*

Diary

















Trân trọng giới thiệu tác phẩm nóng hổi, vừa thổi vừa đọc, của Thảo Trường

Rừng Tràm
   Hôm sau gặp một sĩ quan bạn làm tiền sát viên pháo binh đi theo đơn vị bộ binh vào lục soát  vùng mục tiêu, hỏi:
        - Ông thấy gì trong đó?
        - Chẳng thấy mẹ gì cả.
        - Là sao?
        - Là sao là sao?
        - Quân địch ấy, những tiểu đoàn của Miền ấy?
        - Ai mà biết. Chỉ thấy những vết máu và các ruộng dứa bị cày nát.
        - Dứa là cái gì?
        - Nói chuyện với ông chán bỏ mẹ đi ấy. Dứa là trái thơm, trái khóm để nấu canh chua cá bông lau đó, biết không? Không nghe nói khóm Bến Lức bao giờ à?
        - Ờ, ờ, biết rồi. Nghĩa là trong ấy không thấy có xác người, chỉ có những trái dứa nhuốm máu, dứa để nấu canh chua cá bông lau, ông nói thế, phải không?
        - Ừ thì đại khái là như vậy, dứa, xuồng ba lá, ghe tam bản, chuồng trâu, chòi lá, nóp, cuốc xẻng, súng ngựa trời v..v.. tất cả đều “banh sà rông” vì đạn pháo của ông. Người thì có thể nó chuồn đi nơi khác rồi. Người thì ở chỗ nào nó cũng có thể dại và cũng có thể khôn. Ông sao thắc mắc làm mẹ gì những chuyện vớ vẩn ấy.
*
    Em yêu như đòi nợ. Anh phá hại đời em thì anh phải đền bù. Anh không được tỉnh bơ quịt nợ được. Nợ thì phải trả. Nhất là nợ tình. Hơn thế nữa đây là nợ đời. Phá nát cả một đời con gái đâu có thể xí xoá phải không anh. Anh không có gì để trả thì anh phải đem cái thân già của anh ra mà gán nợ. Hãy trả bằng những gì anh có.
*
Note:
Gui ong cai toi moi chế. Tham ong ba manh khoe Tet Tay Tet Ta. OK Salem. Toi moi trai qua mot con benh nhung da qua khoi va vua moi di nghi 2 tuan le o S. Carolina ve.  
*
Cái khúc bắn pháo vào làng dân làm Gấu nhớ đến kỷ niệm của Gấu, và cùng với nó, là cú pháo vào trường tiểu học Cai Lậy, đã một thời tốn sinh mạng con nít, tất nhiên, và biết bao nhiêu là giấy mực, lời qua tiếng lại giữa đôi bên. VC nói pháo VNCH.  Nhưng VNCH nói, VC bắn, đổ tội cho họ.
*
Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự truyện

Thềm nắng sau lưng
Note: Đọc, nhớ NNT hồi đầu, hồi mới viết, NNT của  Một Mối Tình.
Nhưng còn làm nhớ đến truyện ngắn  Nội Cỏ Của Thiên Đường của John Steinbeck

The mayor, Bertrand Delanoë, called her a freedom fighter, and said: "You have been chased out of your home because you raised your voice against the inhumanity of fanaticism. You are at home here, in this city where men are born and live free and equal."
Nasreen did not comment on the move, but she recently told the TV station France 24 that she felt safe in Paris, because she could walk in the street without bodyguards. She said her "idea" was not to criticise Islam per se but to defend women's rights and freedom. "My aim is to raise consciousness, to struggle for justice for women, so I have no alternative but to criticise Islam because Islam oppresses women. I know millions of women have been suffering because of religion, tradition,
culture and customs and I feel a responsibility to do something."


*
Nhà thờ họ Nguyễn
Nguồn

Note: Nhìn cái nhà thờ họ Nguyễn [Tấn Dũng] Gấu lại nhớ đến nhà thờ họ Nguyễn [Quốc Gấu] ở cánh đồng làng Thanh Trì, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt, và giấc mơ của bà nội Gấu, khi nào mày đến tuổi đinh, là được chia phần thịt đấy cháu ạ!
*
Cái nhà thờ họ này cũng xuất phát từ lời phán của các ông thầy cúng. Chắc mọi người còn nhớ vào tháng 8 năm 2006, lúc mới vừa lên chức Thủ tướng được hơn 2 tháng thì một điềm xấu xuất hiện, đó là hòn Phụ Tử tại Kiên Giang, đất phát tích của anh Ba Dũng, bị gãy mất hòn cha rơi sâu xuống biển. Nhiều giải pháp khoa học được đưa ra nhưng không có cách nào phục hồi lại được. Cả gia đình Thủ tướng lo sợ, mời các thầy về xem khắc chế điềm này thế nào. Cuối cùng thì kết luận là phải xây một nhà thờ tự thật lớn tại Rạch Giá, nơi Anh Ba đã đi lên từ y tá, huyện đội trưởng mà thành Thủ Tướng như hôm nay. Cái nhà thờ này phải làm thật to, to nhất ở đây để tỏ lòng thành kính với tổ tiên và các vị thánh thần ở vùng đất này để được gia hộ cho sự nghiệp của Thủ tướng bền vững. Và đúng là nó to thật, to hơn nhiều lần cái đền ông Nguyễn – nơi thờ vị Anh hùng Dân tộc Nguyễn Trung Trực và những người đã hy sinh cùng với ông tại đất Rạch Giá này - nơi đã diễn ra trận đánh lớn nhất của nghĩa quân với giặc Pháp.
*
Lại no còm!
*
Quái đản quá, lướt net trúng đoạn này, cũng nói về phần thịt:

