*

Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn/ Viết


Thơ Mỗi Ngày


Love Flea

He took a flea
From her armpit
To keep

And cherish
In a matchbox,
Even pricking his finger
From time to time
To feed it
Drops of blood.

Charles Simic

Rận Tình

Hắn chôm con rận
Từ bướm của nàng

Giấu trong bao quẹt
Lâu lâu nựng 1 phát

Và chích máu đầu ngón tay
Như 1 anh Bắc Kít,

Không phải để viết đơn tình nguyện
Xẻ dọc Trường Sơn Kíu Nước

Mà để nuôi
Rận tình!



Relaxing in a Madhouse


    They had already attached the evening's tears to the
windowpanes.
    The general was busy with the ant farm in his head.
    The holy saints in their tombs were resting, all except
one who was a prisoner of a dark-haired movie star.
    Moses wore a false beard and so did Lincoln.
    X reproduced the Socratic method of interrogation by demonstrating the ceiling's ignorance.
"They stole the secret of the musical matchbook from me",
confided Adam.
    "The world's biggest rooster was going to make me famous,”
said Eve.
    Oh to run naked over the darkening meadow after the cold
shower!
    In the white pavilion the nurse was turning water into wine.
    Hurry home, dark cloud.

Charles Simic: New and Selected Poems

Thư giãn nơi Nhà Khùng
Chúng đã buộc nước mắt buổi chiều vào cửa sổ
Võ tướng quân thì đang bận rộn với cả một nông trại kiến ở trong đầu
Những vì thánh trong những nấm mồ thì đang nghỉ ngơi, tất cả,
trừ 1 vì đang là tù nhân của một ngôi sao màn bạc tóc đen
Moses mang râu giả và Lincoln cũng vậy.
X chôm phương pháp tra hỏi của Socrate bằng cách chứng minh sự vô tri của cái trần nhà
Chúng chôm mẹ mất sự bí mật của vỉ nhạc của tôi, Adam lầu bầu
Con gà trống bự nhất thế giới sẽ làm tôi nổi tiếng, Eva phán.
Ui, khoả thân, chạy suốt cánh đồng sẩm tối sau khi làm 1 cú tắm nước lạnh mới đã làm sao!
Ở khu lều trắng y tá đang biến nước thành rượu chát
Về nhà lẹ lên, mây đen kia!
Report from the Hospital
We used matches to draw lots: who would visit him.
And I lost. I got up from our table.
Visiting hours were just about to start.

When I said hello he didn't say a word.
I tried to take his hand - he pulled it back
like a hungry dog that won't give up his bone.
He seemed embarrassed about dying.
What do you say to someone like that?
Our eyes never met, like in a faked photograph.

He didn't care if I stayed or left.
He didn't ask about anyone from our table.
Not you, Barry. Or you, Larry. Or you, Harry.

My head started aching. Who's dying on whom?
I went on about modern medicine and the three violets in a jar.
I talked about the sun and faded out.

It's a good thing they have stairs to run down.
It's a good thing they have gates to let you out.
It's a good thing you're all waiting at our table.
The hospital smell makes me sick.


Szymborska: Map

Báo cáo từ bịnh viện
Chúng tôi dùng que diêm để quyết định, ai sẽ là người đi thăm anh ta
Và tôi thua. Thế là phải rời khỏi bàn
Cũng đã tới giờ thăm viếng bịnh nhân

Khi tôi chào, Hi, anh đếch thèm trả lời
Tôi tính bắt tay, anh co tay lại liền 1 phát
Như con chó đói nhất quyết không chịu nhả cục xương


Anh có vẻ lo, về chết chóc, ngỏm củ tỏi
Biết nói gì đây, trước 1 con người như vậy?
Mắt hai đứa tôi chẳng hề đụng nhau, như trong 1 bức hình dởm

Anh đếch cần, tôi cố đấm ăn xôi, cố ngồi nán lại, hay bỏ về
Cũng đếch hỏi thăm lũ chúng tôi, những tên cùng ngồi bàn
Không có anh đâu, Barry. Hay anh, Larry. Hay anh, Harry.

