|
En
attendant SN
To H/A: I went there, I Miss
U, and I Want to End my Life, Really.
Tks for Everything. GNV
Somewhere
behind Turkenfeld
a spruce nursery
a pond in the
moor on which
the March ice
is slowly melting
Obscure Passage
Aristotle did not
apprehend at all
the word he found
in Archytas
Note: “Ải Tây” có thể còn liên
quan tới bài trên,"Đoạn thơ tối tăm", nếu chúng ta đọc dẫn giải về chúng,
theo nghĩa Tô Thuỳ Yên viết sau đây.
Và, nếu thư thế, cái bài thơ ngắn ngủn trên, của Sebald, có thể là 1 lời
vinh danh tuyệt vời dành cho cõi thơ TTT: Bí hiểm, hũ nút, õng ẹo, làm dáng
như VP phán!
Kafka phán, phải đọc thứ sách như
bị cái rìu phá băng nó choảng vô đầu, chứ thứ “sân chơi, sàn diễn, đồ chơi…”…
cái con mẹ gì đó thì đọc
làm gì cho phí thì giờ.
Newton phát giác ra luật vạn vật hấp dẫn khi bị trái táo rớt trúng
đầu. Koestler phán, nhà khoa học thì cũng giống như 1 tên mộng du, trong
khi mộng du như thế, vớ được chân lý, định luật này nọ, và ông lấy cuộc đời
ba nhà thiên văn Kepler, Copernicus.. để minh chứng.
Nhưng, tại làm sao những người khác, bị trái táo rớt trúng, bị cái
rìu phá băng bổ trúng đầu… chỉ thấy đau 1 phát rồi…. thôi?
Vấn nạn ở đây, là, bạn phải được sửa soạn ra sao, ở tình trạng như
thế nào, thì mới đón nhận được ân sủng, mặc khải, hay, ở trường hợp của
Gấu, đón nhận món quà quí hoá…. Lò Thiêu?
Hoặc, bạn đã từng trải qua 1 cú test nào đó, như trong 1 ngụ ngôn
của Kafka?
Nhà
thơ Đài Sử hỏi Gấu, trong cái cú, đọc cọp BL ở hè đường Sài Gòn, và cái
cú, đến nhà thấy ông via của “bạn ta”, ngồi xổm trên cái ghế, chúi đầu
vào trang viết, và ngộ ra, đời GCC sau này sẽ y chang, thì cú nào thực sự là… mặc khải?
Theo GCC, cả hai đều là mặc khải, và đều ở trong cái thế, đã được
sửa soạn, để chờ mặc khải, y chang cái đọc trước 1975, là sửa soạn, để
được “ready”, chờ sao quả tạ rớt trúng đầu, hà, hà!
Y chang, cái lần GCC được thưởng thức bữa đại tiệc thịt chuột, ở nông
trường Đỗ Hòa!
Để được thưởng thức nó, Ông Trời cũng phải mất công vô cùng.
Bởi thế, GCC về già, ngộ ra, và cám ơn Ông Ta vô cùng, và cũng bắt
chước Primo Levi, vặc lại, tại sao cưng Gấu đến như thế!
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/35.html
UNE ROSE ET MILTON
Sans rien qui la distingue ou
l'étrange des choses
Qui furent, se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi ; le sort me dispense ce soir
Le privilège de nommer pour la première
Fois cette fleur silencieuse, la dernière
Que rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui que tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse éclatante en mon vers apparaitre
Avec tes ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta ténèbre - ô ténèbreuse entre ses mains.
A Rose and Milton
From all the generations of
past roses,
Disintegrated in the depths of time,
I want one to be spared oblivion-
One unexceptional rose from all the things
that once existed. Destiny allows me
The privilege of choosing, this first time,
That silent flower, the very final rose
That Milton held before his face, but could
Not see. O rose, vermilion or yellow
Or white, from some obliterated garden,
Your past existence magically lasts
And glows forever in this poetry,
Gold or blood-covered, ivory or shadowed,
As once in Milton's hands, invisible rose.
-A.R.
BHD và Gấu
Từ hàng hàng thế hệ
những bông hồng
Đã “tàn hôn lên môi”, rồi rã ra, theo chiều
sâu thăm thẳm của thời gian
Gấu muốn 1 bông hồng, chỉ một, được cứu rỗi khỏi
lãng quên –
Một bông hồng, cũng thường thôi, chẳng có gì
đặc biệt trong cõi vô thường
Đã từng hiện hữu [liệu có nên thêm chi tiết,
đã từng học Gia Long?]
Số phận cho phép Gấu
Cái ưu tiên chọn lựa, lần đầu tiên này
Bông hồng thầm lặng, hồng rất hồng, bông hồng đen
sau cùng.
Gấu đã từng cầm trong tay,
Nhưng không thể sở hữu.
[Thánh nữ mà]
Ôi bông hồng đen
Cái quá khứ của em, những ngày ở Sài Gòn,
thì cứ còn hoài
Một cách thần kỳ, huyền diệu
[Trong Tứ Tấu Khúc]
Và đỏ bừng lên qua bài thơ này
Vàng, hay phủ máu, hay ngà, hay phủ bóng
tối
Một lần Gấu ôm trong tay,
Trở thành vô hình.
Note: Mới đọc bản dịch
của Hồ Như, trên Da Màu:
http://damau.org/archives/43128
Trong bao nhiêu
đóa hồng đã nở
rồi mất hút với thời gian
ta muốn một đóa không bị lãng quên
một đóa hồng như bao đóa hồng khác
định mệnh cho ta được lần đầu nêu tên
đóa hoa lặng lẽ này
đóa hồng cuối cùng Milton đã kề gần
mà chẳng nhìn thấy
ơi đóa hồng của khu vườn đã mất
đỏ thắm hay vàng hay trắng
bằng phép lạ, hãy bỏ lại quá khứ ngàn xưa,
và
rạng rỡ lên trong vần thơ này
vàng, đỏ tươi, ngà hay đen
như trong bàn tay ấy
đóa hồng vô hình
* Nguyên tác: Una
Rosa Y Milton
* Có
tham khảo bản dịch Anh ngữ của A.Z. Foreman
V/v Hồ Như.
Tin Văn đã từng giới thiệu vị này.
Hơn thế nữa, GCC đã từng viết về HN, khi còn phụ trách
mục Tạp Ghi cho trang VHNT trên lưới, của Phạm Chi Lan, với cả 1 ban
biên tập, mà đám này, đa số không ưa GCC, qua những cuộc thảo luận của
họ, mỗi lần ra số mới, mà PCL thường là gửi riêng cho GCC, để “tham khảo”.
Bài viết về HN của GCC, bị trả về, với cái “note”, của PCL, tôi muốn
đăng lắm, nhưng BBT không chịu!
Hoá ra là HN là 1 trong số BBT, hay ban chủ trương nhưng
đếch thèm chơi với đám này nữa, khi viết báo giấy, và cái đám còn
lại “nực” lắm.
Trong BBT những người không ưa GCC, có thể kể ra đây,
vài đấng, thí dụ, THT, ra biển nói khe khẽ, ông con trai 1 vị họa
sĩ, Phùng Nguyễn… Trong folder Thư Tín, hình như vậy, Tin Văn có báo
cáo về cú này rồi!
30 Tháng Tư Đọc Hồ
Như: Kẻ Lạ
http://www.tanvien.net/ds/ds09_ho_nhu_kela.html
Playboy July
& August 2016
Cái thứ
tình yêu "chiêm ngưỡng & kính trọng" cũng làm H sợ!
11.7.2016
https://www.youtube.com/watch?v=ilM-yInVg5k
Bỗng nhớ,
thời gian ở Trại Cấm Sikew, Thái Lan, ngồi quán cà phê, nghe mãi bản
nhạc trên.
Nhớ cô học trò trong Bụi đến phát điên lên được. Cô đã đậu
thanh lọc, đã chuyển trại,
lên Panat Nikhom, chờ gặp phái đoàn, đi tái định cư.
Em đã nói rồi, Thầy đừng gặp Em nhiều
Khi em đi rồi, Thầy sẽ khổ
Every time you go away
You take a piece of me with you
Cứ mỗi lần anh đi xa là anh mang cùng với anh một mẩu của
em.
Một mẩu của em?
Một cái xịp, như 1 nhân vật trong Nhà Có Cửa Khóa Trái?
Hay, một
con rận, như trong bài thơ sau đây, của Simic
He took a flea
From her armpit
To keep
And cherish
In a matchbox,
Even pricking his finger
From time to time
To feed it
Drops of blood.
Charles Simic
Rận Tình
Hắn chôm con rận
Từ bướm của nàng
Giấu trong bao quẹt
Lâu lâu nựng 1 phát
Và chích máu đầu ngón tay
Như 1 anh Bắc Kít,
Không phải để viết đơn tình nguyện
Xẻ dọc Trường Sơn Kíu Nước
Mà để nuôi
Rận tình!
Gấu có
kinh nghiệm này rồi!
Để tí nữa, kể!
Playboy June 2016
En
attendant SN
Henri Michaux
French
1899-1984
MY LIFE
You go off without me, my life,
You roll,
And me, I'm still waiting to take the first step.
You take the battle somewhere else,
Deserting me.
I've never followed you.
I can't really make out anything in your offers.
The little I want, you never bring it.
I miss it; that's why I lay claim to so much.
To so many things, to infinity almost…
Because of that little bit that’s missing, that you never bring.
1962
W.S. Merwin: Selected
Translations
Đời của Gấu
Mi đi hoang, bỏ ta
Mi lăn vòng vòng
Còn ta, vưỡn đợi bước thứ nhất
Mi lâm trận ở đâu đó,
Bỏ chạy ta
Ta không bao giờ theo mi
Ta không làm sao xoay sở
Với những mời chào, dâng hiến của mi
Cái ta muốn, chỉ tí xíu, mi chẳng bao giờ đem tới
Ta nhớ nó; chính là vì thế mà ta cứ cằn nhằn hoài
Về đủ thứ, về thiên niên, vĩnh cửu….
Chính là cái cuộc bỏ lỡ đó, mi chẳng hề màng tới
*
"Đời của mi hôm nay đâu rồi, sao
không đi đón mi?"
Tứ tấu
khúc
Thu 2014
What I Overheard
In summer's idle time,
When trees grow heavy with leaves
And spread shade everywhere
That is a delight to lie in
Alone
Or in the company of a dear friend,
Dreaming or having a quiet talk
Without looking at each other,
Until she feels drowsy
As if after too much wine,
And you draw close for a kiss
On her cheek, and instead
Stay with lips pursed, listening
To a bee make its rounds lazily,
And a far-off rooster crow
On the edge of sleep with the leaves hushed
Or rustling, ever so softly,
About something or other on their mind.
Charles Simic
Điều Gấu thoáng nghe
Mùa hạ, lúc rảnh rỗi
Khi cây nặng trĩu lá
Trải bóng lên mọi nơi
Sướng làm sao, nằm
Một mình
Hay với một em thật thân, là Em, tất nhiên, hà hà!
Lơ tơ mơ, hay đi 1 đường chuyện
vãn êm ả
Đếch thèm nhìn nhau
Cho tới khi Em uể oải, thờ thẫn
Như thể uống nhiều rượu chát
Và Gấu bèn đi 1 đường nằm sát vô Em
Tính xin 1 cú hôn
Lên má, và, thay vì vậy
Thì bèn cứ nằm yên, môi mím lại, lắng nghe
Một con ong lười biếng lượn vài
đường
Hay con quạ, xa hơn con gà trống
Ở ven bờ giấc mộng, cùng đám lá lặng thinh
Hay rì rào nhẹ ơi là nhẹ
Về một điều, hay một điều gì khác, trong hồn.