Vào khoảng 1997, 1998 gì đó, Nguyễn Hưng Quốc về nước có đến thăm tôi. Anh vốn là học sinh ở Sài Gòn dưới thời Nguyễn Văn Thiệu. Sau 30-4- 1975, anh ở lại thành phố và học văn ở Đại học sư phạm Sài Gòn. Tốt nghiệp, anh được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Ít lâu sau, anh vượt biên sang Pháp rồi sang Úc và hiện đang làm việc ở đấy. Anh nói, sở dĩ anh vượt biên không phải vì sợ khổ mà cảm thấy tương lai mù mịt. Anh kể tôi nghe một chuyện thật tội nghiệp.
Hồi ấy còn chế độ bao cấp, mọi thứ thực phẩm đều được phân phối theo tem phiếu, mà tiêu chuẩn thì rất hạn chế. Tuy nhiên do sự tháo vát của công đoàn, thỉnh thoảng anh em cũng được mua thêm ít thịt, ít cá ngoài tiêu chuẩn. Anh nhớ hôm ấy công đoàn kiếm đâu được một mớ thịt đem về chia đều cho mỗi người một suất. Tất nhiên dù chia cẩn thận đến thế nào vẫn không thể đều nhau tuyệt đối được. Trong khi chia thịt, mọi người đứng vây xung quanh. Không ai bảo ai nhưng người nào cũng chăm chăm quan sát các suất thịt xem miếng nào ngon hơn, miếng nào nhỉnh hơn. Chia xong, bắt đầu nhận phần. ưu tiên nhận trước phải dành cho bậc cao niên nhất trong khoa, ấy là thầy Viễn – Lê Trí Viễn. Do đã nhằm sẵn, nhằm kỹ trước rồi nên được lệnh, thầy chộp ngay lấy một miếng ngon nhất và có phần nhỉnh hơn các miếng khác một chút.
“ Ôi! – Nguyễn Hưng Quốc nói tiếp – em phấn đấu đến bao giờ mới thành giáo sư Viễn để được chộp lấy miếng thịt kia! Phải vượt biên thôi! Vượt biên thôi!”
Tình cảnh cán bộ, trí thức hồi ấy, giờ nghĩ lại, muốn rớt nước mắt. Hoàng Ngọc Hiến, sau 1975, có vào Sài Gòn, đến thăm một người họ hàng. Anh nói, khi trở về Bắc, chỉ mong người ta tặng cho mấy thứ đồ điện như tivi, tủ lạnh hay quạt máy. Nhưng do kính trọng ông giáo sư Bắc Hà quá, người ta lại chỉ gửi ra toàn đồ mỹ phẩm đắt tiền để tặng bà giáo.
Anh Lê Quang Long vào Huế cũng gặp phải một trường hợp được kính trọng một cách tai hại như thế. Năm 1977, tôi và anh được mời vào dạy cho Đại học sư phạm Huế – gọi là thỉnh giảng. Trường cao đẳng sư phạm ở gần kề trường đại học mời anh sang nói chuyện. Họ đón tiếp rất long trọng: tặng hoa, và giới thiệu giáo sư bằng những lời lẽ rất to tát, sang trọng. Nhưng chẳng thấy đưa phong bì gì cả. Đợi mãi mấy hôm cũng không thấy gì. Té ra ở trường này có một anh bạn cũ của Lê Quang Long dạy học ở đấy từ trước 1975. Người bạn này một hôm đến gặp anh Long và nói: “ Bọn giám hiệu Cao đẳng nó ngu quá! Nó định đưa tiền cho anh đấy”. Tôi vội gạt đi: “ Đừng làm thế, bất lịch sự! Ông ấy là giáo sư đấy!”
Lê Quang Long nói với tôi: “ Mình chỉ mong nó khinh mình, chứ kính trọng thế thì tai hại quá!”
Hồi Ký NDM
*
Cùng một sự việc, mỗi người cắt nghĩa một khác, và khác ở đây, còn do cái tâm, do cái ngộ, do cái cơ may của mình. Tay NDM này, tâm địa ác, cay cú thành thử nhìn cái gì cũng lệch cả, thí dụ ông ta tả bộ dạng NDT khi gặp Tố Hữu, hay bà vợ HNH nói về chồng, ông ấy ai mà kêu đi ăn là nhanh lắm. Những câu trả lời ấy, thường là những lời nói đùa, không để coi là thực được. Cũng vậy, tuy chẳng ưa gì ông học trò Miền Nam dưới thời Ngô Đình Diệm, [lý do thì mọi người đều biết], gặp lúc đổi đời, phải thờ chủ mới, thì cũng là chuyện thường của cả một miền đất, tuy nhiên, cắt nghĩa lý do, từ cái vụ chia phần thịt, đành phải vượt biên, như ông ta hiểu, thì sai, vì chính bản thân Gấu, đã rời bỏ Hà Nội vào Nam, một phần nào giống như thế, tức là ngộ ra cái điều Đảng làm nhục kẻ sĩ, và tất cả nhân dân, bằng cách quản lý bao tử.
Năm 1954, Gấu ở lại Hà Nội, chẳng hề muốn đi Nam. Một bữa đi học, đến chậm, cổng trường đóng, đúng lúc đó, ông thầy Anh văn của Gấu, cũng ở lại, cũng đi trễ, anh VC gác cổng đếch cho vô, và khi cho vô, ông thầy phải làm tờ tự kiểm rồi mới được vô lớp dậy.
Cái vụ mà ông học trò thời Ngô Đình Diệm bỏ đi, cũng là vì ngộ ra rằng, giả như mình phấn đấu, để được tới địa vị như LTV, và để được cái vinh dự, như ông ta, thì nhục quá!
Hồi 1954, VC ở rừng về, còn làm nhục dân Hà Nội ở lại, những công nhân viên, giáo sư… bằng cách trả lương y như trước, tức là gấp hàng chục lần, so với lương của chúng, những cán bộ VC, đến nỗi mấy ông bà này ngượng quá, xin được ăn lương như Cách Mạng, chúng trả lời, lũ chúng mày biết đếch gì về hy sinh, về chịu đựng gian khổ, về một lòng một dạ với Cách Mạng, lũ chúng mày là Việt gian, làm sao xứng đáng chịu khổ vì Cách Mạng?
Khổ đã không xứng, làm sao sướng xứng?
Chẳng thế mà khi Gấu đi học tập, một anh cán bộ, khi nghe nói Ngô Đình Diệm là bạn của Bác Hồ, đã, mặt đỏ gay, chửi, thằng Việt gian đó mà là bạn của Bác Hồ ư?
*
Ông ấy ai mà kêu đi ăn là nhanh lắm!
Cứ giả như câu nói này thực sự là bà vợ HNH có nói, và thực sự đúng như vậy, thì cũng là chuyện thường. Có lần Gấu nghe, hình như người ta chê trách Chế Lan Viên, hay Huy Cận, hay... vì cái tật ham ăn, và chính khổ chủ cũng tự nhận, Gấu lúc đầu cũng.. chê, nhưng sau hiểu ra, đây là khí giới chót của sĩ phu Bắc Hà để phản kháng nhà nước theo đúng truyền thống miếng thịt ngoài đình.
Xưa, làng nào mà chẳng có thằng Mõ, việc khốn nạn nhất nào trong làng, mà không giao cho nó, trong đó, có việc chặt thịt, chia phần thịt tại đình làng, và Mõ, tất nhiên, lựa cho Mõ miếng ngon nhất, vậy mà chẳng có ông tiên chỉ, ông chủ tịch nào dám lên tiếng, ấy là vì đó là phần thưởng làng dành cho nó, do suốt đời chịu nhục cho làng.
Ngài LTV gì, thì cũng thế!


