Chân dung nhà văn by Xuân Sách
Trước khi khăn gói quả mướp, với 10 ngày lương thực lận
lưng, cho cuộc cải tạo kéo dài chỉ có 10 ngày
phù du, ông anh nhà thơ phán, thay cho lời từ
biệt thằng em GCC, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng
này.
GCC không tin, ông “tiên tri đến mức tối hậu”, của
câu phán, của chính ông, bởi là vì,
không phải chỉ Miền Bắc, mà cả xứ Mít bị chấn thương
nặng nề, và mấp mé bờ huỷ diệt, bởi chiến thắng của Bắc Kít.
Xuân Sách, khi xem tướng tầng lớp tinh anh Bắc Kít,
bằng 1 cách nào đó, “cùng lúc”, ông
tiên tri ra được số phận xứ Mít, như bây giờ.
Chứng cớ: ông hỏi Chế Lan Viên, điêu tàn ư?
Và ông hỏi thêm:
Đâu chỉ điêu tàn?
Đâu phải vô tư mà 1 vài đấng thuộc loại cực
kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít, như Đặng Thai Mai tỏ ra rất ư bực mình,
khi không được XS xem tướng.
Cái gì làm họ bực mình?
Theo GCC, họ muốn hậu thế sẽ xét xử họ, như thế nào, qua
XS.
GCC đã từng đề nghị, phải đọc XS, qua tinh thần của Beckett:
"One of the [Calvary] thieves was saved. It's a reasonable percentage".
"Một trong những tên trộm được cứu vớt. Vậy là được rồi." Trong khi chờ Godot
Hay của Kertesz, khi viết:
"Si l’Holocauste a créé une culture – ce qui est incontestablement
le cas –, le but de celle-ci peut être seulement que la réalité
irréparable enfante spirituellement la réparation, c’est-à-dire
la catharsis. Ce désir a inspiré tout ce que j’ai jamais
réalisé".
"Nếu Lò Thiêu đẻ ra văn hóa, làm sao không?,
thì mục đích của nó là, chỉ cái thực
tại vô phương sửa chữa đó mới đẻ ra được sự cứu rỗi, và
đây là tinh thần thanh tẩy, mà tất cả những cái
gì tôi viết ra đều được gợi hứng từ đó."
Lạ, là Kafka, qua một số “truyện ngắn” của ông, đã
cảnh cáo Bắc Kít, về cái chuyện làm thịt Đàng
Trong.
Trong Tháp Babel, ông phán, xây được, nhưng
chớ có trèo lên!
Hay trong Làng Kế Bên, tức Đàng Trong, dù
nó "kế bên", nhưng chớ có làm thịt nó!
(1)
Hà, hà!
(1)
Chưa có tên nào,
bị Tên Khùng Già, là Lão Tặc Thiên,
bắt phải trải qua những khổ nạn, khổ kiếp thê lương, như Gấu [trong
những khổ nạn, có cái chuyện cho mi hưởng trái cấm
nè, thích không?], nhưng, 1 khi, đã qua được rồi,
Tên Khốn mới "care" GCC một cách chu đáo như thế
nào, nhất là cái lần thưởng thức đại tiệc thịt chuột,
cùng lúc cho nghe bản Ngày Mai Đi Nhận Xác
Chồng].
Về già,
nhớ lại, Gấu mơ hồ hiểu ra, ý nghĩa cái truyện
ngắn “K”, của Buzzati, mi hãy sống đời của mi cho thật
đàng hoàng, thì thể nào cũng có
ngày mi gặp con K, và tới lúc đó, mi
chẳng cần đến nó nữa!
Ngụ ngôn
về tháp Babel của Kafka, cũng hàm ý
này. Xây tháp Babel ư, OK, nhưng chớ có
trèo lên nhe.
Lũ Bắc
Kít tìm đủ mọi cách ăn cướp Miền Nam, và
trong những cách đó, là nhử Mẽo vô,
rồi vận động cả nước chống Mẽo kíu nước, với giấc mơ thống
nhất, Nam Bắc 1 nhà, Xuân này xum họp Xuân
nào vui hơn cái con mẹ gì đó; Kafka
phán, OK, nhưng chớ có trèo lên.
Nhưng làm
sao không trèo?
Cái
Ác Bắc Kít xúi chúng trèo,
nhà Ngụy chúng cướp, Ngụy, chúng tống đi cải
tạo mút mùa lệ thuỷ, vợ Ngụy, chúng hiếp,
con Ngụy, cấm đi học, nếu có học, cấm vô Đại Học.
Đã
cảnh cáo rồi, đừng có trèo mà
cứ trèo, thế là ô hô ai tai cả nước Mít!
Thằng Tẫu,
kẻ thù muôn đời của Mít, lũ Bắc Kít
thèm Miền Nam quá, thế là mời Tẫu vô...
giường, nhường cả vợ con cho chúng, cốt sao lấy được
Miền Nam, thoát Trung cái con khỉ Tầu!
Đau thương nhất,
là người dân Miền Bắc bây giờ chịu đúng
cái nhục của Miền Nam. Lũ Bắc Bộ Phủ, những Trọng Lú,
tân thủ tướng Bắc Kít, Fuck Fuck gì đó,
chúng đâu có tha đám Bắc Kít
nghèo khổ. Chúng cũng ăn cướp, bóc lột họ,
y chang đã từng với Miền Nam.
GCC tự hỏi, những
tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, não
bị thiến một mẩu, chúng đâu hết rồi?
Bỏ chạy hết ra
nước ngoài rồi.
Hay thế!
Sến, ở Đức, Nobel
Toán, Mẽo, “Hồng Béo” gì đó,
Mẽo…
Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây,
nhìn lại nó, thấy đời như co rút lại, thành thử
nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ qua chuyện
tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm
rong ruổi sang làng kế bên, mà không e ngại, một
đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng không đủ thời gian cần
thiết cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng Anh: The next village.
My grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand, for
instance, how a young man can decide to ride over to the next village without
being afraid that – not to mention accidents – even the span of a normal
happy life may fall far short of time needed for such a journey".
Bài
viết này, theo GCC, nhảm.
Vị này phán văn học chết rồi, và
chỉ đích danh hai tên sát nhân; một,
hệ thống net, và một, Nobel văn chương.
Net, với
những facebook, thí dụ, phục vụ nhu cầu xã hội,
kết nối, và nếu như thế, nó cố huỷ diệt nỗi cô
đơn của con người. Cứ nhìn quanh thì thấy, mỗi người,
với cái ifone, ipod ở trong tay, họ đâu màng đến
thế giới quanh họ, và họ không hề cô đơn. Ngược
lại, văn chương có, là nhờ nỗi cô đơn của con
người. Khác hẳn nhau.
Còn
Nobel văn chương. Đấng này phán quá nhảm,
khi coi thường những người được giải này, trong những năm
gần đây. Ông viết:
Viện Hàn lâm Thụy Điển thì
đã làm gì? Từ khi sang thiên niên
kỷ mới họ không còn trao Nobel văn học cho những nhà
văn xịn và những tác phẩm văn học hư cấu đỉnh cao (theo
tiêu chí của giới văn chương thượng thặng). Đã
lâu, văn giới chờ họ liếc mắt tới những là Philip Roth,
Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas Pynchon, Ko Un, Javier Marías,
Umbecto Eco (vừa chết cmnr), Don DeLillo… Nhưng không. Không
phải là ý chính bài này, nhưng
trong những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít năm ngay
trong thế kỷ này thôi thì không biết bạn có
còn nhớ tên họ hay cuốn sách nào của họ,
như là Elfriede Jalinek, Harold Pinter, Jean-Marie Gustave
Le Clézio, Herta Müller… chứ chưa thèm nói
đến thế kỷ trước…
Tất cả những
tác giả mà ông nêu tên, xứng
đáng được Nobel, thì với GCC, chẳng tên nào
có tí cơ may. Trong khi những vị mà vị này
coi thường, thì đều quá xứng đáng!
Đây
là do cái cách cho Nobel những năm gần
đây, khác hẳn trước đây, và với riêng
GCC, giải Nobel những năm gần đây, mới đúng là
Nobel văn chương.
“Tiêu chí” của nó, theo GCC,
là từ câu phán khủng khiếp của Walter Benjamin:
Mọi tài liệu về văn minh, là một tài liệu
về dã man.
Hay, cũng ông, lịch sử bây giờ phải
viết từ đáy, không phải viết từ đỉnh.
Phụ họa với ông, là Adorno, với
câu phán móc họng nhân loại, nói
chung, và lũ nhà văn nhà thơ, nói
riêng: Sau Auschwitz mà còn làm thơ
thì thật là dã man.
Câu nói của Adorno, bị Brodsky phản
bác, khi ông cho rằng, bất cứ 1 trại tù
Gulag nào, thì đều có thể thay thế cho cái
tên Auschwitz.
Đến đây, thì 1 vấn nạn lớn, mở ra:
Cái Ác Nazi thì có
thuốc chủng, nhưng Cái Ác Á Châu,
trong có Cái Ác Bắc Kít, chưa!
Lịch sử
viết từ đáy: Trao Nobel cho Cao Hành Kiện, thí
dụ, vì đây là cuộc chiến đấu của, lịch sử 1
cá nhân chống lại lịch sử của đám đông.
Theo GCC,
cái đọc, cái viết, cái dịch ở trong nước
đang ở vào 1 thời kỳ sắp... chết, thực sự là như
thế.
Từ từ GCC sẽ giải thích, tại sao. Nội
cái việc coi mấy đấng nhà văn được vị này
nêu ra, những nhà văn thượng thặng, là đã
quá nhảm rồi. Vị cựu thư ký Uỷ Ban Nobel chẳng đã
chỉ ra, thứ văn chương di dân của Mẽo mà làm sao
cho Nobel cho được! Khi Roth đuợc Man Booker, 1 vị giám khảo
quit job, là thế!
Câu
phán văn học đã chết, quá đúng, nếu
chỉ áp dụng vào xứ Mít, đúng hơn nữa,
vào xứ Bắc Kít, kể từ sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm,
khi cả miền đất gục ngã trước Cái Ác Bắc Kít,
và nó là nguyên nhân gây
ra cuộc chiến Mít lần thứ nhì, hay đợt hai.
GCC, trong thư ngỏ gửi Gunter Grass, đã
chỉ ra điều này.
Những nhà văn Việt Nam
trưởng thành khi cuộc chiến Đông Dương ngưng lần
thứ nhất, đã để lỡ cơ hội ngay sau năm 1954, khi không
hòa giải được với nhau qua tiếng nói và qua
sinh mệnh của dân tộc. Một số nhà văn Miền Bắc thuộc
nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã nhận ra hiểm họa, khi
sử dụng văn chương vào những mục đích chính trị
nhất thời là làm cho nó bị tổn hại, và
hậu quả sẽ không thể lường được. Họ đã yêu cầu
Đảng và Nhà Nước: hãy lấy tất cả, nhưng trả văn
chương cho chúng tôi. Nhà văn Phan Khôi
đã nói thẳng với những nhà văn nhà nước: Đảng
dậy chúng ta (làm) chính trị, chứ đâu dậy
chúng ta (làm) văn chương! Nhà thơ Trần Dần,
đã nhìn sự huỷ diệt thủ đô lịch sử và
văn hóa, và cùng với nó là biểu
tượng của cả một dân tộc, qua viễn ảnh Tận Thế Là Đây,
ApocalypseNow:
Tôi bước đi, không
thấy phố, không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ.
Họ
đã bị tù đầy, cô lập về kinh tế, đi lại,
và cuối cùng tiếng nói văn chương thực sự của
một miền đất nhằm chống lại chính sách độc đoán,
toàn trị của Đảng CSVN đã bị bóp nghẹt vào
năm 1958, trước khi cuộc chiến Đông Dương lần hai khai màn.
Ở Miền Nam, những tiếng nói
hòa giải, chống chiến tranh của Phật Giáo, nghệ
sĩ, trí thức, sinh viên, thanh niên cũng đã
bị chính quyền Sài Gòn bóp nghẹt.
Chúng ta hãy giả
sử, nếu hai tiếng nói đó cùng cất lên,
mở ra một lối thoát cho xã hội, cho văn chương, cuộc
chiến khốc liệt giữa hai miền có thể đã không
xẩy ra.
V/v Elfriede Jalinek. Tên của
bà, là Elfriede Jelinek.
Trên Tin Văn có bài
giới thiệu, Những Hình Hài Nobel.
Theo GCC, bà quá
xứng đáng để được Nobel, không chỉ cho bà, mà
còn cho cả 1 băng nhà văn đều xứng đáng Nobel, mà
bà đại diện.
Tôi không tin tưởng rằng
Jelinek là một nhà văn lớn. Nhưng bà là một nhà
văn đáng đọc và có ích. Có thể xem
việc trao giải Nobel cho bà không chỉ là công
nhận tác phẩm và tư thế đối kháng chông chênh
của bà, mà còn như là một cử chỉ đẹp, tuy
muộn màng, đối với cả một hội những kẻ bị từ chối, gồm những nhà
văn Áo nổi tiếng trong đó có Rilke, Hofmannsthal,
Musil, Broch, Karl Kraus, Joseph Roth và Ingeborg Bachmann. Robertson, Ritchie
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London
(TLS), số ngày 15/10/2004.
Elfriede
Jelinek ou la perte de l'innocence
Jelinek hay sự mất ngây thơ
Có phải những người sống là những
người sống như chết, ù ù cạc cạc không? Toàn
những «phác họa của những người chết» không?
Sau các tội ác
của chủ nghĩa toàn trị của thế kỷ 20, và nhất là
tội ác của Ðức quốc xã, chúng ta toàn
là những người sống mà như xác chết, tôi còn
dám nói như thế. Khi Adorno nói, thật là man
rợ sau những gì xảy ra ở Auschwitz mà còn làm
được thơ, tôi nghĩ, ông muốn nói đến hai chuyện: một
chuyện, không thể nào làm thơ, và chuyện thứ
hai, rằng Auschwitz phải được có mặt trong tất cả các thơ văn
được viết sau Auschwitz. Không còn ngây thơ, cũng không
còn những người sống nữa. Ðiều tôi quan tâm, gồm cả
những phim ma đã khởi hứng cho tôi, là có một
người chết mà họ không biết họ chết. Vậy, sau Hitler, chúng
ta, dân của một dân tộc phạm tội ác (dù cho, trong
trường hợp của tôi, xuất thân từ một gia đình Do Thái
có rất nhiều nạn nhân), chúng tôi tất cả đều đã
chết, chỉ có một điều là chúng tôi không
biết chúng tôi chết.
Trên mục NB, Sổ Tay,
của tờ TLS, số đề ngày 15 tháng Mười, 2004 có bàn
v/v Nobel năm nay.
Phóng viên của Tờ Daily Telegraph, ở Frankfurt, kể
lại, anh ta nghe lỏm từ một tay agent số một trong ngành xuất bản,
về việc Elfriede Jelinek được giải năm nay: "Tớ vừa mới ăn trưa cùng
bốn ông trùm ngành xb Anh, cả bốn trự, không
trự nào biết, hoặc đã từng nghe nói đến tên
bà này."
Dư luận cho rằng, Nobel năm nay là một cuộc long tranh hổ
đấu giữa ba nhà văn: hai Mẽo, Philip Roth và John Updike,
và nhà văn nữ Canada, Margaret Atwood.
Và đoán mò, đoán trật đưa đến bực bội,
khó chịu: "Mấy ông hàn này còn đợi
gì nữa mà không công nhận Philip Roth?" [tờ
San Francisco Chronicle].
Và cũng vẫn tay tổ số một trên tố thêm: "Mấy
ông hàn này hết xài rồi. Họ đâu cần.
Ai được Nobel thì cũng vậy thôi!"
Sự thực, hay đúng ra, phải nói là, giải Nobel,
vào năm thứ 104 , là năm nay của nó, nói lên
rất nhiều điều, nếu người ta để ý tới yêu cầu của người đặt
ra giải thưởng, Alfred Nobel, "giải thưởng được trao cho người nào
sẽ sản xuất ra, trong địa hạt văn chương, một tác phẩm đáng
kể nhất, có ý hướng lý tưởng" [an award to 'the person
who shall have produced in the field of literature the most outstanding
work of an idealistic tendency'].