@ Vientiane
with Kids
Nhà văn, nhìn
một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Ngay sau 1975, văn học hải
ngoại còn in hằn nét đau thương, giận dữ, và có cả hận thù. Nó mang
tính “trung thành” với thời cuộc (chống Cộng ở đây mang tính công
dân như “thù nhà, nợ nước”, hơn là mang chất văn chương). Vả chăng, hận
thù, đối với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Cùng với
thời gian, những con chữ ngày càng thoát ra khỏi những rằng buộc nhất
thời, và đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan phức tạp...
See More
Note:
Bài viết này, viết thời gian viết cho tờ VHNT trên lưới của Phạm
Chi Lan, khi ấy, cứ nghĩ, mình, cũng 1 thứ hiệp sĩ sư tử, như bất cứ
1 tên Mít hải ngoại, bỏ chạy quê hương sau 1975, cũng mê viết lách, như
mình!
Phượng
Hoàng
Hãy
gọi ta là hiệp sĩ sư tử!
Trong
một bài viết trên một tờ báo địa phương, tôi tình cờ lượm được một
chi tiết thật thú vị. Tác giả bài viết cho rằng, có thể vì không còn bám
vào đất nữa, cho nên những nhà văn hải ngoại của chúng ta ngày càng sử
dụng bừa bãi những con chữ. Ông nêu thí dụ, Mai Thảo, một lần chắc là quá
nhớ Sài Gòn, bèn ghé thư viện Cornell, mân mê ba con chữ trước 1975, hiện
lưu trữ tại đây. Sau khi đã cơn ghiền, ông rời “phần thư” trở về … đời
thường, tức là cuộc đời lang thang vô định nơi xứ người.
Tác
giả bài báo chê Mai Thảo dùng sai từ. Tại sao lại phần thư? Phòng đọc
sách, hay văn vẻ hơn, thì phải là… “thư phòng” chứ!
Mai Thảo
rời Việt Nam
năm 1978 thì phải. Lần chót tôi nhìn thấy ông, là một buổi sáng ngay
sau ngày 30/4. Ông ngồi một mình trong một quán cà phê, hình như quán
Sing Sing, một cái tên từ hồi “mồ ma” quân đội Mỹ, ở đường Phan Đình Phùng.
Quán chẳng có ai ngoài ông. Tôi gặp lại hình ảnh này, trên bìa số báo
Văn tưởng niệm ông: một Mai Thảo ngồi trên băng ghế bên đường chờ xe buýt
tại thủ đô Sài Gòn của người tị nạn. Chi tiết về những ngày rong chơi của
ông trước mũi súng, trước cuộc săn người của Cộng Sản, đã được Nhã Ca ghi
lại, trong Hồi Ký Mất Ngày Tháng. Như vậy là ông có chứng kiến những ngọn
lửa đầu tiên của cuộc phần thư 1975. Tôi tin rằng, khi lênh đênh trên một
con tầu giữa biển khơi, trong số những hình ảnh ông còn giữ được của quê
hương, chắc chắn có hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt sách, những cuốn của ông,
và của bè bạn. Ông biết rằng, chúng đều đã bị huỷ diệt. Bởi vậy, khi ông
vào thư viện Cornell, là để đọc tro than của chúng.
Cũng
theo nghĩa đó, một khi những cuốn sách của Miền Nam, sau này được chính
nhà nước Cộng Sản cho in lại ở trong nước, điều này chứng tỏ: chúng đã
sống lại từ lớp tro than, từ cuộc phần thư 1975.
Khi phải
nhìn lại 25 năm văn học của người Việt lưu vong, tôi nghĩ nó phải như một
loài phượng hoàng, cứ mỗi lần muốn tái sinh, là phải lao vào lửa.
Phượng Hoàng
Es-tu prêt à être effacé, nul, anéanti,
à
n’être rien?
Perdu
dans l’oubli?
Sinon, jamais vraiement tu ne changeras
Le phénix ne retrouve que sa jeunesse
que s’il est brulé, brulé vif, jusqu’à se faire
chaude et floconneuse cendre.
Alors le frêle remuement d’un frêle être nouveau dans le nid
au duvet léger comme cendre qui vole
montrer qu’il a retrouvé pareil à l’aigle sa jeunesse,
Immortel oiseau
(D.H. Lawrence, Derniers Poèmes, bản dịch tiếng Pháp của Roger
Munier, trong Cahier de L’Herne, 1988).
(Tạm dịch:
Mi đã
sẵn sàng chưa, để xóa nhòa, thành không, tiêu tùng,
để chẳng là chi?
Chìm vào quên lãng?
Nếu không, mi đừng mong chi thay đổi.
Phượng
Hoàng chỉ tìm lại tuổi thanh xuân
khi cháy rực như cây đuốc sống
chút tro than còn, nóng, nhẹ như bông,
Rồi lung
linh ở ngay tổ,
Là lông tơ, nhẹ, tựa tro bay:
nó đã tìm lại được mình,
Con chim bất tử).
Mới đây,
người viết có được nguyên bản bài thơ Phượng Hoàng. Bản tiếng Việt trên, là
từ bản dịch tiếng Pháp. Xin đăng nguyên bản, để độc giả tiện theo dõi:
PHOENIX
Are
you willing to be sponged out, erased, cancelled,
made nothing?
Are you willing to be made nothing?
dipped into oblivion?
If not, you will never really change.
The phoenix renews her youth
only when she is burnt, burn alive, burnt down
to hot and flocculent ash.
The the small stirring of a new small bub in the nest
with strands of down like floating ash
shows that she is renewing her youth like the eagle,
immortal bird.
D.H Lawrence: The complete Poems (tủ sách The Penguin Poets)
*
Trong
bài viết Nhân Văn (Humane Literacy) George Steiner khẳng định: không
một chế độ chính trị nào có thể yểm bùa chú lên những tác phẩm của nhà
văn, khiến cho nó vĩnh viễn chìm vào trong quên lãng, hay bóp méo nó, và
cho dù những cuốn sách có thể bị tiêu huỷ, nhưng tro than sẽ được vun vén,
và giải mã. Khi nhà nước CS đành phải cho xuất bản những tác phẩm văn học
của Miền Nam trước 1975, điều này chứng tỏ: con chim phượng hoàng đã tái
sinh. Ở hải ngoại, nếu nó được tái sinh, thì cũng không do những ông lái
buôn làm giầu từ những tác phẩm vơ vét đem xuống tầu cùng với họ; cũng
không phải bởi các tác giả may mắn đi từ những ngày đầu, rồi vào thư viện
Mỹ sao chép lại… Chúng vẫn chỉ là tro than. Từ đó, một con phượng hoàng
song sinh sẽ tái xuất hiện.
Walter
Benjamin nhận xét: không hề có chuyện gì đã từng xẩy ra mà có thể
bị coi là mất mát đối với lịch sử (nothing that ever happened should be
regarded as lost for history. Illuminations). Nhìn theo cách đó, thời gian
25 năm là quá ngắn ngủi, đối với một dòng văn học, so với chiều dài
lịch sử.
Nhà
văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Ngay sau 1975, văn
học hải ngoại còn in hằn nét đau thương, giận dữ, và có cả hận thù. Nó
mang tính “trung thành” với thời cuộc (chống Cộng ở đây mang tính công
dân như “thù nhà, nợ nước”, hơn là mang chất văn chương). Vả chăng, hận
thù, đối với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Cùng với thời
gian, những con chữ ngày càng thoát ra khỏi những rằng buộc nhất thời, và
đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan phức tạp của những con người Việt Nam
xa quê hương. Khởi từ lời khuyên của Don Quixote, “Đừng tìm những con chim
ngày hôm nay, ở trong cái tổ ngày hôm qua”, văn học hải ngoại của người
Việt Nam sau 25 năm bắt buộc nhìn về phía trước. Theo nghĩa đó, tôi tin
rằng dịch thuật chính là cánh cửa mở ra văn học Việt Nam hải ngoại. Dịch
thuật còn là cái cầu “Ô Thước”, cho hai con phượng hoàng song sinh “hội
nhập”, trở thành một. So với hằng hà sa số những “sáng tác” hiện xuất hiện
trên một số báo văn học, và xuất hiện đầy rẫy trên những trang nhà trong không
gian ảo trên lưới thông tin toàn cầu, chúng ta mới nhận ra sự quan trọng
của dịch thuật, theo nghĩa: chiếm đoạt, cầm tù cái nghĩa (meaning), làm
giầu có cho tiếng nói, ngôn ngữ Việt.
“Đừng gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi ta là Hiệp
Sĩ Sư Tử”, Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt Buồn ám chỉ Đấng
Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư Tử là để chỉ con người, trong cuộc phiêu lưu tìm lại
chính mình, một khi thần thánh đã bỏ đi. Cuộc phiêu lưu đó bắt đầu bằng
tiểu thuyết. Với Âu Châu, tiểu thuyết là thể dạng văn học thứ ba, sau hùng
ca và bi kịch (Hy Lạp). Theo G. Lukacs, tiểu thuyết là để diễn tả cõi “không
nhà siêu việt”; nói nôm na, nó diễn tả thân phận lưu vong của con người,
khi không còn thần thánh nữa.
Theo nghĩa đó, nhà văn Việt Nam hải ngoại bắt buộc phải
là những vị hiệp sĩ sư tử, trong cuộc chinh phục ý nghĩa, về chính thân phận
người Việt lưu vong nơi xứ người.
NQT
Những con phố sau của Hà Nội
Nhà trại thui thủi, chẳng cần
Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.
Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn nạn
cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày
nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.
Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm
một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.
Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu
Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh
thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”
Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu,
cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.
THE BACK
STREETS OF MOSCOW
Buzzati
and Kafka (3): Drogo hears the news that a battalion of Tartars may
at last be approaching the Fort. Feeling too weak to fight, he tells himself
that the news will prove mistaken. "He hoped that he might not see anything
at all, that the road would be deserted, that there would be no sign of
life. That was what Drogo hoped for after wasting his entire life waiting
for the enemy."
Drogo nghe tin mấy chục binh đoàn Rợ Tác Ta ở ngay bên ngoài
thành Xề Gòn. Sẽ có Biển Máu!
Nhưng chàng quá già, [tay thì bị gẫy vì mìn VC], thành ra bèn
hi vọng, tin dởm. Làm đếch gì có chuyện đó!
Đó là điều Drogo hi vọng, sau khi mất tiêu cả cuộc đời, chờ đợi
một kẻ thù đếch có!
I [Manguel] loved someone who died. The last time I was with him,
death made him look as if he had woken up in the past, magically young,
as he had once been when he was without experience of the world, and happy
because he knew that everything was still possible.
Tớ yêu một kẻ đang chết. Lần chót tớ ở bên, cái chết làm cho
kẻ đó như sống lại từ quá khứ, trẻ thơ một cách thật diệu kỳ, như chưa
từng có một tí kinh nghiệm gì từ thế giới, và hạnh phúc, vì hắn ta biết,
mọi chuyện thì vẫn có thể.
Bientôt, je serai tout le monde. Je serai mort. Borges.
Chẳng bao lâu đâu, ta sẽ là cả thế giới. Ta sẽ ngỏm.
