*

 




Hà Nội và Sài Gòn không chỉ khác nhau ở chỗ một đằng gọi mọi thứ là chả trong khi đằng kia gọi là giò hay nem, mà có một lần khi đi ăn bánh cuốn Liên Hương, nhìn mấy thứ người ta dọn ra tôi vẫn cứ tưởng đây là món gì đó dạo đầu ăn trước để đợi bánh cuốn, mãi không thấy có gì thêm mới bẽn lẽn hiểu ra đó chính là bánh cuốn

Blog NL

Đọc, thì bèn nhớ liền cái thứ bánh cuốn Miền Nam mà Gấu được thưởng thức, và nhớ đời, “bánh ướt”, khác hẳn “bánh cuốn” Bắc: 

Phở hồi đó ba đồng một tô. Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt. Những buổi sáng hiếm hoi trong túi có mấy đồng bạc cắc bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước bán hết mấy món đồ xi cho mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, vẫn thường xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê chiếc vòng mã não, chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy nghệ sĩ cải lương... tôi có cảm tưởng cả con hẻm, khu phố cũng xôn xao cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của nó: Tô phở nơi đình làng Phú Nhuận, trong hơi phở có chút hiền từ của khói nhang, của những lời cầu khấn, mấy bà mấy cô đi chợ tiện thể ghé đình lạy Phật và dùng điểm tâm. Dĩa bánh ướt của cô gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con hẻm mươi, lăm phút rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ nhà, khi ra tới nơi chỉ còn kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng cử chỉ quen thuộc của cô còn nán lại phía sau lưng đòn gánh.

Lần Cuối Sài Gòn

Gấu quên, nhớ, mà chưa kịp tả, cái thú ăn dĩa bánh ướt, những ngày học ở trường Văn Hóa, liền khi mới vô Sài Gòn.
Rồi còn những dĩa bánh ướt ở bên cạnh 1 dĩa khô bò, ở hè đường bên ngoài, rồi ly nước mía, ở nhà hàng Viễn Đông.

*

Toà nhà Viễn Đông, đường Lê Lợi, Sài Gòn, nổi tiếng với món nước mía Viễn Đông, nhưng không chỉ thế, mà còn món phá lấu, còn dĩa đu đủ khô bò. GCC thường đưa cô bạn, sau khi coi ciné, ở 1 rạp gần đó, tới đây, vào những buổi tối mùa hè, uống ly nước mía, rồi đưa trở về nhà bên Chợ Lớn, rồi trở về nhà mình, hoặc leo lên Đài, nơi làm việc, tòa building số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn.

Cuộc tình kéo dài năm năm, Gấu Cái chỉ biết khi biết tin cô bạn sắp lấy chồng, sắp đám cưới, vì thấy ông chồng của mình sao thiểu não quá, rồi tra hỏi, rồi…
Cả hai vợ chồng cùng đi đám cưới, ở Cai Lậy.

Cũng trầy trật 1 thời gian dài, rồi cả hai lại làm thân lại, và khi ông chồng cô mất, thì cả hai lại trở lại như hồi còn đi học, coi cả hai ông chồng đều như không có, không ảnh hưởng gì tới họ nữa!

Món phá lấu của mấy anh Tẫu ở đây mà chẳng thú sao. Bạn cầm cây tăm, cắm vô 1 khúc lòng heo, hay một miếng mề, miếng gan… rồi chấm vô dĩa nước chấm rồi đưa vô miệng…


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Mộ Gió

Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

Hồi ấy chị lên mười ba, em nhỏ hơn hai tuổi.
Mười bảy tháng Mười năm đó, ba má đi đám giỗ, để hai chị em lại nhà. Lúc xách cặp chèo ra cửa má ngoái lại dặn chị :

- Ở nhà coi chừng em...
Chị dạ. Má rải lời dặn dò nằm lển nghển khắp nơi. Chị ngó ngoài sân thấy “Coi chừng ông trời chuyển mưa thì đem củi vô nhà“ và ”Đóng cái cổng rào lại” đứng dựa hàng bông lồng đèn kêu cọt kẹt, bước vô nhà vấp “Lấy chổi rơm quét mạng nhện trên bàn thờ” và “Nhà hết gạo rồi, con lội bộ lại đằng tiệm mua nấu đỡ” thì nằm nép trong góc bếp. Ở sàn lãn gió thổi xập xòe làm “Còn mấy con cá rô đem kho tiêu” đập đuôi xao xác vách thùng.
Một mình chị làm bao nhiêu chuyện đó cũng xong, nhưng em cứ cà nhổng chạy chơi với chuồn chuồn thì ức. Ba hay nói phải chia việc mà làm, “mỗi người có một bổn phận...”. Con trai kiếm cá con gái hái rau, con trai ra ruộng rẫy con gái vùi đầu trong xó bếp. Bao giờ con trai trở thành đàn ông nó có bổn phận đưa tay đánh, còn con gái (giờ đã là đàn bà) thì giơ thân ra chịu đòn. Vụ đó ba không dạy, hai chị em tự biết thôi.
Những bài học về bổn phận chị thuộc nằm lòng, nên khi em đòi đi tiệm mua gạo thay vì bắc ghế quét mạng nhện bàn thờ, chị buộc lòng gật đầu. Làm chị phải nhường em.
Chị thích được đi tiệm để săm soi mấy cây kẹp tóc thèm chơi. Nhưng tiệm cũng là thiên đường của em, với những cục kẹo sặc sỡ như những cái bong bóng sặc sỡ. Dù mỗi lần em đi tiệm dường như răng lại mòn hơn, dù em hay chểnh mảng kiểu như mua đường cát về tới nhà thấy cát nhiều hơn đường, còn lẫn lộn thêm mấy con cuốn chiếu. Bữa trước đi mua đậu trắng em về với cái túi không, đậu chảy theo cái lỗ thủng rải dọc đường như cô công chúa Mỵ Châu để lại dấu vết cho chồng. Bữa trước nữa em lội sông mang gạo về, má phải đem mớ gạo ướt mèm xay bột.
Sẽ xảy ra vài kịch tính ở quãng đường giữa nhà và tiệm tạp hóa bà Tư Mốt: một nhánh cây gãy lộ ra ổ ong mật, một con diều của ai đó mắc kẹt trên đọt so đũa, một tiếng chim hót nghe gần... cũng làm chân em chậm lại mươi phút hay vài giờ hay hết phim, nếu nhà bà Tư Mốt đang mở một cái phim võ thuật kiểu như Ngôi chùa Thiếu Lâm tự.
Nên trưa ấy quá bữa rồi mà gạo chưa về tới nhà, chị tưởng em còn hóng hớt đâu đó. Cái mẻ kho nằm nguội ngắt chờ cơm.
Nhiều ngày sau đó, khi xóm nhỏ nháo nhác vì một cư dân mười một tuổi đã biến mất, chị vẫn nghĩ em đang chơi đâu đó. Chị giận sôi những người đã tỏ ra thất vọng khi không tìm thấy thi thể em, ở ngoài đồng hay dưới đáy sông. Một câu đố không tìm ra câu trả lời, ông trời cà chớn quá.
Nhiều tháng sau đó, khi ba má vẫn vật vã rã rượi, chị vẫn nghĩ em đi chơi đâu đó sẽ về. Cho tới khi má rọi cái ảnh em hồi mười tuổi đặt lên bàn thờ, đứng chung với mấy ông bà già u mặc. Trong ảnh, em mặc áo thun vàng đồng phục của đội bóng nhi đồng trường lúc đang nhận giải ba cấp huyện, mặt em nghiêng về trái khoe mụt ruồi lớn như con ve chó, giống như hình ảnh cuối cùng của buổi sáng ấy chị ngó thấy em chạy vù đi.
Cái ảnh là kết cuộc cho những chờ đợi nhưng hi vọng đã bay hơi theo ánh mặt trời. Má sực nhớ biết đâu thi thể thằng nhỏ trôi ra biển hay bị kẹt dưới chân cầu nào, rồi âm thầm tan rã. Biết đâu giờ hồn nó vất vơ vất vưởng đói ăn. Ba má bắt đầu kêu em về trong những bữa cơm. Có lần chị quên không dọn dư ra một cái chén, ba bợp tai chị cắm đầu, nói “đã kêu mày coi chừng em rồi mà...”.
Coi như chị đã được định tội xong, và định sẵn cho mọi lỗi lầm dù chẳng mấy liên quan như chuột cắn ổ gà, dông làm ngã cây đu đủ... Nếu mỗi lần đau trên người chị mọc sợi lông, thì những lần má ngồi khóc bên sông, những lần ba buông đũa giữa bữa cơm bởi tiếng bầy trẻ trai đi bắn chim ngang nhà, những cái tết lặng lờ qua, những khói nhang tối tối, những lần giở quần áo em ra giũ bụi... đã biến chị thành con khỉ.
Và nếu mỗi lần đau là một giọt nước, một hạt cát thì chị thành sông, thành đồi cát năm ba mươi tuổi.
Chị sống một mình. Mỗi khi định cười giòn thì chợt nhớ mình đã để mất đứa em. Mỗi khi định lấy ai đó làm chồng thì nhớ trong cơn mê sảng má thảng thốt kêu Võ, Võ ơi. Mỗi khi định sống cho ra con người thì nhớ ba lúc lâm chung vuốt mãi mắt mới chịu nhắm.
Chị vẫn tin em đi chơi đâu đó. Nhà vẫn cặm trên nền cũ, vườn cũ, kiểu cũ. Cây nào chết thì trồng lại y giống cây đó. Đoạn rào nào gãy thì được thay giống hệt. Chị chôn chị chỗ buổi sáng em guộn mấy tờ giấy bạc mua gạo vô dây lưng quần cộc xanh dương, áo màu xám tro lấm lem mủ chuối vẫy tay rẽ trái chạy vù về phía tiệm tạp hóa bà Tư Mốt. Lúc đi em không đóng cửa rào làm mấy con gà đi qua nhà hàng xóm bươi tơi bời giồng cải họ mới gieo.
Một bữa chị qua hàng xóm mượn trẻ con nhổ tóc ngứa, đang ngủ gà gật, đang lúc hờn hờn cái thân mình chẳng có đứa nhỏ để sai vặt, chợt nghe bên nhà chó sủa. Chị hỏi vóng qua hào ranh. Người đó ngập ngừng:
- Cho tôi hỏi nhà chú Mười Hưng.
- Phải rồi, nhà ba tui đó, cậu kiếm ai?
- Em Võ nè, chị Hai...
Người đó nói vậy. Chị không biết cách nào mình đã về đến nhà, bay, hay bò lết, hay nhảy ào xuống hào càn qua những dây rau muống. Chỉ biết chị phải về sụp xuống trước bàn thờ, để thưa:
- Đó, ba má thấy chưa, con đã nói là thằng Võ đi chơi mà...
Chị quỵ ở đó rất lâu, tóc xấp xải trải xòe ra đất, lưng khum khum như một ngôi mộ. Chị không hỏi em đã đi đâu, chẳng ích gì... Đàn ông rong ruổi đường xa, đàn bà vạ vật ngồi canh cửa, đời phân công vậy mà...
Nguồn

