từ những ý tưởng của Steiner về Cái Ác, về Lò Thiêu, về Lò Cải Tạo...
Làm sao dám "tự hào", tiêu hóa những món đó?
*

V/v Về những cố chịu đấm ăn xôi, xin kể một số sự kiện:

1. Đã từng nhờ nhà văn Quyên Di, hiện ở Mẽo, xin được diện kiến Huỳnh Bá Thành, kèm bài viết, xin được đăng và nếu có thể, xin một chân chạy việc tại tờ Công An thành phố. HBT không tiếp, nhưng nhờ Quyên Di đem cho Gấu một tí tiền, gọi là nhuận bút, tuy không đăng bài.

2. Đã từng nhờ một bạn quí, cựu học sinh trường Tây, xin với Huỳnh Tấn Mẫm, cho một chân chạy việc tại tờ Thanh Niên.

Để thêm tí "credit" cho việc cố chịu đấm ăn xôi, Gấu viết bài điểm cuốn Trăm Năm Cô Đơn, bản dịch tiếng Việt, xin đăng không lấy tiền, trên tờ Thanh Niên, và còn viết thêm một cái thư tả oán lâm ly, nhờ bạn quí trao cho HTM, nhưng chẳng đi đến đâu. Vụ này, nhà thơ Đỗ Trung Quân rất rành.

3. Đã từng viết điểm sách cho tờ Tuổi Trẻ.

Những vụ việc trên, đều đã xưng tội trước bàn thờ, qua một số bài viết trên Tin Văn. NQT

Note: Hoàng Yên Di, không phải Quyên Di.
HYD, GCC quen khi cùng làm với ông Nhàn, nhà xb Vàng Son
.
*

Nhắc tới Steiner, là có ngay Steiner!
Sau mấy thập kỷ bị  mấy anh Hồ Nam Hồng Mao chửi, đồ khụng khiệng, thích làm dáng, ra cái điều ta đây trí thức, uyên bác, cuối cùng, thấy mìnnh  sắp ngỏm củ tỏi, nhà học giả đa ngôn ngữ Steiner bèn "tha cho", và làm hoà với đám ngu si ở đảo!

A life in writing

Il postino

Multilingual scholar George Steiner has for decades aroused suspicions for being 'a touch dazzling'. He has now made his peace with British anti-intellectualism.

Interview by Christopher Tayler
Saturday April 19, 2008
The Guardian

Visitors to George Steiner's house in Cambridge are likely to be greeted at the door by Ben, an enormous Old English sheepdog. Like his owners, Ben is used to dealing with the press. "Monsieur Ben, the French call him," Steiner says. "French journalists in particular are always fascinated by him." Ben has appeared, Steiner notes, on the cover of a distinguished literary journal. Is it true that he has discriminating taste in music? "Ravel's Bolero - he growls. But he is fond of Tchaikovsky." "And Duke Ellington," Steiner's wife Zara, a Cambridge historian, adds from across the kitchen.

Sex, Steiner thinks, is mediated by language in interesting ways. "I have every reason to believe," he writes, "that an individual man or woman fluent in several tongues seduces, possesses, remembers differently according to his or her use of the relevant language."
*
My Unwritten Books. "Given my age," Steiner says, "I am pretty near the end, probably, of my career as a writer, a scholar, a teacher. And I wanted to speak of things I will not be able to do." As "a kind of goodbye to what may not be",....
Nguồn
*

Les Livres que je n’ai pas écrits

de George Steiner
[Philosophie]

Nhưng, hỡi ơi, sư phụ không hỗn láo như là đệ tử.

Người thú nhận:
"Tạng của tôi chưa xứng tới cái nhiệm vụ đó"
"Mon entendement, mon cerveau ne sont absolument pas à la hauteur de la tâche »
*
Đọc mà buồn: « Ce que j'en suis venu à ressentir avec une impérieuse intensité, c'est l'absence de Dieu. »:
Buồn quá, không có Vua của Vua: Thượng Đế.

