nqt
Old

 

Tám Bó

*


Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những ông bạn quí hoá."

THE BURDEN OF CHILHOOD

THERE are certain writers, as different as Dickens from Kipling, who never shake off the burden of their childhood. The abandonment to the blacking factory in Dickens's case and in Kipling's to the cruel Aunt Rosa living in the sandy suburban road were never forgotten. All later experience seems to have been related to those months or years of unhappiness. Life which turns its cruel side to most of us at an age when we have begun to learn the arts of self-protection took these two writers by surprise during the defenselessness of early childhood. How differently they reacted. Dickens learns sympathy, Kipling cruelty - Dickens developed a style so easy and natural that it seems capable of including the whole human race in its understanding: Kipling designed a machine, the cogwheels perfectly fashioned, for exclusion. The characters sometimes seem to rattle down a conveyor-belt like matchboxes.
    There are great similarities in the early life of Kipling and Saki, and Saki's reaction to misery was nearer Kipling's than Dickens's. Kipling was born in India. H. H. Munro (I would like to drop that rather meaningless mask of the pen name) in Burma. Family life for such children is always broken - the miseries recorded by Kipling and Munro must be experienced by many mute inglorious children born to the civil servant or the colonial officer in the East: the arrival of the cab at the strange relative's house, the unpacking of the boxes, the unfamiliar improvised nursery, the terrible departure of the parents, a four years' absence from affection that in child-time can be as long as a generation (at four one is a small child, at eight a boy). Kipling described the horror of that time in Baa, Baa Black Sheep - a story in spite of its sentimentality almost unbearable to read: Aunt Rosa's prayers, the beatings, the card with the word LIAR pinned upon the back, the growing and neglected blindness, until at last came the moment of rebellion.

'If you make me do that,' said Black Sheep very quietly, 'I shall burn this house down and perhaps I will 'kill you. I don't know whether I can kill you - you are so bony, but I will try.'
    No punishment followed this blasphemy, though 'Black Sheep held himself ready to work his way to Auntie Rosa's withered throat and grip there till he was beaten off.

    In the last sentence we can hear something very much like the tones of Munro's voice as we hear them in one of his finest stories Sredni Vashtar. Neither his Aunt Augusta nor his Aunt Charlotte with whom he was left near Barnstaple after his mother's death, while his father served in Burma, had the fiendish cruelty of Aunt Rosa, but Augusta ('a woman', Munro's sister wrote, 'of ungovernable temper, of fierce likes, and dislikes, imperious, a moral coward, possessing no brains worth speaking of, and a primitive disposition') was quite capable of making a child's life miserable. Munro was not himself beaten, Augusta preferred his younger brother for that exercise, but we can measure the hatred he felt for her in his story of the small boy Conradin who prayed so successfully for vengeance to his tame ferret. '''Whoever will break it to the poor child? I couldn't for the life of me!" exclaimed a shrill voice, and while they debated the matter among themselves Conradin made himself another piece of toast.' Unhappiness wonderfully aids the memory, and the best stories of childhood, its humor and its anarchy as well as its cruelty and unhappiness.
    For Munro reacted to those years rather differently from Kipling. He, too, developed a style like a machine in self-protection, but what sparks this machine gave off. He did not protect himself like Kipling with manliness, knowingness, imaginary adventures of soldiers and Empire Builders (though a certain nostalgia for such a life can be read into The Unbearable Bassington): he protected himself with epigrams as closely set as currants in an old-fashioned Dundee cake. As a young man trying to make a career with his father's help in the Burma Police, he wrote to his sister in 1893 complaining that she had made no effort to see A Woman of No Importance. Reginald and Clovis are children of Wilde: the epigrams, the absurdities fly unremittingly back and forth, they dazzle and delight, but we are aware of a harsher, less kindly mind behind them than Wilde's, Clovis and Reginald are not creatures of fairy tale, they belong nearer to the visible world than Ernest Maltravers, While Ernest floats airily like a Rubens cupid among the over-blue clouds, Clovis and Reginald belong to the Park, the tea-parties of Kensington, and evenings at Covent Garden - they even sometimes date, like the suffragettes. They cannot quite disguise, in spite of the glint and the sparkle, the loneliness of the Barnstaple years - they are quick to hurt first, before they can be hurt, and the witty and devastating asides cut like Aunt Augusta's cane. How often these stories are stories of practical jokes. The victims with their weird names are sufficiently foolish to awaken no sympathy - they are the middle-aged, the people with power; it is right that they should suffer temporary humiliation because the world is always on their side in the long run. Munro, like a chivalrous highwayman, only robs the rich: behind all these stories is an exacting sense of justice. In this they are to be distinguished from Kipling's stories in the same genre - The Village That Voted The Earth Was Flat and others where the joke is carried too far. With Kipling revenge rather than justice seems to be the motive; (Aunt Rosa had established herself in the mind of her victim and corrupted it).
    Perhaps I have gone a little too far in emphasizing the cruelty of Munro's work, for here are times when it seems to remind us only of the sunniness of the Edwardian scene, young men in boaters, the box at the Opera, long lazy afternoons in the Park, tea out of the thinnest porcelain with cucumber sandwiches, the easy irresponsible prattle.

Never be a pioneer. It's the Early Christian that gets the fattest lion.

There's Marion Mulciber, who would think she could ride down a hill on a bicycle j on that occasion she went to a hospital, now she's gone into a Sisterhood -lost all she had you know, and gave the rest to Heaven.
    Her frocks are built in Paris, but she wears them with a strong English accent.

    It requires a great deal of moral courage to leave in a marked manner in the middle of the second Act when your carriage is not ordered till twelve.
   
Sad to think that this sunniness and this prattle could not go on for ever, but the worst and cruelest practical joke was left to the end. Munro's witty, cynical hero, Comus Bassington, died incongruously of fever in a West African village, and in the early morning of 13 November 1916, from a shallow crater near Beaumont Hamel, Munro was heard to shout' Put out that bloody cigarette.' They were the unpredictable last words of Clovis and Reginald.



Tám Bó

TTT @ Phan Nguyên Blog

Những đứa trẻ của Dickens

17.2.1973

Em và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn, tuy nói với em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có. Lúc nào anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy không. Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không làm như với những người khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ:  không bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.

Note: Ui chao Le Petit Chose là cuốn sách Gấu học tiếng Tẩy, với Thầy Roch Cường, thời gian học Đệ Nhị, sửa soạn thi Tú Tài I, ở trưòng Hồng Lạc của Thầy Đoàn Viết Lưu, đường Sương Nguệt Anh kế bên vườn Bờ Rô, sống nhờ ông anh rể Nguyễn Hoạt, bà chị họ, Chị Hoạt, con ông Cả Hoán, tối đi làm bồi bàn ở tiệm chả cá Thăng Long, một bữa ông thầy cùng bà vợ ghé
ăn, bèn không lấy học phí nữa, chuyện này kể rồi, in ra rồi trong Lần Cuối Sài Gòn, hình như thế.

Lại nói về Dickens, và những đứa trẻ bất hạnh. Graham Greene, trong Gánh Nặng Tuổi Thơ, có 1 bài thần sầu về Dickens, trên Tin Văn cũng đã từng chôm
.

*

http://www.tanvien.net/notes_1/burden_childhood.html

Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình, nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham Greene viết:

"Có vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống ai, nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh nặng tuổi thơ. Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường hợp Dickens, còn với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô Aunt Rosa, bên một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều chẳng bao giờ quên được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó của họ, đều như dính mắc tới những tháng, những năm bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng ta đã có tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào những năm tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa toàn những cay đắng ngày nào, (1) thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra cũng đặng.

Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những ông bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn, bất thình lình, đúng vào lúc chưa biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao, là cách họ phản ứng, sau khi bị cắn. Dickens học được sự thân ái, sympathy. Kipling, sự độc ác. Dickens phát hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên, easy and natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào trong sự hiểu biết của nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại, rất ư là hợp thời, vào thời đó.
*
Câu này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine, Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo khổ, bị tước đoạt, và sự cùng cực làm nên vợ nhà văn nhớn. La pauvreté, les privations et la misère sont l'école du bon soldat. Napoléon Bonaparte. Extrait d'une Lettre à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.

(1) Đây là Gấu Cái nhớ lại kỷ niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai Lậy về Sài Gòn, và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than: Trên xuồng có đủ cay đắng, đủ dùng cho... ba người, người thứ ba là cô phù dâu cũng ngồi trên xuồng!
*
Gấu, nhà văn

Unpredictability, not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is at the core of our life.

Nguồn

Không thể biết trước, chứ không phải chết không thể nào tránh được, đó mới là cốt lõi của cuộc đời của chúng ta.

Unhappiness wonderfully aids the memory.
Greene: The Burden of childhood
[Bất hạnh là thuốc bổ của hồi nhớ]
*
Không thể biết trước được.
Quả có thế.

Kh
ốn đốn vì yêu người!
TTT

Chúc ai mãi giữ được nụ cười
K

Tks
NQT


Image may contain: 2 people
Lê Thị Thấm Vân được phong cho chức world's best grandpa là vui cả đời rồi. năm mới chúc "grandpa" sức khoẻ tốt và dồi dào năng lượng để sáng tác và dịch những tác phẩm hay, yêu thích như ý muốn nhé.
Phong Dang Trông giống Thảo Trường quá chừng

*

POEM OF THE GIFTS

To Maria Esther Vazquez
No one should read self-pity or reproach
Into this statement of the majesty
Of God; who with such splendid irony
Granted me books and blindness at one touch.

Care of this city of books he handed over
To sightless eyes, which now can do no more
Than read in libraries of dream the poor
And senseless paragraphs that dawns deliver

To wishful scrutiny. In vain the day
Squanders on these same eyes its infinite tomes,
As distant as the inaccessible volumes
Which perished in Alexandria.

From hunger and from thirst (in the Greek story),
A king lies dying among gardens and fountains.
Aimlessly, endlessly, I trace the confines,
High and profound, of this blind library.

Cultures of East and West, the entire atlas,
Encyclopedias, centuries, dynasties,
Symbols, the cosmos, and cosmogonies
Are offered from the walls, all to no purpose.

In shadow, with a tentative stick, I try
The hollow twilight, slow and imprecise-
I, who had always thought of Paradise
In form and image as a library.

Something, which certainly is not defined
By the word fate, arranges all these things;
Another man was given, on other evenings
Now gone, these many books. He too was blind.

Wandering through the gradual galleries,
I often feel with vague and holy dread
I am that other dead one, who attempted
The same uncertain steps on similar days.

Which of the two is setting down this poem-
A single sightless self, a plural I?
What can it matter, then, the name that names me,
Given our curse is common and the same?

Groussac or Borges, now I look upon
This dear world losing shape, fading away
Into a pale uncertain ashy-gray
That feels like sleep, or else oblivion.
(Alastair Reid)

J.L. Borges

Paul Groussac (1845-1929), Argentine critic and man of letters, and a predecessor of Borges as director of the National Library, also suffered from the accompanying irony of blindness.


Quà


Đừng tỏ ra thương thân hay trách phận giùm, khi biết, Chúa ban quà cho tớ,
Những cuốn sách, và, kèm theo sách, là sự
mù lòa.
Mít, chúng nói, con tạo đành hanh, cực kỳ tếu táo, là như thế đó!

Mi hãy chăm nom thành phố sách, với cặp mắt mù tịt của mi,
Vốn chỉ còn đọc được thứ sách ở trong thư viện của giấc mơ,
Những mẩu đoạn nghèo nàn, vô nghĩa, mà bình minh đem tới sự săm soi mong ước

Vô phương, vô ích, ngày hoang phí,
Cũng bằng cặp mắt mù lòa đó,
Những cuốn sách miên man,vô cùng của nó
Thật xa xưa
Như những cuốn, không thể nào tiếp cận được
Đã từng tiêu ma ở Alexandria

Trong đói, khát ( trong câu chuyện Hy Lạp)
Nhà vua nằm chết giữa suối vườn

Vu vơ, hoài hoài, tớ vạch những thành quách
Cao thăm thẳm
Sâu vời vợi
Vây hãm thư viện mù lòa này

Văn hóa Đông Tây, trọn bản đồ,
Bách khoa, thế kỷ, triều đại
biểu tượng, vũ trụ, vũ trụ học
Những bức tường bèn dâng hiến
Tất cả để, chẳng để làm gì.

Trong bóng tối, với cây gậy, tớ lò mò, dọ dẫm
Hoàng hôn chập choạng, chậm chạp, bề thế -
Tớ, kẻ hằng phán, Thiên Đàng,
Vóc dáng, hình ảnh của nó ư?
Một cái thư viện.

Một điều gì đó, hẳn nhiên không thể nào định nghĩa
Bằng cái từ vớ vẩn, nhảm nhí, “số mệnh”
Đã sắp xếp mọi điều này
Một tên đàn ông khác,
Đã được ban cho, vào những buổi chiều khác,
Tên này bây giờ đã đi xa,
Những cuốn sách nhiều ơi là nhiều này.
Ông ta thì cũng mù.

Lang thang giữa những hành lang, những phòng ốc
Tớ thường cảm thấy, một cách mơ hồ, và sợ, một nỗi sợ hãi thần thánh
Tớ chính là gã đàn ông đã chết kia
Kẻ đã toan tính y chang tớ vào lúc này, với những bước
chân quờ quạng
Những ngày y như là bi giờ

Trong hai tên mù, tên nào bày đặt ra những dòng thơ này
Chỉ 1 tên mù, hay nhiều tên mù, cùng tự nhận
Tao mới đúng là thằng Gấu Cà Chớn?
[Có mấy NQT?]

Gấu Cà Chớn, hay Hai Lúa, hay Thằng Củ Xê [cái này của Duyên Anh ban cho]
Vào lúc này
Bèn nhìn về cái thế giới thân yêu đang mất dần hình bóng của nó, nhạt nhoà mãi đi
Như chìm vào giấc ngủ, hay quên lãng.


Tám Bó

&

Playboy Jan & Feb


merry christmas and happy new year đến cô chú
kính.

Tks
Take Care
TT/NQT (1)

En attendant SN 

Cám ơn

01/31/13 at 10:32 PM
Mấy bữa nay bác viết hay ghê – hết viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.

08/30/12 at 9:11 PM

Khong sao!

Subject: Re: Tham

Sorry
NQT

Thì ông chồng tôi cũng bắc kỳ vậy… đoạn bác viết về Sến-Ngô Bảo Châu, bác khinh không chừa một ai ngoài Bắc!