The Palestinian poet Mahmoud Darwish: "I am myself alone an entire
generation."
Ta, chỉ mình ta, là trọn cả một thế hệ.
Khu Chợ Đũi, Huỳnh
Phan Anh, và tôi
Hồi mới tới Sài-gòn,
nơi chốn đầu tiên mà tôi làm quen, là khu chợ Vườn Chuối.
Chuyến đó ở trên tầu Rắn Biển, Marine Serpen...
See More
Playboy July & August 2016
En
attendant SN
En
attendant SN
.
tuổi thơ - mồ côi - nghèo khổ hiếm thấy trong văn
chương ông? ông không nhớ? ông không màng? hay
vì một điều gì khác? và tại sao lại như vậy?
DS
Cafe Chez Rendez-Vous
Hanoi
No Childhood
And what was your childhood like?
a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like
phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers
Adam Zagajewski
Tuổi thơ ư, No!
Và tuổi thơ của Ngài thì như là cái
quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ
có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo
con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy
em ca sỡi mặt ám khói.
Source
Kỷ niệm, kỷ niệm, DBP
Note: Tính
đi 1 đường về Hà Nội của 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít,
thì gặp cái kỷ niệm này về nó.
« C’est à Hanoï, un an plus tôt, que je rencontre
mon futur mari, le capitaine d’infanterie de marine Jean
de Heaulmes. Il me demandera en mariage trois ans plus tard. Nous
sommes toujours ensemble. »
Tks. NQT
Và cái này nữa:
|
Đọc
xong cho em tí động viên ạ
|
Đành khất cái kinh nghiệm ấu thời những ngày
ở Hà Nội.
LHL là 1 độc giả trang
Tin Văn, tình cờ gặp nó, khi lang thang trên net, tính tìm tài liệu
về Camus.
Thay vì Camus, thì lại lôi về blog của cô,
cái mẩu viết về cô bạn ngày nào của Gấu.
Cô phù dâu ngày nào.
Và, vì cái bài viết này, thay vì Camus,
thì là Christian Bobin.
Bởi là vì ở cái nền của bài viết của Gấu,
là Christian Bobin.
Cái câu “Chữ sao muộn màng...” là của C.B.
Cô trích dẫn 1 câu, cho cuốn sách nhỏ bé
của cô, đúng câu mà khi còn sống, phụ trách trang văn học trên
lưới e-VHNT, Phạm Chi Lan rất thích, và cũng lôi lên trang của cô:
Không phải người ta viết để trở thành
nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng
của tất cả tình yêu.
Tuy nhiên, cuốn sách của cô, không về chuyện
đó.
Nó là về gia đình nhỏ bé của cô. Như chính
cô viết: Viết cho tình yêu, bố mẹ tôi….
Như thế, chắc còn 1 cuốn khác, có thể sẽ được
viết ra, về “chữ sao muộn màng so với đời…", “viết không để trở
thành nhà văn...”
Rất mong, và rất mừng, nhân sách ra mắt.
Trân trọng
NQT
Thúy Hà Lê
published a note.
Cầm Dương Xanh
Đâu con phố đơn côi,
như tên thường gọi,
nơi
gương cũ...
See
More
V/v Bobin
GCC khám phá ra ông Tây này, qua cuốn
L'Inespérée, thời gian mới qua Canada được ít lâu,
tại 1 thư viện Toronto, khi tiếng Tây còn thịnh, ở thành phố này.
Cầm nó lên, đọc câu văn, là bài viết cô bạn kể như
đã viết.
Cũng thế, là bài viết Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi,
về NCK.
Cái tít này, nhớ là, thoạt đầu, "thơ ấu" hơn nhiều:
Vầng Trăng Thơ Ấu.
GCC đổi lại. NCK hội ý Nguyễn Mộng Giác.
Ông chủ chi địa phán, thần sầu, đòi hỏi gì nữa!
Và tôi cứ tưởng tượng ra cậu
học trò ngày xưa, đã nói với cô giáo như thế này:
"Đó là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô
dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong nụ cười
của cô, như người học trò trong lớp học tháng tám. Rồi cô trả em
về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn người ở
bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m'
as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire
comme un écolier dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu
au monde avec pour devoir de l'écrire comme il est: affreusement noir
en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng là
những ngày dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng thơ
ấu mãi?
NQT
Câu "chữ sao muộn màng", là ứng vào cuộc tình tay ba của Gấu &
Gấu Cái & Cô Phù Dâu, trong có con thuyền Noé chở đủ khổ đau cho
cả ba (1)
Câu về NCK, là về cuộc chiến.
Một câu, mà nói hết về cuộc chiến
Bắc Kít đào đâu ra được 1 vừng trăng thơ ấu mãi?
Rồi lại lếch thếch đem theo nó vô, mãi mãi những cuộc tù?
Hà, hà!
(1)
PHỎNG VẤN DỞM
Phỏng vấn dởm. Phỏng vấn tưởng tượng. Nói chuyện với đầu
gối. Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ [Thanh Tâm Tuyền]. Một Thế Giới
Của Riêng Tôi, Nhật Ký Mơ, A World of My Own, A Dream Diary [Graham
Greene]. Tôi Nhìn Tôi Trên Vách [Tuý Hồng]. Borges và “Borges”…
“Chẳng lẽ Gấu mà không phải là… Gấu ư?”, mỗi một cái tên như thế, là một
chút khác biệt.
Nhưng có lẽ, tới một lúc nào đó, đây là một
cách nhìn lại. Theo kiểu mở ra Cuốn Sách Của Bạn Tôi,
của Anatole France....
Continue Reading
1Song Nam Tang
-Gấu viết văn từ hồi nào?
Có lẽ nên đặt câu hỏi như thế này: Cái ý tưởng
viết văn đó, nó đến với Gấu vào một lúc nào, hay vào những lúc nào.
Một trong những ao ước sau này mình sẽ viết văn,
có lẽ đã xẩy ra, khi nghĩ rằng văn chương hơn toán học.
Hồi học trung học, Gấu nổi tiếng là giỏi toán. Nhà
nghèo, may nhờ bà cô làm me Tây, nên Gấu được ra Hà Nội học. Ông
Tây già, chồng bà cô là một kỹ sư sở Hoả Xa Đông Dương. Chính
Ông Tây đã khám phá ra tài toán của Gấu, và có thể chính ông đã
[ngầm] khuyến khích bà cô lo cho Gấu. Bởi vì khi Gấu vào Nam, học ở Sài
Gòn, bà cô từ Pháp vẫn tiếp tục gửi tiền về cho thằng cháu.
Đam mê toán của Gấu lần đầu tiên bị khựng lại,
và có thể, đam mê viết bắt đầu nhen nhúm, là như thế này:
Năm học Đệ Ngũ, Gấu có một người bạn là Ngô Khánh
Lãng. Thân lắm. Lần đó, Gấu lần mò, tự mình tìm ra phương trình
đường thẳng [y= ax+b], bèn chạy đi khoe với anh bạn Ngô Khánh Lãng.
Anh coi, đưa mắt nhìn thằng bạn như tỏ vẻ thương hại, và trong
khi Gấu đứng trố mắt mắt ra vì ngạc nhiên, tại làm sao thằng bạn mình
nhìn mình như thế, anh vô trong nhà, lấy ra một cuốn sách đại số,
lật đúng đoạn giải thích phương trình đường thẳng. Đọc, Gấu ngỡ ngàng.
Cách giải ở trong sách ngắn, gọn, dễ hiểu, so với cách của Gấu.
Sau ngỡ ngàng, là thất vọng. Thất vọng như chưa
từng biết thất vọng là gì. Những kẻ đến cái thế giới này muộn
màng như Gấu, chẳng còn có cái gì để mà khám phá! Loài người khám
phá sạch rồi!
Nhưng đó là về toán học, khoa học.
Mơ hồ, Gấu nhận ra, rằng cái nỗi thất vọng của Gấu
đó, chỉ có Gấu mới diễn tả ra được. Không có ai “khám phá”
giùm cho Gấu được. Chỉ có mỗi một Gấu. Và Gấu là độc nhất!
*
-Với mối tình lớn thứ nhì, văn chương, chắc chắn
vĩ đại hơn cả mối tình đầu - là toán học đó - ông có gặp nỗi thất
vọng nào không?
Có, và còn thê thảm hơn lần đầu nhiều!
-Thế hả? Kể cho nghe tí đi.
Cứ tạm gọi nó là nỗi thất vọng, hay kinh nghiệm:
Bếp Lửa…
TTT 10 years Tribute
Kyoichi Sawada in Saigon
Saigon:
Pulitzer Prize-winning UPI staff photographer Kyoichi Sawada is seen
on feature assignment in Chinese section of Saigon 5/3 after getting
news of his award. Sawada was honored for his outstanding Viet Nam war
coverage.
UPI Radiotelephoto 5/3/66
Từ văn
phòng hãng thông tấn UPI, 19 Ngô Đức Kế, nhẩy mấy bước là tới khách
sạn Majestic. Một bữa xuống sở, gặp nhiếp ảnh viên người Nhật, Sawada
Kyoichi. Tôi bảo anh, tuần trước mới cưới vợ. Anh tròn xoe mắt, nói sao
không cho biết. Đám cưới mãi tít Cai Lậy, "many VC there!" Anh bật cười,
kéo tôi băng qua đường, lên terrace khách sạn, làm một chầu ăn sáng.
Gấu lấy Gấu Cái, chỉ có Dirck
Halstead & Sawada biết và tặng quà.
Nhớ, 1 bộ đồ hay 1 cặp thú bằng sành.
Xìn Phóng TPG đi 1 đường tin văn vắn, cái gì gì, nhà văn Sơ Dạ Hương "nên vợ nên chồng" với cô giáo sinh
sư phạm Mỹ Tho, nhớ đại khái.
Gấu không nói, nhưng có lẽ anh biết qua NDT
tại sao lại tin văn? ông có thể cho biết sự ra đời của nó?
và cách cầm viết mới (đòn mới) của ông trên tin văn?
DS
Cái từ tin văn, có thể mắc mớ tới UPI.
Tới Mắt Bão….
Tới định nghĩa nhà văn là kẻ được thông tri tốt về thời của
mình.
Trong bài viết mở ra tờ Tập San Văn Chương, GCC đã manh nha
cái ý đó, và chỉ đến khi ra được hải ngoại, thực hiện trang Tin Văn,
có cái nick Mr Tin Văn, kể như TSVC được tục bản
Và, nếu như thế, đọc quan trọng hơn viết
/translation/morrison.html
Bài viết này, đang Top của Top
Ten, qua Server.
Liệu có phải là do 8/3?
Về già, Gấu càng ngộ ra, tất
cả những gì bạn có, là ở trong cái đọc, chứ không phải ở trong cái
viết.
Morrison trả lời, đam mê sâu thẳm của tôi, là đọc, là cũng
theo nghĩa đó.
Ui chao Gấu lại nhớ một ông bạn quí. Ông phán, tao ị ra cho
thiên hạ đọc, chứ cần gì phải đọc ai?
Gấu được ông anh dậy ba búa.
Búa thứ nhất liên quan đến dịch thuật. Đừng sợ sai. Sai thì sửa. Búa
này liên quan đến văn học Mít. Ông đã từng phán, đại khái, nhà văn Mít
cứ viết xong thời thanh xuân, là ngỏm củ tỏi. Do thiếu đọc.