NGUYỄN NGỌC TƯ một phen hết hồn
[Vào lúc : 11:45 - 04/01/2009
Báo Văn Nghệ Trẻ số Xuân Kỷ Sửu vừa phát hành với giá bán 28 ngàn đồng. Ngoài những bài vui vẻ ngày Tết, ấn phẩm đặc biệt này còn giới thiệu một phụ trương 12 truyện ngắn hay về đề tài nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Thử hé mắt qua, thấy cái bài báo “Thời sự làng tôi” từng in kèm với tiểu thuyết mi-ni “Đảo chìm” của nhà thơ Trần Đăng Khoa được vinh danh. Chưa hết, cái tạp văn “Trăm năm bến cũ con đò” của Nguyễn Ngọc Tư cũng được dự phần tự hào. Với cái phụ trương này, báo Văn Nghệ Trẻ đã có một đóng góp cực kỳ quan trọng cho văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung, đó là định nghĩa lại thuật ngữ truyện ngắn!
Mấy lời líu quíu của Nguyễn Ngọc Tư:
Thấy báo Văn nghệ Trẻ in một bài tản văn của mình, ghi là (1 trong) 12 truyện ngắn hay các thời kỳ về nông thôn, nông dân và nông nghiệp.
Hết hồn. Vì nó là tạp văn chỉ 1230 chữ, nhưng nó được xếp chung với Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan, Nghèo (Nam Cao), Làm no (Ngô Tất Tố), Vợ chồng trẻ con (Tô Hoài), Anh Keng (Nguyễn Kiên), Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu), Con Bảy đò đưa (Sơn Nam), Thời sự làng tôi (Trần Đăng Khoa), Hai người đàn bà xóm Trại (Nguyễn Quang Thiều), Thương nhớ đồng quê (Nguyễn Huy Thiệp), Củ khoai nướng (Tạ Duy Anh)... thì tội nghiệp cái thân gầy gò xanh xao của nó. Mà, cũng hỏng phải nông dân, nông nghiệp, nông thôn gì hết.
Thôi, báo cũng in rồi, gạo nấu thành cơm, ván đã đóng... hàng (quan tài)... Đành khóc lên ba tiếng hức hức hức...
*
Trăm năm bến cũ con đò
Tạp văn
Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, và bức tranh biến đổi không ngừng, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao ngệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông, có lúc hình ảnh lại xa vắng với vài chiếc vỏ lãi dài nhằng, bé teo mong manh chở đầy nhóc dừa, chuối... Nhiều khi bức - tranh như bị trĩu xuống khi buộc phải vẽ mấy chiếc xà lan ngược nước è ạch khẳm lừ, gầm gừ... Nhưng cảnh có chuyển động thế nào, trong bức tranh cửa sau của tôi, vẫn luôn có hình ảnh một chiếc đò thầm lặng chờn vờn trên sóng nước.
Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác, tôi đã nghĩ, phải mình là đạo diễn, thể nào cũng làm phim về cái bến, con đò.
Trong hình dung, đó là bộ phim giàu hình ảnh hết biết.
Trèo lên một chỗ thật cao, tôi sẽ bắt đầu "bộ phim tưởng tượng" của mình bằng cảnh các con sông giao nhau cắt thành phố bằng năm ba mảnh, gặp chút đó rồi lại thao thiết chảy đi. Nằm rải rác dọc theo những khúc sông, khúc kinh có hàng trăm bến đò ngang dọc. Mỗi bến có một cái tên khác nhau như Đậu Đỏ, Cầu Chùa, Rạch Rập, Công Chánh... nhưng giống hệt ở lối đi xuống hẹp và hơi tối. Bậc lên xuống bằng bê tông bị sóng mài mòn phô lớp đá nhỏ bên trong, nhờ vậy mà đỡ trợt chân. Những người phụ nữ đi chợ sáng về, rôm rả chuyện trò trong lúc chờ qua sông, tôm cá quẫy trong giỏ lách tách.
Và con đò, nó tới kia. Một đám trẻ con vai quàng khăn đỏ đứng ngồi lóc nhóc đang qua bờ bên này. Những chiếc đò đóng theo kiểu tam bản vững chãi, ít chao lắc. Hai bên be, đằng mũi đều được bọc vỏ xe để khỏi sờn khi va vào bến. Có chiếc còn đỏ au lớp dầu trong, có chiếc đã nhiều năm dầm mưa nắng sạm đi, khô rốc, nứt nẻ. Chiếc đò cũng già đi như người chèo nó. Cũng buồn, cũng mệt mỏi, cũng làm công việc nặng nhọc, chở người đi, về.
Nhưng dòng chảy của sông đã làm công việc người chèo đò bớt đơn điệu. Sông quê tôi không rộng nhưng sâu, đôi khi nước đứng lờ đờ, lúc ròng lại nôn nao chảy xiết. Khéo lèo lái, chỉ cần khẩy nhẹ vài lát chèo là đã qua bờ, nên ngoài sức mạnh của đôi tay còn phải nương theo nước, theo gió. Cái "nghệ thuật" chèo đò cũng lắm công phu, đừng có ai dại dột cậy mình biết chút đỉnh chèo chống hồi còn ở quê rồi xung phong chèo đò thử, coi chừng quê độ à nghen.