Đầu tôi bắt đầu nhức. Ai chết v
ai?
Tôi lèm bèm về thuốc thang hiện đại, về ba cái tím tím trong 1 cái bình.
Tôi nói về mặt trời và phôi pha

May quá có mấy cái cầu thang để mà bỏ chạy thật lẹ xuống
May quá, có cái cổng để mà lọt ra bên ngoài
May quá, lũ bạn còn ngồi đợi ở bàn
Mùi nhà thương, mùi bịnh viện mới ghê ghê làm sao!
Nó làm tôi bịnh.

EXAMPLE

A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.

With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.

Wislawa Symborska: Here

Thí dụ

Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi 

Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta!

[Note: Bản tiếng Việt có tí lệch pha với nguyên tác, ở cái từ "violence", bạo lực, lệch, lé ra thành, "lịch sử Mít"]

Ui chao, tiếu lâm thật: VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa ông con, để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!

Bạn có thể áp dụng bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp, với những kẻ, lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên! 

Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Đành phải cám ơn VC 1 phát!






*

"He is a pessimistic poet made melancholy by an intolerable political exile"
Ông là nhà thơ bi quan [được làm thành] buồn bã, do cái sự lưu vong chính trị không làm sao chịu nổi


I Have the Wisdom of One Condemned to Death

I have the wisdom of one condemned to death:
I own nothing for anything to own me,
I wrote my will with my blood:
"Trust in water O dwellers of my song!"
Then I slept smeared and crowned with my tomorrow ...
I dreamt that the land's heart is bigger
than its map,
and clearer than its mirrors and my gallows.
I dreamt up a white cloud that takes me
higher
as if I were a hoopoe, and the wind my wings.
And by dawn, the calling
of the night guard woke me
from my dream and from my language:
You will live another death,
alter your last will,
execution has been postponed a second time
I asked: Until when?
He said: Wait to die some more
I said: I own nothing for anything to own me
I wrote my will with my blood:
"Trust in water
O dwellers of my song!"

Tớ sở hữu cái minh triết của 1 tên bị kết án tử hình
Tớ có cái minh triết của 1 kẻ bị kết án tử:
Tớ sở hữu cái chẳng cái gì, đối với bất cứ cái gì sở hữu tớ
Tớ viết di chúc của mình bằng máu của tớ
“Hãy tin vào nước, ôi những kẻ chọn bài hát của tớ làm nơi sinh sống, cư ngụ!”
Và rồi tớ ngủ, được bôi nhọ, và bị đội vương miện của ngày mai….
Tớ nằm mơ, rằng, trái tim của miền đất thì lớn hơn là cái bản đồ của nó
sáng hơn những cái gương của nó
và cái giá treo cổ của tớ.
Tớ mơ tới một chòm mây trắng
Và nó sẽ mang tớ cao hơn nữa
Như thể tớ là con chim đầu rìu, và gió là cánh của tớ
Và vào lúc rạng đông, tiếng gọi của tên gác đêm làm tớ thức giấc
từ giấc mơ của mình, từ tiếng Mít của mình:
Mi sẽ sống một cái chết khác
Hãy sửa lại di chúc cuối của mi
Bởi là vì cú hành quyết mi đã được hoãn lần thứ nhì
Tớ hỏi: Tới khi nào?
Hắn nói: Đợi chết vài lần nữa
Tớ nói: Ta sở hữu chẳng cái gì đối với bất cứ cái gì sở hữu ta
Tớ viết di chúc bằng máu của tớ:
“Hãy tin vào nước
Ôi những kẻ sống bằng bài ca của tớ!”


Radmila Lazic [1949-


RADMILA LAZIC
[1949-]

Radmila Lazic is one of the best living Serbian poets. She is the author of six collections of poetry, for which she has received several literary prizes. She has published numerous essays on literature and is the editor of an anthology of women's poetry and another of anti-war letters, and the founder and editor of the journal Profemina. A Wake for the Living was published by Graywolf Press in 2003.