Khi ông đọc truyện ngắn đầu tay, “Những con dã tràng”, về
nói với bà cụ, thằng Trụ sẽ đi xa hơn DNM, là theo nghĩa đó.
Ông tin rằng Gấu sẽ đọc được nhiều hơn đám Mít kia.
Đó là lời khen độc nhất của ông, về Gấu.
Sau này, ông chê nhiều hơn là khen.
Khi Gấu mê đám bạn quí, ông cảnh cáo, nhưng Gấu đâu có hiểu
được.
Lúc đó cần bạn quá!
Bạn quí mà sao không cần!
NKTV
. tuổi thơ - mồ côi - nghèo
khổ hiếm thấy trong văn chương ông? ông không nhớ? ông không
màng? hay vì một điều gì khác? và tại sao lại như vậy?
Đài Sử
Cafe Chez Rendez-Vous Hanoi
No Childhood
And what was your childhood like?
a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers
Adam Zagajewski
Tuổi thơ ư, No!
Và tuổi thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ
Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán
phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ
GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ
Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn
Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa
tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói
điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh
như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về
nó.
Đêm, những chiếc lá cây
cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi
mặt ám khói.
En
attendant SN
Hihi, a2a rule No.#1 :
K
Tks and Best Regards and Take Care
GCC
Thượng Thọ
tính theo tuổi ta ông bước vào tuổi tám mươi.
thượng thọ eve. (ngày trước new year là new year’s eve)
tin văn là sơn lâm của ông. ông ngang dọc với
những tiếng gầm rền vang đương thời và sẽ được nhắc đến sau này
dầu ông có muốn hay không.
muốn phỏng vấn ông. không phải. muốn hỏi chuyện
ông. cũng không nốt
để một mâm thức ăn ăn ngon cùng rượu ngon để vị
trưởng lão khề khà. rồi cùng ngồi xuống với ông ở tin văn gia
trang và rồi bắt đầu nghe ông lèm bèm về câu chuyện giang hồ
văn chương xưa và nay
lời mở: đây không phải là bài phỏng vấn.
đây là bài tự vấn. với dẫn nhập không phải từ người
tự vấn. người tự vấn là một trụ cột văn chương đương thời.
người đã ở với chữ nghĩa tự lâu lắm. người đã và đang
đi cùng văn chương cùng những vàng son cùng những hệ lụy
của nó.
muốn viết về một người có phải cách
hay nhất là để người ấy tự nói về mình?
và như vậy xin mời bang chủ xuất chiêu
cùng mời quý đọc giả thưởng thức
những dẫn nhập không số
(ông trả lời bất cứ câu nào không cần
theo thứ tự, ông không cần trả lời những câu ông không
thích. mỗi tháng sẽ gửi ông khoảng chục câu. now let’s
have some fun. ông nhé!)
. ông đến với giang hồ văn chương ra sao? ai truyền
võ công văn chương cho ông? giang hồ văn chương lúc ấy như thế
nào hả ông?
có bao nhiêu môn phái bấy giờ? những trưởng
môn của những môn phái đó? ông có thể cho biết những vị cao
thủ trong chốn giang hồ bấy giờ?
. tại sao lại tin văn? ông có thể cho biết sự ra
đời của nó? và cách cầm viết mới (đòn mới) của ông trên tin
văn?
. cây - rừng - rồi lại cây (đôi khi cây khác)
ông có thể giải thích miếng võ (công thức viết) này của ông?
. ông dùng loại chỉ nào để may văn chương lại
với văn chương?
. làm sao một phiên bản văn chương có tính
phi thời gian theo ông? hỏi như vậy để bạn đọc có thể hiểu được
thêm phần nào những bài viết của ông trên tin văn
. núi lửa trong ông phải đợi hơn 50 năm mới phún
ra thơ và thơ dịch, như mai thảo vậy, ông có thể cho biết tại
sao?
. ông có thơ được đăng trên báo chí tạp chí
trước 75? bắt đầu với nghiệp viết sao ông chọn truyện?
. rồi đến phê bình ông áp dụng việc giải toán
vào phê bình (vì ông học toán khá xuất sắc)? tại sao phải soi
vào chữ nghĩa đến như vậy?
. 5 đầu sách và 20 năm (nếu không đúng ông
sửa dùm) gầy dựng tin văn cái nào nặng ký hơn thưa ông? và tại
sao cái kia lại nhẹ ký?
. tuổi thơ - mồ côi - nghèo khổ hiếm thấy trong
văn chương ông? ông không nhớ? ông không màng? hay vì một
điều gì khác? và tại sao lại như vậy?
Đài Sử
Tks. NQT
TTT 10 years Tribute
Canvas
I stood in silence before a
dark picture,
before a canvas that might have been
coat, shirt, flag,
but had turned instead into the world.
I stood in silence before the
dark canvas,
charged with delight and revolt and I thought
of the arts of painting and living,
of so many blank, bitter days,
of moments of helplessness
and my chilly imagination
that's the tongue of a bell,
alive only when swaying,
striking what it loves,
loving what it strikes,
and it came to me that this
canvas
could have become a winding-sheet,
too.
Canvas
Tôi đứng im lặng trước bức hình tối thui
Trước tấm vải bố
Có thể là
Áo khoác, áo sơ mi, cờ quạt
Nhưng thay vì vậy thì biến thành
Thế giới
Tôi đứng im lặng trước tấm vải bố tối thui
Tẩm trong nó là thích thú, đam mê
và nổi loạn và tôi nghĩ
Tới nghệ thuật vẽ và sống
Tới những ngày trống rỗng, cay đắng
Tới những khoảnh khắc vô vọng
Và trí tưởng tượng lạnh lẽo của mình
Cái lưỡi chuông
Chỉ sống khi lắc lư
Thoi, cái yêu
Yêu, cái đấm
Và bất chợt tôi ngộ ra rằng thì là
Tấm vải bố này, cũng, có thể trở thành
tấm vải liệm.
Tưởng niệm 10 năm TTT cũng là
tưởng niệm Đinh Cường vừa mới mất, với riêng Gấu. Họ là
bạn của nhau, theo cái nghĩa, chỉ cần 1 người bạn là đủ ở trong
cõi đời này, như Gấu chỉ có Joseph Huỳnh Văn, vào lúc cần nhất, và
ông Trời bèn gật đầu, lời khẩn cầu của mi, đã được chấp thuận.
Đấng
này, cũng bạn quí của TTT, khi thấy thư/thơ Lỗ Bình Sơn gửi cho
Đảo Xa xuất hiện trên net, mừng quá,
bệ ngay về blog, la lớn, ơ hơ, tưởng Người
vĩ đại cỡ nào, hóa ra cũng có bồ nhí, như mình!
A HISTORY OF SOLITUDE
Birdsong diminishes.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
Adam Zagajewski
Chuyện Tình Buồn
Tiếng chim loãng dần.
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo. (a)
Cái tít Chuyện Tình Buồn này, thay vì Một chuyện về nỗi cô đơn, là do Gấu
nhớ đến cô bạn, và những ngày Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình Buồn, là ở Ðỗ Hòa,
1 buổi tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội, và khi
1 anh tù hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái muỗng đánh nhịp,
Gấu bèn nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên ngoài,
trong bóng tối nhìn vô căn nhà cũ, em thì đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Bèn lủi thủi ra về. Trưa
hôm sau, bị tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô trường Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình
Triệu, vừa hết cữ vã, là xin đi lao động Ðỗ Hòa liền, hy vọng trốn
Trại, kịp chuyến vượt biên đường Kampuchia.
Đọc lại thơ Adam Zagajewski
En Route
GULLS
Eternity doesn't travel,
eternity waits.
In a fishing port
only the gulls are chatty.
Hải Âu
Vĩnh cửu không du lịch,
Vĩnh cửu đợi
Tại một cảng đánh cá
Chỉ hải âu thích tán gẫu.
In memory of my mother
Phi
trường AMSTERDAM
Tưởng nhớ
Mẹ
Hoa hồng vào Tháng Chạp, ước muốn
trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang cháy
Trong lúc lang thang ở ngoài trời
ngày hôm qua, tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những người
khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi
Phi cơ cào xiết trên nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo
Có lẽ đám tang của mẹ nên được tổ
chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.
Một con người nên lo
lắng đến những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái áo dài mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.
Trong bóng tối, những sự vật sau
chót sáng chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng Sinh.
Những chiếc lá bạc hà làm dịu
cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn thật lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....
Vị linh mục già sẽ lắp bắp xướng
tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Adam Zagajewski
Có những bài để lại ấn tượng
thật lâu, sâu đậm như bài Phi trường
Amsterdam...
DV
Tks
Bài này, khi Gấu dịch, không
mấy xúc động, nhưng khi đọc lại, bồi hồi nhớ Mẹ, nhất là khổ thơ sau
cùng:
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Brodsky
cũng có ba búa TGK, như TTT, khi truyền lại cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh ông.
Con người sở dĩ sống sót được, là nhờ truyền thống, thông qua
đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất mẹ cái
đuôi, và để bù lại, Thượng Đế ban cho nó hồi ức.
Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng sống sót,
không phải là nhờ đạo hạnh mà nhờ bửn quá, do óc bị thiến mất
1 mẩu, trong mẩu này có cái gọi là lương tri của con người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật trịa tứ
lung tung, một phần là do đang bấn xúc xích bởi 1 đề tài, tại
sao Mít không thể tưởng niệm, nhân đọc Sebald viết về văn học Đức sau
chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu, và, tại làm sao lũ Bắc Kít cứ cực
kỳ thông minh, là óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có 1 bài
viết, Gấu ngộ ra được điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông bố quá khôn,
bỏ chạy kịp trước khi Cựu Lục Địa vào tay Nazi, nhờ vậy gia đình
ông sống sót Lò Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót, là do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong chuyện
dưới đây, cho thấy, là do chúng ngửi ra trước tai họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1 Steiner,
là do hồi ức: Ông sống sót để kể câu chuyện về Lò Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần đạo hạnh
rất dễ bị thương tổn, và cái đuôi của bạn ló ra, thay cho hồi
ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là thứ văn chương
tiên tri và văn chương hồi ức, như thế, là đều liên quan tới
cái đuôi của con người đã bị mất đi theo đà tiến hóa của nó.
C.200: Rome
The Departed
When a house is on the verge of ruin the mice in
it, and the martens also, forestall its collapse and emigrate.
This, you know, is what they say happened at Helike, for when
the people of Helike treated so impiously the Ionians who had come
to them, and murdered them at their altar, then it was (in the words
of Homer) that "the gods showed forth wonders among them. “For five
days before Helike disappeared all the mice and martens and snakes
and centipedes and beetles and every other creature of that kind in
the town left in a body by the road that leads to Keryneia. And the people
of Helike seeing this happening were filled with amazement but were
unable to guess the reason. But after the aforesaid creatures had departed,
an earthquake occurred in the night; the town collapsed; an immense wave
poured over it; and Helike disappeared, while ten Lacedaemonian vessels
that happened to be at anchor close by were destroyed together with the
city I speak of.
Aelian, from On the Nature of Animals. A teacher
of rhetoric, Aelian earned the nickname Meliglottos, meaning
"honey-tongued," based on his fluency with Greek. In addition to
his seventeen-volume work on animals, Aelian published Indictment
of the Effeminate, a posthumous attack on the emperor Marcus Aurelius
Antoninus, and a collection of fictional letters about Attic country
life. Elsewhere in Animals, he describes the tradition of tuna fishermen
to pray to Poseidon, whom they called "Averter of Disaster," asking
for neither swordfish nor dolphin to destroy their nets.