Đôi lần, thử gồng mình thót lên đôi chèo dưới cái nắng Cà Mau rát, gió Cà Mau khô, tôi lại thương người chèo thêm một chút. Và hình ảnh họ trong "phim" tôi luôn mạnh mẽ, tươi tắn, dù khuôn mặt có đen sạm, dù đôi tay vồng lên những đường gân guốc, dù họ chỉ khoác một manh áo bạc, và lai quần xoắn tít vì không được ủi, lâu ngày.
Trong cái phim tưởng tượng đó, tôi ao ước được vào vai người ngồi trên bến thu tiền, một bà cụ còng queo, như hầu hết người làm công việc này đều già (nhận xét này cần được kiểm chứng lại, cả câu hồi trước tôi hay nói là tất cả cây cỏ dại mọc trên đất quê nhà đều trổ hoa màu tím biếc, tôi cũng không chắc đâu à nghen). Chỗ tôi ngồi có một chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước. Cái thùng đựng tiền đã lên nước bóng ngời đặt trước mặt, thùng ngăn làm nhiều ngăn nhỏ, mỗi ngăn đựng một loại giấy bạc hai trăm, hoặc năm trăm...
Không khó để tôi vào vai nhỏ đó, bởi buổi chiều nào giữa đời, tôi cũng nhìn thấy bà cụ ngồi thu tiền đò bên kia sông. Quen thuộc, đến nỗi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ cái cười móm mém và ánh mắt hóm hỉnh, tinh quái của bà. Hai mươi năm đưa đò, cái ngày không còn quạt nổi mái chèo, bà lên bến (chứ làm sao xa được khúc sông này). Ngày ngày, bà ngồi nhìn cuộc đời cuồn cuộn đi qua, chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi cuộc đời, người già già đi, bọn nhỏ lấy nhau sinh ra nhiều thiệt nhiều đứa trẻ. Và những đứa trẻ lớn lên ... Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò, cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những "chợ vợ", để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây. Bến đò, cũng là nơi anh cán bộ phường ngày xưa thường qua, rồi anh lên thị xã, ai đó mừng, "thằng chả mà làm lớn thể nào cũng bắc cây cầu qua xóm mình. Thì kinh nghiệm, ông lớn nào đường vô nhà cũng ngon hết". Ai dè, lúc anh "lên" tới tỉnh, anh qua đò rồi đi luôn một nước. Xóm bên sông nghèo vẫn hoàn nghèo, ọp ẹp và buồn hiu.
Mới lấy ví dụ có vài khuôn mặt người mà đã thấy cái bến đò sinh động biết bao. Và vai bà cụ tóc trắng ngồi miên viễn trên bến đáng cho tôi hoá thân vào biết bao (dù có một chút thiệt thòi là sẽ rất... xấu xí). Tôi mà được ngồi ngay cái võng đó, không cần diễn, sẽ ngấm ngay nỗi vui của một người lương thiện, vui vì không làm gánh nặng cho cháu con, vui vì được làm nhân chứng cho đời... Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt.. để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hỏng chừng...
Cửa sau nhà tôi vẫn ngó ra sông, tôi vẫn ngày ngày ghi vào lòng mình bộ phim tưởng xong mà hoá ra dang dỡ mãi. Người qua đò mỗi ngày mỗi khác, có người tốt lên, có người xấu đi. Làm sao ghi hết những hình ảnh đó ?
"Phim" chưa xong, vì bến đò vẫn còn, vì cầu xây lâu mà vẫn chưa xong. Để đêm đêm tiếng gọi đò lại cất lên, những âm thanh ồn ào của đô thị lập tức ngưng phắc, chết ngắc, dường như một nửa thành phố - mấy rẻo đất buồn bên kia những dòng sông vừa lên tiếng...
Lưu ý: Chú thích “tạp văn” bên dưới “Trăm năm bến cũ con đò” là của “khổ chủ” Nguyễn Ngọc Tư.
 Thảo luận(3)
Địa chỉ trích dẫn
Chú ý Địa chỉ này vần có hiệu lực trước 23:59:59
LeThieuNhon  05/01/2009 18:01
Theo yêu cầu của "khổ chủ" Nguyễn Ngọc Tư, mấy cái comment gay gắt quá thì không hay lắm, nên xóa đi để giữ hòa khí văn chương, và ai cũng cảm thấy ăn Tết vui vẻ!
VŨ CÔNG KỲ 04/01/2009 22:19
Tôi thấy không đến nỗi như các bạn phải la hoảng. Tản văn của Ngọc Tư thì đúng không phải truyện ngắn, nhưng không hề non kém. Còn các truyện khác đều khá cả. Có truyện rất hay. Tất nhiên cũng có truyện hay về nông thôn mà không có mặt, thì cũng như những người tuyển chọn đã nói. Tôi ủng hộ cách làm của Văn nghệ trẻ
Nguyễn Anh Tuấn  04/01/2009 20:48
Khớ khớ!
Không thể bình luận nổi!
Đây là "sự kiện văn học" nổi bật nhất năm 2009!
Báo Văn nghệ mà, dù có là văn nghệ già hay văn nghệ trẻ cũng vinh danh Văn Nghệ. Các ổng có in bài thơ nói là...tiểu thuyết thì cũng cấm có cãi!
Blog Lê Thiếu Nhơn