Có thể viện dẫn yêu cầu này để giải thích
những trường hợp bỏ sót nổi cộm như Tolstoy, Zola, Ibsen, Rilke,
Hardy, và những chọn lựa kỳ kỳ, cũng gây nên thắc
mắc chẳng kém, như Sully Prud'homme, Bjornstjerne Bjornson, Henryk
Sienkiewicz, Giosuè Carducci, R.C. Eucken.
Theo như kể lại, bà Jelinek đã đón nhận tin
được giải "với nhiều tuyệt vọng hơn là bình thản" ["with
more despair than calm". Bà cũng cho biết sẽ không thể tới
Stockholm để nhận giải.
Như vậy là bà nhập vào cùng một băng
với những người, được Nobel "đã chẳng vui mà còn
ra vẻ ngần ngại", "reluctant laureates', như Samuel Beckett, người đã
từng la lên, "Ối giời ơi, đúng là một thảm họa!"
["Quel catastrophe!"], ông này cũng nhận, nhưng không
đi. Hay như Boris Pasternak, than, "Tôi như một con thú bị
mắc bẫy"; và bị nhà nước Xô Viết bắt phải từ chối.
Hay Jean-Paul Sartre, "Tôi không thể, và không
muốn, không phải vào năm 1964, mà vào bất
cứ năm nào, nhận phần thưởng lớn lao đó".
Vì Sartre từ chối cho nên giải thưởng đã lên
tới một triệu Anh Kim. Ông còn tố thêm: "Nhà
văn không được quyền cho phép chính mình bị
những định chế làm thay đổi, biến dạng". [The writer must not allow
himself to be transformed by institutions], câu này đôi
khi bị trích dẫn sai, là: "to be turned into an institution":
bị biến thành một định chế.
Tuy nhiên, Hàn Lâm Viện vẫn để tên ông
vào danh sách những nhà văn được giải, vì theo họ, nhận hay không, là
quyền của ông ta, và chuyện ông ta từ chối chẳng
liên quan gì tới thế giá của giải, "does not alter
the validity of the nomination."
Note: Câu than thở của Beckett,
thực sự là của bà vợ của ông.
Tờ Người
Kinh Tế có bài về vụ Đồng Tâm, GCC bị đụng
tường, không đọc được, không làm sao báo
cáo, sorry.
Nhưng hãy nhớ, Hannah Arendt phán,
muốn hiểu chủ nghĩa toàn trị, chỉ cần nhớ 1 câu,
nó đếch thí cho nhân dân của nó,
dù chỉ 1 tí tự do.
Cái toàn trị của xứ Mít còn
ghê gớm hơn nữa, vì đằng sau nó, là
Cái Ác Bắc Kít, cực kỳ tàn nhẫn.
Note: Bài này đuợc 1 vị bằng hữu chôm
giùm. Tks.
Post ở đây.
Sẽ đi bản
tiếng Mít liền. Câu kết bài viết mới... đểu/đã/độc
như thịt vịt... làm sao:
Expect more battles to come
Âm Thanh & Cuồng Nộ:
Đây là câu chuyện của xứ Mít,
Được kể bởi Cái Ác Bắc Kít
Nó sẽ còn dài dài.
Hy vọng sẽ có nhiều cú ĐT trong
những ngày sẽ tới!
(1) Ung Thư: Từ này, chôm của TTT. TTT chôm
của Malraux, làm cái tít cho 1 bài viết,
bị đấng Trần Phong Giao, thư ký báo Văn, chôm
tiếp, làm nhan đề cho 1 tập truyện ngắn do xừ lúy biên
tập, của Thế Uyên & Duy Lam:
Nổi Chết Không Rời
Bếp Lửa, "miêu tả không
khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là
những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập
tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà
phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân
miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa,
nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh
ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một
kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư
(1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp
nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết
(l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tièdeur
de mort). Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra...
TTT trả lời Le Huu Khoa, trong Thơ giữa chiến tranh
và Trại Tù
“Thơ Thanh Tâm Tuyền
phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh'
của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là
Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay
khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Quỳnh Giao.
Hai cái tít
Ung Thư, và Nỗi Chết Không Rời, như trên cho thấy,
là từ câu của Malraux, GCC nhớ đại khái, hình
như trongLa Voie
Royale, mais accepter vivant la vanité de son existence,
comme un cancer, vivre avec cette tièdeur de mort dans la main.
Nhưng hãy chấp nhận cái "vanité"
[tạm dịch, theo cái nội dung, context, ỏ đây, cái
vô thường] của hiện hữu, như cục ung thư, sống với nỗi ấm áp
của cái chết ở trong lòng bàn tay
V/v Vưỡn chuyện Cái Ác Bắc Kít:
Marlene Dietrich by David
Levine
GABRIELE ANNAN
Girl From Berlin
Originally published February
14,1985, as a review of Marlene Dietrich's ABC, Ungar Marlene D.
by Marlene Dietrich. Grasset (Paris) Sublime Marlene by Thierry de
Navacelle. St. Martin's
Marlene Dietrich: Portraits
1926-1960, introduction by Klaus-Jurgen Sembach, and epilogue by
losefvon Sternberg. Schirmer/Mosel; Grove Marlene a film directed
by Maximilian Schell, produced by Karel Dirka. Dietrich by Alexander
Walker. Harper and Row
Among the rarities Schell
has to show is a scene from Orson Welles's Touch of Evil (1958), in which
Dietrich was only a guest star. She plays the madame of a Texas brothel,
Welles a corrupt, alcoholic police chief on the skids. He comes into the
brothel and finds her alone at a table in the hall.
"You've been reading the cards, haven't you?" [he says].
"I've been doing the accounts."
"Come on, read the future for me."
"You haven't got any."
"Hm ... what do you mean?"
"Your future's all used up. Why don't you go home?"
Dietrich's voice is deadpan, but it breaks your heart
all right with a Baudelairean sense of the pathos of human depravity,
degradation, and doom.
“Cô gái từ Berlin”
là 1 bài viết về nữ tài tử điện ảnh người Đức,
Marlene Dietrich.
Trong phim “Cánh Đồng
Bất Tận", em đóng vai 1 bướm Xề Gòn, buồn buồn ngồi
bói Kiều. Một tên cớm Bắc Kít bước vô, ra
lệnh:
-Coi cho ta 1 quẻ về tương lai.
Ngài đâu còn?
-Mi nói sao?
Tương lai của Ngài xài hết rồi, sao Ngài
không về lại xứ Bắc Kít của Ngài đi?
Giọng em bướm trong Cánh Đồng Bất Tận mới dửng
dưng, bất cần đời làm sao, nhưng bất cứ 1 tên Mít nào
nghe thì cũng đau thốn dế, khi nghĩ đến 1 xứ Mít tàn
tạ sau khi Bắc Kít chiếm trọn cả nước.
Bài viết này, theo GCC, nhảm.
Vị này phán văn học chết rồi, và chỉ đích
danh hai tên sát nhân; một, hệ thống net, và một,
Nobel văn chương.
Net, với những facebook, thí dụ, phục vụ nhu cầu xã hội,
kết nối, và nếu như thế, nó cố huỷ diệt nỗi cô đơn
của con người. Cứ nhìn quanh thì thấy, mỗi người, với cái
ifone, ipod ở trong tay, họ đâu màng đến thế giới quanh họ,
và họ không hề cô đơn. Ngược lại, văn chương có,
là nhờ nỗi cô đơn của con người. Khác hẳn nhau.
Còn Nobel văn chương. Đấng này phán quá nhảm,
khi coi thường những người được giải này, trong những năm gần đây.
Ông viết:
Viện Hàn lâm Thụy Điển thì đã làm gì?
Từ khi sang thiên niên kỷ mới họ không còn trao
Nobel văn học cho những nhà văn xịn và những tác phẩm
văn học hư cấu đỉnh cao (theo tiêu chí của giới văn chương
thượng thặng). Đã lâu, văn giới chờ họ liếc mắt tới những
là Philip Roth, Haruki Murakami, Milan Kundera, Thomas Pynchon,
Ko Un, Javier Marías, Umbecto Eco (vừa chết cmnr), Don DeLillo…
Nhưng không. Không phải là ý chính bài
này, nhưng trong những chủ nhân Nobel vừa mới được trao ít
năm ngay trong thế kỷ này thôi thì không biết
bạn có còn nhớ tên họ hay cuốn sách nào
của họ, như là Elfriede Jalinek, Harold Pinter, Jean-Marie Gustave
Le Clézio, Herta Müller… chứ chưa thèm nói đến
thế kỷ trước…
Tất cả những tác giả mà ông nêu tên,
xứng đáng được Nobel, thì với GCC, chẳng tên nào
có tí cơ may. Trong khi những vị mà vị này
coi thường, thì đều quá xứng đáng!
Đây là do cái cách cho Nobel những năm gần
đây, khác hẳn trước đây, và với riêng GCC,
giải Nobel những năm gần đây, mới đúng là Nobel văn chương.
“Tiêu chí” của nó, theo GCC, là từ câu
phán khủng khiếp của Walter Benjamin: Mọi tài liệu về văn minh,
là một tài liệu về dã man.
Hay, cũng ông, lịch sử bây giờ phải viết từ đáy, không
phải viết từ đỉnh.
Phụ họa với ông, là Adorno, với câu phán móc
họng nhân loại, nói chung, và lũ nhà văn nhà
thơ, nói riêng: Sau Auschwitz mà còn làm
thơ thì thật là dã man.
Câu nói của Adorno, bị Brodsky phản bác, khi ông
cho rằng, bất cứ 1 trại tù Gulag nào, thì đều có
thể thay thế cho cái tên Auschwitz.
Đến đây, thì 1 vấn nạn lớn, mở ra:
Cái Ác Nazi thì có thuốc chủng, nhưng Cái
Ác Á Châu, trong có Cái Ác Bắc
Kít, chưa!
Điểm cuốn tiểu
sử Milosz. Tin Văn sẽ tóm tắt bài viết.
GCC nghĩ, Milosz ảnh hưởng từ Simone
Weil, như Camus. Nhưng người điểm cuốn tiểu sử của ông
cho rằng Milosz giống [những nhân vật của] Camus, và
người ảnh hưởng lên ông là Conrad.
Quái thật, vì Conrad là
thầy của Graham Greene, theo GCC và 1 số nhà
phê bình văn học.
Miłosz was a good
man, but, like the heroes of the novels of Albert Camus
(whom he admired and resembled), he was no saint. A number
of affairs sustained him during his marriage, and he was absent
for much of the upbringing of his sons (one of whom became seriously
mentally ill). With his Lithuanian and Polish background, and his
fluency in many languages (along with Lithuanian and Polish we must
add Russian, French and an English competent enough for him to be
his own translator), he was immune to any strong national or ideological
pressures: he had left-wing sympathies but loathed dictatorship;
a freethinker, he came gradually to see belief in a Christian God
as indispensable to a sense of freedom and purpose. His progress
somewhat resembles that of T S Eliot, but Eliot’s hell was private and
Miłosz’s was public. Miłosz admired Eliot’s poetry, but understandably
despised the self-indulgence of The Cocktail Party.
If anyone influenced
Miłosz, it was Joseph Conrad, and one of the many merits of Andrzej Franaszek’s
biography is that it reminds us of Conrad’s importance as a Polish essayist
and as a guide to how men of goodwill can act in an evil
world. Miłosz did not hate Russia with Conrad’s single-mindedness
(as in Under Western Eyes), but he
saw tsarist and Soviet Russia in the same light as him. Conrad
also taught Miłosz, as someone who had likewise experienced the Heart
of Darkness, to see life as an honourable defeat. Perhaps it would
have been helpful if Franaszek had also considered Miłosz’s status
as the senior figure in a trio of poets – the others being the Lithuanian
Tomas Venclova (still alive today) and the Russian Joseph Brodsky
– who emerged as defectors from communist Europe to achieve even
greater success in American exile and who interacted with one another
in a way rarely seen among poets in the 20th century. Miłosz’s sibilant
Polish, Catholic background and Polish romanticism may seem far removed
from Venclova’s highly accented but mellifluous Lithuanian and obsession
with Greek mythology, and from Joseph Brodsky’s frivolous paradoxes
and wildly inventive, often song-like Russian, but these three poets
had much in common. They all made the best of exile, and of the USA and
its universities in particular, with gratitude, eschewing the scorn shown
by Nabokov and Solzhenitsyn. They all revered W H Auden and, like him,
persisted with poetry, even though they realised it doesn’t make
anything happen. In that hopeless fight, they are the three musketeers
of verse.
It took Franaszek ten years to compose this life of Miłosz, and
Aleksandra and Michael Parker another six to translate
it. The result is a classic of the genre: a biography based
on interviews and exhaustive documentary research. It is tolerant,
perceptive, beautifully written and utterly objective. It
is also an effective critical study, containing generous excerpts
of Miłosz’s writing that make it almost an anthology of his poetry
and essays (Miłosz’s fiction is perhaps of a lower order). To
achieve greatness in Polish verse is no mean feat: the language lacks
the strong beat of English and Russian and the subtle vowels of
French. It suffers, even more than English, from awkward consonant
clusters; its peculiarity is a monstrous proliferation of sibilants
and chuintantes that can make a poem sound like a scratched
wax recording. The poet must achieve, like the French with alexandrines,
rhythmic effects by subtly breaking up the line and avoiding inflectional
rhymes. Miłosz was such a fine observer of the world and recollector
of experience that his imagery alone qualifies as poetry. His syntax
is so clear that the most profound thoughts are immediately perceptible,
so that he is less at the mercy of translation than other poets.
K viết... Có
điều sắp đến Father's Day mà đôi câu
trong bài nghe rất ... ngược với những dòng ca
ngợi Tình Cha !
Ôi chao, cái
sự thù hận ông bố của giống người, như
Kafka phán, nó có trước tất cả mọi thứ
ở trên đời. Khủng khiếp lắm, nhất là ở trường
hợp của BHD.
Nhờ đám bạn hữu chưa
từng gặp mặt ở trong nước, như bạn Nhị Linh, Gấu có
lại được 1 số bài viết trước 1975, và mới nhớ
ra/biết được, số điện thoại của BHD, chính là
số điện thoại của nhà in ABC, tức là nhà
của BHD.
Nhờ vậy mà có
cuộc nói chuyện độc nhất với BHD, sau khi lấy
Gấu Cái.
Chính là qua
lần nói chuyện đó, nhân hỏi thăm
anh bạn đồng học y khoa và là boyfriend, em cho
biết, anh ấy được lắm, cứ mỗi lần Sài Gòn nghe
có rục rịch đảo chánh là đã khệ nệ
vác mấy bao gạo tới nhà ông bố vợ tương lai rồi.
Và ngưng 1 hồi lâu,
cho Gấu thấm đòn, em nói tiếp, Gấu không
làm được việc đó đâu.
Cô em gái của
cô, mỗi lần ông bố có việc gì
đó, vô phòng, là bỏ ra ngoài.
Hay cái lần em than,
em đi học Gia Long, chỉ có 1 cái áo
dài độc nhất, đến nỗi mấy con bạn nói sau lưng,
con này nhà giầu mà làm bộ nghèo.
Thê lương lắm.
Một mình ta gọi ông
ta là bố là quá đủ rồi. Ta không
thể bắt mi chịu cái nhục gọi ông ta là
bố.
Mi lấy ai mà chẳng
được, như em nói với cô em họ tên
Vy....
Em, Bắc Kít, tính
toán, lo lắng đủ thứ hết, có điều em không
tính được, Gấu lấy Gấu Cái, thay vì,
lấy bất cứ ai mà chẳng được!
Tay này, Tin Văn đã từng giói
thiệu, và tính viết thêm 1 tí về ông,
về 1 trường hợp thật quái dị, trong văn học:
Ông khám phá ra thầy của
mình, sau khi đã viết văn.