Note: Truyện này hao hao chuyện đời GNV!
Thằng em bỏ đi xa, vô nước Nam Kỳ, hơn nửa thế kỷ sau, về, chị vuỡn còn, Đất Bắc vẫn còn, chỉ không còn đứa em!
Nó không làm sao nhận ra quê cũ, chị cũ!

Cũng hao hao chuyện Lưu Nguyễn lạc Địa Ngục.
Về.
Quê hương biến thành Thiên Thai!
Còn gọi là Thiên Đàng Xạo Hết Chỗ Nói! (a)

*

cc 1960: Đứng trên lan can Đài Liên Lạc VTD thoại Quốc tế, building số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn.
Viết Những Ngày Ở Sài Gòn.

Nơi tôi làm việc là tầng lầu trên cùng một building, bất động sản của người Pháp; tôi là chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy móc, trông coi đường dây liên lạc vô tuyến điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài Gòn tới những thành phố lớn, thủ đô các quốc gia trên thế giới. Do hoàn cảnh địa dư, buổi sáng tôi có thể chào buổi chiều, "Good Evening", với một đồng nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi có thể hỏi thăm hoặc bông đùa đôi câu với một nữ điện thoại viên ở Hongkong, hoặc Tokyo… Buổi chiều, tôi có thể biết thời tiết một Paris buổi sáng; tôi hỏi thăm những đồng nghiệp không bao giờ gặp mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa đông ở nơi xa xôi đó có gì tương tự với những ngày giá lạnh của miền quê hương cũ… Chiến tranh ngăn chặn quá khứ một quê hương phải rời bỏ, ngăn chặn tương lai, và cùng với nó, tất cả những ước mơ khiến chúng tôi nhìn rõ nỗi thất vọng của nhau, cùng cách thức mà từng đứa lựa chọn để biểu lộ nỗi phiền muộn của mình… Lãng tìm cách tự cứu, tập Yoga, ăn cơm gạo lức muối mè, xa lánh bạn bè, những bức thư của anh thường tận cùng bằng câu, "Bao giờ thì hoà bường?" Không bao giờ anh dùng từ "hoà bình", như sợ hãi, ghê tởm… hoà bường, hoà bường, trong trí tưởng tượng của tôi, người bạn những năm trung học trở thành Rip Van Winkle, nhân vật của Koestler, gã tù nhân khốn khổ suốt ngày lảm nhảm khẩu hiệu ghê gớm nhất thời đại, "Bebout les Damnés de la terre!"; "bebout" thay vì "debout", "Vùng lên hỡi những kẻ trầm luân…" biến thành "Tùng lên, tùng lên…". Còn Vưu đọc đi đọc lại một cuốn sách cũ nát bấy, khi tôi hỏi tìm gì, anh trả lời, "Les pages érotiques" (Những trang khiêu dâm). Tường tự tạo cho mình những cơn khoái lạc, tưởng tượng trên thế gian không còn đàn bà… Chúng tôi không chết vì đã chót sinh ra, đã chót già, nhưng chết vì cuộc chiến không phải do chúng tôi gây nên, và không phải chúng tôi muốn tiếp tục, "Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người".


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Trong số những đệ tử của Faulkner, tệ nhất, [không có, để lận lưng, trên chuyến tầu suốt, một cuốn tiểu thuyết], hẳn là Gấu, và, trong số những đệ tử làm dạng danh Thầy, hẳn có tay Vargas Llosa.
Gấu đã từng kể, trong những ngày Mậu Thân, mỗi khi bí, mỗi khi bị những trái hoả tiễn VC làm "vãi linh hồn", là lôi thầy ra, để chôm, một câu văn, một ý tưởng, làm mồi nhử những con chữ, từ xó xỉnh đâu đâu, mò về…

Vargas Llosa cũng có những kỷ niệm y chang những ngày đầu đọc Faulkner.

(1) Một độc giả, và cũng là văn hữu, đọc Gấu, phán, tất cả những truyện ngắn của Gấu, trên cái toàn thể của nó, có thể coi như là một truyện dài.
Ý này, một nhà văn Miền Nam, đã tử trận, Doãn Dân, cũng đã nói ra, với một tay bạn thân của Gấu. Anh bạn cho Doãn Dân mượn đọc, cuốn Những Ngày Ở Sài Gòn. Đọc xong, anh gật gù ra đòn:

1. Thời gian viết, dàn trải, kéo dài cả một thời mới lớn. Trên cái nền đó, dư sức nối kết thành một cuốn tiểu thuyết.
Thưở con nít, ở Hà Nội. Rồi di cư, rồi lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, và rồi gặp lại nó, trong BHD, rồi bị thằng bố Bắc Kít của BHD cấm cửa, rồi hai đứa rủ nhau vô Chợ Lớn rung răng rung rẻ, rồi ông bố bắt tại trận....
2. Tay “NQT” này, là một gã quá nhát, và rất sợ “hạnh phúc”, đến nỗi, giả như có được, thì cũng nghĩ phận mình “hèn mọn, không xứng đáng với nó”!