Mấy đấng Đỗ thi sĩ, Nguyễn Thanh Trịnh, tức Đoàn Thạch Biền sau này, đều rất quí Gấu. Hay nói rộng ra, những mầm non văn chương cách mạng được ‘trồng’ bởi thức ăn Miền Nam, bởi bầu khí VNCH! Họ khác hẳn đám nhà văn Miền Bắc, khi trở về Miền Bắc, là Gấu nhận ra liền sự khác biệt. Tuy cả hai đều quí Gấu, thế mới lạ!
Đoàn Thạch Biền đã từng in cho Gấu một cuốn sách dịch, Khiêu Vũ với Thần Chết, On achève bien les cheveaux.
Chuyện này xẩy ra sau Cách Mạng. Lúc đó Gấu đói lắm.
Đói đủ thứ! [Viết vậy là bạn ta hiểu!]
Nhân đây, cám ơn bạn cũ. NQT.
Cái cú in sách này cũng ly kỳ lắm. Sắp đi rồi, khui ra cũng dzui!
*
Những đứa con của trí tưởng

Tôi vẫn còn nhớ thái độ thân thiện, cởi mở của những người tôi đã từng trò chuyện, tôi vẫn còn nhớ những khuôn mặt trong sáng đầy tin tưởng của những người bạn trẻ như Đoàn Thạch Biền, Đỗ Trung Quân, và nhất là dáng ân cần khi đưa ra đề nghị cộng tác, của anh phụ trách tờ Tuổi Trẻ (hình như tên Thức, không phải Nguyễn Đông Thức. Đó là thời gian còn Kim Hạnh)...
Những người viết Miền Nam trước 1975, ở lại, hình như đều viết trở lại. Tôi có lẽ là người đầu tiên được nhà xuất bản Văn Học đề nghị tái bản bản dịch Mặt Trời Vẫn Mọc.
*
Cuốn Người ta làm thịt cả ngựa, của Horace McCoy, là một cuốn sách đen, série noire, Gấu đọc từ trước 1975, thời gian vừa đọc vừa học tiếng Tây, cùng với những tác giả như Simenon, J.H. Chase..  thời kỳ ra trường Bưu Điện chừng hai năm, đã đổi qua bên VTD Quốc Tế, cầy thêm job cho UPI, đọc cùng lúc với ông Hưng, chuyên viên gửi hình VTD, radiophoto, của AP, ông Hưng thì mê những tác giả khác không giống Gấu, thí dụ Carter Brown.
Sau 1975, tay PMH nhờ Gấu dịch theo nguyên tác tiếng Anh, They Shoot Horses, Don’t They? Tay này làm cho nhà xuất bản Văn Học, bộ phận phía Nam, và còn là một lái sách. Gấu biết anh ta, khi đến VH để lo biên tập cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, theo bản dịch trước 1975 của Gấu, dưới sự giám sát của tay Nhật Tuấn, nhà văn Miền Bắc, anh ruột, hay em ruột của Nhật Tiến. Cái vụ xb lại cuốn này, là cũng nhờ Nguyễn Mai, khi đó làm thợ sửa mo rát cho VH. Để có được bản dịch cuốn MTVM, Gấu phải cầu cứu Jospeph Huỳnh Văn, có bà con làm ở Thư Viện Quốc Gia, nhờ mượn về, đưa cho nhà xb VH làm mẫu. Joseph HV tới lúc đó mới đọc văn dịch của Gấu, gật gù, mi bảnh thật, hơn cả thằng em tao, nó Tú Tài Tây, mà thua mi!
Đưa trước một mớ. Dịch xong, anh ta đếch thèm in. Thế rồi một bữa, Gấu thấy cuốn sách của mình nằm ngay trước mắt mình, vì lúc đó, Gấu đang làm thằng bán báo, tại sạp nhà, ngay trước chúng cư 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn
*

On achève bien les chevaux
Titre original They Shoot Horses, Don't They?
inspiré du roman de Horace McCoy
On achève bien les chevaux (They Shoot Horses, Don’t They? dans la version originale) est un film américain réalisé par Sydney Pollack, sorti sur les écrans en 1969. inspiré d'un roman de Horace McCoy.
L’action se situe au début des années 1930, en Californie. Au cœur de la grande dépression, on se presse pour participer à l’un des nombreux marathons de danse organisés à travers le pays pour gagner les primes importantes qui y sont mises en jeu. Robert et Gloria font partie de ces candidats...Au-delà de l'anecdote, c’est à une lecture de notre propre société qu’invite ce film, par opposition entre l'enfer que vivent les participants de ce marathon - privés de sommeil et de temps de réfléchir, et soumis à des épreuves cruelles (où mourra l'un d'entre eux) - et la beauté du paysage et du soleil levant entrevus de façon fugitive à l'extérieur. Sydney Pollack indiqua avoir attaché une grande importance au personnage de l'animateur, « symbole de tout ce que l'Amérique avait de pire et de meilleur ». Mais on peut aussi y voir une réflexion sur l'absurdité de la condition humaine
Wikipedia
*
Cái cuốn truyện, sau chuyển thể điện ảnh, Gấu đọc, trước 1975, và dịch, sau 1975, như tiên đoán cơn suy thoái của Mẽo, và của thế giới, thế mới quái dị, nếu bạn đọc những lời giới thiệu trên.
Tay PMH, không hiểu nghe ai nói về cuốn sách, đưa Gấu bản tiếng Anh, Gấu đánh vật với nó, đến khi đưa, anh ta chê, vứt một xó, Đoàn Thạch Biền nhặt lên, bèn ơ rơ ka một phát, hay như thế này mà sao mày chê, đúng là... thi sĩ!
Ui chao, chẳng lẽ cái nhìn tiên tri của anh "tiên tri" đến tận những ngày này?
Cái tít Khiêu Vũ với Thần Chết quả là đắc địa!
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, trong cơn suy thoái, khách du lịch vắng teo, nhà nưóc Mít chúng ta tổ chức cuộc thi Khiêu Vũ với Thần Chết, từng cặp, từng cặp, đăng ký nhẩy hoài nhảy huỷ, ngày này qua ngày nọ... cho đến khi tất cả đều xỉu, chỉ còn một cặp độc nhất đứng vững, là thắng!