Tôi là Bắc Kỳ mà.
All My Best Wishes to U and Family

NQT

Trời ơi, sao bác miệt thị người Bắc dữ vậy, bác thù tới tận xương tủy, bác làm tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách Sáng Thế (Cựu Ước) ông Abraham mặc cả với Chúa, nếu tìm ra được một người tốt trong thành phố Sodome-Gomorrhe thì xin Chúa tha cho thành phố khỏi bị hủy – nhưng không tìm ra được một ai... nên thành phố phải bị hủy.

Bác «lãng mạn» quá, cứ mong chờ có một cú ngoạn mục của các nhân tài.

Mong bác sức khỏe sống lâu để chờ ngày đó.

Tks. NQT

Nhờ làm trang TV m
à quen được hai vị [O & K], quả là không uổng quãng đời lưu vong!

Somewhere

behind Turkenfeld
a spruce nursery
a pond in the
moor on which
the March ice
is slowly melting

Obscure Passage

Aristotle did not
apprehend at all
the word he found
in Archytas

Note: “Ải Tây” có thể còn liên quan tới bài trên,"Đoạn thơ tối tăm", nếu chúng ta đọc dẫn giải về chúng, theo nghĩa Tô Thuỳ Yên viết sau đây.
Và, nếu thư thế, cái bài thơ ngắn ngủn trên, của Sebald, có thể là 1 lời vinh danh tuyệt vời dành cho cõi thơ TTT: Bí hiểm, hũ nút, õng ẹo, làm dáng như VP phán!

*

Kafka phán, phải đọc thứ sách như bị cái rìu phá băng nó choảng vô đầu, chứ thứ “sân chơi, sàn diễn, đồ chơi…”…  cái con mẹ gì đó thì đọc làm gì cho phí thì giờ.
Newton phát giác ra luật vạn vật hấp dẫn khi bị trái táo rớt trúng đầu. Koestler phán, nhà khoa học thì cũng giống như 1 tên mộng du, trong khi mộng du như thế, vớ được chân lý, đ
ịnh luật này nọ, và ông lấy cuộc đời ba nhà thiên văn Kepler, Copernicus.. để minh chứng.
Nhưng, tại làm sao những người khác, bị trái táo rớt trúng, bị cái rìu phá băng bổ trúng đầu… chỉ thấy đau 1 phát rồi…. thôi?
Vấn nạn ở đây, là, bạn phải được sửa soạn ra sao, ở tình trạng như thế nào, thì mới đón nhận được ân sủng, mặc khải, hay, ở trường hợp của Gấu, đón nhận món quà quí hoá….  Lò Thiêu?
Hoặc, bạn đã từng trải qua 1 cú test nào đó, như trong 1 ngụ ngôn của Kafka?

Nhà thơ Đài Sử hỏi Gấu, trong cái cú, đọc cọp BL ở hè đường Sài Gòn, và cái cú, đến nhà thấy ông via của “bạn ta”, ngồi xổm trên cái ghế, chúi đầu vào trang viết, và ngộ ra, đời GCC sau này sẽ y chang, thì cú nào thực sự là…  mặc khải?
Theo GCC, cả hai đều là mặc khải, và đều ở trong cái thế, đã được sửa soạn, để chờ mặc khải, y chang cái đọc trước 1975, là sửa soạn, để được “ready”, chờ sao quả tạ rớt trúng đầu, hà, hà!
Y chang, cái lần GCC được thưởng thức bữa đại tiệc thịt chuột, ở nông trường Đỗ Hòa!
Để được thưởng thức nó, Ông Trời cũng phải mất công vô cùng.
Bởi thế, GCC về già, ngộ ra, và cám ơn Ông Ta vô cùng, và cũng bắt chước Primo Levi, vặc lại,
tại sao cưng Gấu đến như thế!

http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/35.html

UNE ROSE ET MILTON

Sans rien qui la distingue ou l'étrange des choses
Qui furent, se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi ; le sort me dispense ce soir
Le privilège de nommer pour la première
Fois cette fleur silencieuse, la dernière
Que rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui que tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse éclatante en mon vers apparaitre
Avec tes ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta ténèbre - ô ténèbreuse entre ses mains. 

A Rose and Milton

From all the generations of past roses,
Disintegrated in the depths of time,
I want one to be spared oblivion-
One unexceptional rose from all the things
that once existed. Destiny allows me
The privilege of choosing, this first time,
That silent flower, the very final rose
That Milton held before his face, but could
Not see. O rose, vermilion or yellow
Or white, from some obliterated garden,
Your past existence magically lasts
And glows forever in this poetry,
Gold or blood-covered, ivory or shadowed,
As once in Milton's hands, invisible rose.
-A.R.

BHD và Gấu

Từ hàng hàng thế hệ những bông hồng
Đã “tàn hôn lên môi”, rồi rã ra, theo chiều sâu thăm thẳm của thời gian
Gấu muốn 1 bông hồng, chỉ một, được cứu rỗi khỏi lãng quên –
Một bông hồng, cũng thường thôi, chẳng có gì đặc biệt trong cõi vô thường
Đã từng hiện hữu [liệu có nên thêm chi tiết, đã từng học Gia Long?]
Số phận cho phép Gấu
Cái ưu tiên chọn lựa, lần đầu tiên này
Bông hồng thầm lặng, hồng rất hồng, bông hồng đen sau cùng.
Gấu đã từng cầm trong tay,
Nhưng không thể sở hữu.
[Thánh nữ mà]
Ôi bông hồng đen
Cái quá khứ của em, những ngày ở Sài Gòn, thì cứ còn hoài
Một cách thần kỳ, huyền diệu
[Trong Tứ Tấu Khúc]
Và đỏ bừng lên qua bài thơ này
Vàng, hay phủ máu, hay ngà, hay phủ bóng tối
Một lần Gấu ôm trong tay,
Trở thành vô hình.

Note: Mới đọc bản dịch của Hồ Như, trên Da Màu:

http://damau.org/archives/43128

Trong bao nhiêu đóa hồng đã nở
rồi mất hút với thời gian
ta muốn một đóa không bị lãng quên
một đóa hồng như bao đóa hồng khác
định mệnh cho ta được lần đầu nêu tên
đóa hoa lặng lẽ này
đóa hồng cuối cùng Milton đã kề gần
mà chẳng nhìn thấy
ơi đóa hồng của khu vườn đã mất
đỏ thắm hay vàng hay trắng
bằng phép lạ, hãy bỏ lại quá khứ ngàn xưa, và
rạng rỡ lên trong vần thơ này
vàng, đỏ tươi, ngà hay đen
như trong bàn tay ấy
đóa hồng vô hình

* Nguyên tác: Una Rosa Y Milton

* Có tham khảo bản dịch Anh ngữ của A.Z. Foreman

V/v Hồ Như.
Tin Văn đã từng giới thiệu vị này.
Hơn thế nữa, GCC đã từng viết về HN, khi còn phụ trách mục Tạp Ghi cho trang VHNT trên lưới, của Phạm Chi Lan, với cả 1 ban biên tập, mà đám này, đa số không ưa GCC, qua những cuộc thảo luận của họ, mỗi lần ra số mới, mà PCL thường là gửi riêng cho GCC, để “tham khảo”. Bài viết về HN của GCC, bị trả về, với cái “note”, của PCL, tôi muốn đăng lắm, nhưng BBT không chịu!
Hoá ra là HN là 1 trong số BBT, hay ban chủ trương nhưng đếch thèm chơi với đám này nữa, khi viết báo giấy, và cái đám còn lại “nực” lắm.
Trong BBT những người không ưa GCC, có thể kể ra đây, vài đấng, thí dụ, THT, ra biển nói khe khẽ, ông con trai 1 vị họa sĩ, Phùng Nguyễn… Trong folder Thư Tín, hình như vậy, Tin Văn có báo cáo về cú này rồi!

30 Tháng Tư Đọc Hồ Như: Kẻ Lạ
http://www.tanvien.net/ds/ds09_ho_nhu_kela.html



Six Poets Hardy to Larkin

*

Hardy never said much about writing or the difficulties of it, or the moral difficulties of it. Kafka said that a writer was doing the devil's work, writing a wholly inadequate response to the brutishness of the world, and Hardy increasingly felt this. It's not that it's an immoral activity or an amoral one; it's just that the act of creation is something to which the ordinary standards of human behavior do not apply. Hardy never liked to be touched. He always walked in the road to avoid brushing against people, and servants were told never to help him on with his coat and just to drop the shawl around his shoulders and not tuck him in. The pen had been his weapon in his struggle for life - and it had been a struggle.
The next poem is a dialogue with the moon.

Hardy chẳng hề lầu bầu về viết, hay những khó khăn về viết, hay khó khăn đạo đức của nó. Kafka phán nhà văn làm, việc của quỉ, viết trọn một phúc đáp không thoả đáng về tính thú vật của thế giới, và Hardy càng ngày càng cảm thấy đúng như thế. Nó không phải là 1 hành động đạo đức, hay không đạo đức, mà cái hành động sáng tạo có 1 điều gì mà lũ chó, hay phường mắt trắng dã, không hiểu được, hay, không áp dụng được.
Hardy đếch khoái ai đụng vô ông ta. Cây viết là vũ khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với đời – và quả có cuộc chiến đấu đó thực.

Christmas: 1924

'Peace upon earth!' was said. We sing it,
And pay a million priests to bring it.
After two thousand years of mass
We've got as far as poison-gas.

Hardy had given up writing novels in 1896 after the hostile reception of Jude the Obscure, a copy of which, it's particularly worth noting today, was burned publicly by a bishop. He had written poetry all his life and now devoted himself exclusively to it. I suspect that it was what Virginia Woolf called the 'architecting' of novels that no longer appealed to him. Poetry has it over the novel in that it uses fewer words. You can do more with less. He did, though, write one huge poem - The Dynasts, about the Napoleonic wars. Some of it is windy and sprawling, but Hardy was nothing if not down to earth (it's part of his fascination with graves). Here is a section about the night before Waterloo, but not about the common soldiers as Shakespeare might have done it, but the common creatures, disturbed by the preparations for the coming battle.


*

Nguyễn-Khoa Thái Anh – Khi nào Việt Nam mới có một đại tác phẩm hay một cuốn phim vĩ đại?

Đọc bài viết, rồi đọc còm, Gấu bỗng nhớ tới một câu chuyện của Borges, có cái tít như Gấu còn nhớ được, có ý nghĩa như vầy:
Bữa nay, ăn cơm chiều có món gà gô này, lại chỉ có một mình... Gấu!

Gấu đọc truyện, từ hồi còn ở trong nước, sau 1975, trên một tờ báo Sài Gòn. Ra hải ngoại cứ lâu lâu lại nhớ đến nó, lại cứ tự bảo mình, bữa nào phải tìm cho ra nguyên tác, dịch Borges chơi!
Thời gian này, ông bạn nhà thơ Joseph Huỳnh Văn còn sống, và Gấu tình cờ còn vớ được một bài thơ của Borges, bản tiếng Tây, bèn dịch chơi, lại dịch chơi, đưa cho bạn đọc, bạn thú quá, khen rầm trời, mi học trường Mít mà sao rành tiếng Tây hơn thằng em tao, Tú tài Tây!
Cũng không nhớ bài thơ ra sao, chỉ đại khái, đây là một bài thơ viết về hạnh phúc.

Truyện của Borges là về một ông quan còm, chiều hôm đó, đến thăm một nhà huyền thuật, nhờ ông bùa phép, sao cho được cái ghế cao hơn, là chức trưởng huyện. Đang ngồi nói chuyện, thì người làm bưng lên món gà gô, và hỏi ông chủ, dọn cơm hai người, chủ và khách cùng chơi con gà gô này chăng. Chủ lắc đầu, nói, khoan đã, khoan đã. Người làm lại bưng con gà gô xuống bếp.

Đúng lúc đó, thì có người nhà ông quan còm hối hả chạy đến báo tin, tay trưởng huyện nhậu say quá, té xuống muơng chết rồi, và mọi người đang tìm kiếm ông quan còm để ban cho cái chức kế vị ông vừa ngỏm. Nhà huyền thuật bèn nói, may quá, vậy khỏi làm bùa phép, nhưng xin ông cho thằng cháu của tôi cái chức quan còm mà ông vừa bỏ nhé?
Ông quan còm lắc đầu, chức đó, tôi dành cho tên đệ tử ruột rồi.

Ông quan còm về nhà, làm chức trưởng huyện đâu được hai tuần, thấy bổng lộc ít quá, bèn sai nhân viên đánh xe yết kiến nhà huyền thuật, xin chức cao hơn.

Câu chuyện lập lại y chang, cho tới lúc, ông quan còm từ giã thế giới ảo giác, trở về với chức quan còm, thẹn quá, không chờ ăn gà gô, bỏ đi một mách.

Thế là nhà huyền thuật đành kêu người nhà dọn cơm, lẩm bẩm, lại chỉ có một mình mình với con gà gô!

Truyện trên, có vẻ như Borges trước tác để tặng dân Mít chúng ta.
Đại tác phẩm Mít mà viết về anh VC phản gián, bị đồng bọn VC phản thùng cho ăn bom Mẽo, thì nỗi đau Mậu Thân Mít "Huệ" làm sao giải tỏa cho được? Viết về em "đừng đốt, đừng đốt!", thì lại thiếu cái em "một ngàn giọt lệ", viết về đỉnh cao chói lọi, nhà tiên tri, ngọn cờ đầu của văn chương viễn tưởng Mít, mà thiếu cái khúc "đỉnh cao" nhẫn tâm để cho chúng làm thịt vợ, dẫn mẹ nó đứa con trai đi trao cho thằng khác nuôi, đổi họ đổi tên cho mất luôn giống Bác, thì cũng đếch được!
Chán thật!
Chưa có đại tác phẩm mà đã cãi nhau như mổ bò rồi!
Gấu, chiều nay, lại ăn gà gô một mình, đọc đỡ đại tác phẩm của mấy anh mũi lõ vậy!
*
Phải nói rằng Việt Nam chưa có một đại tác phẩm nào – trong tiểu thuyết cũng như phim ảnh – có thể sánh với nỗi trầm kha thống khổ và dai dẳng của một dân tộc bất hạnh.
NKTA 

Ra điều kiện như anh ký quèn này, ‘tác phẩm lớn của Mít phải xứng đáng với nỗi trầm kha của dân Mít’, là ‘hỏng cẳng’, bởi vì có quá nhiều nỗi thống khổ của dân Mít, chính chúng choảng lẫn nhau, khổ thế.
Giả như chúng không choảng lẫn nhau, thì vẫn hỏng cẳng. Bởi vì tác phẩm lớn có khi không cần nói tới cái nỗi thống khổ, mà nói về cái nhà ‘dởm’, to lớn đàng hoàng hơn trước, mà dân Mít không thể biến thành thực, hay nói về một số phận những kẻ không còn là Mít nữa, nhưng bố mẹ của chúng ngày nào là Mít…. Ui chao, khó quá, cứ như đụng vô nan đề ‘nhà văn không là nhà đại phê bình, không là nhà thầy giáo tiến sĩ, không là nhà chính trị về nước hai lần đều bị chúng đếch cho về!’
Hà, hà!
Nói rằng VN chưa có đại tác phẩm, e cũng sai.
Bởi vì, có thể coi, một số tác phẩm, tuy không đại, nhưng cũng tàm tàm được. Thí dụ, những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, truyện dài Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, hoặc những truyện ngắn của TTT, truyện dài Bếp Lửa, cũng của ông…
Không thể so chúng với những Chiến Tranh và Hòa Bình, tất nhiên. Bởi vì những đại tác phẩm như thế, chúng ta chưa từng nghĩ tới, và có khi, cũng chẳng cần nghĩ tới!
*
Nói đến đại tác phẩm mà bỏ qua Bóng đêm thì quả là nhảm, đại nhảm!
Nhờ nó mà Âu Châu không bị nhuộm đỏ!