Thầy của ông mới ghê, là
cái tay Schulz
. Với
Schulz, vẽ viếc, làm thơ làm thiếc.... là
để trở nên thần kỳ như 1 đứa con nít, "trưởng thành
trong thơ ấu", 'mature into childhood'.
V/v Schulz. Trong
Inner Workings,
Coetzee đưa ra một hình ảnh thật thần kỳ về Schulz,
người nghệ sĩ "trưởng thành trong thơ ấu", 'mature into
childhood'. Trên Người Nữu Ước, 8 & 15, June, 2009,
có bài viết Giai thoại
về Schulz, Bruno
Schulz's legend, thật tuyệt, của David Grossman. Tay
này là tác giả cuốn Viết trong bóng tối, Tin Văn
đã từng giới thiệu. Ông cũng đã từng đăng
đàn diễn thuyết chung với DTH tại Nữu Ước.
Cái chết của Schulz cũng là một
giai thoại, nhưng thê lương vô cùng, qua kể
lại của Grossman, trong Viết trong bóng tối. Ông
đi tù Lò Thiêu, nhờ tài vẽ, được
một tay sĩ quan Nazi bảo bọc, khiến một tay sĩ quan Nazi khác
ghét, và sau cùng giết ông, rồi kể lại
cho tay kia nghe. Tay kia xua tay, chuyện lẻ tẻ, để kiếm đứa khác,
thế!
Năm 1987, để đánh dấu 20 năm
Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy
tay chủ bút, chủ biên của tờ tuần báo Do Thái
Koteret Rashit phái tiểu thuyết gia trẻ David Grossman
tới West Bank, 7 tuần, “đi thực tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn
làm những chuyến tham quan dân Palestine ở trại
tị nạn, thành phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám
định cư Do Thái ở trong những pháo đài chung
quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu định
cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng
Tư 1975, Nam Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung
Phần, nơi chúng phá rừng trồng cà phê,
hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và
vô phúc cho một người bản địa nghèo đói
nào lén vô là chúng thả chó
ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác
ăn thịt!], và đám sĩ quan, binh lính Do Thái
tuần tra những khu vực dành cho người Palestine. Thu hoạch của
chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn
động trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng,
trong những bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi
rồi, hết còn ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên
văn: "Người Palestine, ngày ngày đau đớn khổ sở
vì những sự tàn ác dã man của đám
chiếm đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền
lành, dễ bảo nữa, would be docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”,
Tom Segev, một trong những tay biên tập nói. “Cho
đến lúc đó chúng tôi không
hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức
như vậy”
Năm tiếp theo năm đó, khi báo
cáo của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít
trận Hoàng Phong, the Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy,
intifada, của người Palestine đang tưng bừng hoa lá. Những gì
Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”, biến
ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:
Trong
Nụ Cười của Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính]
nói, “Nhà ở đâu, nói cho cùng?”,
và Abner trả lời, nhà là khoảng trống rỗng
giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space
between the tip of his pen and the paper. Đó là điều
ông cảm nhận ư?
Grossman:
Nhà là
nơi mà những người tôi yêu thương ở đó, home
is where the people I love are. Càng về già, thế giới đó
càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra thù
nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi
đang viết là một cái nhà khác, cho
dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành
nhà. Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ
cu lơ một mình, khi tôi có câu chuyện
của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của
mọi nhân vật và ngôn ngữ.
Giọng điệu?
Giọng
điệu, sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền
lập tức tôi cảm thấy mình được nối kết, connected,
với những xao động, the emotional vibrations, của những con người ở
Israel, điều mà tôi không thể cảm thấy khi ra nước
ngoài.
Tuy nhiên,
có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà
văn của thế hệ Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là
một nhà văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn
của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm
của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm, và
đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo
tôi. Một tay làm việc cho đài truyền hình
Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan, một bữa
gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn
The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là
chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể.
Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với
tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz,
tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là
một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng,
mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc
ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him
made me want to live more. Rồi tôi đọc những câu chuyện
về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức
bảo bọc. Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái
của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan
này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta
chết ngay trên đường phố. Bạn giết tên Do Thái
của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
[Trên TV có một
ấn bản khác nữa, nhưng cả hai đều xác nhận chuyện
Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và
khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn
ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác
thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy
quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn muốn
sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy
ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó,
tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy
tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc
cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn của
ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là
tôi viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn
biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi
được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong vòng chừng 1 năm
hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu
chuyện về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật
là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách
của mình đã làm được một điều gì đó
cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài
Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà
kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka,
ngay cả khi người này không viết cùng một cái
văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà
bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to
go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái
xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên
trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông
nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết,
ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm
ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.
Trong Chết như là Cách
Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi
không thuộc về số người coi Lò Thiêu là
một sự kiện đặc thù Do Thái”.
Grossman: Tôi không nghĩ,
người ta có thể tách "tính Do Thái",
the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng
đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân
loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho
chính mình, một vài câu hỏi liên
quan tới Lò Thiêu.
Trường hợp Israel vs Palestine
có gì tương tự Ngụy [Miền Nam] vs Vẹm [Bắc Kít],
tếu thế!
Mọi người, bất cứ một người,
ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu
hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
Câu này, nhà văn Mít phải thuộc
nằm lòng, và Lò Thiêu đối với chúng,
là Trại Cải Tạo.
Chưa từng có đến 1 tên, đau cái đau,
làm thịt cả 1 miền đất ruột thịt, và sau đó,
như cục ung thư, làm thịt cả nước.
Số báo mới nhất về Zweig. Đọc loáng thoáng
ở tiệm sách, thấy OK quá. GCC chẳng đã
từng đọc Võ Phiến song song với Zweig. Cả số báo
này, cũng đọc trong tinh thần đó, thế mới thú,
nhưng cũng nhìn ra sự khác biệt giữa hai nhà
văn, về cùng 1 xứ sở đã mất. Với Zweig, là Âu
Châu, với VP qua GCC, là 1 xứ Mít, cũng đã
mất!
Cuốn này,
tưởng là được/bị Cô Út cho đi
làm từ thiện, may quá, bỏ ở Lào.
Tuyệt hơn bản tiếng Anh, vì đầy đủ hơn, và
còn thêm bài préface của Philippe
Sollers.
PRÉFACE
PAR PHILIPPE SOLLERS
Calvino, lecteur
Si j' en crois un certain
nombre de mes amis italiens, les deux écrivains
qui, après leur mort, se portent le rnieux sont
Pasolini et Calvino. Moravia est plutôt au Purgatoire (sa
vieillesse « érotique » et bavarde a fini
par lasser) ; Sciascia, à la suite de l' explosion veneneuse
du phénonème mafieux parait presque timide;
Buzzati est intemporel; les expérimentations de langage
ont suivi, comme partout, la décrue de l'idéologie
« révolutionnaire », et ne reviendront
sans doute pas avant longtemps. Eco ? Oui, c' est le plus present
des vivants, mais le mot « écrivain » ne lui
convient pas vraiment, son savoir-faire est d'un autre ordre,
plus technologique que poetique. Pasolini et Calvino, donc.
Pasolini reste une flèche
empoisonnée fichée dans le cceur du tissu
culturel italien. Loin de s' éloigner, son oeuvre
monte en énergie, en vérité sombre. Même
son roman posthume, Petrolio, montre a quel point l' aventure
existentielle de son auteur, dans les coulisses de sa langue et
de son pays, continue à être corrosive. Pasolini dit
un point nerveux décisif de l'ltalie, on n' en finira pas
de sitôt avec lui.
Et Calvino ? Son cas parait
à l' opposé, en retrait, silencieux,
presque confortable. Mais le point de ressemblance, entre
ces deux esprits libres, est une réalité trop
souvent oubliée : un écrivain est d' abord un
corps verbal pour qui la Bibliothèque est vivante,
effervescente. C'est un ciel, paradisiaque ou infernal, dans
lequel il entre pour en ressortir
Saigon in 1966 - Tu Do Street
Nhà màu vàng giữa hình là
Cafe BRODARD góc Tự Do-Nguyễn Thiệp. Bandrole trên đường
Tự Do quảng bá cho trường sĩ quan Đà Lạt:
"Gia nhập Khóa 23 Sinh viên Sĩ quan Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt Nam là chọn con đường lý
tưởng để phụng sự Tổ quốc và Dân tộc."
Theo tôi,
nhân dịp sắp kỷ niệm 30/4 năm nay, nhất là khi các vỉa
hè Sài Gòn đang bị đập phá như thời chiến tranh,
bài hát "Du mục" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất nên
bị cấm lưu hành vĩnh viễn, vì có nhiều lời lẽ ám
chỉ một cách ác cảm nhằm bôi nhọ hình ảnh các
chiến sĩ giải phóng quân năm nào. Cụ thể như sau:
"Đàn
bò vào thành phố
Đêm buồn vắng buồn hơn
Đàn bò vào thành phố
Không còn ai hỏi thăm
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn, bỗng thấy buồn
Rồi một hôm đứng mơ mây ngàn
[...]
Con đi hoang
Con đi hoang một đời
Con đi hoang phận này
Đàn
bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông"
Mặc dù
sáng tác bài này trước 1975, nhưng nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã vội vã tưởng tượng ra một hình ảnh
không thích hợp với khí thế tiến công vũ bão
của quân giải phóng vào các đô thị miền
Nam phồn vinh giả tạo dưới thời Mỹ-Nguỵ.
Thay vì
mô tả các chiến sĩ giải phóng quân bước đi hùng
dũng, chẳng hạn "rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài
Gòn", thì lại dùng hình ảnh "đàn bò"
đi vào chỗ người ở, khiến cư dân con người trở thành
"con đi hoang" bỏ xứ ra đi để khỏi sống với bò.
"Con đi
hoang một đời, con đi hoang phận này" không phải là sự
tiên đoán một thế hệ miền Nam vượt biên lưu vong nơi
đất khách quê người sao? Tất cả là tại đàn bò
vào thành phố thôi. Bò đi đến đâu, thì
người bỏ đi hoang khỏi nơi đó.
Những bài
hát như thế nếu không cấm vĩnh viễn sẽ có ngày
tạo cảm hứng để nhạc sĩ nào đó lại khắc hoạ hình ảnh
[Viet] Kong, thay vì bò, vào thành phố. Do vậy
rất nên cấm!
Không
biết tôi phê bình "âm nhạt" như vậy có đúng
không, các bạn?
The silent friendship of the moon
(I misquote Virgil) has kept you company
since that one night or evening
now lost in time, when your restless
eyes first made her out for always
in a patio or a garden since gone to dust.
For always? I know that someday someone
will find a way of telling you this truth:
"You'll never see the moon aglow again.
You've now attained the limit set for you
by destiny. No use opening every window
throughout the world. Too late. You'll never find her."
Our life is spent discovering and forgetting
that gentle habit of the night.
Take a good look. It could be the last.
-A.S.T.
J.L. Borges
Giới Hạn
Tình bạn câm lặng của trăng
(Tớ trích lộn Virgil) là bạn đường của mi
Kể từ đêm, hay buổi chiều, nay mất biệt với thời gian
Khi mắt mi nhìn nàng xuất hiện, cho miên
viễn, cho hằng hằng
Ở nơi sân, hay ngoài vườn, bi giờ thì
cũng đã đi ngủ cùng với bụi.
Cho miên viễn, hằng hằng?
Tớ [Borges] biết, một ngày đó, một người nào
đó
Sẽ kiếm ra một cách nào đó
Để biểu cho mi, tên Gấu Cà Chớn, biết, sự thực
này:
Mi sẽ chẳng bao giờ được nhìn lại em của mi một lần
nữa đâu
Như cái lần mi được ngồi với em của mi
Ở cái quán cà phê Starbucks ở
Little Saigon.
Đời của mi đã được sắp đặt, tới cái giới hạn
như thế, đối với mi
Bởi số mệnh.
Không 1 cái cửa sổ nào được mở ra cho
mi
Ra thế giới
Quá muộn, quá trễ rồi
Chẳng bao giờ mi kiếm được nàng
Đời của chúng ta thì là được dùng
vào việc
Khám phá, và quên lãng
Cái buổi sáng dịu dàng hôm đó
Hãy nhìn 1 phát đi
Nó sẽ là lần cuối cùng.
Kafka Could Be Part of Human
Memory
Kafka có thể là phần hồi ức con người
PROLOGUE
Jorge Luis Borges
The best event recorded in universal
history happened in Ancient Greece some 500 years before the Christian
era, namely, the discovery of dialogue. Faith, certainty, dogmas,
anathemas, prayers, prohibitions, orders, taboos, tyrannies, wars
and glory overwhelmed the world while some Greeks acquired the peculiar
habit of conversation-how, we'll never know. They doubted, persuaded,
dissented, changed their minds, postponed. Perhaps their mythology
helped them, which was, as with Shinto (1), an accumulation
of vague fables and variable cosmogonies. These scattered conjectures
were the first root of what we call today, perhaps pretentiously, metaphysics.
Western culture is inconceivable without these few conversing Greeks.
Remote in space and time, this volume is a muffled echo of those ancient
conversations. As with all my books, perhaps with all books, this one
wrote itself. Ferrari and I tried to let our words flow through us, perhaps
despite ourselves. We never talked with any end in view. Those who have
read the manuscript assure us that the experience was pleasing. I hope
our readers will not refute that generous opinion. In the prologue to
one of his 'dreams' Francisco de Quevedo wrote: 'May God free you, reader,
from long prologues and weak adjectives.'
12 October 1985
(1)
Shinto
When sorrow lays us low
for a second we are saved
by humble windfalls
of mindfulness or memory:
the taste of a fruit, the taste of water,
that face given back to us by a dream,
the first jasmine of November,
the endless yearning of the compass,
a book we thought was lost,
the throb of a hexameter,
the slight key that opens a house to us,
the smell of a library, or of sandalwood,
the former name of a street,
the colors of a map,
an unforeseen etymology,
the smoothness of a filed fingernail,
the date we were looking for,
the twelve dark bell-strokes, tolling as we count,
a sudden physical pain.
Eight million Shinto deities
travel secretly throughout the earth.
Those modest gods touch us-
touch us and move on.
-H.R.
TOMAS
TRANSTROMER (b. 1931)
After Someone's Death
Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.
You can still shuffle along
on skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.
It is still beautiful to feel
your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết của Ai Đó
Một lần, có 1 cú
sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi
sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm
những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch
1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt băng
trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm
ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra
từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái
lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp như mơ,
cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì
lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương,
có thịt.
Tên samurai thì là cái chó
gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài thơ thần
sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác
thân nào còn, linh hồn thì cũng có
khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi
miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng
ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ.
FERRARI. But we are told that we cannot
make a faithful interpretation of our times without Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka is more important than our times.
It's lamentable that Kafka has to survive this period and its simplifications.
Of course, we endure this century without much pride. With a little
nostalgia for the nineteenth century, which also feels like nostalgia
for the eighteenth century. Perhaps Oswald Spengler was right about
the decline that we are nostalgic about-obviously, we can talk of mon
vieux temps and perhaps we are right. There's a reference to this in
Jorge Manrique's Coplas but it's ironic: 'As it seems to us, any time in
the past / was better.' 'As it seems to us' followed by 'any time in the
past was better'-yes, that's what Schopenhauer said. We see the past as
better but we also see it as something that has stopped. We are no longer
actors but spectators. In what is called the present we are actors, there's
an idea of responsibility and, associated with it, an idea of danger.
The past, even if it was terrible ... we can even think of Rosas' times
nostalgically because, although it was terrible, it has passed. It has
been fixed in time and so have its terrible images. On the other hand, the
present can threaten us, just as life threatens us every second we're alive.
FERRARI. That's right and this was another point I wanted
to mention with regard to Kafka. A writer you know wrote a very significant
essay on Kafka, which I recently glanced at. I am referring to Carmen
Gandara.
BORGES. I knew her and have fond memories of her. I read
a story of hers, 'The Inhabited'. I'm not sure but isn't it similar
to Julio Cortazar's 'House Taken Over'? Or is the theme different?
FERRARI. The scope is different. She refers to Kafka
and says something that struck me-that throughout his life, Kafka
sought a God 'absent' in our times.