I am above the weakness of seeking to establish
a sequence of cause and effect between the disaster and the atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một tiếp nối
về nguyên nhân và hậu quả, giữa tai ương và sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng ở Helike đối với
dân Ionians, đến nỗi những vị thần mà cũng ngạc nhiên giữa họ, như
thế, không mắc mớ gì đến tai ương động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán, mọi người,
trong thâm sâu của trái tim của họ, đợi tận thế tới:
Everyone deep in their heats is waiting for the
end of the world to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải sống, trong
khi chờ đợi ngày đó:
We got to live, no matter how many skies have fallen,
D.H. Lawrence, 1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài, thì
một xã hội mới, mới sản sinh ra, và làm chúng ta hãnh diện về
nó.
Out of the experience of an extraordinary human
disaster that lasted too long must be born a society of which all
humanity will be proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện, sau tận
thế, chăng?
GCC
Trong cuộc trò chuyện với Volkov, về Maria Tsvetaeva,
Brodsky có nhắc tới Susan Sontag; theo bà này, phản ứng đầu
tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là hỏi, tôi có làm
điều chi lẫm lỗi, và bây giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng
xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một cách nữa, cứ để
cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn lại đứng lên được,
thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the phoenix
principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với nó.
GCC trở thành công dân Canada
cc 1997
Kỷ Niệm
Re: Hi
Sunday, October 11, 2009
I am fine. Tks…
Vui thấy anh Trụ vẫn ra sức ... đọc và viết
K
Vẫn ra sức?
Độc thiệt!
Đọc và viết, thôi, sao?
Còn... trả đòn nữa chứ!
Tks, anyway!
NQT
GẶP BẠN TẠI NAM
CALIFORNIA
Tưởng rằng đi du lịch sẽ nhiều thời gian, ai dè lại
ngắn. Bạn bè gặp thoáng chốc vài người sau nhiều năm
GCC
quen NTK, từ trước 1975, thời gian dịch sách cho ông Nhàn, nhà
xb Vàng Son, và phụ giúp trông coi tờ báo thiếu nhi, chủ bút Từ Kế Tường.
Còn NDT, là sau 1975, qua quán cà phê Bà Lê Chân, của
Huy Tưởng, cùng với cả 1 lô bạn hữu khác, như Nguyễn Tôn Nhan, Trương
Đình Quế, Vũ Ngọc Giàu....
Bài đầu tiên, của tên nhà
văn Ngụy, NQT [ký tên thiệt] sau 1975, “sa đích văn nghệ”,
trước 1975, là điểm cuốn Trăm Năm Cô Đơn của Garcia
Marquez, đăng trên tờ Thanh Niên.
Nhận ra liền, Thầy của GM là
Faulkner, và TNCD, là từ Âm Thanh và Cuồng Nộ
mà ra:
Nếu Faulkner đập nát thời gian, và xây dựng lại nó,
bằng ý thức của 1 tên khùng, thì GM cũng đập nát thời gian, và xây
dựng lại, bằng những vòng tròn đồng tâm, đồng hiện, những nhân vật
trùng tên, Gấu đã từng phán như thế, trong bài điểm sách đăng trên tờ
Thanh Niên.
Bài điểm sách, Gấu thật
thú, vì gặp lại Faulkner, nhưng trên thực tế, nó là 1 thứ cò mồi,
để tìm cách làm 1 chân tà lọt, hay bất cứ 1 chân gì khác, ở báo
Thanh Niên.
Khi bài được đăng, là Gấu Cà Chớn đi một bức trường
thư, xin được làm việc cho "Cách Mạng", gửi Huỳnh Tấn Mẫm, Trùm tờ
Thanh Niên, nhờ bạn quí Butor Mít đưa giùm.
Vụ này nhà thơ Đại Hàn Quan Đô Chung rất rành. Anh
còn nhận xét với Nguyễn Mai, cái thư, đúng là 1 tác phẩm văn học.
Qua Nguyễn Mai, Gấu hân hạnh được hầu rượu nhà thơ tại
nhà Nguyễn Mai!
Anh rất quí Gấu. Đó là thực tình, và tình thực.
Đếch thằng nào trả lời [I
mean, Trùm VC nằm cùng HTM + Mít Butor]
Chúng quá rành Gấu, ghiền!
Sau đó, GCC thử xin việc ở tờ Công An TP/HCM, khi nhờ
Hoàng Yên Di, anh bạn cùng làm với Ông Nhàn, nhà xb Vàng Son, cũng
là bạn của NTK, giới thiệu/xin gặp Huỳnh Bá Thành, cũng 1 đấng VC nằm
vùng, kèm 1 bài viết. Anh ta không gặp GCC, nhưng nhờ Hoàng Yên Di đưa
cho Gấu tí tiền đi chích, và nói, bài không hợp với báo CA.
Bảnh nhất, “người” nhất, là tờ Tuổi Trẻ.
Gặp gỡ, đề nghị viết thường trực.... Chuyện này lèm
bèm rồi.
NQT & NTK
Café Hương Xưa 1972
Cả 1 thời làm đệ tử Cô Ba,
nhờ bạn NTK mà còn được tí kỷ niệm tuyệt vời này!
Lần đó, hẳn là tháp tùng ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, dự
tiệc gì đó, ra về ghé quán cà phê.
Bởi là vì ít khi GCC phải thắt cà vạt lắm, những ngày ở Sài
Gòn.
Hương Xưa?
Hình như 1 quán ở Gò Vấp.
Kepler
khám phá ra, mặt trời là định tinh, và những vì sao khác, như
trái đất, mặt trăng… quay quanh mặt trời, từ 1 cảm quan tôn giáo:
Chúa ban ánh sáng tới cho muôn loài.
Ngược hẳn Gấu Cà Chớn.
Gấu phát giác ra, những cái đọc trước 1975,
là để sửa soạn đón nhận cái họa Lò Thiêu, là từ cảm quan
“đói”, những ngày tù Đỗ Hòa!
Phải đến khi về già, nhìn lại, Gấu mới hiểu
ra 1 điều thật là tầm thường giản dị:
Giả như là Gấu có được cái ân sủng, là
1 tên Ky Tô, thì đời Gấu khác hẳn.
Bởi là vì rõ ràng là, Chúa quá quan
tâm đến 1 tên vô đạo là Gấu Cà Chớn, tếu thế!
Cái gì gì:
Em linh hồn vô tội
Đeo thánh giá huy hoàng
Anh 1 đời sám hối.
Mà sao vẫn hoang đàng!
Lần đầu nghe bản nhạc, là ở
trong tù Đỗ Hòa.
Nghe 1 phát, là bủn rủn chân tay..... (1)
(1) Gấu có một bài viết,
cứ ấp ủ mãi, mà không làm sao viết ra được, cho đến lúc thấy cái
tít kỷ niệm 5 năm talawas !
Bài viết liên can đến một bài hát, Gấu
nghe, lần đầu trong đời, những ngày ở trại lao động cải tạo
Đỗ Hòa, Cần Giờ.
Chuyện Tình Buồn.
Có hai tay ca bài này thật là tới, một
là bạn thân của Gấu, Sĩ Phú, và một, Tuấn Ngọc.
Năm năm trời không gặp,
Được tin em lấy chồng...
..
Anh một đời rong ruổi,
Em tay bế tay bồng...
Chả là, trước khi bị tóm, bị tống đi lao
động cải tạo, một buổi tối, Gấu nhớ cô bạn quá, mò tới con
hẻm ngày xưa, đứng thật xa nhìn vô căn nhà, lúc đó cũng
đã tối, thành thử cũng chẳng ai thèm để ý, và Gấu thấy cô bạn
ngày nào đang đùa với mấy đứa con, đứa bò, đứa nằm dưới sàn nhà,
tay cô thì bận một đứa nữa.
Cảnh này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc là lại
hiện ra, ngay cả những ngày sắp sửa đi xa như thế này....
Thế mới thảm !
Thế mới nhảm !
Thế mới chán ! NQT
Nhật Ký 64
***
GyorgyFaludy (Hungary-
mất ngày 1 Tháng Chín, 2006, thọ 95 tuổi) chọn nhà tù.
Ông đã được đề nghị, một cơ may, chạy trốn quê hương, qua Áo
định cư, nhưng từ chối, và lý luận, rằng, tôi phải tận mắt chứng
kiến, những đau khổ, những rùng rợn, cho dù tới cỡ nào, mà những
người Cộng Sản mơ tưởng ra được, cho xứ sở của tôi
Không có viết và mực, ở trong trại tập trung
Stalinist tại Hung, Gyorgy Faludy dùng cọng chổi để viết, bằng
máu, và trên giấy vệ sinh. Đau khổ, như một lần ông nói, không
phải là một đức hạnh. Nhưng ba năm của ông tại Recsk, từ 1950 đến
1953, theo một nghĩa nào đó, quả là những năm tháng mặc khải. Tập thơ
xuôi, "tản văn", như lối nói hiện nay, nổi tiếng ở bên ngoài nước Hung,
kể lại quãng đời hưng phấn một cách âm u đó, darkly inspiring, tức thời
gian ông ở tù được ông đặt tên là “Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa
Ngục.
Note: Những ngày ở Đỗ Hòa của Gấu, 1 cách nào
đó, cũng là những ngày hạnh phúc. Gấu làm báo nông trường,
làm Y Tế Đội, nhờ lần thăm nuôi đầu tiên và cũng là cuối cùng
của Gấu Cái. Những lần sau, bà cụ Gấu lo, tháng 1 lần, trong hai
năm trời....
Chú
Trụ,
Tính theo tuổi ta chú bước vào tuổi tám mươi. thượng
thọ chú ạ.
Thì cũng đùa cho dzui, thượng thọ cái con khỉ gì, anyway,
Tks All
NQT
How shameful it is to grow
old -
I don't know why,
after all I never made
a vow
I wouldn't die
or slip away, my white
hairs shining
to the pitch-dark cellar,
nor did I promise myself
I'd stay a child for ever,
but all the same I'm suddenly
uneasy -
my withering is plain.
I know why it hurts so
much,
but why, oh why, this
sense of shame?
(1994)
Sasha Dugdale
Sống già nhục lắm
Anyway, Gấu không thề,
Mình sẽ tuyệt tích giang hồ,
Cũng chẳng mong, cứ trẻ mãi cùng cô bé 11 tuổi
Nhưng bất thình lình, Gấu thấy hết cà chớn
Thấy đau, như cái lần chạy theo Em ở cổng trường Đại Học Khoa Học Saigon
Nhưng, tại sao,
Nỗi tủi hổ đó: Sống già, ăn mừng thượng thọ?
BLACK BUTTERFLY
Ghost ship of my life,
Weighed down by coffins
Sailing out
On the evening tide.
Bướm Đen
Con thuyền ma của đời Gấu Cà
Chớn
Chở khẳm hòm
Ra khơi
Vào con nước buổi chiều.
@
Irvine, Cali
Thèm ngồi đây, như ngồi Quán Chùa ngày nào
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/29.html
[Note: To U, the figure of the
lady, a California image, in this poem. GNV]
THE IMAGE
The child brought blue clay
from the creek
and the woman made two figures: a lady and a deer.