Nó cho thấy, một tác phẩm văn học phải là một tác phẩm chính trị, phải cưu mang trong nó niềm quan hoài tới số mệnh của con người, tương lai của nhân loại, trong cái thế đứng đương thời của tác giả, và có thể, của độc giả, khi đọc nó.

Lạ, là hai cuốn tiểu thuyết, một, của TTT, Bếp Lửa, và một, của Bảo Ninh, Nỗi Buồn Chiến Tranh, chúng như kế tiếp nhau, nói về xứ Bắc Kít, Hà Nội, và những đứa con của nó, và những cuộc phiêu lưu của chúng.
Điều này giải thích tại sao TTT mê Malraux: nhân vật Tâm, trong BL, vẽ ra cuộc

Note: Truyện gà gô, có trong cuốn trên. GCC sẽ scan và post liền.
Bài thơ Hạnh Phúc, có trên Tin Văn, thủng thẳng lục hầu quí vị độc giả TV.
Lần đầu, dịch, còn Xề Gòn, là từ bả
n tiếng Tây. Khoe & tặng Joseph Huỳnh Văn, bạn cảm động lắm, vẫn còn nhớ!

Happiness

Whoever embraces a woman is Adam. The woman is Eve.
Everything happens for the first time.
I saw something white in the sky. They tell me it is the moon, but
what can I do with a word and a mythology.
Trees frighten me a little. They are so beautiful.
The calm animals come closer so that I may tell them their names.
The books in the library have no letters. They spring forth when I open
them.
Leafing through the atlas I project the shape of Sumatra.
Whoever lights a match in the dark is inventing fire.
Inside the mirror an Other waits in ambush.
Whoever looks at the ocean sees England.
Whoever utters a line of Liliencron has entered into battle.
I have dreamed Carthage and the legions that destroyed Carthage.
I have dreamed the sword and the scale.
Praised be the love wherein there is no possessor and no possessed, but
both surrender.
Praised be the nightmare, which reveals to us that we have the power to
create hell.
Whoever goes down to a river goes down to the Ganges.
Whoever looks at an hourglass sees the dissolution of an empire.
Whoever plays with a dagger foretells the death of Caesar.
Whoever dreams is every human being.
In the desert I saw the young Sphinx, which has just been sculpted.
There is nothing else so ancient under the sun.
Everything happens for the first time, but in a way that is eternal.
Whoever reads my words is inventing them.

Hạnh Phúc

Bất cứ 1 tên đực rựa nào ôm một em, thì hắn ta là Adam.
Em là Eve.
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu tiên, thoạt kỳ thuỷ.
Tớ nhìn một cái gì trắng trên bầu trời.
Họ biểu tớ đó là mặt trăng, nhưng tớ làm gì với một từ và môn thần thoại học
Những cái cây làm tớ sợ tí tí. Chúng mới đẹp làm sao.
Những con thú tới gần hơn, và tớ có thể nói cho chúng biết, tên của chúng
Những cuốn sách ở trong thư viện không có chữ.
Khi tớ mở, thì chúng mới nhẩy bổ ra.
Đảo qua bàn thờ, tớ phóng chiếu hình dáng của Sumatra.
Bất cứ kẻ nào bật que diêm trong đêm, kẻ đó phát minh ra lửa.
Bên trong tấm gương, một tên Gấu Khác rình rập.
Bất cứ kẻ nào nhìn biển, kẻ đó thấy Ăng Lê.
Bất cứ kẻ nào bật lên một tiếng, Ngụy, kẻ đó gây ra cuộc chiến Mít!
[Hà, hà, dịch loạn quá, trúng tùm lum tà la!]
Tớ mơ thấy Sài Gòn, và những binh đoàn VC Bắc Kít tàn phá Sài Gòn
Hãy tấn phong Tình Yêu, một khi mà chẳng có kẻ thắng cũng như người bại, nhưng cả hai đều đầu hàng.
Hãy tấn phong ác mộng, nó bật mí cho chúng ta, rằng chúng ta làm đếch gì có quyền năng để xây lên Hỏa Ngục Đỏ.
Bất cứ kẻ nào xuống 1 con sông, là sông đó,  Mekong, và tên đó, Gấu!
Bất cứ kẻ nào nhìn cái đồng hồ cát, là kẻ đó nhìn thấy đế quốc VC đang trên đà hủy diệt.
Bất cứ kẻ nào chơi với dao, là kẻ đó tiên tri cái chết của Xê Da.
Bất cứ kẻ nào mơ, thì kẻ đó là mọi con người
Ở sa mạc, tớ nhìn thấy con Nhân Sư: Vừa mới được khắc, tạc!
Chẳng có cái chó gì là “xưa rồi Diễm ơi” ở dưới ánh mặt trời!
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu, nhưng, theo đường hướng được gọi là thiên thu, vĩnh viễn
Bất cứ vị độc giả nào đang đọc TV, là đang viết những dòng này.

*

…. chỉ nghĩ tới mình và những bài thơ đã làm, đang làm, và sẽ làm thôi.

Đấy đúng là giấc mơ những ngày đầu mới ra hải ngoại của Gấu: Làm 1 gã bán bảo hiểm nhân thọ, đi chào hàng, trong túi, như sư phụ - lúc nào cũng thủ, 1 cuốn Thánh Kinh, và 1 cuốn Shakespeare – lúc nào cũng thủ 1 cuốn Faulkner, cho tới 1 bữa vô 1 thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner. Và sau đó là cả 1 giấc “đại mộng”, lại xông vào giang hồ, cố làm rạng ra Cái Ác Bắc Kít, như… Steiner, cố cảnh tỉnh về một Lò Thiêu…
Hà, hà! Lớn lối quá!
Sự thực đơn giản hơn nhiều: Gấu không thể gạt ra khỏi cái đầu…  Cái Đói Bắc Kít, qua hình ảnh 1 con ốc nhồi nằm dưới 1 cánh bèo!
Không làm sao tưởng tượng ra được Cô Hồng Con của Gấu, gục xuống bờ ao ngay ngoài cổng nhà cô, khi bị cả cái xứ Bắc Kít bỏ mặc cho chết, vì đói, vì bịnh thương hàn, vì khát.

Đâu khác gì Anne Frank?

Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách. (1)

Lời chúc SN của K còn ẩn tàng trong nó, 1 cảnh báo, buông dao...  đồ tể xuống đi, để làm…  thi sĩ!

Tuyệt!
Tks. Many Tks.

Gấu không thể ngờ, có ngày làm được thơ, nhưng có ngày “dịch được thơ” mới sướng mê tơi. “Lão Tặc Thiên” [Tạ Tốn phán], quả là quá thương Gấu, cho Gấu “dịch được thơ”, mà, theo 1 nghĩa thật tuyệt vời, sướng hơn làm thơ rất nhiều!

Ui chao, nghĩ ra được 1 lời chúc GCC, như thế, thì quá cả tri kỷ. Bởi vì phải sống thế nào, đau thế nào, cuộc chiến Mít, thì mới nghĩ ra 1 lời chúc rất ư là vị kỷ như thế: Chỉ nghĩ tới mình!

My Old Saigon

Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/31676618785/in/photostream/

http://www.tanvien.net/Tap/writer_2.html

- Vous écrivez des poèmes et vous ne les publiez pas. Mais dans les deux ou trois poèmes qui ont paru, on voit que la mort n'est pas, pour vous, la fin de tout, qu'il y a  quelque chose après.
Alterman a écrit : 'Il n'y a pas de maison sans morst ni de mort qui oublie sa maison.'"
Ông làm thơ nhưng không in. Nhưng trong mấy bài lỡ có đó, có vẻ như cái chết, với ông, không phải là chết tận chết tiệt. Rằng có một điều gì, sau đó.
Alterman viết: "Chẳng có nấm nhà nào không có những người đã ra đi, và chẳng có người nào đã ra đi quên nấm nhà của mình."
Amos Oz
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn.
Phạm Duy: Trở về mái nhà. Xưa


Thảo Trần lại là dân miệt vườn thứ thiệt, sinh quán Cai Lậy, Mỹ Tho, và là bà xã của NQT. Đây tuy là tập truyện đầu tiên của bà, nhưng đã mang đầy sức mạnh riêng tư, trong một dòng văn cũng rất là Nam Bộ trong kiểu rất là Sài Gòn.
Phan Tấn Hải đọc NDSCVPN
Thú thật, hách, phách, lối, và hỗn như Gấu, không viết nổi một câu bảnh, và đúng, và thật galant, như trên, về Gấu Cái.
Cám ơn bạn hiền PTH.
*
Ôi chao, Gấu lại nhớ, một lần Gấu Cái than, anh coi những người đàn bà khác, như trời, như thánh nữ, tại sao lại lấy một người 'xấu' như tui?
Và Gấu, cà cuống chết đến đít vẫn còn cay, đã trả lời, có thể, anh thiếu, và cần ba cái xấu, của em!

The past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.
Tác phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu]  thì cũng như vết sẹo [ở trên tay cô bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo!
John Banville

Về vết sẹo này, của cô bạn, tuy có thật, nhưng Gấu chỉ có thể tưởng tượng khi nằm mơ, vì chưa từng được chính mắt nhìn thấy.
Gấu cũng đã có kể, cái lần Gấu Cái giận điên người, vì thằng chồng nằm mơ, cầm tay vợ, lại tưởng cầm tay người khác, đến khi sờ không thấy, bỗng bật lên lời, vết sẹo đâu rồi, và tỉnh giấc, và biết trong đời mình đã gây nên một mối đại thương tâm.
Ôi chao, có thằng chồng nào khốn nạn như thế chăng, mặt dầy như thế chăng?
*
Cái thằng cha học trò nghèo, tương tư người đẹp đến liệt giường liệt chiếu, trước khi đi tầu suốt, chỉ mong được hửi tay người đẹp một lần, kiếp sau, được thoả nguyện, thằng cha đó chính là... Gấu.
Cái chuyện được cầm tay người đẹp đó, cũng không thể nào thực hiện được, nếu không có sự tiếp tay của con quỉ chiến tranh.
Gấu đã từng tả cái lần đầu được cầm tay người đẹp trước khi từ giã Sài Gòn, lừng lững khốc liệt bước vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ.
Ba muơi năm sau, gặp lại, để giải thích cái lý do chỉ được cầm tay, cố cưỡng là mang họa, người xưa giản dị nói:
-You are not available !

Cô bạn, và mối tình của Gấu, khi ra hải ngoại, bao nhiêu năm sau, được hâm nóng ở xứ lạnh, và còn được 1 đấng nhà văn đưa vô tiểu thuyết, lấy ngay tên của Gấu, cho nhân vật của ông. Thằng Gấu này, mê vợ bạn, cực kỳ khốn nạn. Ngay cả 1 ông bạn của Gấu, quen ở xứ lạnh, mà Gấu có nhắc tới, trong 1 bài viết về thơ, cũng bực. Tuy nhiên, không phải như vậy. Khi Gấu quen cô bạn, thì chưa có ông chồng. Cô
là thiếu nữ, mới lớn. Trong 5 năm trời, chỉ có cầm tay, và 1 lần hôn trộm, mớ tóc sau gáy, cũng đã kể ra rồi. Lần ông chồng biết, hỏi vợ, tại sao không nói, trước khi lấy nhau, bà nói, giữa tôi và anh ấy chẳng có chuyện gì, làm sao nói. Mấy hôm sau, một buổi tối, ông xách chai rượu tới nhà, cả hai uống cạn, cả cuộc rượu, là nói về cô. Về nhà, say mèm, ông chồng gục trên vai vợ, phán, thằng khốn đó thương em nhiều, hơn cả anh.
Nó thương em thực, không có tí mùi vị gì của cõi đời này.
Chẳng là, đám quen biết, kể cả đệ tử của ông, vì ông là trùm bảo hiểm, dưới tay hàng chục nhân viên, ai cũng biết, ông lấy vợ có tí tính toán. Bà vợ con địa chủ, chủ mấy cơ sở say lúa, xưởng gỗ, tháng tháng đóng hai thuế, vừa VC vừa Ngụy.
Giả như cô mồ côi, nghèo, chắc là Gấu lấy cô rồi, đá Gấu Cái văng ra ngoài đường rồi, cũng nên!
Chính cô cũng nói, ta chưa từng gặp 1 tên nào đạo đức [ngu ngốc, "cái gì gì", mi được hết rồi, còn muốn gì nữa, mà nếu mi muốn, ta cũng cho luôn, chắc thế!] như mi. Quen biết bao nhiêu năm rồi, đóng vai “bảo vệ” bướm, như trong truyền thuyết Tàu chôn của, chôn theo trinh nữ, chỉ dám “chiêm ngưỡng và kính trọng”, đến khi bướm có chủ, bèn đau quá, tính lao xe xuống sông Sài Gòn, nơi cầu Phan Thanh Giản. Vụ này, cũng đã báo cáo trên Tin Văn rồi, trong 1 bài viết, có chôm hai câu thơ của Du Tử Lê:

Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ cuối đường

Ui chao, Gấu có biết bao nhiêu là mối tình, mà chỉ có tiếng mà không có miếng.
Cũng nhờ Sài Gòn, và Xóm.
Ăn bánh trả tiền!
Độc nhất 1 lần không trả tiền, đành đem cả cuộc đời ra trả!