Và anh ta dẫn câu của BHD:
Ta cấm mi không bao giờ được nói, mi không xứng đáng xách dép suốt đời cho ta!
(1)

Sự thực, Em nói lịch sự hơn nhiều:
… đừng bao giờ nói anh không xứng đáng, cũng đừng bao giờ nói anh làm cho tuổi thơ của Hương bị xáo trộn….

Après tout, la meilleure facon de parler de ce qu’on aime est d’en parler légèrement.
Albert Camus: Petit guide pour des villes sans passé. Noces & suivi de L’Été  (2)

(2)           

Et c'est ici peut-être que je pourrais cesser toute ironie. Après tout, la meilleure facon de parler de ce qu'on aime est d'en parler légèrement. En ce qui concerne l'Algerie, j'ai toujours peur d'appuyer sur cette corde interieure qui lui correspond en moi et dont je connais le chant aveugle et grave. Mais je puis bien dire au moins qu'elle est ma vraie patrie….

Và chính là ở đây mà có lẽ Gấu đếch còn dám cà chớn nữa. Nói cho cùng, cách tốt nhất để nói về điều mà bạn yêu thương là nói một cách nhè nhẹ, phớt qua. Về cái gì liên quan tới Xề Gòn, Gấu luôn luôn sợ đụng vô cái sợi dây đờn móc vô trái tim của Gấu, vì Gấu biết tỏng ra rằng thì là, âm thanh của nó, nếu bạn đụng vô, là mù lòa, là khàn khàn, là trầm trọng. Nhưng Gấu đâu còn quê hương nào khác, ngoài nó ra?
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

*

TLS Sept 27, 2013

Sách Bỏ Túi: Sáu Bó
"Le Livre de Poche: 60 ans"

Ui chao cảm khái chi đâu, mới ngày nào, hai mươi tuổi, ở Xề Gòn, vô tiệm sách chơi 1 cuốn, ra ngoài hè đường Lê Lợi tung tăng, cái bìa mặt là phải lộ ra bên ngoài, cho thiên hạ nhìn thấy, nè Le Mur, Bức Tường, của Sartre, nè L'Étranger, Kẻ Xa Lạ của Camus!

Hồi đó đó, nó còn con dấu IC [Information & Culture, Thông Tin & Văn Hóa] dán ở bìa sách, và đây là chủ trương của anh Tẩy - nước Pháp bị tướng Giáp đuổi xuống thuyền, nhưng văn hóa Pháp vẫn ở lại - 1 cuốn sách bỏ túi như thế, bán bằng giá ở bên Tây, Gấu nhớ là, cuốn mỏng, simple, 10 đồng - tiền ông Diệm.
Thành ra có phong trào chở củi về rừng ở những gia đình có con đi du học, mua sách Tây ở xứ Mít, gửi qua Tẩy cho con đọc, vừa đọc, vừa học, vừa làm chó săn cho VC, cho Bắc Bộ Phủ!

Khốn kiếp thật!

Kẻ Xa Lạ, cuốn tiểu thuyết Pháp lớn lao nhất của thế kỷ 20 và tiện lợi, vì đơn giản nhất, về mặt ngôn ngữ.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

*

Nguyen Trong Khoi: Trông anh vẫn còn rất tốt. Thăm anh. [FB]
12.10.2013

Tks. NQT
Note: Hình SN năm ngoái, 2012.

*
Với Nguyễn Quốc Trụ- Café Hương Xưa 1972. NTK website            

Bức hình độc nhất thời thờ phụng Cô Ba, nhờ NTK mà còn có được. Chắc là sau khi dự 1 bữa tiệc nào đó, của nhà xb Vàng Son của me-xừ Nhàn. Cà vạt cà việc!
Qua FB cho thấy, NTK chơi thân thân với băng BVVC của GCC. Đám này, có thời quí Gấu lắm, nhưng sau rãn ra hết. Cũng phải thông cảm. Nhưng liệu mấy đấng này quí NTK, vì cần 1 chỗ tá túc, khi qua Mẽo, ghé WJC, thăm...  NBC?
Anh ở Boston mà!

Nếu đúng như thế, thì cũng…  được. GCC qua Cali, chỉ ở nhà NDT, trong khi bao nhiêu bạn bè, nào là băng bạn bè của đứa em đã tử trận, bạn học, bạn cùng làm Bưu Điện… Đứa thì ở xa khu trung tâm, đứa vợ con không chịu nổi người lạ… Khó lắm. NTK, nghe nói, qua cũng hơi bị trễ, và trong khi chờ vợ bảo lãnh, ở Xề Gòn, có thời cộng tác với VC, nên có 1 dạo nghe nói, cũng cực với đám Chống Cộng Điên Cuồng.

Mày không chơi với tao thì tao chơi với VC!

Hà, hà!

*

Thêm Nguyễn Hà Trỵ [chống gậy] (1)  

Ai Tín

Tôi biết là các anh chị giáo chức của các trường Trung học Tây Ninh, Long Khánh, Thủ Đức, Nguyễn Bá Tòng, Bùi Thị Xuân, và bạn bè ....đều đã hay tin này, vì bà xã AnhTrỵ (chị Nguyệt) đã gọi tôi khoảng 8 giờ sáng Chủ Nhật 6 /10/13 cho biết anh Trỵ đã vĩnh viễn ra đi lúc 4 giờ sáng sau hơn 10 tuần điều trị tại Fountain Valley Medical.
Gia đình sẽ phát tang vào Thứ Bảy, 12/10 và sẽ hoả thiêu trưa Chủ Nhật 13/10/13 tại Orange County Cali. USA.
Tôi được gặp anh Trỵ lần chót tại BV chiều 01/09/13  cùng  2 bạn học từ 60 năm trước, là Lãng và Quyên.
Cám ơn anh Oánh.
Cũng xin thông báo tin buồn này đến anh Lâm Hữu Trãi, anh Phạm Văn Hàm, anh Nguyễn Quốc Trụ....là những người bạn thân thiết từ thuở học trò.
Xin cùng hiệp ý cầu nguyện cho hương linh Bạn Nguyễn Hà Trỵ được an nhiên, siêu thoát về miền Cực Lạc.  

VBTuyến

Note: NHT còn là bạn từ thuở học trò của thi sĩ Cao Thoại Châu, tức Cao Đình Vưu.
Nhân đây, thêm tên vô, cùng cầu chúc linh hồn bạn Trụy sớm siêu thoát, và xin chia buồn cùng tang quyến

Tin Văn /NQT & bạn của NHT
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

UNE ROSE ET MILTON

Sans rien qui la distingue ou l'étrange des choses
Qui furent, se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi ; le sort me dispense ce soir
Le privilège de nommer pour la première
Fois cette fleur silencieuse, la dernière
Que rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui que tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse éclatante en mon vers apparaitre
Avec tes ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta ténèbre - ô ténèbreuse entre ses mains. 

A Rose and Milton

From all the generations of past roses,
Disintegrated in the depths of time,
I want one to be spared oblivion-
One unexceptional rose from all the things
that once existed. Destiny allows me
The privilege of choosing, this first time,
That silent flower, the very final rose
That Milton held before his face, but could
Not see. O rose, vermilion or yellow
Or white, from some obliterated garden,
Your past existence magically lasts
And glows forever in this poetry,
Gold or blood-covered, ivory or shadowed,
As once in Milton's hands, invisible rose.
-A.R.