Sorry, My Lord

I'm penniless, my Lord.
Empty heart, empty pussy.
The pockets of my soul are turned inside out.
In my head something tinkles
As in a Red Cross box.
Slip something in my wallet, Lord.

I'm empty and broke.
My heart whistles like a teakettle.
Elsewhere, landscapes burst with beauty.
Here darkness presses on the eyelids.

I squandered everything, blew it away
As if there was no tomorrow.
Now it's Your turn to give me something.
Feed me, heal me
Before You write it down in Your book.
Give me a butt, a lousy nickel.
Give this sinner a cock.

Give me this day.

I neither sow nor reap,
Nor do I weave.
I obeyed Thee, Lord,
Now You take care of me.
I laze in bed past noon,
Loaf around all day with nothing to do.
Nights I spend in bars or over my manuscripts,
Keep vigil, bleed.
In the morning I step on the cold floor of my heart.
Your son, Your darling,
I sniff between his legs
The way a bitch sniffs her litter.
You said: Do unto others
As you would have done unto you.

But that man gave me a kick,
Shook me like sand out of a sandal.
I suspect other heels dance now
On his heart's stage
While mine lies hollow like a gutter
Beaten by lethal drops of rain.

Nothing comes easy to me anymore-
Narrow gate, narrow path.
Stop staring at me, Lord.
Gravity won't hold me up.
I 'm tipsy, I've lost my footing.
The street grows even more crooked.
My house is even more distant.
Give me Your hand, extend Your finger
Like a torch, not a whip.
Life wails like a mouth organ.
I've thoroughly lost my way.
I can't tell from the birds,
Plants, trees, cardinal points,
Sweetwater fish from the deep-sea kind,
The source from the mouth of a river,
The dreams over which I wade
From the street where I swing my hips.

Many times I fell in love forever.
My heart was a hot stove.
Now the jug is broken.
Let there be sex unstained by love
Is my slogan now.

Every other desire I shook off
Like raindrops from a coat.
Have mercy, Lord.
I sing of a drowned soul
Which I can't drag to the shore.
My hands hang like wild game.
Help me! Rescue me!
Give me-mouth-to-mouth!

I love strong drink, violent men,
And other such foolish things.
I confess to You, Lord,
Not a Single sin eluded me.
Like Your own body
My heart is a pincushion.

Sorry, Lord.
I'm neither Martha nor Magdalena.
I'm what You spat out, Your discharge.
Now weigh it all on Your scales.
Don't tip them, don't cheat on me.
Go and weigh them.
Blind my heart, take away my sight
To suffer and pay.
Lord, have mercy on me.



Xin lỗi, Chúa

Con chẳng có một xu, Chúa ơi
Tim rỗng tuếch
Bướm rỗng tuếch
Những túi linh hồn con, bên trong lộn ra, thành bên ngoài.
Trong đầu con có cái gì leng keng, leng keng
Như trong cái hộp Hồng Thập Tự
Xin Chúa tuồn một cái gì vào cái bóp của con

Con thì rỗng, và nói như tụi Mẽo, broke.
Tim con réo như cái bình nấu nước sôi pha trà Tầu
Đâu đâu, nơi nơi thì phong cảnh cũng nở tung ra bằng cái đẹp
Chỉ ở đây u ám đè lên mi con

Con phung phá đời con như cái em gì ở trong Lỗi Buồn Chiến Tranh
Như thể - mà như thể khỉ gì nữa - chẳng có ngày mai
Bây giờ tới phiên Chúa, Bụt, Phật cái con khỉ gì cũng được
Hãy ban cho con một điều gì đó
Hãy nuôi con, hãy làm lành con
Trước khi Người viết cái chó gì xuống Kinh Thánh, Kinh Phật của Người
Hãy cho con, 1 con chuột nhũi, 1 đồng xu teng
Hãy cho đứa con gái, người đàn bà tội lỗi này, một khẩu súng bự tổ trảng!