Độc giả Tin Văn
*
Sept projets, sept absences, sept « ombres actives » : soit, tels que les désigne George Steiner, sept livres qu'il n'a pas écrits. De ces échecs suppo­sés dont le nombre n'est pas sans évoquer le purgatoire de Dante,­ auteur cher à Steiner, celui-ci fait un livre, une suite de confessions où s'enchâssent réflexions, références, développements savants, regrets et des colères qui côtoient la provocation. Ainsi, George Steiner n'a pas écrit sur l'oeuvre de Joseph Needham (1900-1995), prolifique scientifique britannique dont les travaux sur la Chine furent empreints d'une « poétique de la technicité » et qu'il classe aux côtés de Proust - deux « archéologues de la conscience » et du temps. Et Francesco Stabili, cet astrologue italien du XIIIe siècle brûlé par l'Inquisition ? Et la judéité, la place du Juif éternellement stigmatisé, les dangers du sionisme, l'enseignement qui périclite, la place des animaux ? Et la politique ?
Dans ce livre, où l'on retrouve les thèmes des précédents (la culture ne sauve pas de la barbarie, le devenir des rapports entre maître et disciple, etc.), George Steiner fait état de ses vertiges. L'érudition, la culture, si elles permettent l'épanouissement, sont aussi des abîmes où l'individu peut sombrer. Les motifs de pessimisme sont nombreux pour Steiner qui confesse de façon inattendue : « J'ai eu le privilège de parler et de faire l'amour en quatre langues. » La langue et Eros ont toujours fait bon ménage, les mots et les sonorités apportant de multiples variations dans l'acte de chair. Mais aujourd'hui, une sorte d'espéranto, produit par un capitalisme d'argent aux réseaux de communication envahissant, aboutit à « un appauvrissement drastique de l'écologie du psychisme humain » et ­hisse au rang de vertu un profond dédain de la vie intellectuelle. Par voie de conséquence, la hiérarchie des valeurs en est subvertie : le SMS subvertit le vocabulaire et Ma­donna supplante Keats
Steiner vitupère mais ne s'épargne pas. Il avoue son manque d'implication politique : « En choisissant de "rester chez lui", l'homme­ (ou, récemment, la femme) qui refuse entièrement de participer au processus politique est, par essence, un voyeur. » Ce professeur de littérature comparée se conçoit comme un « anarchiste platonicien » ; une formule qui dissimule mal la conviction de cet érudit que c'est le monde des connaissances auquel il a voué sa vie qui est appelé à ­disparaître. Derrière lui ? Shakespeare, Goethe, Wittgenstein, T.S. Eliot, Marx ou Dostoïevski. Devant lui ? L'éblouissement quotidien devant un poème ou une symphonie, mais aussi l'interrogation qui ­ronge le penseur autant que l'homme nu face aux horreurs du monde : « Ce que j'en suis venu à ressentir avec une impérieuse intensité, c'est l'absence de Dieu. » Sept oeuvres en creux et sept raisons de lire ce livre intime, voué au verbe et au travail ­intellectuel.
Nguồn
*
Ông sư phụ này, hách thì thật hách, nhưng hiểu rõ cái tạng của mình, chỉ làm nghề dậy học, làm giáo sư, [đừng ban cho ông chức viện sĩ ưu tú của nhân dân], và không thể là một nhà sáng tạo. Trong một phỏng vấn trên tờ Le Magazine Littéraire, ông tự thú trước bàn thờ:
Ngay cả tay giáo sư bảnh nhất, thì cũng đếch phải một nhà sáng tạo. Hắn chỉ là một postino, un facteur.
*
"Facteur", tiếng Tây, một trong những nghĩa đen của nó, là "thằng đưa thư". (1)

Gấu đọc, mà cứ thương hại cho mấy ông khoa bảng của Mít.
Mất mẹ cả đất nước, bỏ chạy, mà vẫn không quên mảnh bằng cử nhân triết, mà khi hăm hở học, là cũng chỉ để trốn lính. Có bằng rồi, thì cũng tìm đủ mọi cách để khỏi vướng vào cái vụ Tổng Động Viên.

(1) "Même le plus grand des professeurs n'est pas un créateur. Il est un simple postino, un facteur".
Steiner: Le bonheur d'enseigner. Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Homère, Tháng Giêng 2004.
Facteur, sự thực, cũng có cái nghĩa, créateur, auteur, nhưng theo gốc faire, fabricant, người thợ, người sản xuất ra, làm ra... (Từ điển Robert)
*
Sự thực, cái ý tưởng tưởng là hỗn láo "có đáng không", "không bõ, chẳng bõ viết", sau này, khi ngồi bờ sông, nhìn xác bạn quí trôi qua, Gấu ngộ ra được, không phải như vậy, mà là do sự khiêm tốn mà có được!
Hãy nói cho tao biết bạn mày là ai, thì tao nói cho mày biết, mày là ai.
Có bạn hữu quí, hách như thế, bảnh như thế, cần gì viết?
*
Nhưng đúng ra, "thuổng" của Ozick. Trong bài viết Ai sở hữu Anne Frank, bà đưa ra giả dụ, Anne Frank, sau khi đi vô Lò Thiêu, để lại cho đời cuốn nhật ký, bà thiên thần hộ mệnh của cô tìm thấy, đúng ra là nên đốt đi theo cùng với cô, để cô có bầu có bạn
Nên nhớ, Anne Frank buồn quá, chẳng có một đấng bạn quí nào cả, nên đành phịa ra họ, bằng cách viết nhật ký.
Nhưng quan trọng hơn hết, theo Ozick, cái lũ người khốn kiếp, không xứng đáng để đọc cuốn nhật ký của cô.
Biết đâu, đây cũng là lý do Kafka năn nỉ bạn, đốt hết, đốt hết?
*
Một cuộc chiến khốn kiếp, thằng anh làm thịt thằng em, hay hớm chi đâu, có gì xứng đáng, để mà viết?
Nhật Ký Tin Văn

« J'ai eu le privilège de parler et de faire l'amour en quatre langues. »
Steiner
Tớ có cái đặc quyền, là nói và làm tình bằng bốn thứ tiếng.
Đúng là sư phụ!
Gấu này, vào lúc cực khoái như thế, là cứ tiếng mẹ đẻ mà rên!
Mà toàn những tiếng thô tục nhất!

L'érudition, la culture, si elles permettent l'épanouissement, sont aussi des abîmes où l'individu peut sombrer.
Steiner
Sự uyên bác, văn hóa, nếu chúng cho phép thăng hoa, thì cũng là những vực thẳm nhận chìm con người.