Đúng ra không hẳn như vậy. Gấu Cái đúng là người Gấu chọn. Chính Bả cũng còn không tin. Gấu cả 1 đời mồ côi, sống nhục, sống nhã, ăn chầu ăn
chực, ăn miếng ăn thừa, nhà bà con, ông bác, ông ngoại… ở nơi xứ Bắc Kít, vào Nam, khi kiếm được tiền, chỉ mong có được 1 người bạn đời cũng cơ cực, cũng nhục nhã như mình.....


Có những câu văn, thơ, được viết ra, không phải để được đọc liền tù tì, mà là để đợi một độc giả độc nhất, độc giả độc, độc giả xịn, độc giả tri âm tri kỷ của nó.
Tao chỉ đợi mày, tao còn sống đây, là vì mày...
Tao đây nè, đọc, đọc đi để tao hoàn tất cái đời của tao.
Hoàn tất theo nghĩa, trở thành bình thường như mọi câu văn câu thơ khác.
Cho đến một lúc nào đó, lại thức giấc và lại đợi.

Hai câu thơ trên của Du Tử Lê, là như thế đối với Hai Lúa.
Ghê gớm hơn nữa, nó liên quan đến một nơi chốn, của Sài Gòn.

Cũng cái cảm giác như thế, Hai Lúa nghe, lần đầu tiên trong đời, bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, tại trại cải tạo Duyên Hải, khi cuộc chiến kết thúc đã từ đời thưở nào, chẳng còn ai đi "lượm" xác chồng...
Bản nhạc vừa cất lên một cái là thằng Hai Lúa rùng mình, toát mồ hôi, chân tay bủn rủn, nó đây rồi, nó là của mình, không của ai khác, ông nhạc sĩ sáng tác ra cho riêng thằng Hai Lúa này. Mấy người khác chỉ nghe ké, thưởng thức ké, đau khổ ké....

Viết tới đây, bỗng Hai Lúa nhớ đến một ý của Benjamin. Ông này nói, có những cuốn sách nằm ngủ ở trong thư viện, để cho bụi đắp đầy mình, chờ có khi hàng ngàn năm, độc giả của nó khật khừ tới, và đánh thức nó dậy...

Have you ever seen the rain?

Lần đầu nghe câu hát này, Hai Lúa giật mình tự hỏi, tại sao lại có một lời ca lạ kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó, đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.

Câu hát trọn vẹn của nó đối với Hai Lúa là như vầy:
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi trên tóc, trên mặt, trên má em, bữa hai đứa mình đứng trú mưa, tại vỉa hè đường Lê Lợi, ngay trước rạp hát, kế bên Nhà Thương Đô Thành... (1).
Làm sao em nhìn thấy được!
Và bây giờ, sau bao nhiêu năm, làm sao em nhớ được!
Chỉ có một mình anh nhớ, cho cả anh và em.
Và cũng chẳng ai thèm nhìn, thèm để ý, trừ cái thằng ngố đứng sững như trời trồng, buổi sáng bữa đó.

Đâu có thua gì Barbara, của Prévert.
Cũng có một cuộc chiến chó đẻ, rình rập.
Cũng cố vội vàng, hạnh phúc.

Đoạn mới viết đó, là để trả lời cái mail của Du Tử Lê, khi Hai Lúa hỏi, trọn bài thơ trong có hai câu trên nó ra làm sao. Anh kiếm cả buổi, nhớ cả buổi, không làm sao kiếm được, nhớ ra được, thế rồi anh chậc chậc, mày đâu cần cả bài thơ? Cần làm quái gì?
Hai câu là đủ rồi, cha nội!

(1) Rạp Vĩnh Lợi, nhớ ra rồi. Còn Lê Lợi là rạp chiếu phim thường trực, ở sau chợ Sài Gòn, gần trường Văn Khoa cũ, nơi có lần Hai Lúa rủ em đi coi movie, hết ghế, chật cứng người, phải đứng coi ngay gần cửa, chưa đầy phút, em đã đi ra, nói, có một thằng khốn nạn đứng phía sau em.

Note: Bài viết này, là cũng là về cô bạn, lần ngắm mưa nơi phố Lê Lợi

http://www.tanvien.net/Notes_2/DTL_vs_GNV.htm

Hồi mới ra trường Bưu Điện, 1960 hay 61, Gấu làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện, số 11 Phan Đình Phùng.

Từ phía cổng cơ xuởng trông ra là con đường Phạm Đăng Hưng. Bên phải, building số 5, của đám Tây ở. Bưu Điện mướn tầng trên cùng, đặt mấy đài VTĐ. Quá nữa, là số 3, Đài phát thanh Sài Gòn. Ra trường Bưu Điện, Gấu làm việc tại Cơ Xuởng số 11. Hai năm sau, qua số 5 làm việc tại Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế. Đó là nơi viết Những ngày ở Sài Gòn, sau khi ăn hai trái claymore của VC tại nhà hàng Mỹ Cảnh.

[Biết rồi khổ lắm nói mãi].

Khi đó, chưa có trường Bưu Điện. Bọn Gấu phải học nhờ nơi trường Quốc Gia Thương Mại, ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng. Nhà thờ Phan Xi Cô cũng ngay đầu đường.
Phiá bên trái cổng cơ xuởng, là khu nhà của các ông lớn Bưu Điện, đa số là sếp, và thầy của Gấu. Phía bên kia đường, là con đường Phan Kế Bính, chạy song song với Phạm Đăng Hưng, cả hai đều đụng với đường Phan Đình Phùng, làm thành hai ngã ba. Cả hai đều là hai con dốc ngắn đổ xuống đường Phan Thanh Giản. Thư viện Văn Hoá Bình Dân nằm trên đường Phan Kế Bính, quán Làng Văn nằm trong khuôn viên thư viện.

Đó là nơi cô bạn tổ chức tiệc cuới, vào một đêm Gấu trực tại Đài, cũng gần đó, đang trực, kêu đệ tử coi Đài, xách xe Honda, đi dự, nửa chừng bỏ ra về, rồi xách xe Honda cứ thế chạy miết xuống tới tận cầu Sài Gòn.
Từ số 11, quẹo trái tới đường Đinh Tiên Hoàng, quẹo phải tới quán Con Ve Sầu, La Cigale, chủ Tây, vừa là nhà hàng ăn, vừa có sàn nhẩy, lâu lâu, Gấu có ghé, đôi khi, những lần trực đêm.

Khu này là giang sơn của Gấu, Gấu Đa Kao, thì cứ gọi vậy cho tiện.
Ui chao, chỉ đến khi ra được hải ngoại, một bữa tình cờ đọc hai câu thơ của DTL:

Em đi áo lụa mềm lưng phố,
Có động lòng thương kẻ cuối đường

Toàn cảnh trên đột nhiên sống lại, rõ mồn một.
Khủng khiếp đến nỗi, Gấu có cảm tưởng, hai câu thơ, là từ con dốc ngắn bò ra!


Mẩu văn sau đây, 1 cô Bắc Kít, lên net kiếm tài liệu về Camus, vớ được, bèn đem về FB, nhờ vậy Gấu được hân hạnh quen, không chỉ cô mà cả 1 băng, bạn của cô.

Cầm Dương Xanh

tolan

CHÙA SIKIEW Khu C

CHÙA SIKIEW Khu C
Kỷ Niệm TL

Kỷ niệm của em, không nhiều.

Một cuốn tập, mà em đã có lần đòi lại. Anh đã mượn cho một người học sau em, để theo kịp lớp học. Anh cố tình giữ lại cuốn tập, không hiểu tại sao.

Bây giờ anh mới hiểu: anh giữ nó, để nhớ lại tương lai, thay vì tưởng tượng ra nó. Anh biết trước, những giờ phút cô đơn nơi xứ người, và cuốn tập sẽ giúp anh tưởng tượng ra em. Anh tưởng tượng có em, khi nhìn những chữ viết. Những lỗi chính tả, văn phạm.... làm sao sửa được, như hạnh phúc mà chúng ta ăn cắp của cuộc đời, khi ngồi bên nhau.

Nhớ, hay tưởng tượng, đều chỉ là những từ để chỉ sự thiếu vắng, mất mát. Anh đâu còn có em ở kế bên, như những ngày nào ở trong Trại Cấm Sikiew, ở trại transit Panat Nikhom chờ gặp phái đoàn, chờ nhận, chờ ngày đi....

Bụi


 
Gấu, nhà văn 

*

@ Ottawa 16.5.2009

*

Ghi chú ở Trại tị nạn Thái Lan.

Hóa ra câu phán của Camus, Gấu đọc hồi mới lớn, tiếng Tẩy ăn đong, là ở trong “Énigme” [Bí ẩn]: Tớ lớn lên cùng với những người cùng tuổi, cùng tiếng trống Đệ Nhất Thế Chiến, và lịch sử của chúng tớ, từ đó, không ngừng chỉ là, sát nhân, bất công, hay bạo lực.

Vậy mà tìm hoài!

16.5: SN [chắc là dởm] Bác Hồ. Gấu tới Bangkok đúng ngày này, cc 1990. Khi điền lý lịch UNHCR, Gấu đẩy lui lên, hai hay ba ngày, cho khỏi xui, vì, những ngày như thế đó, VC biến đau thương thành hành động, dâng xác chết Mỹ Ngụy làm quà SN Bác!

Chắc là dởm, vì đó là ngày Sainteny tới Bắc Kít, tính hoà đàm. Hồ bèn phịa, SN tớ, để nhân dân kết hoa chào mừng!

Đại Gian Hùng!


  Gấu, nhà văn 

Nhiều khi tí tiểu sử trở thành bùa cứu mạng!

Trước 1975, Gấu có một cái hình, độc nhất, đóng vai nhà văn, một cái tiểu sử độc nhất, như sau đây. Không thể ngờ, chúng trở thành những lá bùa cứu khổ cứu nạn, khi đi thanh lọc, được nhà nước tạm dung xếp vào thành phần tị nạn chính trị, thay vì di dân kinh tế. Nhờ vậy mà sau đó, được phái đoàn Canada chấp nhận.

* *

Trích Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên tập, xb trước 1975.
Năm sinh của Gấu, trên ghi 1938, theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh 16.8.1937

Theo Gấu đoán, sau khi gieo quẻ mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG, là do nỗi buồn lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh chạy về xin đầu thú đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”, ‘chết trong tâm hồn’. Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát chết, những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó thù mấy thằng khốn nạn VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến tranh bằng cách đẩy thằng khác vô thế chỗ mình, mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một nỗi “chết trong tâm hồn” khác…
Thú thực Gấu chưa từng thấy một anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng chưa từng có một bài viết, bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái sự về châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm thế.

Gấu này đã từng về "bắt tay với VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được cảnh cáo, thời tiết không đẹp như ngày anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn tụi này, thành thử rét.
Nói rõ hơn, Gấu thù chủ nghĩa CS, chưa từng thù một ông VC nào, trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng tởm.
Gấu tởm chúng một, chúng tởm Gấu muời. Hẳn thế!



Viết

*

[from Blog NL]

Quyển tiểu thuyết sẽ viết trong quá khứ

25.10.1972
Đảo xa,

............................................................

Anh vẫn chưa viết một chữ nào. Cái máy chữ đặt trên chiếc bàn con ngay kế sau lưng bám bụi, cùng với cái cassette còn lắp cuốn băng Vivaldi nghe từ hôm bị đụng đầu. Hơn tháng không nghe nhạc, tại mải nghe những lóc cóc trong đầu mình, nghe những cơn gió lửa và tuyết thổi qua thân mình. Thật là tơi tả.
Anh chưa biết là quyển tiểu thuyết sẽ viết ở ngôi thứ mấy. Cũng chưa biết gọi nó là cái gì. Có hai cái tên có thể tạm dùng được thì bị hư rồi. "Ung thư" thì đã viết đăng tùm lum, đã đưa cho nxb An Tiêm lấy tiền tiêu mà vẫn chưa chịu cho in. Bây giờ mà đặt tên ấy nhất định là ông sư Thanh Tuệ sẽ đòi in và mình chẳng có đồng xu bản quyền nào nữa. Tên thứ hai là "Nỗi chết không rời" - hồi đi Thủ Đức trích đăng ở Bách Khoa đã dùng - sau bị ông Trần Phong Giao lấy xài ngang xương cho một tập truyện của 2 anh em ông Duy Lam mất. Bí ngay từ cái tên. Nhưng thôi cứ gác đó chưa vội gì.
Truyện anh định viết là một truyện tình. Truyện tình của hai kẻ không chỉ sống riêng với nhau trong một thế giới. Họ đều là những kẻ chịu chằng chịt những ràng buộc với xung quanh và mối tình chẳng bao giờ là của riêng họ. Họ sống với nhiều người, sống với hư tưởng bao trùm cả một đời. Và tình yêu sẽ như thế nào trong hoàn cảnh ấy? Anh đang chiêm nghiệm. Câu truyện tình của anh mang đầy những tham vọng. Nó sẽ cho người ta thấy những con người, một xã hội và một lịch sử nào đó. Tấn thảm kịch của hai người cũng là tấn thảm kịch của VN mấy chục năm trở lại đây. (1)

Flamme seule, je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester seule, sans rien dire;
Le second pour l'homme taciturne qui n'a qu'une solitude à offrir.

Trong một đêm anh đọc đoạn trên trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng diễn của Bachelard - philosophe già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô cùng. Anh có ý lấy đoạn này để cho Mắt Bão. Em thích không ? (1) 

Note: "Quảng diễn", không phải "quãng diễn". TTT viết lộn.
Mắt Bão, từ này của Gấu. Đã trình với ông anh, nhưng chắc là thấy thằng em lậm Cô Ba quá, viết gì nổi, ông anh bèn dùng luôn.
Em thíck không?
Không biết Em có thích không, nhưng Gấu thì không thích!
Hà, hà!
Bây giờ, Gấu mới đọc được Thư gửi Đảo Xa, và bèn được sống lại cả 1 quãng [dấu "ngã"] đời còn Sài Gòn.

Tks.
 

Hi vọng  ( Nguyễn Quốc Trụ)

Chúng ta chẳng bao giờ là của nhau  ( Nguyễn Quốc Trụ)


Những con dã tràng  ( Nguyễn Quốc Trụ)
&

Gấu đậu Tú đụp năm 1958, kỳ 2.
Rớt kỳ 1, trước khi lao vào học, bà cụ Chất cho cả ba đứa đi Nha Trang nghỉ mát.
Bốn đứa: Chất, Quốc, Gấu và Hải, con bà Cảnh, anh cô bé Khanh. Truyện ngắn đầu tay Những con dã tràng được thai nghén từ gió biển cát Nha Trang:
Villa trông ra biển....