BORGES. Yes, I have been asked that many times. I do
not understand that question.
FERRARI. She means that, despite everything, Kafka might
have had a religious spirit.
BORGES. Yes, but a religious spirit need not believe
in a personal god. For example, the Buddhist mystics do not believe
in a personal god but that doesn't matter. The idea of believing in
a personal god is not a necessary factor in a religious spirit. The
pantheists are an example or Spinoza-he was essentially mystical and
he said 'Deus sive natura,' God or Nature. The two ideas were identical
for him. That's not the case for a Christian because Christianity needs
to believe in a personal god, in a god who judges your acts. In Emerson's
Representative Men, the mystic is Swedenborg. He didn't believe in a
personal god but he chooses between Heaven or Hell. After dying- he actually
says this-Man finds himself in a strange region and is addressed by unfamiliar
people; some attract him and some do not. He goes along with those who
do. If he is an evil man, then those who attract him are devils. Because
he will be more at ease with devils than with angels. And if he is a just
man, he will be at ease with angels. He chooses his company accordingly.
Once he's in Heaven or Hell, he doesn't want to be anywhere else because
he will suffer too much. Swedenborg believed in a personal god, that's certain.
But the pantheists, in general, didn't. What matters is that there's an
ethical proposition in the universe. If there is an ethical proposition,
and if you feel it, then you have a religious mind. And I believe that we
should try to believe in an ethical proposition, although it doesn't exist.
But in the end, it depends on us, doesn't it?
JORGE LUIS BORGES • OSVALDO FERRARI
Nhưng chúng ta được biết là
chúng ta không thể có được cú diễn giải
trung thực về thời của chúng ta nếu không có
sự giúp đỡ của Kafka.
Đúng, nhưng K quan trọng hơn
thời của chúng ta. Thật thê lương, K phải sống sót thời
kỳ này, và những giản lược của nó. Lẽ dĩ nhiên,
chúng ta chịu đựng cái thế kỷ này mà
chẳng có lấy 1 tí tự hào, Với tí hoài
nhớ thế kỷ 19, mà nó thì lại có tí
hoài nhớ thế kỷ 18. Có lẽ Oswald Spengler có
lý về cái sự thoái trào mà chúng
ta hoài nhớ - hiển nhiên là chúng ta có
thể nói về cái thời cũ kỹ [trước 1975] của chúng
ta, và chúng ta có lý, hơn lũ VC, tất nhiên.
Bất cứ cái chó gì dính dáng tới
trước 1975, thì đều bảnh tỏng cả!
Có em Carmen Gándara
đi 1 đường tiểu luận thú vị về Kafka, tôi mới đọc
gần đây. Em phán 1 phát cực lạ về Kafka: Xuyên
suốt đời mình, Kafka tìm kiếm một Thượng Đế “vắng mặt”
của thời của chúng ta.
Borges: Tôi bị hỏi hoài về vụ này,
mà thực sự không hiểu.
Ý của tôi là,
mặc dù mọi chuyện, Kafka có thể là 1 tín
hữu, hay có 1 tinh thần tôn giáo.
Borges: Đúng như thế, nhưng tinh thần tôn
giáo thì không cần phải tin vào một
ông trời cá nhân. Thí dụ tín hữu
Phật Giáo đâu có tin vào một ông
Phật có hình hài giống… chúng ta, đúng
không, và chuyện đó đâu cần. Cái
ý tưởng tin vào 1 ông trời cá nhân
thì không phải là 1 yếu tố cần thiết trong tinh
thần tôn giáo. Những kẻ phiếm thần, hay Spinoza – ông
này thì thực là bí ẩn và ông
phán, “Deus sive natura”, Trời hay Thiên nhiên. Hai
thứ đó là một đối với ông ta.
Cái ý, "trong 1 vài
trường hợp, học trò khám phá ra thầy", Gấu
đọc, từ 1 anh Tẩy, trên 1 tờ báo Tẩy.
Phải đến khi ra được hải ngoại, mới biết, của
Borges.
Nếu tôi không
lầm, những mẩu đa dạng tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi không
lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái
nào. Sự kiện thứ nhì này có ý
nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy, hoặc
nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka, nhưng
nếu Kafka chưa từng viết một dòng, chúng ta sẽ không
nhận ra tính chất này; nói một cách
khác, chúng chưa hề hiện hữu. Bài thơ "Fears
and Scruples" của Browning tiên liệu tác phẩm của Kafka,
nhưng cái đọc Kafka của chúng ta rõ ràng
làm sắc bén, và làm sai lệch cái
đọc bài thơ. Browning đã không đọc nó
như bây giờ chúng ta đọc. Trong tự vựng của những nhà
phê bình, từ "tiền thân" (precursor) không
thể thiếu được, nhưng nên tháo gỡ mọi trò luận
chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo
ra những tiền thân của riêng người đó. Tác
phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá
khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.(2) Trong tương quan
này, điều không quan trọng, đó là đặc nét,
hay đa nét, của những người trong cuộc. Tính tiền thân
của những huyền thoại tối tăm và những định chế tàn bạo,
ở Kafka thời đầu, trong Betrachtung, ít chất Kafka hơn, nếu so
với Browning và Lord Dunsany.
Nhà văn nhà thơ Mít, tên
nào tên đó, chưa từng có, chỉ 1 tên,
cho biết, Thầy của hắn, là ai. Chính là
do không có Thầy, và không hiểu Thầy,
tức là người đi trước mình, là như thế nào,
nên cõi văn Mít ngày 1 bại hoại, theo GCC.
TTT, 1 cách nào đó, cũng không có
Thầy, nhưng ông cho biết ảnh hưởng của 1 số nhà văn tiền
chiến ở nơi ông, trong số đó, có Nguyên Hồng
của Bỉ Vỏ, nhớ đại khái. Tác giả ngoại, là Malraux
Camden, 1882
The smell of coffee and
the newspapers.
Sunday and its lassitudes.
The morning,
and on the adjoining
page, that vanity-
the publication of allegorical
verses
by a fortunate fellow
poet. The old man
lies on a white bed in
his sober room,
a poor man's habitation.
Languidly
he gazes at his face
in the worn mirror.
He thinks, beyond astonishment
now: that man
is me, and absentmindedly
his hand
touches the unkempt beard
and the worn-out mouth.
The end is close. He
mutters to himself:
I am almost dead, but
still my poems retain
life and its wonders.
I was once Walt Whitman.
-A.R.
Bài thơ này, tình cờ Gấu lại thấy nó,
trong Borges Tám Bó. Post sau đây.
Borges tưởng mình đang chết, khi tưởng
mình là Whitman, rồi Gấu chôm luôn,
tưởng Whitman là TTT, rồi tưởng tượng tiếp, không
phải TTT, mà là thằng em của ông, GCC, đang
chết!
BARNSTONE: Would you be willing to comment
on the poem you wrote about Whitman?
BORGES: Well, I don't recall the poem. Go ahead,
I am very curious. Why don't you read it in the English translation
where it will be greatly bettered? I know you will be very disappointed.
That poem is no good.
BARNSTONE:
CAMDEN 1892
The smell of coffee and of newspapers.
Sunday and its boredom. It is morning.
Some allegorical verses are adorning
The skimmed over page: the vain pentameters
Of a happy colleague. The old man lies
Stretched out and white in his respectable
Poor man's room. Lazily he fills
The weary mirror with his gaze. His eyes
See a face. He thinks, now unsurprised: that
face
Is me. With fumbling and he reaches out
To touch the tangled beard and ravaged mouth.
The end is not far off. His voice delares:
I am almost gone, and yet my verses scan
Life and its splendor. I was Walt Whitman
[Trans. Willis Barnstone]
BORGES: It's quite good, eh? Not too good but quite
good, as far as it goes. That's the human Whitman only, not the
myth.
BARNSTONE: Whitman thought of himself as a
prophetic figure, writing a kind of Bible.
BORGES: Well, he did!
BARNSTONE: Frequently in your stories and poems,
you don't write a Bible, but you aspire to secrets, to enigmas,
to a single word.
BORGES: I am constantly being baffled by things.
BARNSTONE : You go different routes. Your work
gets simpler and simpler, fewer and fewer words.
BORGES: Yes, I agree.
BARNSTONE: If Whitman could throw in an adjective,
he did so.
BORGES: He did only too often, I should say.
BARNSTONE: His work might have been called
Broad Leaves of Grass, because he usually
added words to intensify, often not with the best results. What
do you think of the fact that this poet, who is marvelous and uneven,
manages-
BORGES: But he is marvelous and uneven.
Silvina Ocampo said to me that a poet stood in need of bad verses.
If not, the others would not stand out. We were commenting on
Shakespeare. I said he has many bad verses. And she said: "That's
all to the good. A poet should have bad verses." Only secondary
poets write only good verses. Out of politeness you should have bad
verses.
BARNSTONE: Eliot said there should be weaker
words among the stronger ones so that the lines do not become
crabbed. But among the hack works which you claim you have done
was to translate a book of Walt Whitman's poetry. You say that
Walt Whitman was your poet and meant so very much to you. What did
he teach you?
BORGES: He taught me to be straightforward.
That was the one lesson I learned from him. But teaching, after
all, is not important. The fact is that I was overwhelmed by emotion,
that I knew pages and pages of his work by heart that I kept on
saying them to myself in the day und in the night. I think
that what’s important is the way a man is moved when he reads poetry.
If a man doesn't feel poetry physically, then he doesn't feel poetry
at all. He had better become a professor or a critic. I think of
poetry as being a very personal and a very important experience. Either
you feel it or you don't. If you feel it, you don't have to explain
it.
Nếu có thể, xin ông đi 1 cái
còm, về bài thơ của ông, về Whitman
Quán Chùa, trước 1975
Mùi cà phê
và tờ nhựt trình
Chủ nhật mệt
Buổi sáng
Và trên trang
báo kế bên
Là cột thơ vô
thường, hư danh
Của 1 nhà thơ may
mắn, một đồng nghiệp
Anh già nằm
Trên cái giuờng
trắng,
Trong căn phòng khiêm
tốn
Nơi ăn chốn ở của 1 người
đàn ông nghèo.
Uể oải, ông nhìn
mặt mình trong tấm gương, cũng bệ rạc, mệt
nhoài như ông
Ông già nghĩ,
không ngạc nhiên cái con mẹ gì
hết: Tên đàn ông này,
là tớ
Và lơ đãng,
ông lấy tay của mình sờ bộ râu
của mình
Và cái miệng,
cũng của mình
Một cái miệng tan
hoang, bị thời gian ăn mòn đến nhão nhẹt,
mếu máo.
Tới giờ lên tầu rồi,
cha nội!
Ông lầm bầm với chính
mình:
Tớ hầu như ngỏm củ tỏi.
Nhưng thơ của tớ, còn
Nào bia mộ, nào
bi khúc, nào,
Ôm em bữa nay
Mà sẽ nhớ hoài,
những bữa khác
Trong thơ của tớ
Đời và những kinh
ngạc, bỡ ngỡ của nó, sẽ còn hoài.
Tớ, đã từng có
1 thời,
Là nhà thơ
Thanh Tâm Tuyền!
Borges: Cũng không đến nỗi nào, phải
không bạn. Đây là 1 Whitman con người, không
phải 1 huyền thoại
Ông ta nghĩ về ông ta như là
1 hình tượng tiên tri, viết 1 thứ Thánh Kinh
Borges: Quả có thế!
Thường ra thì trong truyện ngắn và
thơ, ông - Borges - không viết 1 cuốn Thánh
Kinh, nhưng thèm tới được bí mật, bí ẩn, tới
được một từ.
Borges: Tôi thì cứ bị luẩn quẩn, với
những sự đời.
Ông đi những con đường khác. Tác
phẩm của ông giản dị, ngày càng giản dị,
ngày càng ít từ ngữ.
Borges: Tôi đồng ý với bạn.
Nếu Whitman thích ném ra 1 tính
từ, là ông ta ném liền.
Borges: Ông ta thường làm như vậy.
Tác phẩm của ông ta có lẽ nên
được đặt tên là Bướm Rộng, thay vì, Bướm,
(1) bởi là vì ông ta thường cho thêm nhiều
từ, để nhấn mạnh, để làm cho nó hoành tráng,
và kết quả thì không được như ý của ông
ta.
Ông có nghĩ rằng, nhà thơ,
quả là thần sầu, quả là không giống ai này,
có thể thay đổi, sửa đổi, gia giảm…
Borges: Nhưng ông ta “thì” tuyệt vời,
thì “số 1”. Silvina Ocampo có lần nói với
tôi, một nhà thơ bảnh tỏng, là vì những
câu thơ dở của người đó. Ông ta cần chúng.
Nếu không có những câu thơ dở, là đám
kia té bổ nhào liền. Lấy trường hợp Bùi Giáng,
hay Shakespeare, hai ông này thì đầm đìa
những câu thơ dở như hạch. [GCC nhớ Thầy Thục chê Bùi
Giáng không biết làm thơ, và nếu biết
làm thơ, thì làm toàn thơ dở!] Tôi
[Borges] nói, ông ta có rất nhiều câu thơ
dở, và bà ta bèn nói, phải như thế mới được,
không thì bỏ mẹ. Một nhà thơ nên có
những câu thơ dở. Chỉ những nhà thơ hạng nhì
mới làm toàn những
câu thơ bảnh!
Nhớ nhé, ông GNV, lâu lâu,
vì lịch sự, out of politeness, ông nhớ làm
thơ dở cho độc giả TV thưởng thức nhe!
Xin lĩnh ý!
NQT
(1)
Rừng Lá Thấp, "như lính giữa rừng
yêu lá thấp".... Liệu "Yêu Lá Thấp",
"Lá Cỏ", "Leaves of Grass", có chung 1 ẩn dụ?
Nguyen
Theo Gấu, cái tay đọc lời
bi ai [elegy] tới nhất, về TCS là tay Le Huu Khoa, khi lọc ra, chỉ
một lời nhạc của TCS: Chim
thiêng hót lời mệnh bạc. Đúng
là cả cuộc đời của TCS gói ghém ở trong câu
này.
Trinh
Cong Son
L'oiseau sacré chante le destin tragique
Connu
avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel,
Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves
en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif
de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et
de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa
méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu
de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations
extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme. L'évidence
esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.
Được biết
đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà
soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn
tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và
hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác
phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông,
và về sự phù du của tình yêu và
cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn
trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông
xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy
đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của
những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo
và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài
ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.
Note: Link broken, just restored
NCK đi tù VC, có thời
gian cùng trại tù với TTT. Anh là người
có thể là, độc nhất, được TTT cho coi những
bài thơ tù, mà, như ông viết, bẽn
lẽn như hồi mới bắt đầu làm thơ, không dám đưa
cho ai coi....
Note: Đây là truyện ngắn
"cực" TTT, ở cái chất đực, "manly", “cẩm” mấy em thèm
súng vs đàn ông thèm bướm!
Gần như không 1 nhà văn Mít
nào viết được như vậy.
Nếu có, thì là thứ nhơ
bửn, thuộc loại “porno”, đực cũng như cái.
Gấu đã từng chỉ ra “đặc tính,
yếu tố, gia vị… ” này, trong bài viết về DNM.
Trong Ung Thư, là cái cảnh Thạch,
trước khi rời Hà Nội, đi tìm Liên, cô
bạn gái, đã có chồng, 1 thằng ghiền, không
thấy, đứng trong ngõ vắng, nhớ Liên quá,
cất tiếng hú, như chó điên, chó dại,
hay cảnh cũng Thạch, nghe thằng chồng ghiền hành hạ vợ, khảo
tiền đi hút, bèn đi tìm, gặp, lôi ra đường,
tẩn cho 1 trận nhừ tử...
Trong 1 truyện ngắn của GCC, Cõi
Khác, cũng có 1 cảnh tương tự như trong Ung Thư.
Nhưng của Gấu, là thực sự xẩy ra, và có tí
khác, thay vì, Gấu hú lên như chó
dại, thì là tiếng mèo kêu thảm thiết...
và, khi về già, ngẫm lại, tự hỏi, hay là TTT,
qua nhân vật Thạch, “thế thân” của ông, cũng đã
từng gặp đúng 1 cas, như vậy?