BHD và Gấu

Từ hàng hàng thế hệ những bông hồng
Đã “tàn hôn lên môi”, rồi rã ra, theo chiều sâu thăm thẳm của thời gian
Gấu muốn 1 bông hồng, chỉ một, được cứu rỗi khỏi lãng quên –
Một bông hồng, cũng thường thôi, chẳng có gì đặc biệt trong cõi vô thường
Đã từng hiện hữu [liệu có nên thêm chi tiết, đã từng học Gia Long?]
Số phận cho phép Gấu
Cái ưu tiên chọn lựa, lần đầu tiên này
Bông hồng thầm lặng, hồng rất hồng, bông hồng đen sau cùng.
Gấu đã từng cầm trong tay,
Nhưng không thể sở hữu.
[Thánh nữ mà]
Ôi bông hồng đen
Cái quá khứ của em, những ngày ở Sài Gòn, thì cứ còn hoài
Một cách thần kỳ, huyền diệu
[Trong Tứ Tấu Khúc]
Và đỏ bừng lên qua bài thơ này
Vàng, hay phủ máu, hay ngà, hay phủ bóng tối
Một lần Gấu ôm trong tay,
Trở thành vô hình.

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu


*

Lapham's Winter 2013: Intoxication

*
"Tôi thích quán nhậu khi họ mở cửa cho cữ chiều. Khi không khí bên trong quán còn mát, và sạch và mọi thứ thì sáng long lanh, và tay giữ quán tự ban cho mình 1 cái nhìn chót, khi nhìn vô gương, để coi xem cái cà vạt của anh ta có OK hay là không, và tóc tai mượt mà ra làm sao. Tôi thích những chai rượu xếp ngăn nắp phía sau quầy rượu và những cái ly sáng choang đáng yêu biết là chừng nào và cái sự ‘dzô, dzô, một trăm em ơi, chiều nay một trăm phần trăm’, của chúng. Tôi thích nhìn tay làm rượu trộn ly đầu tiên của buổi chiều, để nó xuống miếng vải lót ly, và để 1 cái khăn lau miệng nho nhỏ, được gấp lại ở kế bên. Tôi thích nếm ly rượu chầm chậm. Cú uống trầm lắng của buổi chiều trong 1 cái quán trầm lặng - ôi chao, tuyệt cú mèo làm sao!"
Tôi đồng ý với anh ta.
“Rượu thì giống như tình yêu," anh ta nói. “Cái hôn đầu thì mới huyền diệu làm sao, cái thứ nhì, ‘mình vào đời nhau’, cái thứ ba, ‘đến hẹn lại lên’. Sau đó, bạn lột trần truồng em ra và phán 1 phát”.
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

*

1978 photo of author Graham Greene. Credit: Karsh.

Quote Unquote
Loser Takes All
October 2, 2013 | by Sadie Stein
 

“My business career lasted for a fortnight. They were a firm, I remember, of tobacco merchants. I was to go up to Leeds to learn the business and then go abroad. I couldn’t stand my companion. He was an insufferable bore. We would play double noughts and crosses and he always won. What finally got me was when he said, ‘We’ll be able to play this on the way out, won’t we?’ I resigned immediately.” —Graham Greene, the Art of Fiction No. 3

Văn Phòng AP ở trên lầu Passage Eden. UPI, 19 Ngô Đức Kế, con đường, một đầu đi ra Chợ Cũ, một đầu ra Bến Tầu, nơi có tượng Đức Trần Hưng Đạo.

Cao Bồi PXA

PXA không ưa Greene, Gấu sợ rằng, do kỵ dzơ, jeu, [mày với tao cùng nghề, mày một mang, tao hai ba mang], nhưng còn do đố kỵ nữa, mày còn viết văn, như vậy là mày muốn chơi gác tao !

Không những viết văn, mà còn suýt ẵm Nobel văn chương nữa, PXA làm sao mà không tức cho được !

Trường hợp Greene hụt Nobel hơi giống Tolstoy.

Vào năm 1901, khi Viện Hàn Lâm Thụy Điển phát giải Nobel văn học đầu tiên cho nhà thơ Tây già Rene Sully-Prudhomme, thay vì tiểu thuyết gia Nga Leo Tolstoy, lý do, theo một nhận định của uỷ ban Nobel sau khi phát giải, ông Nga này rao giảng một thứ chủ nghĩa vô chính phủ, mang tính lý thuyết và một Ky Tô giáo thần bí. Sau khi phát giải cho nhà thơ Tây già, 42 nhà văn Thụy Điển cho ra một cái thư ngỏ, tố cáo giải thưởng và an ủi ông nhà văn Nga xấu số ! Và như một cái "dớp", sau này, cứ phát giải là có phản đối.

Greene bị ông Hàn Arthur Lundkvist thù đến nỗi, không thèm giữ đúng luật omerta, và la làng, ông ta thề sống dai hơn Greene, chỉ để loại nhà văn này ra khỏi giải. Còn tay Per Wasberg thì cố hết sức tranh đấu cho Greene, trước và sau khi trở thành ông Hàn, nhưng sau cùng ông hiểu, chỉ uổng công. 

*

Nhưng chỉ đến khi đọc "người của chúng ta ở Paris" so sánh PXA với Greene, [Graham Greene bắt đầu câu chuyện «A Quiet American »  trong khung cảnh Sài Gòn tháng 3.1950. Nhà văn Anh không ngờ rằng, cuộc đời điệp viên của Phạm Xuân Ẩn (mà Pomonti đặt tên là «Người Việt trầm lặng ») cũng bắt đầu từ địa điểm và thời điểm ấy], liên tưởng đến bài viết của Zadie Smith, Rợp Bóng Greene, trên Guardian, và cuốn Người Mỹ Trầm Lặng, giống như một con phượng hoàng tái sinh từ tro than của nó, Gấu mới hiểu ra được là PXA thực sự đã cảm nhận ông thua Greene, thua tình yêu mà Greene dành cho Miền Nam, thua lòng nhân hậu của Greene, khi ông này đã nhìn ra được từng cái nón rơi xuống, và chẳng có ai chạy về phía những kẻ bị thua thiệt, bị làm nhục.
PXA chưa hề nói ra được một lời nào, là chàng ân hận.

Nhưng cả đám đó, có ai làm được điều này?
*
INTERVIEWER
Then you don't draw your characters from life?
Vậy thì là ông chôm nhân vật của mình từ đời sống?

GREENE
No, one never knows enough about characters in real life to put them into novels. One gets started and then, suddenly, one can not remember what toothpaste they use; what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly. No, major characters emerge; minor ones may be photographed.

Không, chẳng ai biết đủ, về những nhân vật trong đời thực, để mà đẩy chúng vô tiểu thuyết. Bạn khởi sự, và rồi, bất thình lình, bạn không thể nhớ bạn sử dụng thứ kem đánh răng nào; những cái nhìn của chúng về trang trí nội thất là gì, và bạn khựng lại. Không, nhân vật khủng, từ dưng không, hoặc, hư vô vọt ra, ba thứ lẻ tẻ, bạn có thể chụp giựt từ cuộc đời.

The Paris Review (1)

*

Đà Lạt (1)

*

Đà Lạt 1969

Đà Lạt

[Viết bên lề MCNK]

1

Thanh Tâm Tuyền, ngoài Một Chủ Nhật Khác, còn một truyện dài bỏ dở, lấy bối cảnh là Đà Lạt, hồi đó đăng từng kỳ, hình như là trên tờ Thời Tập của Viên Linh.

Giấu Mặt.

Tuy mới được đâu mấy kỳ báo, nhưng, một trong những nhân vật chính của nó, là một cô bé đã gây ấn tượng nơi người đọc.

Gấu cũng có vài kỷ niệm về Đà Lạt. Toàn những kỷ niệm để đời!
Đúng ra phải nói, ba thành phố làm thành "tam giác tình" của Gấu, là Hà Nội - Sài Gòn - Đà Lạt.