Thơ Mỗi Ngày

https://www.poetryfoundation.org/poems-and-poets/poets/detail/delmore-schwartz

Delmore Schwartz
1913–1966

Delmore Schwartz had, writes Alfred Kazin, "a feeling for literary honor, for the highest standards, that one can only call noble—he loved the nobility of example presented by the greatest writers of our century, and he wanted in this sense to be noble himself, a light unto the less talented.... So he suffered, unceasingly, because he had often to disappoint himself—because the world turned steadily more irrational and incomprehensible—because the effort of his intellectual will, of his superb intellectual culture, was not always enough to sustain him.... He was the prisoner of his superb intellectual training, a victim of the logic he respected beyond anything else. He was of the generation that does not come easily to concepts of the absurd."

Mental illness haunted Schwartz for approximately twenty years. Marlene Nadle reported that it sent him "in and out of sanatoriums and into and out of the isolation of hotel rooms. It was an illness he accepted almost fatalistically." "Lost he was," said Kazin, "but he was not enough 'lost' in the demonic poet's tradition of losing himself to this world and finding himself in a richer world of private vision.... He was not a seer, not a visionary of 'the lost traveller's dream under the hill,' of the 'holy madness' that Yeats claimed to find in Ireland itself—the madness that Christopher Smart knew, and Holderlin, and Blake."

DELMORE SCHWARTZ

He heard God coughing in the next apartment,
his life a hospital, he moved from bed to bed
with us and Baudelaire, except he always had
Finnegans Wake tucked in his pajamas,
which must mean, sure as chance,
the human race is God's phlegm. Penitent,
I say a prayer in God's throat:
"Mister, whose larynx we congest,
spit us into the Atlantic or Hudson ...
let us be dropped into the mouth of the first fish
that survived by eating its young-
drink hot tea and honey Your mother brings You
till You are rid of Your catarrh, well again.
Let us swim back to our handiwork."

Far from the world of Howth Castle, Delmore died
in a bed-bugged hotel, unclaimed for three days.
A week before, by chance, I saw him
at a drugstore counter, doubled over a coffee,
he moaned, "Faithful are the wounds of a friend,
deceitful enemy kisses."
He held my hand too tight, too long .
Melancholy Eros flew to my shoulder,
spoke in Greek, Yiddish, and English:
"Wear his sandals, his dirty underwear,
his coat of many colors that did not keep him warm."
-Stanley Moss

NYRB October 13, 2016

DELMORE SCHWARTZ

Ông nghe Chúa ho ở phòng kế bên
Cuộc đời của ông ở bịnh viện,
Từ giường tới giường,
Với chúng tôi và Baudelaire, ngoại trừ,
Ông luôn có cuốn
Finnegans Wake cuộn trong quần ngủ
Nó phải có nghĩa - chắc như là cơ may –
Con người, là đờm, rãi của Chúa.
Ăn năn,
Tôi cầu nguyện, trong cổ họng của Người
:
“Thưa Người, chúng con làm thanh quản của Người tắc nghẽn
Xin khạc chúng con xuống Atlantic, hay Hudson…
Hãy để chúng con rớt vô miệng con cá thứ nhất
Sống sót nhờ ăn thịt lũ con của nó –
Uống trà nóng và mật ong Mẹ của Người mang đến cho Người
Cho tới khi Người hết viêm họng, OK trở lại.
Hãy để chúng con bơi trở lại với việc làm của chúng con"

Xa thế giới
Howth Castle, Delmore mất
Trên cái giường đầy bọ chét ở khách sạn
Ba ngày chẳng có ai nhận
xác
Một tuần lễ trước đó, tình cờ, tôi nhìn thấy ông
Ở quầy một tiệm thuốc,
Gập người trên ly cà phê,
Ông rên rỉ,
“Tận tụy là vết thương của tình bạn
Bịp bợm, cái hôn của kẻ thù”.
Ông cầm tay tôi thật chặt, thật lâu
Buồn bã, Eros thổi qua vai tôi,
Nói bằng tiếng Hy Lạp,
tiếngYiddish, tiếng Anh
“Hãy đi dép, mặc quần áo lót bửn của ông
ta,
Cái áo khoác nhiều mầu không làm ông
ta đủ ấm”

Delmore Schwartz có, Alfred Kazin viết, “cảm nghĩ về vinh danh văn chương, với những chuẩn mức cao nhất mà người ta chỉ có thể gọi là ‘phong nhã’ – 'tuồng phong nhã đã  bày ra đấy', ông mê cái phong nhã của những nhà văn lớn lao nhất của thế kỷ của chúng ta, và ông muốn ông, chính ông, cũng được phong nhã như thế, thứ ánh sáng 'đài gương' soi tới 'dấu bèo' là ông, 1 tài năng kém cỏi hơn…. Và thế là ông đau đớn, không ngừng đau đớn, bởi là vì ông thường xuyên không hài lòng về mình, bởi là vì thế giới cứ lầm lầm lũi lũi trở thành vô lý, không thể hiểu được, bởi vì cái ý chí tinh thần của ông, cái văn hóa thần sầu của ông, luôn luôn không đủ để cầm giữ ông… Ông là tù nhân của sự rèn luyện tinh thần, bảnh chọe của mình, một nạn nhân của 1 luận lý mà ông kính trọng hơn bất cứ cái gì khác. Ông thuộc thế hệ không dễ dàng chấp nhận những quan niệm về phi lý.”

Sách & Báo & Thời Sự Văn Học

* *

http://www.nybooks.com/articles/2000/03/09/eyes-wide-open/

Note: Bài viết này thật thú.
Ở trong nước đọc Calvino qua giả tưởng. Hình như chưa có ai giới thiệu một Calvino tiểu luận gia, nhà phê bình. Gấu tình cờ vớ số báo cũ, rồi để lạc mất, bữa nay mò ra được.
Post đoạn chót bài viết, thay cho câu trả lời Đài Sử, ông con trai thi sĩ của ông anh nhà thơ:

Tớ không nhớ tớ buồn ("Je ne me souviens pas d'être triste")

những dẫn nhập không số

- buồn chán là những lúc cảm thấy bất lực với chữ nghĩa. bất lực trong văn chương. có loại viagra cho sự bất lực này không ông?
- tại sao ông (phải) viết?
- những gì buộc ông phải ngồi xuống và bắt đầu?
- ông có lời khuyên nên viết gì.không nên viết gì cho đám nhỏ?
- là một nhà văn lưu vong nổi tiếng theo ông đó là niềm tự hào.kiêu hãnh hay ngược lại?
- cái mới hay cái lấp lánh sau cùng trong văn chương, ông chọn cái nào nếu không được chọn cả hai?
- thành phố nơi ông định cư hơn 20 năm. có bùi ngùi sài gòn hay man mác hà nội hay những cánh cửa (trong ông) đã khóa trái?

một chiều. một phố
chiều. vơi trên. phố
hàng xe. vội vã. bỏ
lại. những con đường
những cửa tiệm. bắt đầu đóng. cửa
tôi. một mình cuối. con phố
chuyến. xe bus thưa. khách
người ta. vội vã. quay lưng bỏ. lại im vắng
nắng rơi. rụng những hình. dáng phôi phai
mây bấp bênh. ngã vấp vào. những cao ốc
rong ruổ
i. đi đâu. thành phố lạ tiếng. nói
chiều. rơi vỡ toang ngày. cũ
xa mù. khơi. dậy ký ức
mong manh. tiếng cười đi. qua
đôi tình nhân thật. trẻ
ngu ngơ môi hôn. đẫm tay ghì
chiều rũ trên. những chiếc subway. rời bến
dừng lại tôi. quán xưa còn. ly nào
màu tần ngẩn. như đôi mắt
xoáy xoay. cuối trời. làm mưa
rơi đầy. những chơi vơi
nét người cũ. nhạt xa. vời
chiều. tan vào bóng. tôi
kéo. đêm chậm. về
hàng cây nào. tàn phai
lời cuối. đừng. đừng vội.
khi đèn. phố còn. thao thức
cảm nhận những. giọt nước
ướt. mềm trên da. thịt
gió về. vấn quanh hương. xưa
chiều. cạn trong ly. rượu
vị quá khứ. cay
đêm. một mình. vây kín
người đâu?

Đài Sử

Tks.
TT/NQT

(1)

Silence for Calvino is not merely the unspoken, it is what might have been spoken but wasn't, or it is what lurks beneath speech and gives it its secret, driven meaning. Similarly, the invisible is not merely the reverse of the visible, it is what haunts the visible like a threat, like an endless reminder of its limitations. Predictably enough, Calvino finds this structure of hints and elisions in Stendhal and Henry James; but he also finds it in Hemingway ("on one side ... the formal execution of the task, and on the other something unknown, nothingness") and Pavese ("Each one of Pavese's novels revolves around a hidden theme, something unsaid which is the real thing he wants to say") and even Tolstoy: "What counts in Tolstoy is what is not visible, not articulated, what could exist but does not."
    With this phrase we are close to Calvino's idea of memory as the link between what, we do and what we wanted to do. But Calvino's deepest dedication, I think, is to an intricate respect both for what happened and for what might have happened, whether we wanted it to or not, and whether we caused it or not. This is what the openness of Mercutio's eyes means. Calvino also quotes a sentence from Stendhal which expresses this respect perfectly, and it is a sign of the delicacy of the idea that neither of Calvino's translators gets it quite right.'
    Stendhal, Calvino says, "is so refractory to anguish" that even desperate conditions don't produce despair in him or in his characters. Fabrizio del Dongo, in The Charterhouse of Parma, has feared prison for most of his young life, and now finds himself locked up inside a tower, and yet isn't sad. Well, not just that: he doesn't remember to be sad. He says to himself, "Je ne me souviens pas d'être triste." McLaughlin renders this as "I have forgotten that I should be sad," and Creagh gives it as "I don't remember being sad." But there is no obligation to be sad here, and no question of remembering past occasions. Fabrice simply recognizes that the objective and subjective conditions for sadness exist, but he is too busy being happy to pay attention to them. Or rather, he pays attention to them now, but only obliquely. He remembers he's not remembering them. Will he continue to remember them, and be- come sad? Most people would, including, probably, Calvino. But Fabrice won't. He is Mercutio's twin, the one who knows how to close his eyes-until the next time he fails to remember. +


Một vị thân hữu, Dã Viên, cũng nhận ra điều này, khi viết, mừng cho GCC "mãi vui", vì....  kiếp trước mi đúng là con điả!

HAPPY 78TH BIRTHDAY.

Today at 6:01 PM

CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI .
CHÚC LUÔN NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ ỨC
CHÚC LUÔN QUÊN ĐỂ NHỮNG "THNM" MẤT DẤU BỚI HOÀI TRONG TRÍ VẪN KHÔNG RA
CHÚC LUÔN AN ĐỂ HƯỞNG HẠNH PHÚC BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU ĐANG HIỆN DIỆN

K

Đa tạ.

GCC


  *

hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn


và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn:  

Tuyệt!

Tks
NQT

Nhớ là Kundera có nhận xét, cái gì gì, "chúng ta có một đời để sống", nhảm. Một đời thì sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải qua. Luôn cả 1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời như thế, khủng nhất là cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực kỳ thê thương….

Ui chao, Vargas Llosa cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả 1 cuốn tiểu thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái Nhĩ Lan.

Each one of us is, successively, not one but many. And these successive personalities that emerge one from the other tend to present the strangest, most astonishing contrasts among themselves.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                               -Jose Enrique Rodó, Motives of Proteus
“The Dream of the Celt” is a moral tale. It is about the choice between denial or denunciation in the face of evil, and the fine line between activism and fanaticism. That makes an old story strikingly contemporary.

 “Giấc mơ của tên Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện đạo đức. Đó là về sự chọn lựa giữa nói “Không” với cái Cái Ác Bắc Kít – hay là ị vào mặt Bắc Bộ Phủ như 1 bà nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm – và sợi dây mỏng dính, đẹp tuyệt vời, như sợi sữa, trong 1 bức danh họa, (2) giữa hành động và cuồng tín.

Mỗi tên GCC trong chúng ta, là tiếp diễn của, không phải một, mà là nhiều tên GCC. Trong số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như thế đó, sẽ có 1 tên cực là khủng, chứa chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất, kinh ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.

Chắc là tên GCC làm trang Tin Văn?
Hay là tên chạy theo em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng Hòa, bên ngoài cổng trường Đại Học Khoa Học?
Hay là tên khóc thằng em trai, tử trận, khiến một em không làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!

(1)

Ui chao, đọc ba chớp ba nháng, as always, tưởng em không nỡ bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con khóc, khát sữa, đi lấy sữa cho con!

Đúng là nghèo mà ham!

Note: Lời chúc của K, CHÚC LUÔN NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ ỨC: Calvino's idea of memory as the link between what we do and what we wanted to do.

*

Chín Bó

Mystery and mastery

Obituary: William Trevor died on November 20th

The Irish novelist and short-story writer was 88


BETWEEN 1989 and 2009 only three journalists interviewed William Trevor at length. That was quite enough. He met them punctually, at Exeter station or in Dublin, his tall slim figure bulked out with a tweed coat and floppy tweed hat. In his half-thatched Devon farmhouse he would settle into cushions and ply his guest with sherry. In the craggy face, the eyes were kind. But they also queried, silently, why anyone should find him interesting.