Ôi chao, Gấu đó ư?
Hình do cô bạn, đứng từ trong nhà,
chụp ra.
Còn 1 tấm, Gấu đứng bên ngoài,
chụp vô, cô mặc áo trắng, ngắn tay, bỏ lại Sài
Gòn, không đem theo khi bỏ chạy quê nhà
Sau cùng phải cảm ơn cô
bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình.
Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo
không còn sợ hãi cái bóng của chính
nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về, thành
phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích
bất thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt
những vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải xuống
xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm
phải đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những
ngọn đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen sâu
thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương,
nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu
chẳng may bị cô hất hủi, nói không, nói không
thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là
gì. Nhiều lần tới nhà khi đã quá khuya,
trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên
ngủ từ lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng
dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách
mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập
cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn,
vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải nói,
phải gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ
để phân vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có
ý định gặp. Không hề trông mong cô sẽ giúp
đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên
hàng giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám lá
khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên mái
ngói, chờ cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi
dần rồi thất thểu rời con ngõ. Một lần xe hết xăng, đứng xớ
rớ ngay giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng một tên khùng, một thằng
say, hay một người lính ban cho một cái chết lãng
nhách, nhưng ít ra còn có thể giải thích
như một tai nạn. Sau cùng một người đi đường đã thương tình
kéo về tận đỉnh cồn. Nơi làm việc là tầng lầu trên
cùng của một building, bất động sản của người Pháp. Những
đêm trực thường lợi dụng những lúc rảnh rỗi giao Đài
cho người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng. Ghé quán
cà phê khu Đa Kao, nơi đứa em từng ngồi dán lưng
vô tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán cà phê
túi, hủ tíu Tầu khu ngã Sáu Sài-gòn,
hồi tưởng những ngày còn đi học, cuốn sách trên
tay, ly hồng xà trước mặt và cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé
sạp thuốc lá, mua từng điếu lẻ, một thói quen từ hồi còn
đi học, sống bằng sự yêu thương đùm bọc của Bà Trẻ
trong căn nhà ở cuối hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ghé
sạp báo mua một tờ có đăng truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua
những hàng chữ lớn nơi trang nhất. Một lần đọc thấy tin quận lỵ quê
cô bạn bị pháo kích, sáng sớm hôm sau vội
ghé nhà rồi cả hai ra bến xe đón những chuyến đầu
tiên từ lục tỉnh lên. Khi biết cuộc pháo kích
không gây thiệt hại nghiêm trọng, đã đánh
bạo rủ cô ra Sài-gòn. Đó có lẽ là
lần du ngoạn đầu tiên.
Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên
nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi
viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại
sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi
như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ
viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã
mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi
nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những
lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời
Nhau [Tưởng niệm Mai
Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà
giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời
trẻ
Bừng cháy trong lòng
anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình
đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên
miền cao
Đang lay thức rừng núi biên
giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày
lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác
thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi
theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối cô
đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn
qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng
cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh
kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ
hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ
đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970).
Thi sĩ Ý.
SỰ THẬT CHƯA
ĐƯỢC BIẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Bài 7: NHẪN TÂM PHÂN BIỆT MÀU DA XÁC
CHẾT DÂN LÀNH!
* MÁU CHẢY RUỘT MỀM...
Cảnh đau thương 28 người chết tại bệnh viện Bạch Mai vì trúng
bom Mỹ (tháng 12/1972) đều được người dân VN trong nước biết
đến vì cảnh chết chóc này được chiếu đi chiếu lại
hàng năm. Trong khi đó, thảm cảnh 32 em học trò trường
tiểu học Cai Lậy (tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang) chết oan
ức ngay giữa sân trường (vào ngày 9/3/1974) thì
bị bưng bít, r...
Tội ác
trong chiến tranh thì nói làm khỉ gì. Những
tội ác sau chiến tranh mới thê lương. Ngay cả trong chiến tranh,
lũ Vẹm quá độc, quá ác, là, hễ Miền Nam có
được 1 tay nào cực bảnh, có thể chấm dứt cuộc chiến, theo
cái nghĩa quốc gia, không theo Mẽo, và cũng không
mê VC, là chúng thịt, đổ tội cho Ngụy giết lẫn lẫn nhau.
Những vị như Nguyễn Văn Bông, Lê Minh Trí… thí
dụ.
Đất nước như hiện nay, mấp mé bờ huỷ diệt, đâu phải do
chiến tranh, mà là do hòa bình.
Tội ác của Bắc Kít, là đã gây ra cả
hai cuộc chiến, chúng cố tình tạo ra, để “có” được
đất nước như hiện giờ!
Thằng Mẽo phịa ra vụ Vịnh Bắc Bộ, để có cớ dội bom, để bỏ chạy,
và nếu nhìn như thế, và đúng như thế, thì
đâu có phải... tội ác?
Tội ác, là dùng đê sông Hồng, đặt hoả
tiễn, dụ Mẽo phát huỷ đê...
Trong
rất, rất nhiều năm, tôi không đọc lại Madame Bovary;
ngay sau đây, tôi sẽ nói một điều báng bổ, thậm
chí vô cùng báng bổ: tôi thấy Bovary chán
khủng khiếp, hơn thế nữa, đối với tôi, trong một thời gian cực
dài, đó là thứ kém nhất mà Flaubert
từng viết. Điều ấy, ngoài một số chuyện khác, thật ra muốn
nói lên rằng tôi thuộc về phía bên kia,
cái phía của L'Éducation sentimentale và
Bouvard et Pécuchet, sẵn sàng bỏ Bovary lại
ở phía bên này.
NL
Theo GCC, đây là do khiếu thưởng ngoạn, không phải
chỉ, của cá nhân, mà còn của thời đại, (1)
và giữa 1 độc giả bình thường, với 1 độc giả như là
1 nhà điềm sách, hoặc nhà phê bình.
Trong những cuốn tiểu thuyết của Faulkner, Gấu chỉ mê có
"Absalon, Absalon!", thí dụ.
TTT thì mê "Palmiers sauvages", mà ngay cuốn này,
ông cũng mê chỉ có nửa cuốn. Kundera cũng mê cuốn
này.
Cuốn "Trong khi nằm hấp hối", thì có mấy tay mê,
viết theo nó, rồi được giải thưởng nhờ nó.
Trên Tin Văn cũng đi 1 đường về những bà vợ "hờ hững
ai xui thiếp phụ chàng", như Bà Bô, và nàng
Kha Lệ Ninh.
Đâu có phải "vô tư" Flaubert phán, Bà
Bô, là tớ!
Nàng Kha Lệ Ninh tân
thời.
Kha Lệ
Ninh, phiên âm tiếng Việt "Anna Karenina", tác phẩm
của nhà văn Nga, Tolstoy. Tân thời, là do tác
phẩm này vừa có một bản dịch tiếng Anh mới (dịch giả Richard
Pevear và Larissa Volokhonsky, nhà xb Viking). Bản dịch mới
này vén màn, cho thấy từng lớp xiêm y của người
đẹp; nói rõ hơn, nó cho thấy cấu trúc vô
hình của cuốn tiểu thuyết.
James Wood, trong bài viết "Bốn bể là nhà" ("At
home in the world"), trên tờ "Người Nữu Ước" số đề ngày 5
tháng Hai 2001, cho rằng, bất cứ một độc giả, khi đọc Tolstoy, đều
cảm thấy, có cái gì khang khác, về mức độ và
thể loại, so với tiểu thuyết của những tác giả khác. Thế giới
tiểu thuyết của ông, những nhân vật, hành động, hoàn
cảnh của họ… "thực như đếm". Hiện thực ở đây như khí trời.
Tìm cách giải thích, là rơi vào vòng
luẩn quẩn. Ngay chính Tolstoy cũng lúng túng, khi bị
ép buộc phải bảo vệ tác phẩm của ông. Trong một thư gửi
bạn, là Nicolai Strakhov, viết khi đang sáng tác "Anna
Karenina", ông khẳng định, những gì ông viết không
phải là những thu gom (collections) tư tưởng; và những tư tưởng
như thế có thể tách ra khỏi bản văn; nhưng đây là
một mạng lưới (a network): "tự thân, mạng lưới này không
dệt bằng tư tưởng (hay là do tôi nghĩ như vậy), nhưng bởi một
điều gì khác, và tuyệt đối không thể diễn tả cốt
lõi mạng lưới, một cách trực tiếp bằng những con chữ: chỉ có
thể làm một cách gián tiếp, bằng cách sử dụng
những con chữ để miêu tả những nhân vật, hành động, hoàn
cảnh."
Thư trên, được dịch giả Richard Pevear trích dẫn trong
lời giới thiệu bản dịch mới của ông và Larissa Volokhonsky.
Độc giả có thể tự hỏi, tại sao một tác phẩm cổ điển,
được nhiều người đọc, và đã được dịch ra tiếng nước ngoài,
nhiều lần, trở thành một tác phẩm của thế giới, vậy mà
vẫn có người dịch lại?
Theo Wood, những dịch phẩm lớn đều "lão hoá", trong
khi những cuốn tiểu thuyết lớn thì cứ thế trưởng thành mãi
lên. Gừng càng già càng cay. Thành thử
cỡ những ông như Tolstoy, lại càng cần một bản dịch đương
thời.
(Những độc giả mê truyện chưởng Kim Dung chẳng hạn, đọc bản
dịch của Hàn Giang Nhạn, đã xuýt xoa, so với bản
dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng. Nhưng hiện nay trên trang
web có một dịch giả mới là Nguyễn Duy Chính, ông
này dịch kỹ, theo sát bản chính hơn, so với Hàn
Giang Nhạn - dù sao vẫn chỉ là phóng tác. Người
viết tin rằng, nếu có một "nhà văn" sử dụng bản của Nguyễn
Duy Chính, rồi thổi vào đó "hồn văn" của chính
mình, nó sẽ trở thành một tuyệt tác. Bởi vì
cho tới bây giờ, chưa có một "nhà văn" nào chuyển
Kim Dung thành một tác phẩm văn học tiếng Việt. Trước đây,
Đỗ Long Vân mê Kim Dung, cặm cụi học chữ Nho để đọc ông;
phải chi Đỗ quân thêm được vài tuổi trời, biết đâu
có một Kim Dung "cây nhà lá vườn" rồi! Và
đây là một thách đố văn chương, đối với những nhà
văn Việt Nam rành Trung văn).
Trên nói, độc giả bình thường hiện nay cần một
bản dịch tiếng Anh bình thường hiện nay. Bản dịch mới này
hơn những bản dịch cũ, bởi vì dịch giả, ngoài việc dịch cẩn
thận, còn có riêng văn phong của họ. Nhờ vậy, hơn bao
giờ hết, so với trước đây, độc giả đương thời đã có thể
nắm bắt cái chất lãng đãng, chập chờn (the palpability)
của những "nhân vật, hành động, hoàn cảnh" của Tolstoy.
"Mạng lưới" của Tolstoy được dệt bằng những chi tiết, và những
chi tiết này được miêu tả rất đỗi thực; hơn thế nữa, những
chúng được xô đẩy bằng chức năng – bằng việc làm (work).
Còn điều này, không như những nhà hiện thực
hiện đại, Tolstoy chẳng thèm để ý đến chuyện nói cho
chúng ta biết, những sự vật giống như cái gì đối với
ông, hoặc giống như cái gì đối với chúng ta.
Chính vì vậy, [mượn câu nói của Goethe được Benjamin
trích dẫn, "tất cả sự kiện tính thì đã là
lý thuyết"], trong khi miêu tả những chi tiết, Tolstoy chuyển
vào trong đó: ẩn dụ. Trong tiểu thuyết của ông cũng
như của Chekhov, thực tại xuất hiện, như nó xuất hiện, không
phải với nhà văn, mà với những nhân vật.
Tolstoy khởi sự viết "Anna Karenina" vào năm 1873, tuy nhiên
trước đó, vào năm 1870, ông nói với vợ, ông
dự tính viết về một người đàn bà có chồng nhưng
bị ô nhục do ngoại tình. Như trường hợp "Bà Bovary"
của nhà văn người Pháp, Flaubert, một chuyện thực đã
gây hứng cho cuốn tiểu thuyết. Vào tháng Giêng
1872, Anna Stepanovna Pirogov, bồ của ông chủ đất láng giềng,
đã lao mình xuống dưới bánh xe lửa, sau khi bị nhân
tình bỏ rơi. Tolstoy đã ra sân ga để chứng kiến tận
mắt thi thể người đàn bà.
Có những điểm tương tự, trong một số tiểu thuyết nửa sau thế
kỷ 19. Như Bà Bovary, Anna cũng thích đọc tiểu thuyết. Như
Tess, trong "Tess of the Urbervilles" của Hardy, Anna cũng phơi phới đang
độ. Mấy bà "xồn xồn" này đều căng tràn nhựa sống đến
mức trở thành vô trách nhiệm. Đàn ông
không làm sao thoát khỏi tay mấy bà. Tuy nhiên
cả ba, trong khi mang trong người cái mầm "làm đàn
ông khốn khổ khốn nạn, sống dở chết dở", đồng thời, họ cũng sản sinh
ra một thứ "kháng sinh", bởi vậy, những nhân vật trầm luân
như thế đó [thứ đàn bà trời đánh, cướp giật
chồng người… như người Việt mình thường gọi] cuối cùng lại
gợi sự thương xót, làm người đọc có cảm tình
hơn là bị xét đoán một cách nghiêm ngặt.
Thời đại lớn lao của nhân vật tiểu thuyết, tức thế kỷ
19, cũng là thời đại lớn lao của những nhân vật nữ, bị cầm
tù bởi xã hội, và cố gắng chạy trốn, vượt ra khỏi
nó. Chính vì họ cố gắng chạy trốn một xã hội
đã đóng cứng họ vào những từ như là con đĩ
thối tha, đồ cướp chồng người… cho nên họ đã trở thành
những nhân vật thực.
Llosa: I remember that atrocious
phrase of Sartre's against Flaubert: "I hold Flaubert responsible for the
crimes committed against the Communards, because he never wrote a word
condemning them." Which reveals very well that rejection of Flaubert by
the Left at a certain moment.
Tớ nhớ là Sartre phạng Flaubert, như tên
Gấu phạng HPNT: Mi trách nhiệm những tội ác trong vụ Mậu
Thân...
Diễn xuất,
chứ không phải mãi dâm, là nghề nghiệp cổ xưa
nhất. Khỉ cũng biết diễn xuất. Khi con thú chồm dậy, đấm ngực,
giả vờ tấn công, ấy là nó đang diễn, hy vọng sẽ
làm ta sợ hãi.”
Note: Phim hay nhất của Marlon Brando
là Phu Bến Tầu, Sur Le Quai. Không phải Bố Già,
theo GCC.
Cái ý diễn xuất có trước mãi dâm,
nhảm.
Mãi dâm là sống bằng cái số ta. Nghề
của tôi là mở đùi ra rồi khép đùi
vô, như 1 bướm nổi tiếng ở Luân Đôn viết.
Còn diễn xuất, là cần có người coi, tức khán
giả, và nó là 1 nghệ thuật, khác hẳn nhau.
Nếu khỉ biết diễn xuất, thì là do nó bắt
chước con người!
Với Bố Già, MB đâu có đóng khỉ gì
đâu. Ông ta cứ chường mặt ra đó. Bởi thế, mấy phim
sau, đâu có MB?
Trường hợp MB, giống Jean Gabin của Tẩy. Nổi tiếng quá,
át luôn cả đạo diễn phim, thiên hạ đi coi phim là
vì diễn viên, thay vì, đạo diễn.
Theo GCC, 1 đạo diễn giỏi, không cần diễn viên. Bất
cứ 1 ai cũng có thể trở thành diễn viên của người này.
Những tổ sư đạo diễn, họ là tổ sư là vì như
thế. Mi không biết diễn xuất, ta sẽ dậy mi.