Đính chính:

Hai bài thơ, đăng trên art2all, dưới đây, bài Án Tử, "Death sentences", của Radmila Lazic, không phải của Ivan V. Lalic.
K. sửa giùm. Tks. NQT


http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/thomoingay_lazic_deathsentences.html

Án Tử

Ta sinh ra quá trễ, và ta lại quá già
Ðể làm nàng Ophelia đầy mụn trứng cá của mi,
Tên hoàng tử thân thương Hamlet của ta ơi!

Ðể tóc ta như lúa mì
Trải dài trên mặt nước tối
Và làm bực mình những bông hoa kèn
Với cặp mắt trôi lềnh bềnh của ta

Ðể lướt như cá giữa đám cá
Chìm xuống đáy biển như cái vỏ
Của một con sò chết
Lặn lội trong cát kế bên những mảnh vỡ của chiếc thuyền tình
Ta, chiếc bình hai quai, bị quấn quýt giữa mớ rong biển

Ta thà để cho mi lột quần áo của ta ra
Và chúng rớt xuống chân ta như những chiếc lá dương
Và gió, vô lễ, chẳng thèm xin phép ta
Nghịch ngợm với chúng
Như thể chẳng có chi là quan trọng

Ta thà có bản án tử, này:
Thiên thu, vĩnh viễn
Vòng tay của mi vòng quanh cổ ta.


Love in July ( Ivan V. Lalíc)

Yêu trong Tháng Bẩy


Mở buổi chiều nay như lá thư
Chữ viết tay dính máu chim
Bị xâu xé bởi dung nham sáng ngời của buổi xế trưa

Mở buổi chiều nay như bông hồng
Bụi này, đồng này, và mồ hôi này trên da anh
Chòm sao này, thở

Mở chiều nay như tờ thư
Tôi giấu mình trong những hàng chữ viết tay của nó
Như cái bóng của những chiếc lá cây yên lặng trầm tư của một cây anh đào
Hay như buổi trưa trong máu của chúng ta.

Đêm tới, lớn dần lên cùng với mưa và anh đào
Và những viên kim cương chập chờn của cái mát lạnh bất thần
Mở chiều nay như lá thư

Ngày mấy, đọc không ra, thời gian không bắt đầu
Nhưng chữ ký thì thật rõ:
Tôi yêu

 


II

Mùi vị của trận bão ở trong cái cuống của bông hồng vô hình
Em loay hoay, xoay xoay, một cách lơ đãng, trong những ngón tay của em
Mùa hạ, vàng, và tối.

Nhưng không có gió, và mưa lấp lánh
Trên những từ của em, như lân tinh
Trên những vệt nước
Hạ, vàng, và tối.

Ánh sáng, đi lang thang, với tốc độ chậm hơn hồi nhớ
Sẽ chẳng để cho chúng ta tí nào, ở nơi chốn này

Ánh sáng đó, vẫn bị lấp vùi trong tuyết và hoa
Trong chuyến lữ của nó trong năm
Vị mưa trên môi em
Hạ vàng và tối





Once we had the world backwards and forwards:
- it was so small it fit in two clasped hands,
so simple that a smile did to describe it,
so common, like old truths echoing in prayers.

History didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung dirty sand into our eyes.
Ahead of us lay long roads leading nowhere,
poisoned wells and bitter bread.

Our wartime loot is knowledge of the world,
- it is so large it fits in two clasped hands,
so hard that a smile does to describe it,
so strange, like old truths echoing in prayers.

Szymborska: [from]Unpublished Collection 1944-1948

Đã có thời chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt trong hai vòng tay
Giản dị, một nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen, như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa

Lịch sử đếch đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc Kít. (1)
Trước mắt chúng ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng

Nam Kít nhận họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể diễn tả được.
Cái gì gì, vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.