The interviewers came because he had written 19 novels and novellas and 13 collections of short stories, and had three times won the Whitbread prize. In literary circles, which he avoided, his exquisitely crafted stories were mentioned in the same breath as Maupassant, Chekhov and Joyce. Had he cared about the critics, which he did not, he would have been flattered by the comparison: especially with Joyce, whose “Dubliners” had done much to set him on his path. As it was, he preferred to keep the conversation well away from himself.
It was other people he found interesting. He observed them with the unstinting curiosity of a man dropped in the world for the first time. That girl adjusting her hair in a shop window—for whom? That youth gobbling chips from a paper bag—where did he live? A farmer, seen from the car, taking string from his pocket—for what purpose? That couple on the table behind, arguing—were they married, or not? Thus he found his characters, and their encounters. To these he could add from his constant nibblings and gnawings of tiny details: a creaking iron bed, a Georgian decanter, mounds of autumn leaves, a plate of sardine-and-egg sandwiches, a window stuck with paint, one high-heeled shoe. Gradually the people formed, lodged in his head, acquired histories. He became acquainted with their schooling, their marriages, the day when they had done such and such a thing, their way of dreaming, their favourite drinks. Once there, they thronged round his writing desk and would not go away.
They were full of secrets, disappointments and shame, these characters: withheld from each other, but not from him. He knew why Ariadne, the beautiful daughter of a Dublin landlady, with hands “as delicate as the porcelain she attended to”, could never love Barney Prenderville, who loved her. He knew why Kitty and Davy, on honeymoon, visited the back-street chemist’s in Tramore, and that Kitty would never after all go through with it. He knew more than either Roy or Henrietta, a middle-aged couple, when Roy half-explained and Henrietta half-grasped his affair with a mousy student; the tears oozed from beneath Roy’s spectacles. And when the vampish Mrs Faraday, between cigarettes and cocktails, tried to chat up a fellow guest in the Albergo San Lorenzo (“Did you mind my wondering if you were married?”), he alone could anticipate the horror-twist that followed.
He did not analyse the mystery of these creations. Having invaded their lives as minutely as possible, he would dismiss them without a second thought or a second read. He had no ideas or philosophy to impart, he insisted. The people had come and gone, inexplicably. Their stories were sharp glimpses of a hidden truth, and he liked that; by contrast, a novel was a sprawling thing, full of byways and excrescences from which the exit was unclear.
Interviewers did their best to find more in his art than that. His own history surely explained a lot. The fact that he had been brought up Protestant in the Catholic south of Ireland, had gone to 11 schools and had been forced to leave Ireland for England to make a living, must have endowed him with an outsider’s soul and eye. He confessed, as Joyce had, that exile was beneficial. His England was a drably post-war foreign land. Ireland he evoked from his study in Devon, a canvas of whitewashed houses, lilting brogues, stout and soft rain that seemed ancient, rather than modern. Mentions of the Troubles were rare; he wrote with the same intensity, he admitted, about a housewife’s feelings as she put on lipstick. For him, politics and heroics faded beside the simple struggles of ordinary people to come to terms with fate.
The melancholy of his writing suggested a well of sadness in himself. It was not there. His marriage was long and happy and his life had been largely fun ever since, in 1964, “The Old Boys” had launched him as a writer. He wrote from minute observation but also from outside his experience, and thought it would be very dull to do otherwise. He was not what he wrote.
Where then, he was asked, did his mastery come from? What was the secret of it? His disposition was to say nothing. But he would willingly describe the practicalities of writing: swift longhand on blue paper, then an Olympia typewriter, for five hours or so each morning, starting early. As the pages accumulated, so he cut and cut, often determinedly with scissors. The unnecessary sentence, the extraneous word, the repeated description, were pared to the thin bone. Before becoming a writer he had been a woodcarver, chipping and chiselling away to create forms. He might not have managed in wood the delicacy of Grinling Gibbons’s lace and leaves, but he could do it in prose. His secret lay in what he left out—particularly that least penetrable or important thing, himself.
This article appeared in the Obituary section of the print edition under the headline Mystery and mastery

Vị này, cũng trong dòng Joyce. Cũng 1 thứ cư dân của Dublin, Gấu làm quen khi vừa mới ra được hải ngoại, qua tờ Partisan Review.
Y chang thời mới lớn, có tiền UPI, mua sách ào ào, cuốn nào thèm quá, cần quá, không có, thì order ở Xuân Thu.
Ra hải ngoại, học lấy cái bằng bán bảo hiểm nhân thọ 1 phát là bèn bỏ ngay ăn tiền trợ cấp xã hội,
đi làm, mua báo dài hạn, nào The New Yorker, NYRB, LBB, nhiều tờ gần như suốt mấy chục năm, nhờ ăn tiền bịnh.
Gấu không tin, có được 1 tên Mít nào “có được" cái thứ "hai lần hạnh phúc” như thế.
Có, chúng cũng chê: Thử hỏi “lũ chó hải ngoại”, có tên nào mua báo dài hạn, 20 năm,
thí dụ, tờ NYRB?

Ui chao, nhìn mấy tấm hình lũ ký giả, nhiếp ảnh viên, mũi lõ, tờ Viet Nam, dưới dây, toàn những tên Gấu biết, đã từng trò chuyện, có tên quá thân như Sawada, đa số chết cả rồi, mất tích, chết trận, bị xử bắn, như Sawada, bởi Khờ Me Đỏ, hay chết già...

Không làm UPI làm sao quen họ
?
Cái gì cũng có ông Trời tính cả. Gấu không học Bưu Điện, là hỏng cẳng tất cả!


*

Faas đã từng thoát, trong 1 xen như trên, qua lời ông Hưng, AP Man, kể. Đi cùng 1 tên Ngụy, lính truyền tin, đeo cái máy MK3 to tổ bố, nặng chình chịch, cố săn tấm hình 1 tên bộ độ Cụ Hồ, đội nón Bắc Kít, không phải nón tai bèo của lũ MTGP, để chứng tỏ có quân Bắc Việt tham chiến.
Chụp được rồi, nghe tiếng súng nổ, nhìn lại, thấy anh lính truyền tin gục, Faas sợ quá, cũng gục luôn!


a*

Toàn "bạn bè" của Gấu không à!
Tên nào, Gấu cũng đã từng gặp, đã từng trò chuyện....


Gấu Què Gánh Tội

Quoc Tru Nguyen's photo.

Quoc Tru Nguyen shared a memory.
1 min
1 Year Ago
See Your Memories

Người Què Gánh Tội

Trên thế giới, có, và luôn luôn có, 36 người què, còn được gọi là 36 vì công chính, mà sứ mệnh của họ, là, biện minh thế giới, trước Thượng Đ...

See More

  
*

THE MOON
The story goes that in those far-off times
when every sort of thing was taking place-
things real, imaginary, dubious things-
a man thought up a plan that would embrace

the universe entire in just one book.
Relentlessly spurred on by this vast notion,
he brought off the ambitious manuscript,
polishing the final verse with deep emotion.

All set to offer thanks to his good fortune,
he happened to look up and, none too soon,
beheld a glowing disk in the upper air,
the one thing he'd left out-the moon.

The story I have told, although made up,
could very well symbolize the plight
of those of us who cultivate the craft
of turning our lives into the words we write.

The essential thing is what we always miss.
From this law no one will be immune
nor will this account be an exception,
of my protracted dealings with the moon.

Where I saw it first I do not know,
whether in the other sky that, the Greeks tell,
preceded ours, or one fading afternoon
in the patio, above the fig-tree and the well.

As is well known, this changing life of ours
may incidentally seem ever so fair,
and so it was on evenings spent with her
when the moon was ours alone to share.

More than moons of the night, there come to mind
moons I have found in verse: the weirdly haunting
dragon moon that chills us in the ballad
and Quevedo's blood-stained moon, fully as daunting.

In the book he wrote full of all the wildest
wonders and atrocious jubilation,
John tells of a bloody scarlet moon.
There are other silver moons for consolation.

Pythagoras, an old tradition holds,
used to write his verse in blood on a mirror.
Men looked to its reflection in the moon's
hoping thus to make his meaning clearer.

In a certain ironclad wood is said to dwell
a giant wolf whose fate will be to slay
the moon, once he has knocked it from the sky
in the red dawning of the final day.

(This is well known throughout the prophetic North
as also that on that day, as all hope fails,
the seas of all the world will be infested
by a ship built solely out of dead men's nails.)

When in Geneva or Zurich the fates decreed
that I should be a poet, one of the few,
I set myself a secret obligation
to define the moon, as would-be poets do.

Working away with studious resolve,
I ran through my modest variations,
terrified that my moonstruck friend Lugones
would leave no sand or amber for my creations.

The moons that shed their silver on my lines
were moons of ivory, smokiness, or snow.
Needless to say, no typesetter ever saw
the faintest trace of their transcendent glow.

I was convinced that like the red-hot Adam
of Paradise, the poet alone may claim
to bestow on everything within his reach
its uniquely fitting, never-yet-heard-of name.

Ariosto holds that in the fickle moon
dwell dreams that slither through our fingers here,
all time that's lost, all things that might have been
or might not have-no difference, it would appear.

Apollodorus let me glimpse the threefold shape
Diana's magic shadow may assume.
Hugo gave me that reaper's golden sickle
and an Irishman his pitch-black tragic moon.

And as I dug down deep into that mine
of mythic moons, my still unquiet eye
happened to catch, shining around the corner,
the familiar nightly moon of our own sky.

To evoke our satellite there spring to mind
all those lunar cliches like croon and June.
The trick, however, is mastering the use
of a single modest word: that word is moon.

My daring fails. How can I continue- .
to thrust vain images in that pure face?
The moon, both unknowable and familiar,
disdains my claims to literary grace.

The moon I know or the letters of its name
were created as a puzzle or a pun
for the human need to underscore in writing
our untold strangenesses, many or one.

Include it then with symbols that fate or chance
bestow on humankind against the day-
sublimely glorious or plain agonic-
when at last we write its name the one true way.
-A.S.T.

J.L. Borges

Note: Lục báo cũ, tình cờ vớ được bài của Michael Wood, "The Unreachable Real", điểm The Sonnets & Poems of the Night, LBR, 8 July, 2010, trong có kể 1 giai thoại về Borges.
Sắp đi xa, 1 trong những bạn bè quanh "giuờng chết", nhắc tới 1 tác phẩm của Borges, nhưng nhớ lộn tên, "The Golden Coin", thay vì "The Iron Coin".
Thấy bạn mình áy náy, Borges an ủi, bạn làm điều thuật
giả kim không thể làm được. (1)

Bài điểm này cũng thật thú.

(1)

WHEN JORGE LUIS BORGES was dying in Geneva in 1986, a friend committed an elegant Freudian act of homage. He mentioned Borges's book of poems The Golden Coin and was instantly corrected: The Iron Coin. The friend was embarrassed but Borges reassured him: 'Don't worry. You did what alchemy was unable to do.' The remark perfectly catches Borges's quickness, grace, learning and love of precision. It has a touch of self- deprecation too. It wasn't as if he didn't like the word 'gold' - a 1972 volume of verse is called The Gold of the Tigers- or as if he hadn't tried plenty of verbal alchemy of his own. But a long attempt is quite different from an instantaneous, unintentional success.

    Jorge Luis Borges

    Break of Day

    In the deep night of the universe
    scarcely contradicted by the streetlamps
    a lost gust of wind
    has offended the taciturn streets
    like the trembling premonition
    of the horrible dawn that prowls
    the ruined suburbs of the world.
    Curious about the shadows
    and daunted by the threat of dawn,
    I recalled the dreadful conjecture
    of Schopenhauer and Berkeley
    which declares that the world
    is a mental activity,
    a dream of souls,
    without foundation, purpose, weight or shape.
    And since ideas
    are not eternal like marble
    but immortal like a forest or a river,
    the preceding doctrine
    assumed another form as the sun rose,
    and in the superstition of that hour
    when light like a climbing vine
    begins to implicate the shadowed walls,
    my reason gave way
    and sketched the following fancy:
    If things are void of substance
    and if this teeming Buenos Aires
    is no more than a dream
    made up by souls in a common act of magic,
    there is an instant
    when its existence is gravely endangered
    and that is the shuddering instant of daybreak,
    when those who are dreaming the world are few
    and only the ones who have been up all night retain,
    ashen and barely outlined,
    the image of the streets
    that later others will define.
    The hour when the tenacious dream of life
    runs the risk of being smashed to pieces,
    the hour when it would be easy for God
    to level His whole handiwork!

    But again the world has been spared.
    Light roams the streets inventing dirty colors
    and with a certain remorse
    for my complicity in the day's rebirth
    I ask my house to exist,
    amazed and icy in the white light,
    as one bird halts the silence
    and the spent night
    stays on in the eyes of the blind.
http://www.ronnowpoetry.com/contents/borges/BreakofDay.html 
 
The Iron Coin

Before us is the iron coin. Now let us ask;
The two opposing faces what the answer will be
To the intractable demand no one has made:
Why does a man require a woman to desire him?
Let us look. In the higher orb are interwoven
The firmament's four strata that uphold the flood
And the unalterable planetary stars.
Adam, the youthful father, and young Paradise.
The afternoon and morning. God in every creature.
In that pure labyrinth you'll find your own reflection.
Once again let us discard the iron coin,
Which is a magic mirror also. Its reverse
Is no one, nothing, shadow, blindness. You are that.
The pair of iron faces fashions a single echo.
Your hands and tongue are unreliable witnesses.
God is the unapproachable center of the ring.
He does more than exalt or sentence: he forgets.
Slandered with infamy, why shouldn't they desire you?
Within the other's shadow, we pursue our shadow.
Within the other's mirror, our reciprocal mirror.
-E.M

Note: Gấu cũng lầm, bài thơ trên
, với bài sau đây, cũng của Borges, và đã được dịch.
Sorry, và xin post thêm bản dịch tiếng Tẩy, để tạ lỗi, trong khi chờ bản tiếng Mít



To a Coin

Cold and stormy the night I sailed from Montevideo.
As we rounded the Cerro,
I threw from the upper deck
a coin that glinted and winked out in the muddy water,
a gleam of light swallowed by time and darkness.
I felt I had committed an irrevocable act,
adding to the history of the planet
two endless series, parallel, possibly infinite:
my own destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of that metal disk
carried away by the water to the quiet depths
or to far-off seas that still wear down
the leavings of Saxon and Viking.
Any moment of mine, asleep or wakeful,
matches a moment of the sightless coin's.
At times I have felt remorse,
at others, envy
of you, existing, as we do, in time and its labyrinth,
but without knowing it.
-A.R.

J.L. Borges

Gửi Đồng Xu

Lạnh và bão là cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi thuyền chúng tôi lượn vòng Cerro
Từ trên boong thuyền cao
Tôi thẩy 1 đồng xu xuống dòng nước bùn.
Lấp lánh, thoáng chốc,
Như một điểm sáng được thời gian và đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm thấy mình phạm 1 hành động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào lịch sử của hành tinh
Hai chuỗi dài song song, chắc là vô tận:
Số phận của riêng tôi, được dệt bằng những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những bực bội cà chớn, vô ích
Và của đồng xu, một cái dĩa kim khí
Được dòng nước cuốn tới những vùng sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là tới những những vùng biển xa vời vợi
Cho tới bây giờ vẫn còn loay loay với
Những gì còn lại của những sắc dân Saxon và Viking.
Bất cứ một khoảnh khắc của tôi, ngủ gà ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều xứng hợp với một khoảnh khắc của đồng xu đã mất dạng
Có những lúc tôi cảm thấy hối hận tràn trề
Như là cái lần tính bước xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ
Và những lúc khác, thì lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad Seagull
Đang hiện hữu, như đôi ta đang hiện hữu, trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng không biết điều này.