Diễn viên bậc nhất, là nhờ diễn xuất, không
phải, nhan sắc. Bởi thế, có những phim, cần diễn viên,
là cần thứ này, và thứ này, thường được
gọi là kịch sĩ, thay vì nghệ sĩ.
Và cũng vì lý do này, mà kịch
mới đứng đầu thiên hạ. Những phim như Suddenly Last Summer,
chỉ thứ kịch sĩ như Liz Taylor mới đóng nổi.
Trong số diễn viên điện ảnh, có vài người đạt
tới cảnh giới này, trong số đó, là Liz Taylor, hay
Spencer Tracy, với Ngư Ông và Biển Cả, thí dụ.
Có thể nói,
phim nào của Spencer Tracy cũng thần sầu. Ngư ông và Biển cả, Xử án
tại Nuremberg, Tuyết để tang, La neige en deuil…
Ui chao, sao lại có 1 tay diễn viên “nhân hậu”
đến như thế cơ chứ.
Trong những bài viết về
Ngư Ông,
bài của tác giả Ðời
của Pi, Yann Martel, thật tuyệt. Ông nhìn ra cái
gốc Thánh Kinh của nó.
Liu Xiaobo, Nobel Hòa Bình, phán, tớ đếch
có kẻ thù, là theo nghĩa "Ngư Ông". Theo nghĩa,
nhiều kẻ thù tao, cả 1 nhà nước thù tao, nhưng tao
chưa kiếm ra kẻ thù, như con cá của Ngư ông.
THE OLD MAN AND THE SEA
BY ERNEST HEMINGWAY
February 16, 2009
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
The famous Ernest Hemingway. The
Old Man and the Sea is one of those works of literature that most
everyone has heard of, even those who haven't read it. Despite its brevity
127 pages in the well-spaced edition I am sending you it's had a lasting
effect on English literature, as has Hemingway's work in general. I'd say
that his short stories, gathered in the collections In Our Time, Men
without Women and WinnerTake Nothing, among
others, are his greatest achievement and above all, the story "Big Two-Hearted
River" but his novels The Sun Also Rises, A Farewell
to Arms and For Whom the Bell Tolls are more widely read.
The greatness of Hemingway lies not so much
in what he said as how he said it. He took the English language and wrote
it in a way that no one had written it before. If you compare Hemingway,
who was born in 1899, and Henry James, who died in 1916, that overlap of
seventeen years seems astonishing, so contrasting are their styles. With
James, truth, verisimilitude, realism, whatever you want to call it, is
achieved by a baroque abundance of language. Hemingway's style is the exact
opposite. He stripped the language of ornamentation, prescribing adjectives
and adverbs to his prose the way a careful doctor would prescribe pills to
a hypochondriac. The result was prose of revolutionary terseness, with a
cadence, vigor and elemental simplicity that bring to mind a much older text:
the Bible.
That combination is not fortuitous. Hemingway
was well versed in biblical language and imagery and The Old Man
and the Sea can be read as a Christian allegory, though I wouldn't
call it a religious work, certainly not in the way the book I sent you
two weeks ago, Gilead, is. Rather, Hemingway
uses Christ's passage on Earth in a secular way to explore the meaning
of human suffering. "Grace under pressure" was the formulation Hemingway
offered when he was asked what he meant by "guts" in describing the grit
shown by many of his characters. Another way of putting that would be
the achieving of victory through defeat, which matches more deeply, I think,
the Christ-like odyssey of Santiago, the old man of the title. For concerning
Christ, that was the Apostle Paul's momentous insight (some would call
it God's gift): the possibility of triumph, of salvation, in the very midst
of ruination. It's a message, a belief that transforms the human experience
entirely. Career failures, family disasters, accidents, disease, old age-these
human experiences that might otherwise be tragically final instead become
threshold events.
As I was thinking about Santiago and his epic
encounter with the great marlin, I wondered whether there was any political
dimension to his story. I came to the conclusion that there isn't. In
politics, victory comes through victory and defeat only brings defeat.
The message of Hemingway's poor Cuban fisherman is purely personal, addressing
the individual in each one of us and not the roles we might take on.
Despite its vast exterior setting, The Old Man and the Sea is an intimate
work of the soul. And so I wish upon you what I wish upon all of us: that
our return from the high seas be as dignified as Santiago's.
Yours truly, Yann Martel
ERNEST
HEMINGWAY (I899-1961) was an American journalist, novelist and short
story writer. He is internationally acclaimed for his works The Sun
Also Rises, A Farewell to Arms, For Whom the Bell Toll and his Pulitzer
Prize-winning novella, The Old Man and the Sea.
Hemingway's writing style is characteristically straightforward
and understated, featuring tightly constructed prose. He drove an ambulance
in World War I, and was a key figure in the circle of expatriate-artists
and writers in Paris in the 1920s
William
Faulkner in front of his house in Oxford, Mississippi, 1947
It
would be a grave mistake for anyone trying to understand race in
American history to overlook the novels of William Faulkner. Beneath
their literary complexity can be found the clearest statement by anyone
of the core abuse that has driven black–white conflict since slavery
times, but first you have to pass a test. Faulkner’s French biographer,
André Bleikasten, who devoted his life to understanding Faulkner,
obviously passed the test himself, but it cannot have been easy for him.
Bleikasten presents his readers with many examples of the test, but the
one that seemed bluntest to me, impossible to mistake or ignore, emerges
from an evening at Princeton in 1958 when Faulkner met J. Robert Oppenheimer.
Both men were celebrated, Oppenheimer for building the first atomic bomb
and Faulkner for writing the novels that won the Nobel Prize for literature
in 1949.
Oppenheimer,
when in the mood, could talk to just about anybody about anything, but Faulkner
found conversation difficult with strangers; a bare yes or
no was often all he could manage. Oppenheimer
said he had recently seen a television play based on a Faulkner story
and asked what Faulkner thought of television as a medium for the artist.
“Television
is for niggers,” said Faulkner.
This
is the test: Are you prepared to believe that the Faulkner who said
that might also have something important to say about black–white conflict
in American history? The test was probably easier for Bleikasten because
he was French, because he studied the books before he studied the man,
because he was interested in literature, not history or sociology, and
because at the beginning of his life Bleikasten did not yet understand
that for many white southerners nothing changed with the end of slavery
except slavery.
Bleikasten’s
long devotion to Faulkner began with a happy accident. In July 1962
he was nearing thirty and needed a safely dead writer of important novels
in English for his doctoral thesis. He was close to committing himself
to D.H. Lawrence when Faulkner died after falling from a hard-to-control
horse in Virginia. Bleikasten devoted most of the next forty-five years
to Faulkner, beginning with the novels, which he treated exhaustively
in a book called The Ink of Melancholy, first published in 1990
and now reissued. Friends asked, why not follow the novels with a biography?
Bleikasten resisted. “There are five already,” he thought. “Why a sixth?”
But then an editor at a small French publishing house “harried me gently
for months until finally I gave in.”
Bleikasten’s
book on the novels took decades, the life about three years. It was
published in France in 2007 and won three big prizes. By that time he
was already mortally ill with cancer, and he died in 2009 before talk
of an English translation…
Trong Giáo
Đường, em nhí bị thằng chả bất lực phá trinh bằng
cái bắp ngô - the barbarous
deflowering of Temple.
Vargas Llosa - GCC nhớ, hình như đọc
1 tay phê bình, đọc cuốn sách, hít hà,
trang nào cũng dậy lên mùi ngô bắp!
Sợ, không chỉ mùi
ngô bắp!
Cái xen Đỗ Hải Yến, vào
vai em nhí, trong Cánh
Đồng Bất Tận, mà chẳng bước ra từ Giáo
Đường sao?
Giáo Đường làm Faulkner nổi tiếng, và, tai
tiếng, như Đại Sư Phụ của "sự thờ cúng cái độc ác, tàn
bạo". Ra lò năm 1931, Giáo Đường, khỏi bàn
cãi, là 1 trong những tác phẩm quan trọng nhất
của ông.
Và cũng là tác phẩm viết đi viết lại
nhiều lần. Chắc là Người cũng ớn, như ghi chú nxb cho
thấy:
EDITORS' NOTE
This volume reproduces the text
of Sanctuary that has been established by Noel Polk. It is based on
Faulkner's own typescripts-both the original carbon typescript that
was completed in May 1929 and the revisions that he typed and affixed
to his galley proofs in the summer of 193o--which have been emended to
account for his revisions in proof, his indisputable typing errors, and
certain other mistakes and inconsistencies that clearly demand correction.
All of Faulkner's novels bear alterations of varying degrees of seriousness
by his editors, but Sanctuary is without question the work that has been
most heavily revised by the author himself.
Les classiques William Faulkner Polars
clandestins Peut-on considérer
certains livres de Faulkner comme des romans noirs, à commencer
par le fameux Sanctuaire? L'écrivain était en tout cas
friand de « crime publications ». Par JEAN-BAPTISTE BARONIAN
Đại
Lục Faulkner
"Si je t'oublie, Jerusalem"
Cri de douleur d'un jeune écrivain en plein chaos personnel
Philippe Sollers 21, Juillet, 2000
"Si
je t'oublie, Jerusalem"
là tên đầu tiên của cuốn "Palmiers Sauvages". Ông
anh nhà thơ mê cuốn này. Ông nói, Gấu
mới đi kiếm đọc. Ông nói, cuốn này lạ lắm. Hai
truyện dài viết song song, gần như không mắc mớ liên
hệ. Có vẻ như ông chỉ khoái Ông Già, một nửa câu
chuyện.
Tức câu chuyện anh tù, cảm thấy bình yên
ở nơi chốn không có đàn bà.
Nhưng chính cái nửa kia, một nửa linh hồn còn
lại, mới đáng kể.
"Những Cây Cọ Dại", "The Wild
Palms", còn có một cái tên khi ở dạng đánh
máy, và sau đó bị bỏ đi: "If I Forget Thee, Jesuralem"
(Nếu tôi quên Em, Jerusalem). Câu này trích
từ Psalm 137, Verse 5, nguyên văn như sau: "If I forget thee,
O Jerusalem, let my right hand forget her cunning". Theo Michael Millgate,
tác giả cuốn "The Achievement of Faulkner", đây là
cái tên mà Faulkner thích, vì nó
liên quan tới tình yêu và lòng trung thủy
của Wilbourne đối với Charlotte; tới sự trì hoãn quyết định
thực hiện ca phá thai, có thể do Wilbourne đã lụt
nghề, cuối cùng gây ra cái chết cho Charlotte. Nhưng
khó mà biết, Wilbourne đúng hay sai, khi ngần ngại
không thực hiện ca phá thai? Liệu thất bại này liên
quan tới thất bại của ông, về quan niệm cuộc đời, như Charlotte mơ
tưởng và ông không làm sao thực hiện được? Ông
muốn đứa trẻ được sinh ra, và mọi người đều nhìn thấy đứa
bé, như là bằng chứng về cuộc tình tội lỗi giữa hai
người. Faulkner thường sử dụng sự mang thai và ra đời của hài
nhi như là những hình ảnh về tái sinh, thành
thử quyết định phá thai của Charlotte cho thấy, quan niệm cuộc đời
như bà mơ tưởng, là mang tính vô sinh (sterile).
Charlotte không muốn có đứa bé là bởi vì
"chúng làm đau, làm đọa đầy". Không phải chỉ
vì sự sinh đẻ, tự nó, đã là một cơn đau quá
lớn lao để mà chịu đựng, nhưng trẻ con, chính chúng
nó, đặc biệt hơn, những đứa con mà bà bỏ lại đằng sau
cho người chồng, chúng là một nỗi đau triền miên. Ở đây,
bà như phản bội ngay cả ý tưởng của bà về cuộc đời:
"rằng yêu đương và khổ đau, là như nhau (same thing),
và giá trị của tình yêu là những gì
bạn phải trả để có được nó, và một khi bạn mua nó
bằng một giá hời, như vậy là bạn tự lường gạt chính
mình." Như vậy, khi quyết định phá thai, bà muốn một
giá hời, trong cuộc tình, và từ đó, là
cái chết., như một hậu quả.
"Những cây cọ dại" là đề tài gây tranh
luận, bởi vì nó được viết kèm với "Ông Già"
(Old Man), và độc giả khó có thể đọc cả hai, như
một toàn thể. "Ông Già" được viết kỹ hơn, dễ đọc hơn,
quyến rũ hơn, nhưng như tác giả cho thấy, khi chọn tên Những
Cây Cọ Dại, ông coi đây mới là "con thuyền chở
đạo" (nó chuyên chở ý nghĩa của cuốn sách).
Ông cho biết, trong khi loay hoay tìm cách kể câu
chuyện Charlotte và Harry, ông "đã bịa đặt ra một câu
chuyện khác, hay là nửa còn lại của nó (its
complete antithesis), được sử dụng như một "counterpoint" để có
được sự cân bằng. Cũng có thể coi đây là một cuốn
tiểu thuyết-kép, nếu đừng chi ly đến chuyện "nhất bên trọng"
(The Wild Plams), "nhất bên khinh" (Old Man).
Ông Già (Old Man) là câu chuyện một
người tù. Theo "Ghi chú của người Biên tập" (trong
"The Portable Faulkner", của Malcolm Cowley), vào đầu tháng
Tư năm 1927, nước sông Mississippi dâng cao, và những
tù nhân trong một trại tù tại đây đã
được điều động nhằm chống đỡ trận lụt tại một khúc đê. Một
tù nhân cao - Để phân biệt với một tù nhân
lùn, như ở trong truyện, mở ra như sau: Once (it was in Mississippi,
in May, in the flood year 1927), there were two convicts. One of them was
about twenty-five, tall… The second convict was short… [Hồi đó,
(ở Mississippi, vào tháng Năm khi xẩy ra trận lụt năm 1927),
có hai tù nhân. Một chừng 25 tuổi, cao… Người tù
kia thấp….] - được phái đi, cùng với một chiếc thuyền, cứu
hai nạn nhân của trận lũ, một đàn ông và một
đàn bà. Đây là trận lụt tệ hại nhất trong lịch
sử của con sông: trong vòng sáu tuần lễ, hơn 20 ngàn
dậm vuông bị chìm vào cơn lũ, bao gồm trọn vùng
châu thổ giầu có; 600 ngàn người bị mất nhà
cửa; vài trăm con người bị chết đuối; cộng thêm 25 ngàn
con ngựa, 50 ngàn gia súc, 148 ngàn heo, 1300 cừu,
1 triệu ba trăm ngàn gà, 400 ngàn mẫu hoa mầu bị tiêu
hủy, cùng hàng trăm dậm đê điều. Vài tuần, sau
khi nước sông đã rút, người tù trở về trại tù.
"Cái thuyền ở đằng kia kìa". "Còn đây là
người đàn bà. Nhưng tôi không kiếm thấy thằng
chả".
GCC, sử dụng thủ pháp của sư
phụ, đọc Nguyễn Thị Thảo An & Lâm Chương
Trong bài viết mới đây,
trên talawas, Bùi Văn Phú tìm cách
chứng minh, TCS không phải là VC, khi ông so
sánh với mấy thứ chính cống Bà Lang Trọc, thí
dụ như HPNT, hay Lữ Phương, hay Huỳnh Tấn Mẫm.
Hiển nhiên, TCS không là VC. Giả
như VC có những người như TCS thì đâu còn
là... VC?
Đây cũng là điều tác giả bài
viết nghĩ tới, khi ông giả sử, nếu TCS ở Miền Bắc thì
may lắm cũng trở thành một thứ như Văn Cao.
Chính cái sự giả dụ của ông, đó,
nói lên cái tuyệt vời của Miền Nam. Chỉ
ở Miền Nam,
chúng ta mới có cái thời của chúng ta,
theo nghĩa, bạn có thể chọn cho mình một cách
ở đời.
Ở Miền Bắc, không có thời, không
có người, chỉ có... Đảng.
Đẩy lên một mức cao hơn nữa, không có
thời, là không có gì hết.