(1) Bà vợ góa của Osip Mandelstam, với lũ văn sĩ Liên Xô


SCRIBBLED IN THE DARK

Sat up   
Like a firecracker     
In bed,                        

Startled                    
By the thought         
Of my death.  

            *         

Hotel of Bad Dreams.            

The night clerk         
Deaf as a shoe brush.

            *         

Body and soul          
Dressed up   
As shadow puppets,   

Playing their farces  
And tragedies        
On the walls of every room.

*                     

Oh, laggard snowflake
Falling and melting
On my dark windowpane,

Eternity, the voiceless,
Wants to hear you
Make a sound tonight.

*

Softly now, the fleas are awake.

Charles Simic: The Lunatic

 

Quọt quẹt trong bóng tối

Bật dậy
Như cây pháo
Ở trên giuờng

Ngỡ ngàng
Với ý nghĩ
Ơ kìa, mình chết

*

Khách sạn của những giấc mơ tồi

Gã nhân viên ca đêm
Điếc đặc, như cái bàn chải đánh giầy

*

Hồn & xác
Ăn vận như bóng những con rối

Chơi trò hề
Và bi kịch
Trên tường của mọi căn phòng.

*

Ôi, những bông tuyết muộn
Rớt xuống, đông lại trên cửa sổ tối thui của tôi

Vĩnh cửu, câm
Muốn mi làm cái gì
Nghe lục cà lục cục đêm nay

*

Nhè nhẹ, nhè nhẹ
Những con bọ chét thức giấc.



MEET EDDIE

Whose life is as merry as a beer can
Hurtling down a mountain stream
Giving some rocks a wide berth,
Bumping head-on into the others,

And going into a head-spinning twirl
Like a little girl on a piano stool,
The water shouting as it rushes past:
Are you ready to meet your Maker?

As the woods around him begin to thin
And the trees don their fright wigs
As he prepares to go over the falls
Like a blind man strapped to an accordion.

Charles Simic: The Lunatic

Gặp con K.

Người mà đời thì vui như là một lon bia
Lao xuống một con suối từ đỉnh núi
Tránh mấy cục đá to tổ bố
Trong khi đụng đầu bồm bộp, vô mấy cục khác.

Và nhập vô một con xoáy xoay vòng vòng cái đầu
Như cô bé trên ghế dương cầm
Nước la lớn khi nó lướt qua:
Mi đã sẵn sàng chưa, để gặp Người Làm Ra Mi?

Trong khi rừng quanh mi mỗi lúc một thêm mỏng
Cây ban cho nỗi sợ của chúng những bộ tóc giả
Và, như con cá chép ở khúc sông Bạch Hạc, Việt Trì,
Quê hương ngày nào của mi,
Hăm hở vượt Vũ Môn
Và, như ông già của mi đã từng,
Cũng ở khúc sông đó,
Mi lao qua con thác,
Như người đàn ông mù xiết vô chiếc phong cầm.

SINBAD THE SAILOR

On dark winter nights in the country,
The poor and the old keep
A single light lit in their homes,
Weak and not easy to see,
Like someone who had rowed his boat
Beyond the sight ofland,
And had lowered his oars
To rest and light a cigarette
With the sea quiet around him-
Or would they be dark fields
Made quiet by the falling snow?

Charles Simic: The Lunatic

Sinbad tên thuỷ thủ

Vào những đêm mùa đông lạnh và tối, ở nhà quê
Người nghèo, người già thường chỉ đốt
Một ngọn đèn trong nhà
Ánh lửa mới yếu ớt làm sao
Không dễ nhìn thấy
Đâu có khác gì một người nào đó
Một mình với con thuyền
Cố chèo, quá cả cái nhìn mảnh đất liền phía trước
Và, bèn hạ mái chèo
Để nghỉ và châm 1 điếu thuốc
Với biển cả quanh mình –
Hay là, không phải biển
Mà chỉ là những cánh đồng tối thui
Được tuyết phủ, làm trở thành im ắng?