Gấu lên Đà Lạt lần đầu, thăm ông bạn Huỳnh Phan Anh đang học sư phạm triết. Gấu tốt nghiệp trường Bưu Điện, đang chờ đi làm. Đám công chức làm từ thời Tây gọi là chờ "nominer" [gọi tên đi làm].
Đi cùng ông anh BHD, cũng bạn HPA.
Đó là vào một dịp Giáng Sinh. Cả bọn uống rượu, say bí tỉ, ngất nga nngất ngư lên xuống những con dốc, la hét, văng tục, y hệt mấy tay lính lê dương, Hà Nội, và những ngày trước 1954.
Nhưng sau, Gấu hiểu. Tại  lạnh. Nhờ đọc Faulkner và chợt bật ra nỗi nhớ lạnh.
Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Ông viết.

Nhưng, liệu nó còn là dấu báo, tiên đoán tâm trạng 'lê dương', lưu vong, làm thuê đánh muớn, ăn nhờ ở đậu, mãi sau này, khi đã đi ra nước ngoài?
Lần đi  Đà Lạt ngay sau khi lấy vợ. Một mình. Lên ở nhà anh bạn trưởng đài vô tuyến điện Đà Lạt. Đi chơi với bạn của thằng em đã tử trận, lúc đó là sĩ quan dù đóng tại Đà Lạt. Thằng em này quen ca sĩ, lúc đó tuy chưa nổi tiếng như sau này, nhưng cũng đã nổi tiếng lắm rồi, ở thành phố Đà Lạt. Đó là Mai, còn gọi là Mai Đen. Sau này, hình như thời gian phòng trà bị cháy, cô bỏ Đà Lạt, về Sài Gòn, đi hát du ca, và trở thành Khánh Ly.
Gấu có ghé nhà cô Mai, uống rượu. Nhà đẹp lắm, ở trên một ngọn đồi.
*

Lần đi Đà Lạt ngay sau khi lấy vợ. Một mình.
Gấu Cái, khi về già, nhớ lại, kể, lần đó, ngay sau đám cưới, mi bỏ đi Đà Lạt, ta về Cai Lậy, chỉ muốn tự tử, nhưng nghĩ đến cái thai trong bụng, không đành, lại cố sống…

*

Harper's April 2013

Vô đề

Tất cả những gì tớ muốn
Là nhậu với bà xã của tớ

Một ly rượu đỏ không bao giờ cạn
Cả hai trên sàn nhà

Những tên cà chớn sẽ nghĩ thế nào?
Khi nhìn hai đứa tớ?

Đời của hai đứa mi mới thê thảm làm sao
Chán chường và lầm lạc

Khi bà xã tớ phải đi ra phố
Và tớ ở nhà
Tớ chỉ muốn khóc

Trăng kia, trên tàng cây
Sao ánh trăng chua xót đến như thế

Chẳng có cuốn sách nào
Hôn tớ được như bà xã tớ hôn tớ.

Bài này mà tặng "Ngày Của Vợ", giống như “Ngày Của Mẹ", nhỉ?
*
Trong bài thơ Vô Đề,
Theo K cái câu có chữ "squares" có nghĩa là :
"Kệ cha mấy tên cà chớn chê cười tụi mình . Đời tụi nó trông mà chán chết ."
Hà hà

Tks a lot.
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Kiệt, [MCNK], và kết cục bi thảm của anh, làm Hai Lúa nhớ đến F. Scott Fitzgerald và cuốn Tender is the night của ông.
Hai Lúa đọc qua bản tiếng Pháp, Tendre est la nuit. Trước khi Mặc Đỗ dịch ra tiếng Việt. Với cái tít thật tuyệt: Cuộc Tình Bỏ Đi.
Tít này, theo Hai Lúa, là từ Thế Hệ Bỏ Đi, của Hemingway. Đúng ra, từ Gertrude Stein. Đúng hơn nữa, từ một tay chủ gara, nơi Gertrude Stein hay sửa xe. Hemingway kể lại nguồn gốc của từ này, trong Paris là một ngày hội.
Cuộc Tình Bỏ Đi, Thế Hệ Bỏ Đi, Thế Hệ Mất Mát. Thế Hệ Chó Gậm... tất cả đều đúng cho đám thanh thiếu niên thiếu nữ miền nam, trổ mã, lớn lên, đúng vào lúc cuộc chiến trở nên khốc liệt.

"Cả lũ mi là một thế hệ bỏ đi."
"You are all a lost generation". 

Nhưng giá mà làm được như Kiệt làm, đối với cuộc chiến đó, và luôn cả với cuộc đời này, thì thích, nhỉ?
"Anh làm mặt lạ với mọi người quen. Anh nghênh ngang như giữa nơi ghé tạt ít ngày rồi mai mốt đi không bao giờ trở lại."

*

Duy muốn hỏi Kiệt: Hiền đâu? Hiền ra sao?
Độc giả cũng muốn hỏi Kiệt câu đó.

"Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu…."
Bố bà vợ nào hiểu nổi, đừng nói chuyện tha thứ, cho nổi, bớ ông Kiệt ơi!

* 

Từ giờ đến ngày Kiệt đi, Duy sẽ phải nói nhiều. Có lẽ rồi sẽ mang cả đời mình ra kể.

MCNK

Đọc câu trên, thật kỳ lạ, bởi vì chẳng một chút liên quan, Hai Lúa bỗng nhiên nhớ đến một câu, của mình, trong Lần Cuối Sài Gòn.
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó.
Có thể, câu của Hai Lúa, thực sự là như thế này:
Kể từ ngày bỏ thành phố ra đi, có lẽ sẽ phải mang cả đời mình ra kể, thế vào chỗ của nó.
Và như thế, Tin Văn có nghĩa là.... Sài Gòn?

*

Kiệt gù lưng, co đầu gối, chống khuỷu tay lên đùi, bụm tay ôm kín chiếc harmonica hình vành cung, thổi thì thầm. Duy chột dạ: điên thật. Kiệt say sưa như không còn biết mình ở đâu. Mắt lim dim, tóc xõa rũ trên trán. Hai bàn tay ôm kèn lúc ấp lúc mở, ngón tay rung lắc. Tiếng kèn ập òa, nhịp đệm lưỡi, tiếng ngân rung.
Đồi vắng. Những người khác đều ở xa chỗ xe đậu. Gió có thể đưa tiếng kèn bay lan, nhưng người ta chẳng để ý hoặc nghĩ tai mình ù.
Qua những giây bối rối mất tự nhiên, Duy ngớ dần theo tiếng đàn.

*

 Đây chắc là chiếc kèn Oanh tặng, lần gặp chót, ở Sài Gòn.
Chàng, thay vì nhớ Oanh, bèn thổi kèn.
Điên thật.
Sướng thật.

*

Hồi nhỏ, học Hà Nội, Hai Lúa cũng có một thú vui, là chơi đàn măng đô lin. Ông thầy dậy HL, là chú Trực, con ông giáo Giực, ông giáo làng Hai Lúa. Ông đã từng dậy ông cụ của Hai Lúa, rồi tới Hai Lúa. Chắc là một ông đồ miền Trung, lưu lạc ra đất Bắc, tới làng Thanh Trì, gặp bà cô của Hai Lúa, cảm nặng, bèn ở lại luôn.

Ông là người tài hoa, chắc thế, vì chú Trực tài hoa lắm, nghề ảnh, nghề đàn, nghề cờ, nghề gì cũng rành. Sau, vì ông bố ghiền, ông làm thêm nghề mật thám cho Tây.
Ông truyền cho Lúa [từ nay gọi vậy cho tiện], thú chơi cờ tướng và chơi đàn măng đô lin.
Người khám phá và mê Lúa đàn, là Ông Tây, chồng Cô Dung, người nuôi Lúa những ngày học Hà Nội.
Bao nhiêu năm nhớ lại, Ông Tây thật đúng là tri âm tri kỷ của thằng bé Bắc Kỳ mắt lác ngày nào.
Hồi ở nhà Cô Dung, một villa trên đường Nguyễn Du, nhìn ra hồ Thuyền Quang, Lúa còn có một cái thú ơi là thú, là, vào những ngày thu hoặc đông, buổi sáng sớm, hoặc lúc chập tối, thằng bé bèn ra đứng, hai tay ôm chặt mấy song sắt chiếc cổng lớn, mắt đăm đăm nhìn lớp sương mù phủ kín mặt hồ.
Lúa cứ nghĩ chẳng ai để ý. Cho đến một bữa, quay vô, nhìn lên trên cửa sổ phòng bà cô, thấy Ông Tây nhìn xuống thằng bé, như thông cảm. 