At that season deer came down from the mountain
and fed quietly in the redwood canyons.
The woman and the child regarded the figure of the lady,
the crude roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were not sure where she came from,
except the child's fetching and the woman's hands
and the lead-blue clay of the creek
where the deer sometimes showed themselves at sundown.
Ảnh Tượng
Đứa bé mang đất sét màu xanh
từ thung lũng về
Và người đàn bà nặn thành hai
bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này, nai thường
từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng lẽ trong
những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà và đứa bé nhìn
bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn trăng đầy
đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc, vì phu nhân
tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ say mê của đứa
bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét xanh màu chì của
thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong
mù hoàng hôn”.
as
long as death and love are there, art will remain - Adonis
Today at 1:47 PM
Mới đọc trên Tin Văn cái câu trên , thật là perfect .
Vì mình là thứ viết và đọc lơ mơ, dở ẹc, nên chỉ chọn một trong
hai thôi, vế sau.
Oanh ơi, đi lặn cũng phải có người đi chung mới vui .
Về đề nghị của bạn đọc TV, mình nghĩ, mình đang thong dong,
muốn đọc, muốn viết về đề tài gì cũng được, lúc nào và nơi đâu cũng
được, như một ân sủng của thời gian và của Trời, mình chẳng dại buộc mình
vào một lời hứa suốt cả năm trường, chẳng biết để làm gì .
Chúc khỏe Oanh và anh Trụ nghe .
K
Tks ALL OF 3
NQT
Transtromer
Page
TTT 10 years Tribute
định kiến
tôi. cầm một. bông hoa
tìm ra. sự quyến dụ
không bằng màu. sắc
không bằng mùi. hương
bằng những ngón. tay
và bờ. môi
có thể. nào
đi vào lại. khu rừng
cháy. bỏng
những ký ức vội. vàng
tìm những. bông hoa
trắng. đen
tôi. không tin vào. định mệnh
làm tàn. úa
mùi hương. những hạt sương. sớm
chúng ta. ở. đâu
trong những ô. vuông vức. lãnh cảm
nhoè. màu
ly rượu. thay cho vị. hạnh phúc
lẫn. trong nhau
trắng. đen
tuân thủ theo. những điều có. sẵn
để được lớn. lên
mặc dù. chúng ta vẫn. thức
như. con ong
cố lấy. mật ngọt
đâu biết màu. sắc
như sự giản dị. ban đầu
trong. tình yêu
khi thân thể còn. ướm mật
trắng. đen
và sau đó. thì phức tạp. vô cùng
dư âm. rung trong đoạn. khúc
dang. dở
những sản phẩm. cắt dán
của. con người
về một. khu rừng
lẫn trong. sắc màu
với những hạt sương. sớm
với những bông. hoa
cùng. những tia nắng đầu. ngày
thì. không thể không. đẹp
nhưng vẫn chưa. đủ
em. hãy nói hộ. tôi
Đài Sử
Chiều 1 mình xuống phố, đi 1 đường
xeo phi
En
attendant SN
You invented me. No such person
exists, that's for sure,
There's no such creature anywhere
in sight.
No poet can quench my thirst,
no physician has a cure,
The shadow of your ghost haunts
me day and night.
We met in an unbelievable year,
The energies of the world were
worn through,
The world was in mourning,
everything sagged with
fear,
And only the graves were new.
In the absence of light, how
black the Neva grew,
The deaf night surrounded us
like a wall . . .
That's exactly when I called
out to you!
What I was doing-I didn't yet
understand at all.
And, as if led by a star you
came to me,
As if walking on a carpet the
tragic autumn had grown,
Into that house ravaged for
the rest of eternity,
From whence a flock of burned
verses has flown.
1956
Anna Akhmatova
Mi phịa ra ta. Làm gì có cô
gái nào tên là BHD, chắc chắn như thế,
Làm gì có thứ bông hoa lạ
như thế ở khắp mọi nơi, trong tầm nhìn
Chẳng tên thi sĩ nào có thể
làm dịu cơn khát của ta, không tên y sĩ nào có thứ
thần dược chữa trị,
Cái bóng của con ma tình, là
mi, tên GCC, làm khổ ta ngày và đêm
Hai đứa ta gặp nhau đúng trong
cái năm không thể nào tin tưởng được đó
Nhiệt tình trọn thế gian đốt
trọn cuốn lịch
Thế giới ư, tóc tang tang tóc,
mọi chuyện chùng xuống vì sợ hãi
Chỉ những nấm mồ là mới.
Thiếu vắng ánh sáng, con sông
Neva bèn càng đen thui
Đêm điếc đặc bao quanh đôi ta
như bức tường
Đúng là vào lúc như thế ta
gào tên mi, GCC!
Ta đang làm gì đây - Ta chẳng
thể nào hiểu
Và, như thể được 1 vì sao dẫn
dắt,
Mi bèn đến với ta....
Selected and Translated by
Lyn Coffin
15.6.2016: Richie
lên lớp
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những
tháng năm này
để mùa đông dài thật
dài
và chén đắng cay tưởng
không bao giờ cạn
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn:
Tuyệt!
Tks
NQT
Nhớ là Kundera có nhận
xét, cái gì gì, "chúng ta có một đời để sống", nhảm. Một đời thì
sống làm khỉ gì. Phải vài đời, nhiều đời, đời đời.
Gấu Cà Chớn cũng nghĩ
như thế, và cũng đã kể về vài đời Gấu đã từng trải qua. Luôn cả
1 tiền kiếp của GCC.
Trong những cuộc đời
như thế, khủng nhất là cuộc đời dởm, chẳng có gì hết, vậy mà cực
kỳ thê thương….
Ui chao, Vargas Llosa
cũng phán như thế, và không chỉ phán, mà còn đi cả 1 cuốn tiểu
thuyết về nó, và ông coi đó là giấc mơ của 1 tên… Bắc Kít, Ái
Nhĩ Lan.
Each one
of us is, successively, not one but many. And these successive
personalities that emerge one from the other tend to present the
strangest, most astonishing contrasts among themselves.
-Jose Enrique Rodó,
Motives of Proteus
“The Dream of the Celt”
is a moral tale. It is about the choice between denial or denunciation
in the face of evil, and the fine line between activism and fanaticism.
That makes an old story strikingly contemporary.
“Giấc mơ của tên
Bắc Kít, GCC” là một câu chuyện đạo đức. Đó là về sự chọn lựa
giữa nói “Không” với cái Cái Ác Bắc Kít – hay là ị vào mặt Bắc
Bộ Phủ như 1 bà nhà văn cũng Bắc Kít đã từng làm – và sợi dây mỏng
dính, đẹp tuyệt vời, như sợi sữa, trong 1 bức danh họa, (2) giữa hành
động và cuồng tín.
Mỗi tên GCC trong chúng
ta, là tiếp diễn của, không phải một, mà là nhiều tên GCC. Trong
số những tên GCC, tên nọ tiếp tên kia như thế đó, sẽ có 1 tên
cực là khủng, chứa chấp trong nó, những tương phản lạ lùng nhất,
kinh ngạc nhất - bảnh nhất trong những tên GCC - giữa chúng.
Chắc là tên GCC làm
trang Tin Văn?
Hay là tên chạy theo
em BHD, khóc như cha chết ở Đại Lộ Cộng Hòa, bên ngoài cổng trường
Đại Học Khoa Học?
Hay là tên khóc thằng
em trai, tử trận, khiến một em không làm sao nỡ bỏ đi, lấy sữa
cho con uống? (1)
Hay là…
Hay là...
Hà, hà!
(1)
Ui chao, đọc ba chớp
ba nháng, as always, tưởng em không nỡ bỏ đi lấy chồng, hóa ra, con
khóc, khát sữa, đi lấy sữa cho con!
Niên
học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng
sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm,
thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi
sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.
NKL
Today at 8:43 AM
Trụ ơi, tao nhớ có lần mày nói với tao rằng mày từng
nhận ra lời lẽ trong "nhạc sến" rất hay, tạo được nhiều cảm xúc nơi
người nghe và mày cũng rất thích. Tao thấy bài-viết về nhạc sến tao
gởi trong thư này cũng rất tới, mày đọc sẽ thấy nhiều điều mày đồng
ý.
Tks
Trên trang TV có nhiều bài về nhạc sến. Đọc bài mày
gửi, cũng OK, nhưng không đã lỗ nhĩ cho lắm
Hà, hà
Take care all of U there.
NQT
AI NGHĨ HOẶC NÓI THẾ NÀO CHỨ NHẠC
"SẾN" NGHE RẤT "TỚI"". TẶNG CÁC BẠN MÊ NHẠC SẾN.....
GIÀ ĐẦU CÒN MÊ NHẠC SẾN
Vũ Tiến Thành
Lời người biên tập: Tác giả Vũ Tiến Thành tham gia
viết báo cũng hơn 20 năm rồi. Ông là một trí thức được đào tạo trước
năm 1975. Có thời gian dài, ông giữ một chuyên mục trên trang báo Sài
Gòn Tiếp Thị (tờ này đã bị ông chính quyền buộc phải đóng cửa vì hay
móc méo “đảng và nhà nước”).
Đọc những chia sẻ của tác giả Vũ Tiến Thành, là bắt
gặp cả khung trời kỷ niệm của từng ký ức, của một Sài Gòn thăng
trầm…
Xin mời bạn đọc cùng lên chuyến xe kỷ niệm ở một trưa
cuối tuần.
***
“Người từ ngàn dặm về mang nỗi sầu…” (Thu sầu- Lam Phương)
Hồi nhỏ tôi mơ làm… kép cải lương. Ước mơ “khủng” này
không xuất phát từ giọng ca đầy “tiềm năng” của tôi mà đơn giản
vì… tiền. Một thằng nhóc 8- 9 tuổi mơ số tiền lớn cỡ cát xê danh ca
Út Trà Ôn thì hơi không bình thường. Nhưng đó là nguyên nhân gần, chứ
nguyên nhân sâu xa là tôi bị nhiễm cái máu giang hồ lục tỉnh.
Coi cải lương thì tôi có cơ hội đi ”ăn theo” mấy bà
chị, nhưng xem xi nê, dù xoay sở cách mấy tôi cũng đành phải coi…
cọp. Tôi thường lê la ở rạp Văn Cầm gần cầu Kiệu, thấy anh chị nào
quởn quởn là lẩn theo như em út vào xem ké. Giao du với đám nhóc gần
đó, tôi cũng biết thêm vài mánh xem cọp, chẳng hạn chỉ cần mua một vé,
một thằng vào trước, rồi lẩn ra góc rạp đưa vé đã xé cho thằng khác,
có sẵn cái cùi vé vất đi, dán sơ xịa vào, rồi tỉnh bơ chìa cho ông soát
vé vào rạp, rồi lại tiếp tục tuồn vé cho thằng sau….
Trót lọt vài lần, tôi về xóm, họp bè bạn, hãnh diện
tuyên bố trưa chủ nhật này sẽ dẫn chúng đi xem phim Ben Hur với
chiếc vé… thần. Cả bọn hào hứng, bàn tán, và ngưỡng mộ. Buồn thay!