*

Sonnets and songs about love capture the real commonality of the experience while flattering our sense of its singularity.

Credit Illustration by Eiko Ojala

Why Love Lyrics Last
Sao thơ tán gái còn hoài?

By Adam Gopnik

What are the life lessons in all those songs and sonnets?


và gì đi nữa...

và gì đi nữa. chuyến đi. châu âu
cũng. bắt đầu
máy bay xuống. phi trường. de gaulle
trời. ảm đạm. úng. nước
chuyến xe điện. về nhà. trọ
thật sớm ngày. chủ nhật
người đàn ông. say khướt. ngồi phía. sau
hát. những giai điệu. buồn
và thả. những làn khói. thuốc
cũng buồn. trong. toa xe
sông seine. không thơ. mộng
\như đã. một lần thơ. mộng

và. gì đi nữa. ánh sáng cũng. thức giấc
soi. bóng mình vào. dòng sông
chảy. không. cặn bã
đường xiên của. nắng
và. hình hài của. bảy màu
này em. khi nào. về
cứ vào. cửa. không bao giờ. khóa
cứ về. như. lúc đi
closet. vẫn còn nguyên. vẹn
đồ đạc. của em

và. gì đi nữa. cũng đến lúc. rời paris
bằng con tàu. tốc hành
không. biết phải làm. gì
khi. nhìn những. cánh đồng nho
trụi lá. những thân cây. trơ cành
nói. lời mùa. đông

không biết. đã say. từ ly rượu. thứ mấy
cứ đi. lui. tới hoài. trên con phố
tìm. những đổi. thay
những quán rượu. đông người
la rambla. vẫn. biền biệt
dốc. cạn túi. không tìm ra. tiền
cho một ly rượu. kế
barcelona. vắng bóng. một người

và. gì đi nữa. khi trở lại
cố đi ra. khỏi giấc. mơ
nhưng chẳng. bao giờ được
này. em đừng. bao giờ vội
nhiều lúc. không cần phải. nói
chìa khóa cửa. đã mât. từ lâu lắm. rồi
nên. cửa không bao giờ. khóa

và gì đi nữa.. em
này. em…
em. gắng nhớ
chuyến bay. đêm về. new york
nhìn. thành phố. từ trên cao
nghe. nhịp đập. lệch. của trái tim

Đài Sử


These wars of ours with their daily horrors
Of which few ever think or care about,
While others go off quietly to fight them,
Returning to their loved ones in coffins.

The early darkness making it difficult
To chase away such thoughts
Or distract oneself with a book,
Find again that passage of Thoreau

Where he speaks of the grand old poem
Called winter coming around each year
Without any connivance of ours, or perhaps
The one where he pleads to heaven

To let us have birds on days like these
With rich, colorful plumage to recall
The ease and splendor of summer days
Among the frozen trees and bushes in the yard.

Charles Simic: The Lunaric

Chim Mùa Đông

Những cuộc chiến của chúng ta với máu me, những điều ghê rợn của nó
Ít người thèm nghĩ, hay để ý đến chúng
Trong khi những người khác lặng lẽ lên đường
Và trở về với những người thân yêu trong những cỗ quan tài

Cái bóng tối đến sớm sủa, làm thật khó xua đuổi
Những ý nghĩ như thế
Hay giải trí mình bằng 1 cuốn sách
Lại tìm thấy đoạn về Thoreau

Khi ông ta nói về một bài thơ lớn cổ
Gọi mùa đông, cứ mỗi năm, đến hẹn lại lên
Đếch cần bất cứ 1 sự đồng lõa nào của chúng ta
Hay có lẽ,
Sự đồng lõa khi ông ta cầu xin thiên đàng.

Để chúng ta có bầy chim như bầy chim này
Với mớ lông mầu sắc xum xuê làm nhớ
Những ngày hè dễ dãi, huy hoàng, thần sầu, tuyệt cú mèo
Giữa cây bụi chết cóng ở ngoài vườn.