Rồi một bữa buổi tối, hình như là tối Thứ Bẩy, bà cô Me Tây, và ông chồng già Tây Thuộc Địa, kỹ sư sở Hỏa Xa Đông Dương đi shopping Tràng Tiền, Godard từ hồi chiều, nhà không có ai, Lúa lôi cây đàn măng đô lin ra chơi mê mải, mắt nhắm tít, tới một lúc, chợt giật mình, mở mắt nhìn ra, thấy Ông Tây đang ngạc nhiên, đứng sững nhìn thằng bé, từ phía bên ngoài sân.
Sau đó, bà cô nói, Ông Tây đứng có đến gần nửa tiếng đồng hồ, chỉ để nghe thằng cháu của Cô đàn!
(1)

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Hai Trung Phạm Xuân Ẩn X6: Điệp viên quá hoàn hảo

Một người đi suốt hơn 15 năm Sài Gòn (tính từ khi học xong ở Mỹ trở về) ở một vị trí kỳ lạ như Phạm Xuân Ẩn, cho đến cuốn sách tiểu sử nổi tiếng nhất, Perfect Spy của Larry Berman, vẫn không khám phá được ở tầm sâu, như chính tác giả viết với không ít cay đắng:

"Một trong những điều mà tôi cảm thấy tiếc là đã không đề nghị Ẩn nói kỹ càng về cuộc xung đột hay căng thẳng nội tâm giữa việc biết bạn bè mình đang bước vào một cái bẫy kinh khủng mà ông và những người khác đã góp sức để giăng ra, và việc chẳng thể làm gì khác ngoài câu nói, "Hãy cẩn trọng". Tôi phân vân không biết trong cuộc đời của ông, ông có trải qua những đêm mất ngủ hay cảm thấy băn khoăn về mặt đạo đức hay không" (tr. 230 bản tiếng Việt).

Blog NL

Câu trả lời, là cái tình cảnh “đi không được” của Cao Bồi – và của Võ Tướng Quân nữa, thí dụ - mà báo chí VC cố tình để lộ ra, như Tin Văn đã từng post lại:

Bà quay sang nói với tôi - vẫn đứng đây từ nãy giờ bất động: Ông ấy khổ suốt cả một giai đoạn dài căng thẳng. Bây giờ đã đau thể xác thế này mà tâm hồn cũng không được thanh thản. Bao nhiêu dồn nén chỗ góc khuất đã trải qua trong nguy nan căng thẳng nay trong vô thức trào ra. Bà bật khóc, tôi nắm chặt tay bà.
….. ông gọi bà thều thào mê sảng: “Em ơi chúng đang tra tấn anh, chúng bỏ đá vào miệng anh, mệnh chung của anh sắp đến rồi, em và các con đừng xa anh nhé...”. 
(1)

“Chúng” trong “chúng đang tra tấn anh”, đếch phải Ngụy nhe. Điệp viên hoàn hảo không hề bị cháy. Cả 1 năm, sau 1975, tên của Người vẫn nằm trong danh sách nhân viên chính thức của tờ Time.

Còn cái vụ Cao Bồi [nick của PXA trong đám bạn bè của ông, trong đám nhà văn Xề Gòn hồi đó] cứu Trần Kim Tuyến vào giờ chót, theo Gấu, là do Cao Bồi khi đó, vẫn chưa biết Đảng đếch xài ông nữa. Thành ra mới có vụ vợ con di tản rồi, mà phải trở về lại xứ Mít.
Cao Bồi, vưỡn đinh ninh, mình lại được qua Mẽo, và biết đâu, gặp lại cô bồ Mẽo cũ!

Ẩn hả, nhớ chứ!

 Bao nhiêu dồn nén chỗ góc khuất đã trải qua trong nguy nan căng thẳng nay trong vô thức trào ra.

Vô thức cái con khỉ.
Võ Tướng Quân, thì.... “vô thức” gì?
Ba triệu oan hồn chờ đòi mạng.
Bèn sợ quá, đếch dám đi!
Chẳng thế mà độc giả TV cứ mè nheo Gấu hoài, mi hiền đi 1 tí!
Để mà chết!

The Spy Who Loved Us

Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ, Cuộc Đời Greene, có đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào, trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ tự truyện, Cõi Khác, Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc dáng Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh của Remarque.

Tại sao lại có sự "lầm lẫn" như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường tra vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một số tác giả, trong số đó, có Steiner, Benjamin, Milosz... và ngộ ra là:
Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ NhấtThế Chiến, không thể có một Mặt Trận Miền Tây nào, cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm dứt  thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)

Đây là điều những nhà phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, và coi nó cao hơn Mặt Trận Miền Tây. Cao hơn không phải là do Bảo Ninh có tài hơn, mà là, chiến tranh, con người, ở trong Nỗi Buồn Chiến Tranh khác với chiến tranh, con nguời như được miêu tả trong Mặt Trận Miền Tây.
Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của Greene, là phải viết Người Mỹ Trầm Lặng. Những so sánh nhắc nhở tới ông, là vì ai cũng muốn được như... ông.

Toan tính rõ rệt nhất, và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn Thời Gian Của Người của Nguyễn Khải. Nó thất bại, là do muốn hay hơn cả Người Mỹ Trầm Lặng, theo nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người, như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông tuyên bố:

“Tôi phải kiếm cho ra một tôn giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.

Nhân vật Quân [hoá thân của Ẩn,] trong Thời Gian Của Người "thánh thiện quá" [theo nghĩa thép đã tôi thế đấy], nhà văn như Nguyễn Khải, một lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như Gide nói. [Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương tồi].
Một cách nào đó, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng có một vị thế [position,status], của cuốn Bóng Đêm Giữa Ban Ngày của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án của thế kỷ.
*

"Đại tá Edward Lansdale - người được coi là khuôn mẫu cho nhân vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene".
Bass

Một anh Xịa cáo già như Lansdale làm sao lại có thể là nguyên mẫu cho một Mẽo gà mờ cù lần như nhân vật Pyle trong Người Mỹ Trầm Lặng?

Như Norman Sherry cho thấy, Pyle là tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale trong số đó. Nhưng Sherry chứng minh, Pyle bản chất là một anh Hồng Mao: Pyle is straight out of a good quality public school - in essence he is  English.

Có thể Ẩn giống Pyle, theo nghĩa này, bản chất của anh   một Cộng Sản. Một người Bắc vô Nam trước 1954 và là một Cộng Sản, làm việc cho Bắc Bộ Phủ.
Đây là sự khác biệt giữa Trung [phi công ném bom Dinh Độc Lập] và Ẩn.

Trung là một con người, với lòng hận thù rất con người của anh. Có thể, chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này: Tụi bây giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo Cộng Sản, chủ nghĩa đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc chắn, nhờ nó, tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù hằn gì cái miền đất đã nuôi dưỡng anh, nhưng, có thể, anh tin rằng, miền đất này sẽ còn khá hơn thế nhiều, nếu nó được Bác và Đảng chăm lo. Cái tay Hoàng Tùng [?] dâng Đất Thục, cho, hết Tào Tháo đến Lưu Bị, đâu phải hắn là một tên phản quốc khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã nghĩ như vậy, khi "nằm gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả đò làm việc cho Mẽo, nhưng thực tình thì là một con ngựa Hồ hướng về, hí về... Đất Bắc! Tâm sự của anh là như vầy:

Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!