Vĩnh Biệt Bạn Cờ

Giữa lòng đen
Xa Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một điều, giả như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó sẽ như thế nào.

Đỉnh cao chói lọi

Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
THE COMMON READER

THERE IS A SENTENCE in Dr. Johnson's Life of Gray which might well be written up in all those rooms, too humble to be called libraries, yet full of books, where the pursuit of reading is carried on by private people. "... I rejoice to concur with the common reader; for by the common sense of readers, uncorrupted by literary prejudices, after all the refinements of subtilty and the dogmatism of learning, must be finally decided all claim to poetical honors." It defines their qualities; it dignifies their aims; it bestows upon a pursuit which devours a great deal of time, and is yet apt to leave behind it nothing very substantial, the sanction of the great man's approval.
The common reader, as Dr. Johnson implies, differs from the critic and the scholar. He is worse educated, and nature has not gifted him so generously. He reads for his own pleasure rather than to impart knowledge or correct the opinions of others. Above all, he is guided by an instinct to create for himself, out of whatever odds a d ends he can come by, some kind of whole - a portrait a man, a sketch of an age, a theory of the art of writing. He never ceases, as reads, to run up some rickety and ramshackle which shall give him the temporary satisfaction of looking sufficiently like the real object to allow of affection, laughter, and argument. Hasty, inaccurate, and superficial, snatching now this poem, now that scrap of old furniture, without caring where he finds it or of what nature it may be so long as it serves his purpose and rounds his structure, his deficiencies as a critic are too obvious to be pointed out; but if he has, as Dr. Johnson maintained, some say in the final distribution of poetical honors, then, perhaps, it may be worth while to write down a few of the ideas and opinions which, insignificant in themselves, yet contribute to so mighty a result.
Virginia Woolf
Người đọc bình thường
Có một câu của Dr. Johnson, trong Đời của Gray, câu này chắc là phải viết lên tường tất cả những căn phòng, gọi là những thư viện thì có vẻ hơi lớn lối, tuy nhiên, chứa đầy sách, nơi việc đọc là của những tư nhân, private people.
"….Tôi thật mến, người đọc bình thường này; bởi vì, gọi độc giả bình thường, những ai không bị hư thối bởi thiên kiến văn chương, và, sau bao lọc lõi, và nghiệt ngã, của việc học, biết rằng, đây chỉ là để vinh danh cho một cõi thơ.”
Cõi thơ đó định nghĩa phẩm chất của họ, vinh danh những mục tiêu của họ, đó là cái phần thưởng mà họ có được, sau khi bỏ phí thời giờ ngấu nghiến đọc, và ngộ ra rằng, mình chẳng để lại một thứ gì ở trên cõi đời này, nếu có chăng, thì  chỉ một cái gật đầu của những bậc tao nhân mặc khách, như một nhà thơ Việt đã từng tự hào về cả một sự nghiệp thơ của ông:
Ta còn để lại gì không,
Kìa non đá lở, kìa sông cát bồi.