Một thằng em với điệu bộ lúng túng của kẻ phạm tội lần đầu đã làm
hỏng chuyện, không qua mặt nổi ông soát vé ngờ nghệch nhất. Thế là
cả lũ bị điểm mặt từng tên, thất bại ê chề…
Trưa chủ nhật nằm chèo queo trên căn gác gỗ, gặm nhấm
nỗi hờn quê độ với bè bạn, ê ẩm cả người. Tôi vớ đại tờ báo “Kịch
Trường” của bà chị, đọc qua loa để xua đi nỗi buồn. Mắt tôi chợt
sáng lên khi đọc thấy tin Út Trà Ôn vừa ký contra ba bốn chục vạn
gì đó với một gánh hát.
Trời đất ! Vé xi nê chỉ có 3 đồng, và như điện xẹt,
tôi ư ử vài câu vọng cổ, rồi bỗng mơ mộng mình thành kép hát cải
lương mà không cần biết hò xự xang xê cống ra sao, cũng chẳng cần
biết giọng ca mình là cái thá gì. Có tiền, tôi sẽ bao cả bọn đi
xem xinê, không chỉ một lần mà nhiều lần, bao cả bè bạn bà con của
chúng luôn, sẽ mua đậu phộng da cá mang vào rạp ăn vặt, mua cả hạt
é, xi rô đá nhận để giải khát,… Cứ thế và cứ thế tôi chìm vào giấc
ngủ trưa với giấc mơ hào hiệp.
Cải lương dính dáng với tuổi thơ tôi như vậy đó, chẳng
yêu chẳng ghét. Nó như một chiếc cầu nối để tôi mơ mộng nhiều thứ.
Năm tháng trôi qua, ở cái tuổi xem xi nê không còn
hào hứng đứng dậy vỗ tay nữa, tôi xoay qua nghe nhạc lãng mạn. Thời
sinh viên ai chẳng uống cà phê nghe nhạc, mà nghe nhạc gì mới được.
Phải là nhạc cổ điển, nhạc tiền chiến, nhạc trữ tình, lời lẽ ẩn dụ , êm
ái như thơ,…
Cái gout nhạc ngon lành này đã vô tình (?) vạch ra
một ranh giới mù mờ giữa cái gọi là nhạc “hàn lâm”, và phía kia là
nhạc sến. Một đàng là của giới có học, thưởng thức điệu nghệ. Đàng
kia của giới bình dân, lời lẽ giản dị, phơi bày, âm điệu dễ nghe, dễ
hát, thường là điệu Bolero, Rumba, Habanera,..
Chữ “sến” hàm ý chê bai diễu cợt một hình thức bày
tỏ nào đó: “ Thằng này ăn mặc“sến” quá !”, và người ta cũng có thể
nói: “ Thằng này ăn mặc “cải lương” quá!”. Theo cách hiểu đời thường,
chữ “sến” đồng nghĩa với “cải lương”. Đụng tới “cải lương” là tôi
thấy… phiền, dù sao đó cũng là ký ức của một thời hào hiệp.
Nhạc sến và cải lương có quan hệ mật thiết, chẳng phải
người ta nói là tân cổ giao duyên đấy sao! Tôi không yêu cũng không
ghét cải lương hay nhạc sến. Nói đúng ra, hồi đó tôi mơ hồ thấy nhạc
sến cũng không tệ, chỉ có điều không dám nói ra điều đó với ai.
Những năm sau 75 lắm chuyện đổi đời. Một buổi khuya
lạng quạng về nhà trong cơn say, , tôi chợt nghe văng vẳng, giọng
hát của ai đó:
“ … Có người con gái buông tóc thề,/ Thu về e ấp chuyện
vu quy…”
Bài hát đúng là sến, giọng hát cũng sến, nhưng đã
làm tôi ngẩn người… Cái âm u kinh viện của đống sách triết học,
chỉ muốn với tay lên cõi trên, khiến tôi thờ ơ với chút tâm tư giản
dị và hết sức đời thường của một thiếu nữ.
Chợt nhớ đến đám bạn, sau 75, bỗng nhiên ào ào lấy
vợ lấy chồng để gọi là “thích nghi với tình thế”, hay chờ ngày ra
đi. Con hẻm nhỏ ngoằn nghèo còn đọng những vũng nước mưa. Như vừa thấm
thía ra điều gì đó, tôi dừng chân dựa tường nghe đến hết bản nhạc: “…Có
ai ngồi đếm mùa nhung nhớ, nỗi niềm đầy lại vơi, mỗi mùa tiễn đưa một
người…”. (Nỗi buồn gác trọ – Mạnh Phát (?)
“Nỗi buồn gác trọ” làm tôi liên tưởng đến một bản nhạc
khác (không nhớ tựa đề), lõm bõm vài câu thế này: “… Em biết thân
em phận gái nghèo hèn, mà lỡ yêu thương ai rồi, cầm bằng như áng
mây trôi…”. Chuyện tình tan vỡ vì thân phận giàu nghèo, giai cấp
có đầy ở trong cuộc sống này, và nỗi đau được bày tỏ qua tiếng nhạc
bằng ngôn ngữ đời thường dù hơi thiếu chất thơ một chút, thì liệu có
nên lãnh đạm chỉ vì nó là nhạc sến?
Nhạc Việt nhiều khi nghe hay là do ca từ. Ca từ trong
nhạc Trịnh Công Sơn cứ ngắt câu chấm xuống hàng là thành bài thơ.
Nhạc Việt có chất thơ, có vần có điệu, có lẽ do ảnh hưởng ca dao hay
hát ả đào chăng? Vần điệu của ca từ có thể đưa đến ý, đến nhạc, để rồi
vần điệu đẻ ra nỗi lòng, chứ chưa chắc nỗi lòng đẻ ra vần điệu. Sự trộn
lẫn này khó bóc tách. Nếu nghe nhạc không lời, mà trước đó chưa hề
biết lời của bản nhạc, thì nhạc Việt nghe hơi… khó một chút. Nhạc và
lời cấu thành bản nhạc khó tách rời.
Nhạc Tây hình như thiên về nhạc hơn lời, và không phải
bản nhạc nào của Tây cũng có ca từ hay như bài Sacrifice của Elton
John (lời B. Taupin) hay bản Papa của Paul Anka. Ca từ của nhạc Beatles
hay Abba nếu dịch ra tiếng Việt thì nghe chán phèo, nhưng âm điệu
của nó lại nghe rất hấp dẫn, chả thế mà nó được cả triệu triệu người
trên thế giới ưa chuộng, hẳn là vì nhạc chứ không phải vì lời.
Ca từ trong nhạc sến mộc mạc, giản dị, cũng trời trăng
mây nước, nhưng không nhiều ẩn dụ, nghe là hiểu, khỏi cần suy đoán.
Và trong tình huống cụ thể nào đó, những lời lẽ đơn sơ đó ngấm ngay
vào tâm hồn người nghe, mà khỏi cần tưởng tượng hay suy diễn thêm cho
phiền phức.
Tôi được mời đi dự đám cưới. Chú rể là Việt kiều,
lúc đó trạc ngoài 40, không biết đã qua đò lần nào chưa, không tiện
hỏi. Tôi bên nhà gái, nên vào bàn tiệc kính nhi viễn chi, ăn uống
từ tốn, nói năng từ tốn cho phải phép.
Tiệc cưới thì ồn ào, tưng bừng, hát hò,… khỏi nói.
Cô dâu chú rể lăng xăng bàn này bàn nọ. Gần cuối bữa tiệc, những
người ở bàn bên cạnh, chắc đều là bạn chú rể, đứng lên, nâng ly và
hát, cả cô dâu chú rể cũng hát, không đàn không trống, họ hát theo
nhịp cái muỗng gõ vào ly:
“….Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng tôi lại
về bên em…”
Họ hát đồng ca, nhớ gì hát nấy, nương lời nhau mà
hát. Tôi có cảm tưởng như một người trong cặp uyên ương này, hoặc
cả hai, vừa vượt qua sóng gió nào đó để đi đến ngày hôm nay. Bỗng
nhiên tôi thấy hào hứng buột miệng hát theo:
“…Tình người sau cơn mê vẫn xanh, dù bao tháng năm
đau thương dập vùi…”
Một kiểu cách chúc mừng đám cưới ý nghĩa quá! Lời
ca giản dị, không công thức, không sáo ngữ, không một ban nhạc hoành
tráng nào, và không một siêu ca sĩ nào theo kịp…
Ngôn ngữ điêu luyện nhiều khi che đậy một cái gì đó
không thực, không chừng gọi đó là “sến trí tuệ” cũng được.
Thú nhận mình mê nhạc sến chẳng phải là chuyện dễ
dàng. Cái sĩ diện (hão) của thằng tự cho mình là trí thức coi vậy
chứ bự lắm. Có lần ngồi nhâm nhi cà phê với một bậc đàn anh, thuộc
loại tài hoa, trí dũng song toàn, tôi buột miệng: “Khi người yêu
tôi khóc” của Trần Thiện Thanh nghe cũng không đến nỗi…”. Ông huynh
trưởng phán lạnh tanh: “Tớ không hiểu vì sao Sĩ Phú lại hát bản này”.
Tôi… tịt ngòi. Miếng trầu đưa ra chưa kịp quết vôi, không có duyên
để chia sẻ đề tài này. Câu chuyện cũng hơn 30 năm trôi qua rồi…
Những năm sau này đi hát karaoke với bè bạn, tôi thường
chọn nhạc sến. Bọn chúng dĩ nhiên chẳng bỏ qua cơ hội để chế diễu.
Tôi cũng… ngượng, mặc dù đã cố giải thích (để chữa thẹn) rằng, chẳng
hạn “…Nếu vì tình yêu, Lan có tội gì đâu, sao vướng vào sầu đau…”.
là câu hay nhất của bài hát “Chuyện tình Lan và Điệp”.
Thời gian làm tôi chai mặt, lì đòn hơn để khẳng định
rằng mình thích nhạc sến, và cũng thời gian, khoảng hơn chục năm
sau, tôi thấy bạn bè tôi, những kẻ từng “mỉa mai” tôi về nhạc sến, mỗi
lần đi hát karaoke chúng lại chọn nhạc sến. Càng xỉn càng hát nhạc sến,
hát không giấu diếm, hát say mê, hát như thể chỉ còn cá nhân chúng
nó trên đời. Hình như khi xỉn người ta quên mất mình đang mặc áo vest
đeo cà vạt.
Tôi chưa hề ngộ ra rằng nhạc sến hay. Đối với tôi, cải
lương hay nhạc sến là cả một khoảng trời ký ức không thể chối bỏ,
đã nằm sẵn đâu đó trong tiềm thức rồi, khỏi cần phải ngộ hay chưa
ngộ.
Nhạc hiệu của chương trình tuyển lựa ca sĩ mỗi sáng
Chủ nhật tại rạp Quốc Thanh: “Trời hôm nay thanh thanh, gió đưa cành
mơn man tà áo…”, đã lâu lắm rồi không nghe, mà sao vẫn nhớ, nhớ cả
lúc đó mặc quần xà lỏn, cầm khúc bánh mì, vừa gặm, vừa nghe radio, vừa
hát theo cơ mà… Thế thì việc gì tôi phải úp úp mở mở, nửa phủ nhận, nửa
thừa nhận.
Đó là hành trình vượt qua nỗi… “sợ hãi”, nói thẳng
ra là vượt qua cái hèn, cái thể diện dỏm của một thằng trí thức dỏm.
Không dám trung thực với chính mình không gọi là dỏm thì gọi là gì?
Vấn đề là thời gian, sớm hay muộn công khai thừa nhận giá trị vốn có
của nhạc sến. Như thế tôi vẫn còn thua xa những người thích nhạc sến
từ thưở đầu đời cho đến hết… đời.