*

*

Anh George yêu quí của Em,
Em muốn cầu xin Anh một điều mà không một người đàn ông phong nhã nào có thể chấp nhận.
Em muốn trở lại với Anh.
Em hiện đang ở khách sạn Baur-au-Lac ở Zurich tới cuối tháng.
Em trông tin Anh
Ann

Cú ngửa tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì, với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!], biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có cờ rồi, chúng không có lý do nào để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!

Không có bức điện của PXA, có thể tình hình khác đi.

Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà biết thiên hạ sẽ phân ba.

PXA biết, nhưng không biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.

Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như không còn.

Vào những giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là vì những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (1)

Sep 26, 2013

Mưa chân trời

Cái nước mình nhỏ thiệt, bão ở đâu đâu mị ngoài Bắc mà chót Mũi cũng mưa tối mắt. Ai đó trong mấy anh ngồi uống trà chiều ở cái chòi sửa xe, nói bâng quơ ngó chuỗi mưa xiêu xẹo. Sáng đến chiều vẫn một màu trời âm u đùng đục, đầu đêm đến cuối đêm một thứ âm thanh rả rích. Tôi lánh cái nhìn vô cái pitong lửa leo lét cháy ép vá vỏ xe bị đinh đâm lủng, ứ hự nghĩ tới phải đội mưa đi đón hai nhóc con. Anh vá xe một tay đưa võng cho đứa thứ hai ngủ, tay kia ẵm lủng lẳng đứa sau, nói “tối nay bão vào quê, không biết thằng em chống chọi sao rồi”.
Tin báo bão trên đài nói rằng nó ráo riết nhắm hướng Tiền Hải, anh vá xe rầu. Năm trước nhà em trai anh bị bão dỡ một lần, vừa vá xong đận này chắc là lại rách. Nhiều năm nay anh không về quê. Tháng Bảy này năm ngoái, anh mất đứa con trai đầu lòng khi nó đi xúc cá bị chết đuối. Khi người đàn ông này dắt díu vợ di cư đến mảnh đất mút ngọn miền Tây, đã không bao giờ nghĩ mình sẽ vùi cốt nhục ở đây. Lần nào ghé căn chòi sửa xe này, tôi có một chút khó thở. Không hiểu vì trà Bắc chát đắng hay nhớ thằng bé người ta từ dưới đáy ao hoang đằng sau trạm xăng lên, nhớ hình ảnh thằng bé mười tuổi mà tôi vẫn thấy hay đi mua kẹo ở tiệm tạp hóa gần nhà, vắt đứa em gái trên cái hông mỏng te bén lẹm xương của nó.
Hồi còn nhỏ, tôi có nhiều kỷ niệm với những người Bắc di cư vào. Tiệm gạo nhà tôi cất ngay cửa ngõ vào cái xóm Hà Nam Ninh. Họ ở co cụm, như thể để thỏa nhu cầu nghe tiếng nói quê nhà ới ơi mỗi buổi sớm. Mùa mưa, xóm lụn trong nước và lau sậy. Những con ngỗng giữ nhà rướn cổ ném cho khách những tiếng kêu đầy ác cảm. Sân nào cũng đầy dấu chân của vịt, gà. Những thùng nước cơm cặn lặc lè yên sau xe đạp. Cô giáo dạy văn mà tôi thương nhất. Con bạn cùng lớp cạnh tranh vị trí nhất nhì. Vài chị là mối mua gạo cám của tiệm nhà tôi. Những con người ấy làm tôi thắc mắc cái xứ sở mà tôi gọi là nước Bắc không biết gần hay xa. Chắc xa, họ gọi chén bát lung tung xèng, phở thì không rau giá, canh chua không nêm đường, cà đem muối trong chum, bánh tét lại vuông. Chắc xa, năm bảy cái tết họ mới về quê một lần.
Nhưng những cơn mưa dầm tháng tám làm tôi thấy họ gần mình. Bởi những cái thở dài không phân biệt tập quán và quê xứ. Dù họ lo lắng giông bão phía quê nhà, tôi rầu đơn giản chỉ là mưa thấy rầu thôi, nhưng chắc là cộng cảm theo kiểu ai ra mưa cũng ướt, ai ở dưới trời này cũng phải chịu những cơn mưa rũ rượt. Cùng một nỗi buồn nhà dột, bán buôn ế ẩm, cơn cảm cúm mũi dãi chảy sụt sùi.
Những cuộc đi mê miết đã làm nhòa những lạ lẫm của người Nam nhìn kẻ Bắc. Cửa hàng bán đồ Bắc xuất hiện nhiều thêm trên nội ô thành phố. Nhưng phở gia truyền Hà Nội cũng rau giá đầy vun, bánh cuốn gia truyền Hà Nội với nước chấm pha đường ngọt lịm. Tết, nhà họ cũng có nồi thịt kho tàu. Lâu lâu trên đài địa phương có phát biểu của một ông giọng miền ngoài mà bắt đầu bằng mấy chữ ‘thưa bà con,”. Mấy em cộng tác viên gốc Bắc viết truyện ngắn gửi tạp chí văn nghệ dùng phương ngữ miền tây ngọt sớt. Những thế hệ thứ hai, thứ ba đã dạ thay cho vâng. Anh thợ sửa xe nói, từ khi không còn cha mẹ già ngoài ấy, thì loay hoay chỉ trung thu và tết mới thấy nhớ quê, dợm muốn về. Miền Tây không có cái không khí lễ hội của trăng rằm và dịp đầu năm. Nhưng từ mất thằng nhỏ, cất bước đi đâu cũng khó.
Anh bỏ sót mưa. Dải đất nằm nghiêng theo biển, nghe mưa dầm dề là biết có áp thấp nhiệt đới gần bờ, không tạt vô trung thì ra bắc. Mùa mưa phương Nam trùng với mùa bão lũ ngoài kia. Mưa buộc người lang bạt lại với cái gốc rễ tưởng đã bứt lìa. Anh hỏi vợ ghi số điện thoại của thằng em ở quyển sổ nào, quên mất.
Giữa cơn mưa gió ẩm ê, những cuộc gọi từ cuối đất phập phồng theo cơn bão ở chân trời.

Blog Sầu Riêng

Nhắc đến Cao Bồi “nằm gai nếm mật” bao nhiêu đời, nhân đọc NNT, bài viết thật tuyệt, nhưng bị mấy cái lỗi “hỏi ngã”, tiếc quá, bèn sửa, và post lại ở đây.
Cũng 1 cách “buộc người lang bạt…”
Hà, hà!

Tiện thể. Trên trang Gió O của bà Huệ, "hỗ trợ", không phải "hổ trợ".
Lại nhớ Gấu Cái.
Hồi Bả "tập" viết văn, chỉ cho phép Gấu sửa lỗi chính tả, cấm sửa văn, cho "còn nguyên" mùi Nam Kít, không bị pha tạp!

Trang FB của GCC

Link ở đây, để lỡ GCC vội - "đột xuất", chữ của Vẹm - đi  xa, Gấu Cái/Jennifer Tran thông báo độc giả TV, giùm.
Bả không biết làm sao post trên Tin Văn!

Em còn nhớ hay em đã quên?
Nhớ Sài gòn những chiều lộng gió
Lá hát như mưa suốt con đường đi
Có mặt đường vàng hoa như gấm
Có không gian màu áo bay lên

Note: Thần sầu! Mỗi lần nghe, là Gấu lại nhớ đến bài viết của Borges, về những tiền thân của Kafka, về "một vài người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà."

TCS là thứ người đó, ông không thể xa Sài Gòn, đành ở lại, ôm lấy nó, cho tất cả chúng ta!