Milosz

JULIA HARTWIG 1921-

Expectation of an imminent calamity. Many people have lived through such a moment, but they haven't left poems about it. Yet those moments are an integral part of history, of many cities and countries.

Ngửi thấy mùi thảm họa. Nhiều người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như thế, nhưng họ quên để lại 1 bài thơ.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của nhiều thành phố và xứ sở.

ABOVE US

Boys kicking a ball on a vast square beneath an obelisk
and the apocalyptic sky at sunset to the rear
Why the sudden menace in this view
as if someone wished to turn it all to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river knows
Music bursts from the loudspeakers like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a finger to its lips

Translated from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh

Czeslaw Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things

Ở bên trên chúng ta

Trẻ con chơi đá banh ở một công viên rộng lớn
bên dưới Đài Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời tận thế thì đỏ mọng,
‘không gian bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm lên tất cả’
Tại sao cái sự hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1 người nào đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt sạch Trường Sơn, thì cũng đốt]
Mặt trời biết điều đó
Bầu trời cũng biết điều đó
Nước sông Sài Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có Bác H trong ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên như 1 tiếng cười man rợ
từ chiếc loa của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi sao ở thật cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn như lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay đặt lên đôi môi (1)

HAIKU

The endless night
is now nothing more
than a scent.

Is it or isn't it
the dream I forgot
before dawn?

The sword at rest
dreams of its battles.
My dream is something else.

The man has died.
His beard doesn't know.
His nails keep growing.

Under the moon
the lengthening shadow
is all one shadown.

The old hand
goes on setting down lines
for oblivion.

                                   -S.K.

J.L. Borges

 

 

HAIKU

Đêm dài vô tận
Chẳng còn chi
Ngoài mùi hương

Liệu đúng là nó
Hay không phải là nó
Giấc mơ mà tôi quên
Trước rạng đông?

Cây gươm nằm nghỉ
Mơ những trận đánh
Giấc mơ của tôi
Là một điều gì khác

Người đàn ông đã chết
Râu không biết
Móng tay tiếp tục mọc

Dưới ánh trăng
Cái bóng dài mãi ra
Thì vưỡn là cái bóng

Tay già khằn
Trải những dòng
Quên lãng

 

Radmila Lazić 

Love 

I sharpened knives
All night.
To welcome you
In the brilliance of their blades,
And among them,
My love sparkles
For your eyes only.

To read the rest of this piece, purchase the issue.

IÊU

Gấu mài sắc những lưỡi dao
Suốt đêm
Để welcome Em của Gấu
Trong cái sáng lòa của những lưỡi dao
Và giữa chúng
Tình của Gấu lấp lánh
For your eyes only!

 


SECRET EMBROIDERY

In my spiderweb
You got caught,
My precious.

Little fly, blinded
By your own hand,

Blow into my soul!
So it flutters,
Like seven veils.

I'Il let you in on the secret
Of tiny embroideries,

Even take the chains
Off your ankles.

Bí mật thêu

Trong mạng của tôi
Em bị tóm
Em trân quí của tôi

Nàng ruồi nhỏ, mù
Bởi chính tay của nàng

Bay vô linh hồn tôi!
Nàng vỗ cánh loạn cào cào
Như bảy tấm màn

Tôi sẽ để nàng trên sự bí mật của những mạng thêu xinh xắn
Tháo ngay cả sợi sên
Ra khỏi cổ chân nàng

                                         - Translated from the Serbian by Charles Simic

The Paris Review Summer 2015

Radmila Lazić là tác giả của tám cuốn thơ. A Wake for the Living, bản tiếng Anh đầu tiên được xb năm 2003. The Paris Review số Mùa Xuân 2015, là về nghệ thuật dịch, và là dịch Nga văn.


và gì đi nữa...