*
A UNE MONNAIE

Froide et orageuse, la nuit où mon bateau quitta Montevideo.
Au moment de dépasser le Cerro, (1)
je jetai du haut du pont supérieur
une monnaie qui brilla et qui se noya dans les eaux
    boueuses,
objet de lumière que le temps et l'ombre ravirent.
J'eus l'impression d'avoir commis un acte irrévocable,
d'ajouter à l'histoire de la planète
deux séries incessantes, parallèles, peut-être infinies :
mon destin, fait de trouble, d'amour et de vaines vicissitudes,
et celui de ce disque de métal
que les eaux allaient livrer au mol abime
ou aux mers reculées qui rongent encore
les dépouilles du Saxon et du Viking.
A chaque instant de mon sommeil ou de ma veille
correspond un autre instant de l'aveugle monnaie.
Tu m'as quelquefois fait éprouver du remords
et d'autres fois de l'envie,
toi qui es, comme nous, dans le temps et dans son labyrinthe
et qui ne le sais pas. 

1. La Colline, presque par antonomase en ce pays plat.


Nobel văn chương 2016
Thơ Mỗi Ngày

CORONA

Autumn is eating a leaf from my hand: we are friends.
We are picking time out of a nut, we teach it to run:
and time rushes back to its shell.

In the mirror it's Sunday,
in dreams people sleep,
the mouth tells the truth.

My eye descends to the sex of my loved one,
we gaze at each other,
we whisper out darkness,
we love one another like poppies and memory,
we sleep like wine in a seashell,
like the sea in the moon's bloody rays.

Embracing we stand by the window, and people look up from
    the street:
it is time that they knew!
It is time that the stone grew accustomed to blooming,
that unrest formed a heart.
It is time it was time.

It is time.
JR

Paul Celan


*

ENCOUNTERS WITH PAUL CELAN

E. M. CIORAN

Précis de decomposition, my first book written in French, was published in I949 by Gallimard. Five works of mine had been published in Romanian. In 1937, I arrived in Paris on a scholarship from the Bucharest Institut francais, and I have never left. It was only in I947, though, that I thought of giving up my native language. It was a sudden decision. Switching languages at the age of thirty-seven is not an easy undertaking. In truth, it is a martyrdom, but a fruitful martyrdom, an adventure that lends meaning to being (for which it has great need!). I recommend to anyone going through a major depression to take on the conquest of a foreign idiom, to reenergize himself, altogether to renew himself, through the Word. Without my drive to conquer French, I might have committed suicide. A language is a continent, a universe, and the one who makes it his is a conquistador. But let us get to the subject. ...
The German translation of the Précis proved difficult. Rowohlt, the publisher, had engaged an unqualified woman, with disastrous resuits. Someone else had to be found. A Romanian writer, Virgil Ierunca, who, after the war, had edited a literary journal in Romania, in which Celan's first poems were published, warmly recommended him. Celan, whom I knew only by name, lived in the Latin quarter, as did 1. Accepting my offer, Celan set to work and managed it with stunning speed. I saw him often, and it was his wish that I read closely along, chapter by chapter, as he progressed, offering possible suggestions. The vertiginous problems involved in translation were at that time foreign to me, and I was far from assessing the breadth of it. Even the idea that one might have a committed interest in it seemed rather extravagant to me. I was to experience a complete reversal, and, years later, would come to regard translation as an exceptional undertaking, as an accomplishment almost equal to that of the work of creation. I am sure, now, that the only one to understand a book thoroughly is someone who has gone to the trouble of translating it. As a general rule, a good translator sees more clearly than the author, who, to the extent that he is in the grips of his work, cannot know its secrets, thus its weaknesses and its limits. Perhaps Celan, for whom words were life and death, would have shared this position on the art of translation.
In 1978, when Klett was reprinting Lehre vom Zerfall (the German Précis), I was asked to correct any errors that might exist. I was unable to do it myself, and refused to engage anyone else. One does not correct Celan. A few months before he died, he said to me that he would like to review the complete text. Undoubtedly, he would have made numerous revisions, since, we must remember, the translation of the Précis dates back to the beginning of his career as a translator. It is really a wonder that a noninitiate in philosophy dealt so extraordinarily well with the problems inherent in an excessive, even provocative, use of paradox that characterizes my book.
Relations with this deeply torn being were not simple. He clung to his biases against one person or another, he sustained his mistrust, all the more so because of his pathological fear of being hurt, and everything hurt him. The slightest indelicacy, even unintentional, affected him irrevocably. Watchful, defensive against what might happen, he expected the same attention from others, and abhorred the easygoing attitude so prevalent among the Parisians, writers or not. One day, I ran into him in the street. He was in a rage, in a state nearing despair, because X, whom he had invited to have dinner with him, had not bothered to come. Take it easy, I said to him, X is like that, he is known for his don't-give-a-damn attitude. The only mistake was expecting him. Celan, at that time, was living very simply and having no luck at all finding a decent job. You can hardly picture him in an office. Because of his morbidly sensitive nature, he nearly lost his one opportunity.
The very day that I was going to his home to lunch with him, I found out that there was a position open for a German instructor at the Ecole normale supérieure, and that the appointment of a teacher would be imminent. I tried to persuade Celan that it was of the utmost importance for him to appeal vigorously to the German specialist in whose hands the matter resided. He answered that he would not do anything about it, that the professor in question gave him the cold shoulder, and that he would for no price leave himself open to rejection, which, according to him, was certain. Insistence seemed useless.
Returning home, it occurred to me to send him by pneumatique, a message in which I pointed out to him the folly of allowing such an opportunity to slip away. Finally he called the professor, and the matter was settled in a few minutes. "I was wrong about him," he told me later. I won't go so far as to propose that he saw a potential enemy in every man; however, what was certain was that he lived in fear of disappointment or outright betrayal. His inability to be detached or cynical made his life a nightmare. I will never forget the evening I spent with him when the widow of a poet had, out of literary jealousy, launched an unspeakably vile campaign against him in France and Germany, accusing him of having plagiarized her husband. "There isn't anyone in the world more miserable than I am," Celan kept saying. Pride doesn't soothe fury, even less despair.
Something within him must have been broken very early on, even before the misfortunes which crashed down upon his people and himself. I recall a summer afternoon spent at his wife's lovely country place, about forty miles from Paris. It was a magnificent day.
Everything invoked relaxation, bliss, illusion. Celan, in a lounge chair, tried unsuccessfully to be lighthearted. He seemed awkward, as if he didn't belong, as though that brilliance was not for him. What can I be looking for here? he must have been thinking. And, in fact, what was he seeking in the innocence of that garden, this man who was guilty of being unhappy, and condemned not to find his place anywhere? It would be wrong to say that I felt truly ill at ease; nevertheless, the fact was that everything about my host, including his smile, was tinged with a pained charm, and something like a sense of nonfuture.
Is it a privilege or a curse to be marked by misfortune? Both at once. This double face defines tragedy. So Celan was a figure, a tragic being. And for that he is for us somewhat more than a poet .

E. M. Cioran, "Encounters with Paul Celan," in Translating Tradition: Paul Celan in France, edited by Benjamin Hollander (San Francisco: ACTS 8/9,1988): 151-52.

Is it a privilege or a curse to be marked by misfortune? Both at once. This double face defines tragedy. So Celan was a figure, a tragic being. And for that he is for us somewhat more than a poet .

Đặc quyền, hay trù ẻo, khi nhận "ân sủng" của sự bất hạnh?
Liền tù tì cả hai!
Cái bộ mặt kép đó định nghĩa thế nào là bi kịch.
Và như thế, Celan là 1 hình tượng, một con người bi thương.
Và như thế, ông bảnh hơn nhiều, chứ không "chỉ là 1 nhà thơ"!

Cô độc như Celan 

"Celan est malade – Il est incurable"
(Celan bịnh. Vô phương cứu chữa).
Heidegger 

"Trong cuốn sách căn lều,
Nhìn ngôi sao con suối,
Và ở nơi trái tim,
Hy vọng
Một lời sẽ tới"

(Dans le livre de la hutte,
avec un regard sur l’étoile de la fontaine,
avec, au coeur,
l’espoir d’une parole à venir)

Celan. 

Celan, Linda Lê, René Char… là những tác giả ruột của Thầy Đạo, và, bây giờ, thêm NL.
Mới thấy viết về Celan
NL thì Gấu chưa biết, lý do nào anh cảm thơ Celan, nhưng riêng Thầy Đạo, Gấu thực sự không tin Thầy đọc nổi Celan, hay Linda Lê.
Tại sao? Thì đọc những gì mà Cioran, hay Derrida, hay Coetzee viết về họ, là hiểu.
Văn chương của họ là thứ mấp mé bờ điên loạn, tự tử, hoặc sống sót Lò Thiêu, hoặc mang trong họ xác chết, làm sao đọc, với 1 kẻ bình thường như Gấu, hoặc Thầy Đạo, hà, hà!
Thầy Đạo dịch Linda Lê, đăng trên talawas, bị 1 vị độc giả của trang này chê dài dài.
Còn Gấu, thì chẳng đã thú nhận không đọc được văn Linda Lê, với Blog NL và độc giả của blog này, nhưng lại rất ư là mê tiểu luận của Bà.
Tiếc mấy bài viết trong mục "Trở về với những tác giả cổ
điển", của bà, mất hết, do Cô Út làm từ thiện, chủ yếu, để cho Bố không còn cặm cụi với cái máy PC.
Già rồi, chơi với cháu đủ vui rồi, tại làm sao mà lại tự làm khổ mình như thế!

Và trên hết, bạn không đủ “căn” thì đừng đọc họ!
Tại sao mà lại làm khổ mình như thế!

Bịp chứ tại làm sao nữa. Gấu, không đọc được ai là phán liền tù tì.
Không bịp mình, bịp thiên hạ!
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/11/tho-paul-celan.html

Vì đọc thơ, vấn đề không phải là hiểu. Thơ không phải là để hiểu. Cũng không phải để "cảm", như một trường phái dạy dỗ ngày nay hay rao giảng (đọc thơ không phải là để được hưởng một cơn động kinh). Đọc thơ, trước hết, là nhìn. Có nhìn thấy, thì tức là có đọc được.

Căng, nhể!
NQT


Chín Bó

*

Làm thế nào để cho cuộc cách mạng sống dai hơn so với cái mạng của mình:
Trận đánh sau cùng của nhà độc tài Fidel Castro
[Người Nữu Ước, July 31, 2006]

Hoá ra với ông thần này, cũng có cả một núi chuyện tiếu lâm. Trước đây, là về sự bất tử.
Một lần, ông được Bác Hồ biếu, một Cụ Rùa ở Hồ Gươm.
Đệ tử ghé tai thì thầm, tuổi thọ của rùa, cao lắm chừng vài trăm năm.
Ông bèn lắc đầu nói:
-Nhận, đến lúc nó đi, là mình buồn lắm, vì lỡ quấn quít với nó rồi!
Bây giờ, Người đi, ừ nhỉ, Người đi thực!
Xác Người bầy ra, đệ tử sắp hàng viếng thăm.
Đầu tiên là Ngài Bộ Trưởng Ngoại Giao. Ngài cúi đầu hơi bị lâu, ông đứng kế chờ hoài, khều nhẹ:
-Mi làm chi kỳ rứa? Hắn chết rồi mà?
-Thì tao biết rồi, nhưng làm sao biểu cho hắn ta biết? 

Tám Bó

To think, when one is no
longer young, when one is not yet
old, that one is no longer young,
that one is not yet old, that is
perhaps something.

[Nghĩ, khi kẻ đó không còn trẻ nữa
Chưa già khằ
n, dù tám bó
Có lẽ cũng thú vị đấy]


- SAMUEL BECKETT

Thoughts are the shadows
of our feelings - always
darker, emptier, and simpler.

[Tư tưởng là những cái bóng
Của những cảm nghĩ của chúng ta -
Tối hơn, trống hơn, giản hơn
]

- FRIEDRICH NIETZSCHE


Today at 8:41 AM

gửi chú,
chúc cô chú một mùa giáng sinh nhiều sức khỏe.
kính.

những dẫn nhập không số

tháng 12. những bước cuối. còn nhận ra được mình trong bước thời gian luân chuyển. cái đưa tình của những bóng đèn con màu nhấp nháy. những khấp khởi những mong chờ hiện trên từng khuôn mặt như một điều tất nhiên.
tháng 12. của doàn tụ. của sum vầy bên một lò sưởi ấm. sao chơ vơ. sao lặng lẽ. chốn lạ và gió buốt.
cây thông xanh ngồn ngộn những quà. và ông già noel. trong những khu mua bán
điều làm tôi ấn tượng nhất. về những ngày này. là những bản nhạc về mùa giáng sinh. những bản nhạc lâu đời có. mới có. thật classic. thật riêng. chỉ để cho giáng sinh. chúng làm cho tâm hồn rung lên ở một bậc khác. khi lại được nghe vào đúng những dịp này.
-“cùng nhau quỳ xuống chân Chúa cao sang…” quỳ. một thái độ tôn kính phục tùng. với cái “ảo”. như chữ nghĩa. khi biết tôn kính phục tùng chữ nghĩa. khi quá coi trọng chữ nghĩa thì đới sống trở thành “ảo”. hình như ông đã sống kiểu này. lẫn lộn giữa “thực” và “ảo”. có phải?
-lang thang cùng khắp trong những trại tỵ nạn. có một lần không chủ ý. tôi đã đi vào một nhà nguyện trong trại tỵ nạn. nhà nguyện này do những người tỵ nạn xây lên bằng chính đôi tay của họ. để có thể cùng nhau cầu nguyện đọc kinh. và tôi một người ngoại đạo. đã quỳ xuống nguyện cầu trong vô thức.
có bao giờ ông “quỳ” xuống để xin một điều gì cho chính mình hay cho một ai đó?
-“ta tiếc cho em.. ta xót xa.. em là một cánh hoa rơi.. người đời vô tình dày xéo lên em..” chắc ông có tiếc, tiếc cho những bóng hồng ngày xưa. tiếc cho người. tiếc cho mình. nhưng có bao giờ ông tiếc, ông tiếc cho người bạn đường cạnh ông? mở ngoặc ở đây. câu này là tôi nịnh bà. để ông có thể tiếp tục trả lời những câu hỏi của tôi. 
-sài gòn. quán cốc lề đường. những cây đàn thùng. những cái muỗng. gõ nhịp bolero. nhạc sến. với giọng ca chế linh. duy khánh. thanh tuyền. chảy nhựa mềm hoặc. tôi đã không chịu được loại nhạc này khi còn trong nước. phải đến khi trơ trọi.  trong trại cấm tỵ nạn. những đêm trằn trọc. cùng những hình ảnh trên biển chập chùng. những tiếng kêu bị nhốt lại vĩnh viễn trong lòng biển. thì những bài với điệu bolero đó. cùng giọng hát của họ. như một liều thuốc hữu hiệu giữ lại tôi. tôi đã nức nở. vùi vào gối. mặc cho nước mắt rơi theo từng lời hát. những phản ứng cần chất xúc tác mới có thể xảy ra.
đọc một bài để viết một bài khác. đọc một cuốn sách để viết một cuốn sách khác. nghe một bản nhạc như chỉ để cho chính mình. ngoài những nức nở phía trong. thì ông làm gì với nó?