Đây là ý của Erhart Kastner, được
Rudiger Safranski dùng làm đề từ cho cuốn viết về
Heidegger của ông: Heidegger và
thời của ông [nguyên bản tiếng Đức, bản dịch
tiếng Pháp của Isabelle Kalinowki, nhà xb Grasset]:
Une vérité doit pouvoir
bénir le temporel, comme on disait autrefois; sans quoi elle
est dépourvue de monde...
Một chân lý thì có thể
chúc phúc cho thời, như người xưa nói; nếu
không, nó sẽ không có đời...
Quả là chúng ta đã
có một "thời của chúng ta", những năm trước 1975.
Chúng ta có thời, có người, có đời. Trong
"có người", chúng ta có cả những người như HPNT,
như Đào Hiếu, thí dụ.
Và tất nhiên, có TCS!
Không phải "tự nhiên, tình cờ"
mà một cô bạn của HPNT ở hải ngoại hỏi ông,
vưỡn vác thánh giá? [Gấu đọc trên Hợp
Lưu]. Hỏi như thế, hiểu theo một nghĩa nào đó, là
muốn ông chấp nhận sự thách đố là "vụ án
Mậu Thân", đối diện với nó, không thể trả lời
thoái thác, lúc đó tôi ở trên
rừng được.
Rudiger Safranski viết: Tên của Heidegger mở
ra chương hấp dẫn nhất của lịch sử tinh thần Đức của thế kỷ 20. Phải
kể nó ra, cả tốt, cả xấu, và vượt cả xấu lẫn tốt....
Câu chuyện về cuộc đời và câu chuyện về tư tưởng
của Heidegger là một câu chuyện mới về Faust...
Liệu HPNT và, quá cả HPNT, liệu, bất
cứ một cá nhân nào trong chúng ta Miền
Nam, đều đã từng ký hợp đồng với Quỉ, khi cầu cứu
VC Miền Bắc, khi chấp nhận chấm dứt cuộc chiến với bất cứ giá
nào, khi tặc lưỡi nghĩ thầm, một tên Yankee mũi tẹt,
máu đỏ da vàng, thì hẳn là hơn một tên
Yankee mũi lõ?
Tôi nghe có người
nói đại khái: “Phạm Duy là người của công chúng,
nên sự phê phán hành vi, đời tư của PD là
đương nhiên, vì ông ta phải có trách
nhiệm với công chúng”.
Đúng PD là một public figure, hình ảnh của
công chúng. Vì ông ta là nhạc sĩ nổi
tiếng, a celebrity. Ông ta không phải là một công
bộc, public servant. Ông ta không có trách nhiệm
trừ gian diệt bạo hay gánh vác chuyện giang san như lãnh
tụ quốc gia. PD viết nhạc kiếm sống thì cũng không khác
ông thợ mộc đóng bàn ghế đem bán. Một cái
nghề, thế thôi.
PD là 1 nhạc sĩ. Ông
thuộc giới văn nghệ sĩ. Một nhà trí thức.
Với họ, cái gọi là đạo đức quan trọng lắm.
Phán như thế này - một cái nghề thế thôi
- thì đúng là, như vị quan tòa Liên
Xô, khi hỏi Brodsky, ai cho phép mi là nhà thơ,
và Brodsky bèn trả lời, ai cho phép ta đứng vào
hàng ngũ của nhân loại?
Hay như vị quan tòa Nuremburg, khi lũ Nazi trả lời, chúng
tôi không biết những tội ác đó, “Tụi mi là
trí thức của chế độ đó, tụi mi phải biết”!
Khi PD sáng tác
bản “Bà Mẹ Gio Linh”, thí dụ, là, 1 cách nào
đó, xúi người ta cầm súng chống lại Tẩy mũi lõ.
Làm sao giống 1 ông thợ mộc được.
HPNT là giáo sư của Ngụy, ông dậy học, kiếm
tiền nuôi thân, tại làm sao lại bảo ông ta là…đao phủ thủ Mậu Thân?
Làm sao chúng ta
có thể tưởng tượng ra được, văn chương Bắc Kít trước 1975, nếu
thiếu tiếng “ba toong” của Nguyễn Tuân?
Khi Pạt được Nobel văn chương,
dù bị cả 1 khối CS chửi bới, bị Gấu Mẹ Vĩ Đại làm nhục nhã,
điêu đứng, nhưng trong thâm tâm của tất cả, thì
đều hài lòng, ông ta là của “chúng
ông” đấy.
Một đấng như Nabokov, hách như thế, mà còn
ghen, đúng ra ta mới được Nobel thay vì ông ta, vì
ta mới là nhà văn Chống Cộng đầu tiên của Liên
Xô!
Là nhà văn, thứ
thiệt, khủng lắm, không đơn giản đâu.
Vương Đại Gia mà còn phải công nhận, may mà
có cõi văn Ngụy, tức là có những nhà
văn như TTT, TTY....
Nhưng phải là Milosz,
khi vinh danh Brodsky, chúng ta mới hiểu ra được, tiếng cây
gậy ba toong của Nguyễn Tuân, "nghĩa là gì".
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn
là vì lý do này, ông tạo sự hài
hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó
con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá
ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận
cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám
phá ra cái gì sống sót quá khứ là
kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp.
Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác
tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực
tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái
hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài
bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài
hoài....
****
If a poet has any obligation
toward society, it is to write well. Being in minority, he has no other
choice.
[Hỡi thi sĩ, hãy làm thơ cho thật hay, nếu như mi
có một bổn phận nào đó đối với đám người đông
đảo kia.
Trong thiểu số đếm trên đầu ngón tay, mi đâu
có một chọn lựa nào khác?].
J. Brodsky: To Please a Shadow:
Hãy làm Hài Lòng một Cái Bóng
As my body continues on its journey,
my thoughts keep turning back and bury themselves in
days past.
- GUSTAVE FLAUBERT to his mother, 23 November 1849
Preface
When I wrote a fragment of autobiography
under the title A Sort of Life I
closed the record at the age of about twenty- seven. I felt
then that the future years belonged as much to others as to myself.
I couldn't infringe their copyright ... They
had a right to privacy, and it was impossible to deal with my private
life without involving theirs. All the same I had tasted the pleasure
- often enough a sad pleasure - of remembering and so I began a series
of introductions to the Collected Edition of my books, looking
back on the circumstances in which the books were conceived and
written. They too were after all 'a sort of life'.
I have added essays which I have
written occasionally on episodes in my life and on some
of the troubled places in the world where I have found myself
involved for no good reason, though I can see now that my travels,
as much as the act of writing, were ways of escape.. As I have
written elsewhere in this book, 'Writing is a form of therapy;
sometimes I wonder how all those who do not write, compose or
paint can manage to escape the madness, the melancholia, the panic
fear which is inherent in the human situation.' Auden noted: 'Man
needs escape as he needs food and deep sleep. '
More rarely than might be supposed
the places I visited proved sources for my novels. I
wasn't seeking sources; I tumbled on them, though perhaps
a Writer's instinct may have been at work when I bought my return
ticket to Saigon or Port-au- Prince or Asuncion. So here is what
I wrote of Haiti before I thought of The Comedians,
of Paraguay which was to form a chapter in Travels with my
Aunt. Yet the Emergency in Malaya produced no novel, nor did
the Mau Mau rebellion in Kenya. Not even a short story emerged
from the occasion when I was deported by the American authorities from
Puerto Rico or from my experience of the Communist takeover in Prague
in 1948. Poland in the Stalinist 1950s left the novelist's imagination
untouched, and yet and yet ... Politics since 1933 have taken an
increasing place in my novels, and perhaps the Mau Mau prepared me for
the more sinister Tontons Macoute and my apprehensions of ambush in
Malaya lent an extra dimension to the fears which I sometimes experienced
in Vietnam. I have included little from the articles I wrote on
the French war there, for the American war made the earlier struggle
seem a century away, and no one now can feel interest in such vanished
characters as the Emperor Bao-Dai and Prince Buu-Loc, Those parts
of a life most beloved of columnists remain outside the scope of
this book. The 'copyright' of others' lives I hope I have continued
to observe.
Trong bài viết mới đây,
trên talawas, Bùi Văn Phú tìm cách
chứng minh, TCS không phải là VC, khi ông so sánh
với mấy thứ chính cống Bà Lang Trọc, thí dụ như
HPNT, hay Lữ Phương, hay Huỳnh Tấn Mẫm.
Hiển nhiên, TCS không là VC. Giả như VC có
những người như TCS thì đâu còn là... VC?
Đây cũng là điều tác giả bài viết nghĩ
tới, khi ông giả sử, nếu TCS ở Miền Bắc thì may lắm cũng
trở thành một thứ như Văn Cao.
Chính cái sự giả dụ của ông, đó, nói
lên cái tuyệt vời của Miền Nam. Chỉ
ở Miền Nam,
chúng ta mới có cái thời của chúng ta, theo
nghĩa, bạn có thể chọn cho mình một cách ở đời.
Ở Miền Bắc, không có thời, không có
người, chỉ có... Đảng.
Đẩy lên một mức cao hơn nữa, không có thời,
là không có gì hết.
Đây là ý của Erhart Kastner, được Rudiger
Safranski dùng làm đề từ cho cuốn viết về Heidegger của
ông: Heidegger và thời của ông
[nguyên bản tiếng Đức, bản dịch tiếng Pháp của Isabelle Kalinowki,
nhà xb Grasset]:
Une vérité doit pouvoir bénir
le temporel, comme on disait autrefois; sans quoi elle est dépourvue
de monde...
Một chân lý thì có thể chúc
phúc cho thời, như người xưa nói; nếu không, nó
sẽ không có đời...
Quả là chúng ta đã có
một "thời của chúng ta", những năm trước 1975. Chúng ta
có thời, có người, có đời. Trong "có người",
chúng ta có cả những người như HPNT, như Đào Hiếu,
thí dụ.
Và tất nhiên, có TCS!
Không phải "tự nhiên, tình cờ" mà một
cô bạn của HPNT ở hải ngoại hỏi ông, vưỡn vác thánh
giá? [Gấu đọc trên Hợp Lưu]. Hỏi như thế, hiểu theo một
nghĩa nào đó, là muốn ông chấp nhận sự thách
đố là "vụ án Mậu Thân", đối diện với nó,
không thể trả lời thoái thác, lúc đó
tôi ở trên rừng được.
Rudiger Safranski viết: Tên của Heidegger mở ra chương hấp
dẫn nhất của lịch sử tinh thần Đức của thế kỷ 20. Phải kể nó ra,
cả tốt, cả xấu, và vượt cả xấu lẫn tốt.... Câu chuyện về cuộc
đời và câu chuyện về tư tưởng của Heidegger là một
câu chuyện mới về Faust...
Liệu HPNT và, quá cả HPNT, liệu, bất cứ một cá
nhân nào trong chúng ta Miền Nam, đều đã
từng ký hợp đồng với Quỉ, khi cầu cứu VC Miền Bắc, khi chấp nhận
chấm dứt cuộc chiến với bất cứ giá nào, khi tặc lưỡi nghĩ
thầm, một tên Yankee mũi tẹt, máu đỏ da vàng, thì
hẳn là hơn một tên Yankee mũi lõ?
Trần Văn
Chánh Những hồi ức quý giá Từ 2013 đến 2017,
nhà thơ Võ Chân Cửu đã cho xuất bản liền
mạch ba…
Thật vậy, tác giả
Võ Chân Cửu tỏ ra rất sành sỏi và có
trách nhiệm về việc mình làm. Bằng những câu
chuyện kể sinh động vừa dựa trên ký ức, vừa qua những tài
liệu “hữu tín hữu trưng”, chính bằng những thư từ trao
đổi qua lại có ghi rõ ngày tháng, tên
tuổi người, hoặc qua những câu / bài thơ được trích
dẫn cẩn thận để chứng minh, dẫn dắt câu chuyện.
Nói theo cách diễn đạt cũ, đây
có thể gọi là những tập “thi thoại” hiện đại với
khối lượng tài liệu / sự kiện rất phong phú đa dạng
được kết nối lại một cách tài tình khéo
léo qua nghệ thuật kể chuyện lan man, tự nhiên, sinh động,
thỉnh thoảng chen vào những câu nhận xét tinh tế,
nhẹ nhàng mà thấm thía, sâu sắc. Như về
tính khí, lối sống thật đôi khi “điên
điên khùng khùng”, hoặc tự cao tự đại, rởm đời nhưng
khả ái của một số nhà thơ tác giả từng chung
đụng, kiểu như Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn… Chỗ người
viết tỏ ý mai mỉa thì cũng khá tế nhị, nhẹ nhàng,
duyên dáng, và thường có chen vào
chút tình cảm, với thái độ cảm thông,
cố tự kìm chế ở mức không làm cho người ta nổi
nóng hoặc cảm thấy bị xúc phạm. Nhiều chuyện kể kèm
theo nhận xét thật thú vị, đúng tâm lý
nhà thơ, như nói: “Nhiều
người tỉnh táo nhận ra rằng các thi sĩ lớn cũng đều
có tật xem cái danh rất lớn. Suốt cả các trang
viết, kể cả khi tự nhận rằng mình điên, Bùi thi
sĩ [tức Bùi Giáng] thường phê bình vài
nhà thơ cùng thời (trường hợp khen thơ của thi sĩ Huy Tưởng
trong Đi vào cõi thơ là vì… cùng
quê Quảng Nam). Có lần Bùi Giáng và
Nguyễn Đức Sơn tình cờ gặp nhau tại nhà tôi, cả
hai đều sững người nhìn nhau rồi… ngó lơ như không
hề biết nhau” (22 tản mạn, tr. 69-70).
Đoạn kể vừa nêu trên gợi ta liên
tưởng đến câu nói để đời của Tào Phi (187-226)
nước Ngụy thời Tam Quốc: “Văn nhân tương khinh, tự cổ nhi
nhiên” (Bọn nhà văn coi thường nhau, từ xưa vẫn thế)!
Võ Chân Cửu nhận xét tiếp: “May
mắn sao, các nhà thơ… giả bộ điên chỉ để chứng
tỏ mình tài năng, thông thái, không
ai lâm vào cảnh ‘giả lâu thành thiệt’. Đến
sau năm 1975, diễn đàn văn nghệ tự do chấm dứt. Miếng cơm, manh
áo trở thành nỗi lo thực tế. Xu thế bây giờ phải
là… vô sản mới được coi trọng. Nhiều người liền… hết điên”
(sđd, tr. 70).
Còm:
Viết về Bùi Giáng và Huy Tuởng,
như trên, rõ ràng là quá khốn
nạn. Cả hai đều là thi sĩ và đều có tác
phẩm, hay dở tuỳ người đọc. Làm sao dám hạ bút,
BG viết về HT là do cùng quê?
Bùi Giáng, điên thực, tuy cũng
tỉnh thực. Sau 1975, ông bị Vẹm nện rất nhiều lần không
lẽ Võ Chân Cửu không biết?
Còn cái chuyện “sững người”, là
chuyện thường, giữa người thường cũng như thi sĩ. Dễ gì
vồ lấy nhau. Ai cũng có tự trọng, đâu phải chỉ thi
sĩ.
Tay VCC này, lần ra hải ngoại, viết nhảm về
Brodsky, Gấu đã phải lên tiếng.
Tên của Joseph Brodsky, cái từ Joseph
là tên thánh, ông là thi sĩ,
và là tín hữu Ky Tô, và ai đọc
thơ ông, thì cũng thấy chất Ky Tô, như Czeslaw
Milosz, và chính nhờ tinh thần Ky Tô, mà
cả hai sống sót đế quốc Đỏ, vậy mà dám hạ
bút viết:
Ở ý này, tôi
rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture
Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn
từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc
tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích
tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm
thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn
liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)
He used to tell his students
that they probably were not terribly familiar with the Decalogue,
but it was possible to learn, since there were only seventeen: the
Ten Commandments and the seven cardinal sins-taken together, the foundation
of our civilization. His Muse, the spirit of language,
was, he said, Christian, which explains the Old and New Testament themes
in his poetry.