Tình huống dưới đây là giọt nước tràn ly khiến tôi
nhảy vọt qua nỗi “sợ hãi”.
Cách nay đã lâu, tôi đi dự đám tang của người thân.
Đội kèn Tây được mời đến để thổi nhạc vào lúc di quan đã chơi bài
“Trở về cát bụi” của Lê Dinh. Bản này tôi đã nghe sơ xịa ở đâu đó
rồi. Hôm đó ban nhạc đang chơi bỗng nhiên dừng thổi và cả chục tay
nhạc công bỗng cất tiếng hát.
“… Sống trên đời này, người giàu sang cũng như người
nghèo khó./ Trời đã ban cho, ta cám ơn Trời dù sống thương đau/
Mai kia chết rồi, trở về cát bụi giàu khó như nhau/ Nào ai biết trước
số phận ngày sau ông trời sẽ trao…”
Giọng hát ồm ồm của mấy ông thổi kèn nghe như tiếng
loa trầm rách màng, vậy mà tôi nghe như mới, nghe như nuốt từng
lời, tưởng như người quá cố đang tâm tình với mình trước giờ vĩnh
biệt.
“… Người ơi xin nhớ cát bụi là ta, mai này chóng phai…”
Trịnh Công Sơn cũng có bản nhạc “Cát bụi” với lời lẽ
hoa mỹ đầy tính triết học hơn nhiều, nhưng tôi phải thu hết can đảm
để thú nhận rằng, bài “Trở về cát bụi” của Lê Dinh đã thấm vào người
tôi nhiều hơn. Bây giờ nghe lại, vẫn thấy phê, vẫn thấy gần gũi trong
từng cách ứng xử của đời người.
Người thích nhạc sến cũng nhiều, người xem thường nó
cũng không ít, dù ngấm ngầm không nói thẳng ra. Nhưng cho dù thế
nào, có một đề tài không ai dám cà khịa xem thường, đó là những bản
nhạc nói về mẹ. Mấy bà mẹ đơn giản như dòng sữa, là lời ru, bóng mát,
là vườn rau, trái dừa,…
Nói triết lý cao siêu quá mấy bà mẹ không hiểu, mà
có hiểu cũng không thấy thoải mái, vì lòng mẹ đầy bản năng, đơn sơ
như con gà mẹ xù cánh cho lũ gà con ẩn nấp trước diều hâu. Bài “Lòng
mẹ” của Y Vân, vì vậy vẫn được xem là bản nhạc về mẹ kinh điển được mọi
người ưa thích, kể cả những… bà mẹ cũng thích bài đó, chứ chưa hẳn đã là
“Huyền thoại mẹ” hay “Ca dao mẹ” của TCS.
Hãy nghe một anh chàng xa nhà, Tết không về quê được,
nhớ mẹ thế này :
“…Giờ đây chắc mẹ già tóc bạc nhiều/ Sớm chiều vườn
rau vườn cà,/ Mẹ biết nhờ cậy vào tay ai?…” (Mùa xuân của mẹ- Trịnh
Lâm Ngân)
Nghe cái giọng rên rỉ là biết thằng con này… dóc tổ.
Y mà có về được, ôm bà già một cái, trình diễn cái màn quét nhà,
rồi thì mắt trước mắt sau lẻn đi chè chén với chúng bạn. Y mà có bạn
gái nữa thì coi như xong… Biền biệt! Mà bà mẹ cần gì điều đó, thấy thằng
con về là mừng quýnh lên, rờ tay rờ chân nó, thấy còn lành lặn đầy đủ
là thiếu điều vái Trời vái Phật rồi, trông mong gì thằng con rớ tới vườn
rau vườn cà…
Không về được thì thằng con hứa hẹn tiếp:
“…Dẫu gì rồi con cũng về/ Chỉ bên mẹ là mùa xuân thôi…”
Tâm sự của thằng con nghe thật sến, thật não lòng,
mà sao như tìm thấy tâm trạng của chính mình trong đó…
Mẹ tôi mất. Năm … là cái Tết đầu tiên không có bà.
Căn nhà ở Sài Gòn quá nhiều ký ức quen thuộc làm tôi… ngại. Giao
phó hết việc nhà, tôi chuồn lên nhà Đà Lạt một mình. Tết nhất khỏi
đi khách và cũng khỏi tiếp khách, nằm nhà đọc sách cho khỏe.
Tối giao thừa, một đĩa trái cây, vài cành hoa ngắt
dưới vườn, thắp nén nhang trên bàn thờ mẹ…. Thế là đủ. Tôi mở nhạc,
nhâm nhi ly rượu vang đón giao thừa. Cũng chỉ là những bản nhạc xưa
thôi, có bản nghe quen, có bản lâu lắm rồi mới nghe lại, và đến bản “Đường
xưa lối cũ”
“…Đường xưa lối cũ, có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru lòng
ai…”
Bà ca sĩ Kim Anh này cũng lạ, càng già giọng hát càng
ấm, càng buồn… Bài hát của Hoàng Thi Thơ có đoạn :
“… Khi tôi về, nghẹn ngào trong nắng,/ Tưởng gặp mẹ
tôi rưng rưng đứng đón con về,/ Nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc
đời/ Không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ/ Chạnh lòng thương
nhớ…”
Hai chữ “chạnh lòng…” bỗng dưng chùng xuống, thả ra
thật nhẹ, nhẹ như hơi thở… đã làm “người hùng” ngã ngựa: nước mắt
rơi đêm giao thừa.
Ca sĩ Hương Lan, trong một cuộc phỏng vấn về nhạc sến
đã bực bội: “…Cũng như từ “cải lương” vậy, đó là một loại hình nghệ
thuật, sao mọi người có thể tùy tiện sử dụng mỗi khi muốn chê cái
gì đó (sao sến quá, sao cải lương quá). Tôi xem đó là sự chọc ghẹo,
coi thường và nhục mạ rất tệ hại, nếu không nói là vô văn hóa…”.
Bà Hương Lan à, xin đừng nóng… Nhạc sến hay cải lương
hiểu theo nghĩa tốt đẹp thì nó vẫn tốt đẹp. Vàng thiệt đâu sợ lửa.
Nhạc sến cũng như nhạc “hàn lâm”, có bài hay, có bài không hay, tùy
theo cảm nhận của mỗi người.
Nhạc sến là vậy đó, nhưng ca sĩ sến thì khác. Ca sĩ
sến cho dù có hát nhạc “hàn lâm” thì vẫn là… sến (thứ thiệt), khi
mà giọng hát phải cố gào thét cho khàn ra. Cung cách giả tạo như
thế không thể bày tỏ cho nỗi lòng thực. Tương tự, “Dạ cổ hoài lang”
mà được hát với giọng opera thì chắc trời… sập. Chưa ai qua nổi Hương
Lan với giọng hát da diết ở bản nhạc này cả.
Dạo gần đây một số bậc thức giả đã đánh giá nhạc sến
một cách tích cực hơn, ra cái điều thông cảm với quần chúng đám đông,
nhưng vẫn chỉ là cái nhìn từ trên xuống. Xin lỗi! Nhạc sến có giá
trị riêng của nó, mà không cần đến bất kỳ một chiếu cố nào cả. Âm nhạc
cần có sự đồng cảm, từ người sáng tác, người chơi nhạc, người hát và
người nghe. Một khi bắt nhịp được với lời ca tiếng nhạc của nhau, thì
sự chia sẻ có thể bắt đầu.
Âm nhạc là món ăn (tinh thần), vấn đề là có hợp khẩu
vị hay không mà thôi. Gà tây nhúng sữa, kẹp phô mai đút lò chắc gì
đã bắt mồi hơn cá lóc nướng trui?
MY OWN FONDEST MEMORY OF JOSEPH BRODSKY
I studied poetry under Joseph
Brodsky, when he was a freshly exiled university lecturer and still
was largely unknown in the West. I can recall him restlessly rambling
around Ann Arbor at that time, enjoying beers with students, vigorously
debating a few lines of poetry for hours—and never suffering fools.
Any student who came ill prepared or tried to take on Brodsky with bias
masquerading as intellect would be quickly dispatched with one of Brodsky’s
verbal darts.
In my own book, “Our Lent: Things
We Carry ” I included this scene in Brodsky’s class:
In the mid-1970s, I was among
a group of University of Michigan Creative Writing students who
were disappointed to learn that our poetry seminar would not be led
by one of the leading lights in our division of the university, called
Residential College. Instead, we were to be shoved off
on a Russian immigrant, rumored to have quirky habits like chain-smoking
foul-smelling cigarettes. It wasn’t even clear if he knew much English.
So, the first evening of that
nighttime seminar, we all wandered skeptically into an RC lounge
where our class was to meet, draping ourselves over the beat-up easy
chairs and frowning at the sour smoke already filling the room.
Poet Joseph Brodsky smirked at us, shook his head disdainfully,
stubbed out his cigarette in an already overflowing coffee cup,
lit another, inhaled, exhaled—and then asked in a thick accent: “So, who among you knows a Psalm?”
The silence was so complete we could hear his breath sucking
through the cigarette.
“I can wait,” he said. And he did.
Then, a cigarette later, he repeated his plea, “Let’s hear a Psalm. Surely you know
them. You must. Because if none of you knows a Psalm—a single Psalm—then
we have got so much more to memorize in this class than I had planned.”
He sighed wearily. The ominous
word “memorize” transfixed us.
Finally, a brave young skeptic brushed the shaggy curls
from his eyes and said, “This is a poetry seminar. Why
would you expect us to memorize the Bible?”
Brodsky smoked his way through the rest of that cigarette.
Then, he stubbed it out. Lit another.
At length, he said, “Because, someday, if you are sent
to a prison camp—the poetry you carry in your memory may be your entire
world. So, we must choose well what world we will carry, no?”
Một ngày nào đó, nếu bạn
bị đi tù VC, thơ mà bạn mang theo trong đầu có thể sẽ là trọn thế
giới của bạn.
Cũng ý trên, Brodsky lập lại
trong bài viết về Nữ Thần Thi Ca
Sụt Sùi, The Kneeling Muse, làm bài Tựa cho tập thơ của Akhmatova, sau in
trong tập tiểu luận Less Than One của
ông:
At certain periods of history
it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing
it into something graspable, something that otherwise couldn't be
retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the
pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more
importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it
something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities:
cherished, strained, severed. She showed these solutions first through
the prism of the individual heart then through the prism of history, such
as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way:
Ở một giai đoạn nào đó của lịch
sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới
dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được
ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không
làm sao cất giữ được.
Điều Brodsky nói về thơ, Gấu
lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội,
[Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra thêm một điều, cái hồn của văn chương
Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!
En
attendant SN
The Invisible
Những Kẻ Vô Hình
Trong vương quốc của những người đã
chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu...
1
It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.
Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,
Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
2
Don't the shadows know something
about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just today I was admiring the
one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
Charles Simic
1
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu
kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt
lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói sự
thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của nó
lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!
2
Liệu những bóng đen biết
gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người
đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm
trồ chiêm ngưỡng
một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng
tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng
cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng
ấm Sài Gòn?
A Very Valentine
GERTRUDE STEIN
Very
fine is my valentine.
Very fine and very mine.
Very mine is my valentine very
mine and very fine.
Very fine is my valentine and
mine, very fine very mine and
mine is my valentine.
|
|