giã từ

lời. biền biệt. đá
ngày trở mặt. rát bỏng. nắng
tiếng. trắc trở của. hàng cây
thở. hơi ám. sương đêm
chút hoàng hôn. giã từ. ngày
sóng. xô thời gian. sũng ướt


 
nhuộm. tình

xuống phố. chiều bóng. ngất
đặc. âm đổ. màu cuối. cùng
ngày. rụng đầy lá. nắng
chuông. đổ từng hồi. khấp khởi
nhuộm. cuộc tình màu. đêm  

Đài Sử

Tks
Take Care
TT/NQT

-sài gòn. quán cốc lề đường. những cây đàn thùng. những cái muỗng. gõ nhịp bolero. nhạc sến. với giọng ca chế linh. duy khánh. thanh tuyền. chảy nhựa mềm hoặc. tôi đã không chịu được loại nhạc này khi còn trong nước. phải đến khi trơ trọi.  trong trại cấm tỵ nạn. những đêm trằn trọc. cùng những hình ảnh trên biển chập chùng. những tiếng kêu bị nhốt lại vĩnh viễn trong lòng biển. thì những bài với điệu bolero đó. cùng giọng hát của họ. như một liều thuốc hữu hiệu giữ lại tôi. tôi đã nức nở. vùi vào gối. mặc cho nước mắt rơi theo từng lời hát. những phản ứng cần chất xúc tác mới có thể xảy ra.
đọc một bài để viết một bài khác. đọc một cuốn sách để viết một cuốn sách khác. nghe một bản nhạc như chỉ để cho chính mình. ngoài những nức nở phía trong. thì ông làm gì với nó?
nhuộm. cuộc tình màu. đêm  

Đài Sử

Đọc, thì bèn nhớ tới 1 chương trong cuốn của Volkov, Trò chuyện với Brodsky. Chương sách có cái tít thật là tuyệt vời, và lạ làm sao, nếu bạn nhìn ra bước đi của thời gian, của lịch sử, của Mít & Nga:
Cả hai có, 1 St. Petersburg, trước Liên Xô và 1 Saigon, trước 1975.

St. Petersburg, Memories of the Future. 
St. Petersburg: Hồi Ức của Tương Lai

Brodsky phán, cả lũ chúng ta đều chiếu rọi chúng ta về một Petersburg cổ. Mọi thời kỳ, mọi văn hóa, có cho riêng nó một ấn bản của quá khứ.

Theo cái kiểu mà 1 cô Bắc, sau 30 Tháng Tư, vào Saigòn, suýt soa, và bị 1 em miệt vườn bĩu môi, Sài Gòn đâu phải của cô?

Chương này cực tuyệt, hà, hà!

Brodsky. We all projected ourselves onto the old Petersburg. Every period, every culture, has its own version of the past. There is an eighteenth-century German ancient Greece. There's an English ancient Greece. There's a French ancient Greece. Worst of all, there's a Greek ancient Greece, and so forth. Inside each of these major strata, though, there is also a breakdown by generation, and for every successive generation the view of the past culture changes and, naturally, becomes more and more diffuse. What is interesting for me in all this is what specifically each generation chooses to place under the magnifying or diminishing glass. That is, what it picks out in the culture of the past and what it ignores. And it is just this mechanism of cultural survival through a given generation that interests me: what specifically endures, and what perishes.
Volkov. You believe that it is we who animate the stones, and not vice versa.
Brodsky. Whether it's the stones or not, explain it however you like, but in Petersburg there is this enigma, and it truly does influence your soul, shapes it. A person who grew up there or at least spent his youth there, it's hard to mix him up with other people, or so it seems to me. That is, for starters, it's hard to confuse us, say, with Muscovites, if only because we speak Russian differently.
Volkov. If I'm not mistaken, Blok was the first great Russian poet to be born in Petersburg. For us, Pushkin is so closely linked to Petersburg that we forget he was born in Moscow. Dostoevsky was born in Moscow, too. They went to Petersburg to study. Or take another example, from the Soviet era. For me, the poets of the Oberiu group were true Petersburgers, and indeed, Kharms and Vvedensky were born in Petersburg, but Zabolot- sky, for example, was born outside Kazan and grew up in Vyatka and Urzhum. Oleinikov is really a Cossack from somewhere in the Kuban. But the poems they both wrote were thoroughly Petersburgian.

*

"And this time you're going to Stockholm."
Và lần này, là Stockholm

PRIMO LEVI
THE SURVIVOR'S SUICIDE
by James Atlas
JANUARY 1988

In the spring of 1987, Primo Levi's literary reputation had never been higher. All over the world, translators were preparing his work for publication. There were even rumors that he might win a Nobel. "You'd better get ready to travel again," Levi's publisher teased him over the phone on Friday, April 10. "And this time you're going to Stockholm." Around ten o'clock the next morning, Iolanda Gasperi, the concierge of Levi's building, at 75 Corso Re Umberto in Turin, rang the bell of his fourth-floor flat and handed him the mail. "Dr. Levi had a tired look," she recalled, "but that was nothing unusual. He was gentle. He took the mail, a few newspapers and some advertising brochures, and greeted me cordially." A few minutes later, she heard a loud thud in the stairwell and rushed out of her lodge. ''A poor man was lying crushed on the floor. The blood hid his face. I looked at him and-my God, that man!-I recognized him right away. It was Dr. Levi." Lucia Morpurgo, Levi's wife of forty years, had been out shopping. Her arms were full of groceries as she pushed open the glass door. The concierge tried to hold her back, but she flung herself down beside her husband and tried to lift his head. Their son, Renzo, had also heard the commotion and hurried down the wide staircase. They were joined by Francesco Quaglia, a dentist who had known Levi since high school and had an office in the building. Levi's wife embraced him. "Era demoralizato," she said tearfully. "He was demoralized. You knew it, too, didn't you?"

She is happy, for she knows
That her dust is very pretty.


Văn tế nhà văn Nguyễn Quốc Trụ
Em năn nỉ để em đi trước ,
để được anh lo lắng chăm sóc một lần.
Lần đầu mà cũng là lần cuối.
Vậy mà anh vẫn từ chối.
Vậy mà anh vẫn muốn chiếm thượng phong,
Anh nằm xuống,
mặc cho nhà quàn vẽ rắn vẽ rồng,
má đỏ môi hồng
cà vạt veston,
giày tây bóng láng như đồng,
những thứ mà trên đời anh chúa ghét
Quan tài thì phủ đầy hoa,
Hoa hồng hoa đỏ hoa xanh, và
Con cháu anh- Đứa khóc ông- đứa khóc cha!
Còn em, làm văn tế khóc chồng.
Ối ! Trụ ơí!   Bốn mươi năm chung sống.
Hai mươi năm lưu lạc xứ người,
Em đi làm- anh ở nhà viết văn đọc sách.
Ra đường – em lái xe- anh lười seatbelt-
Nên ngồi băng sau làm ông chủ,
Còn hai mươi năm kia..
hết mười năm anh ở trong tù,
em nuôi mẹ nuôi con,
mười năm đầu từ khi cưới nhau
cô phù dâu theo anh về trong giấc chiêm bao !!
Em đi dạy học- anh làm công chức,
Sáng anh ngồi quán Cái Chùa.
Cà phê sữa croissant
Trưa lang thang đại lộ Hàm Nghi - Cầu Calmette
Tối thì Văn Cảnh- Đêm Mầu Hồng.
Không ai kèn cựa với người đã chết.
Mà em muốn nhắc để cám ơn anh.
Đã rèn luyện em trong cay đắng của đời.
Và đã thương yêu em như một Bà Trời.
“Em ơi anh không biết làm thơ tình,
Nên đành mượn hai câu thơ của Bùi Giáng để tặng em
Anh thương em như một Bà Trời
Còn em thương anh như một Ông Trời Bơ Vơ”
Ôi Trụ ơi,
Vô thọ tướng-vô nhân tướng-vô thọ giả tướng
vô chúng sanh tướng. Vạn vật giai không
Cát bụi thì xin trở về nơi cát bụi.
Hiền thê biệt bút
Thảo Trần

Cát bụi thì ở đâu cũng là cát bụi, thì cớ sao mà không mong, là cát bụi ở nơi quê nhà?

Thảo Trần


That period of spitefulness and neglect came to its close in October 1988, when Benjamin Hooks of the N.A.A.C.P. became aware that Mrs. Parker's remains had no resting-place except for a dank filing cabinet. A small memorial garden was prepared on the grounds of the organization's national headquarters in Baltimore, and a brief ceremony was held at which Mr. Hooks improved somewhat on the terse line about "excuse my dust." It might be better, he said, to recall her lines from

"Epitaph for a Darling Lady":

Leave for her a red young rose
Go your way, and save your pity.
She is happy, for she knows
That her dust is very pretty.


Mrs. Parker had never been very affirmatively Jewish-she disliked her father's piety and always insisted that her hatred of Hitler and Fascism was, so to say, secular-but Mr. Hooks took the opportunity to stress the historic comradeship between blacks and Jews. The inscription at the little memorial reads:
Here lie the ashes of Dorothy Parker (1893-1967) Humorist, writer, critic, defender of human and civil rights. For her epitaph she suggested
"Excuse My Dust". This memorial garden is dedicated to her noble spirit which celebrated the oneness of humankind, and to the bonds of everlasting friendship between black and Jewish people.

Dorothy Parker by Christopher Hitchens

Hãy để một BHD lên mộ nàng, hà, hà!
Rồi mi đi đường mi
Hãy giữ chút tủi thân cho riêng mi (1)
Nàng đẹp,
Nàng biết
Vì bụi của nàng
Cũng rất
đẹp!

(1)
http://www.tanvien.net/sangtac/st_tu_truyen.html

Thật cũng may, cuối cùng bố mẹ lại tìm thấy nhau, cho dù bố mẹ biết rất rõ, nếu cuộc đời được làm lại từ đầu, thì mọi chuyện vẫn y nguyên như vậy. Chắc là bố sẽ lo cho mẹ thêm một chút xíu, nhờ vậy mẹ sẽ bớt đi một chút, niềm tủi thân.


W. H. Auden
A PASSION OF POETS
by Joseph Brodsky
"Time ... worships language and forgives
Everyone by whom it lives ... "
-W. H.AUDEN


I
…..
When a writer resorts to a language other than his mother tongue, he does so either out of necessity, like Conrad, or because of burning ambition, like Nabokov, or for the sake of greater estrangement, like Beckett. Belonging to a different league, in the summer of 1977, in New York, after living in this country for five years, I purchased in a small typewriter shop on Sixth Avenue a portable "Lettera 22" and set out to write (essays, translations, occasionally a poem) in English for a reason that had very little to do with the above. My sole purpose then, as it is now, was to find myself in closer proximity to the man whom I considered the greatest mind of the twentieth century: Wystan Auden.

Khi nhà văn viết, bằng 1 thứ tiếng không phải tiếng mẹ đẻ, người đó làm như vậy, thì là do cần thiết, như Conrad, hay, vì một tham vọng nóng bỏng, như Nabokov, hay, thèm 1 thứ gì ghẻ lạnh hơn, như Beckett.
Không thưộc băng đảng này, vào mùa hè năm 1977, ở Nữu Ước, sau khi sống ở Mẽo 5 năm, một bữa, tôi buồn buồn mua 1 cái máy chữ nhỏ, và khởi sự viết, bằng tiếng Anh, chỉ với mục đích độc nhất, để cảm thấy mình gần gụi với người mà tôi nghĩ, cái đầu vĩ đại nhất của thế kỷ 20: Wystan Auden

Note: Bài viết này, có in trong tập tiểu luận của Brodsky, Cô Út đem làm từ thiện mất rồi. Bài trên cuốn Vanity chỉ là trích đoạn.

II
….
If a poet has any obligation toward society, it is to write well. Being in the minority, he has no other choice. Failing this duty, he sinks into oblivion. Society, on the other hand, has no obligation toward the poet. A majority by definition, society thinks of itself as having other options than reading verses, no matter how well written. Its failure to do so results in its sinking to that level of locution by which society falls easy prey to a demagogue or a tyrant. This is society's equivalent of oblivion; a tyrant, of course, may try to save his society from it by some spectacular bloodbath.

Nếu nhà thơ có bổn phận với xã hội, thì đó là, làm thơ hay.
Làm thơ dở như kít, thì đi chỗ khác chơi!
[Brodsky lịch sự hơn, khi viết, không tròn bổn phận này, thì chìm vào quyên lãng]
Thuộc thiểu số, hắn không có chọn lựa nào khác.
 Xã hội, về mặt nó, đếch có bổn phận với nhà thơ. Thuộc đa số, nó có nhiều giải pháp khác, thay vì đọc thơ, dù thơ hay.

*

*

Cái từ “Hội Nhà Thổ”, 1 vị độc giả trên Blog NL, trách GCC, là miệt thị HNV/VC, gốc của nó, là từ Walter Benjamin:

Sách và Bướm - thứ nào có đàn ông của thứ đó, những kẻ sống trên lưng họ - tính viết, "sống trên trôn họ", nhưng đểu cáng quá - và hành hạ họ.
Les livres et les putains - ils ont chacun leur genre d'homme, qui vivent sur leur dos, et les maltraitaient
Walter Benjamin, Sens unique

Walter Benjamin: A Tribute

SN_GCC_2016

*

Voulez-vous.... avec moi?
Anh có muốn.... " tản mạn bên ly cà phê" mí em?

*

PB Dec 2016