VHC
Độc giả bình thường, như Dr Johnson hàm ý, khác hẳn nhà phê bình, và nhà khoa bảng. Anh ta học hành chẳng ra gì, và thiên nhiên keo kiệt kia cũng chẳng ban cho anh ta một chút tài năng thiên bẩm nào.
Anh ta đọc, chỉ để thích thú riêng cho mình, vì mình, không hề có ý định kiếm tí ti tri thức, hiểu biết, hoặc khốn nạn hơn, để sửa chữa những quan điểm của những người khác. Trên hết, anh ta được dẫn dắt bởi một bản năng: hãy sáng tạo chỉ cho mình - từ bất cứ thăng trầm, bất cứ nọ kia, bất cứ gập ghềnh của đường đời mà anh ta đã trải – một cái gì đó, mù mờ một khối, một cục, một đống, như chân dung một con người, như phác họa một thời đại, như một lý thuyết về nghệ thuật viết….
 Khi đọc, anh ta không hề ngưng ôm ấp, nâng niu, gầy dựng căn nhà ọp ẹp, xiêu vẹo, tức là cái vốn liếng mà sự đọc đã đem lại cho anh ta, chính cái đó sẽ đem lại cho anh ta sự hài lòng, tuy phù du, tuy tạm bợ, rằng cái ta có đây cũng đâu có thua gì một căn nhà vững vàng, một món đồ thực sự, và như thế, nó  đem đến cho anh ta sự yêu mến, tiếng cười và lời biện luận, hay quan điểm này nọ.  Vội vã, không chính xác, và phiến diện, lúc này túm vội lấy bài thơ này, lúc nọ, một mẩu văn bia đồ cổ, chẳng thèm để ý, kiếm chúng ra từ đâu, chẳng cần biết bản chất chúng là như thế nào, một khi mà chúng thật hợp ý mình, ôm lấy mình, những cái dở, yếu, non, kém, vụng, như là một nhà phê bình của anh ta cứ thế mà phô ra… Nhưng, cứ như Ngài Dr. Johnson nói đó, nếu anh ta có một tiếng nói nào đó, ở trong cái sự đóng góp sau cùng vào những vinh danh của thơ ca, nếu vậy thì, có lẽ, cũng có tí giá trị, khi viết ra một tí  ý nghĩ, và quan điểm - thì cũng vẫn chỉ là những vô nghĩa, những chẳng có chút giá trị, như tự thân chúng vốn là như vậy – tuy nhiên, cũng là một đóng góp cho thành quả, vậy.
NQT
[mô phỏng bài viết của Virginia Woolf: The Common Reader]
*
Note:  Mới kiếm ra, trong lúc lục lọi hồ sơ cũ, trước khi đi.
Gửi K, và bạn của K. Thay cho bài viết nhức đầu quá.
*
Gấu tình cờ khám phá ra Virgina Woolf, thời gian Sài Gòn đầy sách Tây, còn rẻ hơn cả ở mẫu quốc, do chương trình IC [Thông tin & Văn hóa] của Tây mũi lõ, giá sách bằng giá ở nguyên gốc, thí dụ 10 frs thì bán 10 đồng, tiền ông Diệm, như người Miền Nam thường nói.
Gấu, nhờ đi làm hai job, một Bưu Điện, một UPI, thành ra cũng không đến nỗi nào, sách lại rẻ, nhất là thứ sách bỏ túi. Nhưng đâu chỉ sách bỏ túi, Gấu còn mua cả những thứ đắt tiền thí dụ, loại bìa trắng nrf của nhà Gallimard, của nhà Nửa Đêm, quả là Gấu chưa đủ sức đọc, những Lịch sử và Ý thức giai cấp, của Lukacs, thí dụ, nhưng “cháo húp quanh”, nhẩn nha đọc được câu nào hay câu đó. Nhờ vậy mà khám phá ra Mrs Dalloway của Woolf. Đọc một cái là nó đây rồi, thứ độc thoại nội tâm, kể hoài còn hoài, kể mãi còn mãi.
Khoe với ông anh, ông cũng thú lây, mắt lim dim, cậu nghe anh, thứ đó, phải đọc đi đọc lại vài lần.
Nhiều ông không ưa Gấu, thấy Gấu hay nhắc tới ông anh, cứ nghĩ là ông anh là thầy của Gấu. Không phải. Gấu không hề mắc nợ văn chương ông anh, vì ông anh là nhà thơ, cõi mà Gấu chẳng hề mong tới, đó là sự thực. Thứ nữa, thứ văn chương ý thức hệ của ông anh, cái kiểu, đi ra đó cũng là thứ đánh đĩ, nó có ở đây tôi sẽ đập vỡ mặt nó ra… như nhân vật Tâm chửi ông bạn Đại bỏ ra hậu phương, theo VC, trước khi đi còn làm cho một cô gái mang bầu, Gấu cũng không “mặn”. Thời mới lớn, đứng trước cuộc chiến chạy trời sao cho thoát, Gấu coi văn chương là nơi để trốn nó, chỉ đến khi ra ngoài này, gặp ông Steiner, cũng một thứ sống sót, nhưng đau quá vì mình sống sót, Gấu ngộ ra liền và khi viết cho báo Văn Học của NMG, và được độc giả hâm mộ, NMG phán, qua một thằng em kể lại, bây giờ chân ông Gấu mới chạm đất, là cũng có lý lắm, cũng tri âm tri kỷ lắm.
NMG không phải bạn quí của Gấu, nhưng cách ông đối đãi với Gấu, đúng là thật bảnh. Cả cái sự Gấu hay nhắc tới ông, nhiều người cũng không hiểu, tưởng Gấu thù hằn gì ông ta. Đâu phải. Nói ơn thì hơi quá, nhưng giá gặp một tay khác, khó mà ăn ở với nhau cả hai năm trời!
Gấu viết cho VH, nổi quá, báo bán chạy, NMG phán, đếch cần xin xỏ quảng cáo nữa, khiến ông bạn quí của Gấu ghen, ra lệnh mày không được viết cho báo thằng cha NMG nữa, chỉ được quyền viết chùa cho báo tao. Tiếu lâm đến như thế đấy!