Milosz: Notes about Brodsky [Nàng thơ của ông, linh
hồn, tinh anh của ngôn ngữ là Ky Tô giáo,
điều này giải thích những đề tài Cựu và
Tân Ước trong thơ của ông]
“Tây nguyên” trong
bài là lúc ông cùng tôi
về Bảo Lộc. Tiếng gà trưa từng khiến cho nhiều người nao lòng,
dứt cơn nghĩ ngợi mông lung. Nhưng tiếng gà làm
cho một người điếng hồn, có lẽ là lần đầu tiên được
nhà thơ Nguyễn Đức Nhân diễn tả. Trong một thư điện tử
gần nhất, Nguyễn Đức Nhân khẳng định với tôi và Nguyễn
Lương Vỵ rằng anh chưa bao giờ qua thơ để so đọ về tài năng.
Vì đó là cõi thị phi của làng văn
nghệ. Những con chữ rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm
nhất là: “làm sao có thể từ thơ đến được với cõi
vô ngôn”.
Ở ý này, tôi rất tâm đắc
với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay
mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương
Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ
trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn
giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong
tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với
một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)
Đã 1 Thầy Kuốc, phịa ra
… Roland Barthes.
Bi giờ thêm 1 nhà thơ VCC, phịa ra…
Brodsky, “đếch biết gì về Ky tô giáo", đúng
hơn, "đếch gắn liền với một tín điều cụ thể nào"!!
Khủng thật!
Chắc là cũng nghi, đếch ai tin, cho… chắc
ăn, ông nhà thơ Mít bèn lôi 1
tay Trùm Viện Hàn Lâm Thụy Điển ra, để bảo chứng!
Làm thơ dở như NDN, vậy mà, không
chỉ sợ cõi thị phi hỏi thăm tới ông, mà còn
đòi mò tới cõi vô ngôn!
Cả hai cõi đó, chúng đâu
thèm biết đến thơ “điếng hồn” của ông!
Viết lách liều lĩnh, áo thụng vái
nhau, vậy mà bày đặt khai quật, làm sống lại
một nền văn chương bị VC quăng vô thùng rác,
tìm lại hồn cho nó!
Việc này, có lẽ nên để cho đám
hậu duệ VC làm, có lẽ lại bảnh hơn, chăng?
GCC thực sự không hiểu, mối
kết nối giữa, cái “vô ngôn” của nhà thơ Mít,
bạn của VCC, và cái "không gắn liền với 1 tín
điều nào", của... Brodsky.
Chắc là đấng này tính phán, “không
gắn liền”, là “vô ngôn”?
Vả chăng VCC không cho biết nguyên văn câu
nói, của đại giáo sư Sture Allen, ra sao, thành
ra khó quá, thôi bỏ đi tám!
Trước 1975, VCC có làm
thơ, và hình như có được VL cho đăng trên
Thời Tập. Nhưng xb thơ thì chưa. So với những Bùi Giáng,
Nguyễn Đức Sơn, Huy Tưởng… đúng 1 thứ cắc ké, có
lẽ Người có tí đau, bèn phạng luôn cả 1 đám
nhà thơ trước 1975!
Nhớ, VCC có viết về lần gặp NMG, và NMG cho biết,
Hà Nội có nhắc tới ông, và xếp vào
loại thơ.... thiền (nhớ đại khái).
Ôi chao Hà Nội biết đến VCC, mà.... "cắc
ké" sao, hở Gấu Cù Lần?
Nhà
văn Trần Vũ nói rằng, ông sống ở Pháp trên 30
năm nhưng chẳng bao giờ thấy một bài thơ của nhà thơ đương
thời nào đăng trên báo hay tạp chí, kể cả những
tạp chí văn chương. Buồn ghê, lẽ nào thơ đã
chết!
Ừ, người ta đã chôn cất nàng thơ ở Pháp,
và có thể nàng cũng đang hấp hối ở nhiều nơi khác
trên thế giới. Trừ ở Việt Nam...
MM và nhà thơ Carl
Sandburg: Nàng đến trễ hẹn 3 tiếng vì ở chỗ làm tóc,
để có một mái tóc y chang của nhà thơ.
Những dòng thơ tuyệt vời trên đây, là
để xưng tụng nàng.
TV vốn chuyên về
truyện ngắn, và ký, và về phỏng vấn. Ông chẳng
đã từng lặn lội từ hải ngoại về lại xú Mít để phỏng
vấn đao phủ Mậu Thân, HPNT?
Nhưng thơ, sợ ông không rành. Báo Tây,
báo nào mà chẳng có tí thơ. Tờ ML
rành hẳn 1 chương cho thơ. Rồi The Paris Revew...
Thận Nhiên, tuy thi sĩ, nhưng thú thực Gấu chưa hề
đọc được 1 bài thơ nào của ông, nhưng đây
là về khiếu thưởng ngoạn, không hợp gu, như thường nói.
________________________________________
mới sáng
sớm nhà Z đã ăn luôn một con cá voi vì
có liên quan tới ông lày
:'(
đồng chí nào đọc cuốn này rồi giơ tay
Note: Cái tít, dịch
như trên, theo GCC, làm lệch ý của nguyên
tác. Ai đọc tập truyện rồi, thì sẽ thấy, phải dịch là,
“Những người ở Dublin”, "Những cư dân của Dublin"....
Tẩy cũng phải giữ nguyên, là vậy, “Les gens de
Dublin”. Bản tiếng Việt, của GCC, dịch từ bản tiếng Tẩy.
Bởi thế, khi dịch 1 truyện ngắn
trong đó, Gấu phán, chúng là "những mảnh
đời xé ra từ thành phố", và Joseph Huỳnh Văn,
thư ký tòa soạn TSVC, thú quá, gật đầu,
được, được!
Vả chăng, cái cụm từ “Người Dublin”,
nó có riêng, nghĩa của nó, để chỉ tính
chất của người dân của 1 thành phố lớn, thí dụ,
“người Paris”, “người Sài Gòn”, “người Hà Nội”….
The schizophrene, the cyclothyme,
Pass from the droll
to the sublime.
Coming of epileptoid
stock
They tell the time
without a clock.
NON SENSE IS NEVER JUST NON SENSE;
it is more like good sense with all the logic removed. At its highest point
poetry makes use of nonsense in order to indicate a level of experience beyond
the causality principle. You don't quicken or laugh at nonsense because it
is complete non-sense; but because you detect its resemblance to sense.
Logic, syntax, is a causal instrument, inadequate
for the task of describing the whole of reality. Poems don't
describe, but they are sounding-boards which enable the alert
consciousness to pick up the reverberations of the extra-causal
reality for itself.
Poems are negatives; hold them up to a clean surface
of daylight and you get an apprehension of grace. The
words carry in them complete submerged poems; as you read
your memory goes down like the loud pedal of a piano,
and all tribal, personal, associations begin to reverberate.
Poems are blueprints. They are not buildings but they enable
you to build for yourself. Serious nonsense and funny nonsense
are of the same order: both overreach causality and open a dimension
independent of logic but quite real. Shakespeare and Lear are twins
who do not dress alike. Serious nonsense and comical nonsense
have a common origin, and an uncommon expression.
Nothing is lost, sweet self
Nothing is ever
lost.
The spoken word
Is not exhausted
but can be heard.
Music that stains
the silence remains,
O! echo is everywhere
the unbeckonable bird! (1)
NOTE
1. This stanza is later modified
to become Durrell's poem "Echo" (1943).
Vô nghĩa không bao giờ chỉ
là vô nghĩa, nó bảnh hơn cả cái
“tốt nghĩa”, một khi mà mọi luận lý bị gỡ bỏ.
Ở điểm cực cao, thơ sử dụng cái vô nghĩa, để chỉ ra,
cái tầm độ của kinh nghiệm, quá nguyên lý
nhân quả. Bạn không cười toáng lên, trước
cái vô nghĩa, bởi là vì nó hoàn
toàn vô nghĩa, nhưng bởi vì bạn nhận ra cái
giông giống của nó, với “có nghĩa”.
Luận lý, cú pháp
là dụng cụ nhân quả, bất toàn, không
chu toàn nhiệm vụ miêu tả trọn thực tại. Thơ không
miêu tả, nhưng chúng là những bảng âm
thanh, có khả năng đánh động ý thức, để nghe
ra những cú rội của “siêu thực tại” vượt quá
nhân quả, cho chính nó.
Thơ thì phủ định. Cầm chúng
lên, lôi chúng ra 1 nơi sáng sủa
sạch sẽ, và bạn có cảm giác lĩnh hội,
cái gọi là ân sủng. Những từ trong chúng
hoàn tất những bài thơ, hoàn tất cái
phần chìm ẩn của chúng; như là bạn đọc hồi
ức của bạn chạy dài như
For anyone who has lived
out seventy years, according to the Book of David,
there is little to hope for except to go on plying familiar
skills, with an occasional mild variation and with tedious
repetitions. To escape, or possibly to extenuate, that monotony,
I chose to admit, perhaps with rash hospitality, the miscellaneous
interests that crossed my everyday writer's attention. Parable
follows on the heels of confession, free or blank verse on the sonnet.
In the earliest times, which were so susceptible to vague speculation
and the inevitable ordering of the universe, there can have existed
no division between the poetic and the prosaic. Everything must have
been tinged with magic. Thor was not the god of thunder; he was the
thunder and the god.
For a
true poet, every moment of existence, every act, ought
to be poetic since, in essence, it is so. As far as I know,
no one to this day has attained that high state of awareness.
Browning and Blake got closer to it than anyone else. Whitman
aimed in that direction, but his careful enumerations do not
always rise above a kind of crude cataloguing.
I distrust
literary schools, which I judge to be didactic constructs
designed to simplify what they preach; but if I were obliged
to name the influence behind my poems, I would say they stemmed
from modernismo-that enormous liberation
that gave new life to the many literatures that use the Castilian
language and that certainly carried as far as Spain. I have spoken
more than once with Leopoldo Lugones-that solitary, proud man-and
he would interrupt the flow of the conversation to mention "my
friend and master, Ruben Dario." (I think, furthermore, that we ought
to emphasize the affinities within our language, and not its regional
differences.)
My reader
will notice, in some pages, a philosophical preoccupation.
It has been with me since my childhood, when my father showed
me, with the help of a chessboard (it was, I remember, a cedarwood
board), the paradox of the race between Achilles and the
tortoise.
As for
the influences that show up in this volume ... First,
the writers I prefer-I have already mentioned Robert Browning;
next, those I have read and whom I echo; then, those I have
never read but who are in me. A language is a tradition, a way
of grasping reality, not an arbitrary assemblage of symbols.
-J.L.B.
Buenos Aires, 1972
-A.R.
Với bất cứ ai trời cho quá
bẩy bó, theo như Khổng Tử phán, đều thuộc
loại cổ lai hi, thì, với cái lũ cổ lai hi này,
chẳng mong thu hoạch thêm cái đọc, cái
điệc chi nữa, ngoại trừ nhai lại, như trâu bò
nhai cỏ.
Để tránh cái
đơn điệu, nhai đi nhai lại, hoặc chôm chĩa đầu
này đầu nọ, - lũ Mít mê thứ này lắm
- tớ, Borges, bèn chọn, chấp nhận, có lẽ với sự
hiếu khách vội vã, những thích thú,
đến với một nhà văn như tớ, trong cuộc sống thường ngày
của mình. Ngụ ngôn, hay ẩn dụ, theo gót
chân của thú nhận, thơ tự do, hay thơ không
vần, về sonnet. Vào cái thuở hồng hoang, chắc chẳng
có chi phân biệt giữa poetic và prosaic. Mọi thứ
phải nhuốm mùi thần kỳ. Thor đâu phải là Thần
Sấm. Xừ luý là Sấm, là Thần.
Với nhà thơ, thứ
thực, mọi khoành khắc, mọi hành động,
đều "thơ", theo yếu tính của nó, và
phải như thế đó, và, đúng là
như thế đó.
Theo như tớ biết, đếch có
ai vươn tới tình trạng khủng như thế.
May lắm, thì có
Browning, hay Blake, xém tí thì
đạt được. Whitman, cũng nhắm cú này, nhưng
ông ta ưa đếm điếc này nọ, thành ra chưa
vươn tới bảng phân loại, theo cái kiểu của 1 nhà
khoa học Nga, đã làm đưọc, cái gì
gì, bảng tuần hoàn!
Tớ [Borges] không tin ba cái
trường văn, mà theo tớ, chúng là những
kiến trúc mô phạm, được dựng lên, chỉ
để giản dị hóa điều chúng tụng – mày không
thuộc cours tao, là tao đánh rớt mày,
như Thầy Trung phán – nhưng nếu tớ bắt buộc phải khui
ra những ảnh hưởng, đằng sau thơ của tớ, tớ có thể phán,
nguồn của chúng, là từ modernismo
– sự giải phóng khổng lồ, đem đến một cuộc đời mới cho
nhiều nền văn chương sử dụng ngôn ngữ Castilian, và
nó chắc chắn đi xa, như là xứ sở Tây Ban Nha.
Tớ đã từng lèm bèm, hơn 1 lần với Leopoldo Lugones
- một người cô đơn, thật hách xì xằng – và
ông bèn ngắt cơn lèm bèm của tớ, để nhắc
tới “bạn của tôi, thầy của tôi, Ruben Dario", (tớ nghĩ
thêm, sau đó, là, chúng ta phải nhấn mạnh
tới những tinh tuý ở bên trong ngôn ngữ của của
chúng ta, thay vì để ý đến những khác biệt
vùng miền- cái này, là Borges chửi xéo
lũ Mít, khi chúng phân biệt tiếng Bắc, tiếng
Nam, tiếng Trung)
Độc giả của tớ sẽ để ý, trong
vài trang, một sự bận rộn, quan tâm triết học.
Cái này, là từ hồi còn con nít,
khi cha tớ chỉ cho tớ, với sự trợ giúp của cái
bàn cờ tướng, nghịch lý Achilles và con rùa.
As my body continues on its journey,
my thoughts keep turning back and bury themselves in days
past.
- GUSTAVE FLAUBERT to his mother, 23 November 1849
Preface
When I wrote a fragment of autobiography under the title
A Sort of Life I closed the record at
the age of about twenty- seven. I felt then that the future years
belonged as much to others as to myself. I couldn't infringe
their copyright ... They had a right to privacy,
and it was impossible to deal with my private life without involving
theirs. All the same I had tasted the pleasure - often enough a sad
pleasure - of remembering and so I began a series of introductions
to the Collected Edition of my books, looking back on the circumstances
in which the books were conceived and written. They too were after
all 'a sort of life'.
I have added essays which I have written occasionally
on episodes in my life and on some of the troubled places in the
world where I have found myself involved for no good reason, though
I can see now that my travels, as much as the act of writing, were
ways of escape.. As I have written elsewhere in this book, 'Writing
is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not
write, compose or paint can manage to escape the madness, the melancholia,
the panic fear which is inherent in the human situation.' Auden noted:
'Man needs escape as he needs food and deep sleep. '
More rarely than might be supposed the places
I visited proved sources for my novels. I wasn't seeking sources;
I tumbled on them, though perhaps a Writer's instinct may have
been at work when I bought my return ticket to Saigon or Port-au-
Prince or Asuncion. So here is what I wrote of Haiti before I thought
of The Comedians, of Paraguay which was to
form a chapter in Travels with my Aunt. Yet the Emergency
in Malaya produced no novel, nor did the Mau Mau rebellion in Kenya.
Not even a short story emerged from the occasion when I was deported by
the American authorities from Puerto Rico or from my experience of the
Communist takeover in Prague in 1948. Poland in the Stalinist 1950s
left the novelist's imagination untouched, and yet and yet ... Politics
since 1933 have taken an increasing place in my novels, and perhaps the
Mau Mau prepared me for the more sinister Tontons Macoute and my apprehensions
of ambush in Malaya lent an extra dimension to the fears which I sometimes
experienced in Vietnam. I have included little from the articles I
wrote on the French war there, for the American war made the earlier
struggle seem a century away, and no one now can feel interest in such
vanished characters as the Emperor Bao-Dai and Prince Buu-Loc, Those
parts of a life most beloved of columnists remain outside the scope
of this book. The 'copyright' of others' lives I hope I have continued
to observe.