Có lần Gấu phán ẩu, nhưng thật đã, thật đúng, cái hồn văn chương Miền Nam ở trong những bản nhạc sến là thế. Nhạc TCS thì cũng thứ nhạc sến, hiểu theo một nghĩa nào đó.
Cái sến nhất của nó, là làm người ta quên cuộc chiến, trong khi nhạc lính, ôm lấy nó. (b)

INTERVIEWER

In your interview with Gordon Lish in Genesis West, you say that there are two kinds of poetry. On the one hand, there are poems that give delight; on the other, there are poems that do something else. What do you mean by "something else"?
GILBERT

I think serious poems should make something happen that's not correct or entertaining or clever. I want something that matters to my heart, and I don't mean "Linda left me." I don't want that. I'll write that poem, but that's not what I'm talking about. I'm talking about being in danger-as we all are-of dying. How can you spend your life on games or intricately accomplished things? And politics? Politics is fine. There's a place to care for the injustice of the world, but that's not what the poem is about. The poem is about the heart. Not the heart as in "I'm in love" or "my girl cheated on me"-I mean the conscious heart, the fact that we are the only things in the entire universe that know true consciousness. We're the only things-leaving religion out of it-we're the only things in the world that know spring is coming.
Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris Review Interviews, I

Trong lần trả lời Gordon Lish trên Genesis West, ông phán, có hai thứ thơ, một, làm sướng điên lên, một, làm một cái quái gì đó. Cái quái gì đó, là cái quái gì, hở ông?
GILBERT

Tôi nghĩ có thứ thơ thần, nó làm cho một điều gì đó xẩy ra, và cái điều này thì đếch có đúng, đếch có mua vui, đếch có thông minh, dí dỏm, hóm hóm, hay bất cứ cái chi chi.
Tôi muốn một điều gì đó xẩy ra cho trái tim của tôi, và tôi không muốn “BHD bye bye tôi”. Tôi không muốn điều đó. Tôi sẽ làm một bài thơ, nhưng đó không phải là điều tôi đang nói tới. Tôi đang nói tới điều nguy nàn – nhưng tất cả chúng ta nguy nàn - chết. Làm sao chúng ta có thể trải qua đời mình trong những trò chơi, hay những sự việc được hoàn tất th
ật phức tạp? Và chính trị? Chính trị thì OK. Phải có một nơi lo ba cái chuyện công lý trên đời, nhưng đó không phải là điều của thơ. Thơ là về trái tim. Không phải trái tim theo kiểu, “Tôi đang yêu”, hay “Em lừa dối tôi”. Tôi muốn nói con tim chân chính, con tim ý thức, tức, sự kiện, là, chúng ta là những gì độc nhất trên toàn vũ trụ, hiểu ý thức chân thực. Chúng ta là những gì độc nhất - gạt tôn giáo qua một bên – chúng ta là những gì độc nhất trên thế gian này biết mùa xuân đang đến.

Jack Gilbert
The Art of Poetry
The Paris Review Interviews, I
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Samuel Beckett 

“Personally of course I regret everything.
Not a word, not a deed, not a thought, not a need,
not a grief, not a joy, not a girl, not a boy,
not a doubt, not a trust, not a scorn, not a lust,
not a hope, not a fear, not a smile, not a tear,
not a name, not a face, no time, no place...that I do not regret, exceedingly.
An ordure, from beginning to end.”

[net]

Về phần tôi tất nhiên tôi tiếc rẻ mọi thứ.
Không phải một lời nói, không phải một hành động, không phải
                             một ý nghĩ, không phải một nhu cầu,
không phải một nỗi đau, không phải một niềm vui, không phải
                              một cô, không phải một cậu,
không phải một hoài nghi, không phải một niềm tin, không phải
                             một khinh bỉ, không phải một thèm khát,
không phải một hi vọng, không phải một nỗi sợ, không phải
                             một nụ cười, không phải một giọt lệ,
không phải một tên gọi, không phải một gương mặt, không phải thời gian,
                             không phải nơi chốn... những thứ tôi vô cùng không tiếc rẻ.
Mà là một đống cứt ỉa, từ đầu đến cuối.

HNB dịch (1)

Ông này, cũng 1 đấng bạn quí của GCC, từ hồi Quán Chùa.
Lúc nào gặp mặt cũng khinh khỉnh, Gấu lại nghĩ tính của bạn quí vốn vậy. Phải đến khi ra được hải ngoại, mới ngộ ra bạn quí đếch quí Gấu!

Gấu đã có lần chỉ cho bạn quí thấy, dịch nhảm thơ Brodsky. Dịch nhảm, có thể còn là do chiều theo yêu cầu của VC. Bạn quí đã từng tự hào, người đầu tiên giới thiệu Brodsky với xứ Mít

Đoạn thơ trên, tiếng Mít, có “vấn đề”, không phải do dốt tiếng mũi lõ, mà là tiếng Mít.

“Personally”, “về phần tôi”, thì có tí trật. Mít dùng cụm từ “về phần tôi”, sau, “về phần bạn”.
Dịch, “cá nhân tôi, riêng tôi”, thì được.
“Regret” không phải là tiếc rẻ, mà là tiếc nuối, ân hận
Tiếng Mít tệ hại như thế, thì dù có giỏi tiếng mũi lõ cỡ nào, cũng vứt đi.

Phải về già, thì Gấu mới hiểu ra 1 điều thật quái dị, là, bạn học ngoại ngữ, là để hiểu, làm thâm sâu, kiện toàn tiếng mẹ đẻ của bạn.
Cái đám bạn quí của Gấu này, cũng văn nghệ văn gừng cả 1 đời, mà đời đếch thèm biết đến, sở dĩ như thế, vì chúng học tiếng mũi lõ, để có dịp là chuồn!

Hồi mồ ma tờ Văn, dưới mắt Xìn Phóng, chỉ có đám học Triết, giáo sư Triết, đám học trường Tây, hay, hơn thế nữa, chuồn qua Tẩy, như TTD, ông Tẩy mũi tẹt, là được Người o bế, coi trọng.
Ông không ưa Gấu, thằng đó mà tiếng Tây gì, vậy mà bày đặt tiểu thuyết mới, hiện sinh, Sartre, Camus.

NDT là người giới thiệu Gấu với tờ Văn. Lúc đó, Gấu đang viết cho tờ Nghệ Thuật, thời gian VL thay thế Thanh Nam làm tổng thư ký. Gấu nhớ là, anh tự động ghé bàn Gấu, khi đang ngồi ăn phở 44 Phan Đình Phùng, phía bên kia đường là Đài Phát Thanh Sài Gòn, xưng tên, và đề nghị viết cho Văn. Gấu bèn đi hỏi ý kiến NTaV và thi sĩ “Cao Thọi Trâu”, cả hai bèn phán, hỏi cái gì nữa, viết chứ, tại sao không?

Hà, hà!

*

Địa chỉ [số nhà số điện thoại] của BHD
Thiếu email-address! 

...  như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên ngoài cuộc đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không thể biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....

Mùa Hè Miền Nam


Tứ tấu khúc

*

Một trang bản thảo tìm lại được, viết về Bông Hồng Đen.
Viết hồi ở trại tị nạn Thái Lan.
Cùng một air với những dòng sau đây, mở ra Lần Cuối Sài Gòn:

Viết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".
*
"Cô đã đi xa, xa lắm" có nghĩa, lúc đó BHĐ ở Huê Kỳ. Gấu thì chưa biết có đậu thanh lọc, hay bị trả về cho VC.
Bi giờ mới biết, "Cô đã đi xa, xa lắm" có nghĩa là:

Vĩnh Biệt

Cái câu văn sau cùng - đột nhiên, đèn trong phòng trên lầu bật sáng: hình bóng của cô xuất hiện trước khung cửa mở rộng - là một kỷ niệm thật là tuyệt vời về Bông Hồng Đen

Nhớ, đêm đó là đêm Noel.
Em nói, làm sao có chuyện đi rước đèn với anh được!
Gấu bèn đưa ra... giải pháp:
Anh sẽ đi chơi, tơi bời, thăm đủ chỗ, đủ thứ, của Sài Gòn, giùm cho cả Em!
Đúng 12 giờ đêm, anh sẽ đậu xe ngay dưới đường, nhìn lên phòng em, và lúc đó em bật đèn, mở cửa sổ.
Bông Hồng Đen gật đầu.