Ui chao, cứ nói đến bạn quí là Gấu muốn văng tục rồi!
Vậy mà mất cả đời với bạn quí!
*
Trường hợp Steiner sống sót Lò Thiêu, ông có kể, trong bài phỏng vấn của tờ The Paris Review, và có viết một bài về Kẻ Sống Sót, trong Ngôn ngữ và Câm lặng.
*
-Ông hãy kể thêm cho chúng tôi nghe, về những năm đầu đời của ông đi.
 -Rồi thì chiến tranh, và cha tôi được thủ tướng Pháp trao cho sứ mạng thương lượng với người Đức, về việc mua chiến đấu cơ Grumman. Một chuyện quá đỗi lạ lùng đã xẩy ra. Mọi người hầu như đều quên hẳn một điều, New York là một thành phố trung lập, vào năm 1940. Nơi đây đầy những phái bộ mãi dịch, phái bộ ngân hàng, kỹ sư Quốc Xã. Cha tôi được mời ăn trưa, nhân dịp vinh danh Uỷ Ban Thương Mại (Trade Purchasing Commission), tại Câu Lạc Bộ Phố Tường (Wall Sreet Club). Tại bàn của ông, là đại diện ngân khố Mỹ, ngân hàng, và phái đoàn Pháp. Người hầu bàn mang đến cho cha tôi một tờ giấy gấp lại, và nói, một vị khách tại một bàn khác, đã yêu cầu anh ta mang lại cho cha tôi. Cha tôi liếc quanh một vòng, và nhìn thấy một phái bộ mãi dịch Quốc Xã, chữ thập ngoặc trên ve áo. Hoàn toàn hợp pháp: họ cũng đang mua trang bị, và dàn xếp những vụ vay mượn dầu lửa (oil loans), cùng với Ngân Hàng Chase, và rất nhiều ngân hàng khác. Cha tôi nhận ra một người, vốn là bạn làm ăn rất thân, nhưng ông đã không liên lạc kể từ năm 1933 khi Hitler lên cầm quyền. Thế là cha tôi thẳng thừng xé nát mẩu giấy, rồi thả những mảnh vụn xuống sàn. Ông đứng dậy, đi vào nhà vệ sinh; người đàn ông đang đợi ở đó, ông ta nắm lấy cha tôi, và nói, "Dù muốn hay không, tốt hơn ông hãy lắng nghe tôi. Tôi không thể chi tiết. Tôi không biết tí gì. Chúng tôi sẽ vô nước Pháp, đầu hôm sớm mai." (Đó là năm 1940). "Bằng mọi giá, đưa gia đình ông đi ngay"
 Đây là một tay chóp bu, của xí nghiệp quan trọng nhất về điện khí ở Âu Châu, hãng Siemens. Cuộc họp về "giải pháp chót" (the final solution: tận diệt dân Do Thái. CTND), chưa xẩy ra. Nhưng ở Ba Lan, những vụ tàn sát diễn ra rồi, và giới chóp bu Siemens đã biết một điều gì. Họ không biết chi tiết, bởi vì bạn sẽ bị bắn bỏ ngay lập tức, nếu bạn xin nghỉ, và nói về chuyện đó; nhưng tin tức này luồn lách qua đám chỉ huy cao cấp, qua những nhà ngoại giao, và người đàn ông này, cám ơn Trời, đã tin, và cha tôi, đã tin ông ta.
Cha tôi liên lạc với thủ tướng, và xin ông cho phép gia đình được tới với ông một thời gian, vì cuộc thương lượng kéo dài hơn là cha tôi thoạt đầu nghĩ. Thủ tướng nói, "Được thôi, lẽ dĩ nhiên, hãy để cho gia đình tới với ông". Gia đình tôi được cứu thoát là nhờ vậy. Chúng tôi thoát ra trên những chiếc thuyền Mỹ cuối cùng.
Câu chuyện này sẽ có một lý thú đáng kể, với những sử gia, bởi vì đầu năm 1940 – người Đức tới tháng Năm mới "vô", trong khi chuyện xẩy ra, là vào tháng Giêng – một nhân viên cao cấp Đức đã biết một điều gì đó.
*
Liệu PXA biết, vụ Lò Cải Tạo?
*
The Paris Review:
Tình cảm của ông, về mặt vô đạo đức, đối với những liên hệ giữa Humbert Humbert và Lolita thì rất mạnh. Tuy nhiên, đây là chuyện thường ngày ở.. Hoa Lệ Ước, và ở Nữu Ước, giữa những đấng ngoài bốn bó và mấy em mi nhon chỉ nhỉnh hơn Lolita tí ti. Họ lấy nhau là thường, và chẳng ai thắc mắc, nhiều khi còn cầu chúc trăm năm hạnh phúc…
Nabokov: Không, đâu phải tình cảm của tôi, mà của xừ luý, xừ Humbert Humbert, về những liên hệ giữa xừ lúy với Lolita. Xừ lúy đau khổ, không phải tôi. Tôi đếch thèm để ý đến vấn đề đạo đức của đám trâu già gặm cỏ non, vả chăng, những cỏ non như thế chẳng mắc mớ gì tới Lolita. Humbert yêu những cô bé, les “filletes” – không giản dị những thiếu nữ, les “jeunes filles”. Những ‘nymphettes’ là những cô gái-trẻ con, filles-enfants, không phải những "starlettes", hay những “sex kittens”. Lolita 12 tuổi, không phải 18. Bạn còn nhớ, khi cô 14, Humbert đã gọi cô là “người tình già”.
Câu trên, Gấu dịch theo bản tiếng Tây. Đọc lại nguyên văn, bản tiếng Anh, có khác.
Cảm quan của ông về vấn đề vô đạo đức, trong quan hệ giữa Humbert-Humbert và Lolita thì rất mạnh. Ở…
Nabokov: Không, không phải cảm quan của tôi, my sense… ; đó là cảm quan của Humbert. Ông ta cares. Tôi không [He cares, I do not]… Lolita 12 tuổi, không phải 18, khi Humbert gặp cô. Có thể bạn còn nhớ, khi cô 14, ông ta nhắc tới cô như là một người tình già của mình, his "aging mistress."
*
Mi đâu có yêu thương gì ta. Mi thương một con bé con 11 tuổi....
Ui chao, làm sao mà BHD hiểu ra những điều đó?
Hiểu ra khi nào?
Khi 11 tuổi, khi trả lời lời tỏ tình của Gấu, lần thứ nhất, khi hẹn ở ngã tư Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức, vào đúng lúc đèn đường thay đổi, và Gấu nhìn rõ hình bóng khủng khiếp của Gấu trong mắt, ở trên làn da của cô bé, bập bùng theo ánh đèn vàng đỏ xanh, xanh vàng đỏ...
Khi viết lá thư tình đầu tiên, lóc cóc đi bộ từ ngã Sáu Sài Gòn, tới building số 5 Phan Đình Phùng, tính lên cầu thang máy, tình cờ gặp ông cảnh sát già, làm an ninh chìm cho Đài, bèn đưa cho ông ta nhờ trao giùm, bức thư mà cô Nga, nữ điện thoại viên đọc, và phán, cái cô này không yêu thương cậu đâu, dựa vào, chỉ một đoạn sau đây:
Thứ tình yêu đầy passion mà anh có đó, em không có…
Khi trả lời Gấu ở cổng trường Đại Học Khoa Học?
Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.


Salman Rushdie
Những đứa con giờ Tý


Văn chương và Siêu hình: Về cuốn Linh Sơn