và gì đi nữa. chuyến đi. châu âu
cũng. bắt đầu
máy bay xuống. phi trường. de gaulle
trời. ảm đạm. úng. nước
chuyến xe điện. về nhà. trọ
thật sớm ngày. chủ nhật
người đàn ông. say khướt. ngồi phía. sau
hát. những giai điệu. buồn
và thả. những làn khói. thuốc
cũng buồn. trong. toa xe
sông seine. không thơ. mộng
\như đã. một lần thơ. mộng

và. gì đi nữa. ánh sáng cũng. thức giấc
soi. bóng mình vào. dòng sông
chảy. không. cặn bã
đường xiên của. nắng
và. hình hài của. bảy màu
này em. khi nào. về
cứ vào. cửa. không bao giờ. khóa
cứ về. như. lúc đi
closet. vẫn còn nguyên. vẹn
đồ đạc. của em

và. gì đi nữa. cũng đến lúc. rời paris
bằng con tàu. tốc hành
không. biết phải làm. gì
khi. nhìn những. cánh đồng nho
trụi lá. những thân cây. trơ cành
nói. lời mùa. đông

không biết. đã say. từ ly rượu. thứ mấy
cứ đi. lui. tới hoài. trên con phố
tìm. những đổi. thay
những quán rượu. đông người
la rambla. vẫn. biền biệt
dốc. cạn túi. không tìm ra. tiền
cho một ly rượu. kế
barcelona. vắng bóng. một người

và. gì đi nữa. khi trở lại
cố đi ra. khỏi giấc. mơ
nhưng chẳng. bao giờ được
này. em đừng. bao giờ vội
nhiều lúc. không cần phải. nói
chìa khóa cửa. đã mât. từ lâu lắm. rồi
nên. cửa không bao giờ. khóa

và gì đi nữa.. em
này. em…
em. gắng nhớ
chuyến bay. đêm về. new york
nhìn. thành phố. từ trên cao
nghe. nhịp đập. lệch. của trái tim

Đài Sử

SONG ABOUT SONGS

It will burn you at the start,
As if to breezes you were bare,
Then drop deep into your heart
Like a single salty tear.

And a heart full of spite
Will come to know regret.
And this sorrow, although light,
It will not forget.

Others will reap. I only sow.
Of course! When the triumphant horde
Of scythers lays the grain low,
Bless them, O Lord!

And so that I may lift
My eyes in thanks to You above,
Let me give the world a gift
More incorruptible than love.

                                            1916

Akhmatova

Bài Ca về Những Bài Ca

Nó sẽ đốt cháy bạn lúc thoạt đầu
Như thể bạn trần truồng trước những làn gió
Rồi thọi 1 cú thật sâu, ngay tim bạn
Như 1 giọt nước, mặn, cực mặn, chỉ 1 giọt

Và trái tim đầy thù oán
Sẽ biết như thế nào là, chưa đi mưa chưa biết lạnh
Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ,
Nghĩa là, biết, ân hận
Và nỗi ân hận, mặc dù nhẹ nhàng
Sẽ chẳng thể nào quên

Những kẻ khác, thu hoạch
Tôi, chỉ gieo.
Lẽ tất nhiên! Khi bầy người cầm hái chiến thắng
Để hạt xuống
Hãy chúc phúc cho họ, ôi Chúa

Và như thế, tôi có thể ngước mắt
Cám ơn Người ở trên cao
Hãy để cho tôi ban cho đời
Một món quà
Không thối rữa, hơn nhiều
So với tình yêu.

NINA ZIVANCEVC
[1957-] 

Zivancevic was born in Belgrade. She is a literary critic, journalist, and translator as well as a poet. She lived for several years in New York, where she wrote in English, and now resides in Paris. New Rivers Press published a book of her poems, More or Less Urgent, in 1980. The poems in this anthology come from her books The Spirit of Renaissance (1989) and At the End of the Century (2006).

Ode to Western Wind

O, great great Western wind,
lift me up and take me back
to people and places I loved,
save me from this neoclassical order
and its stupidities,
take me as far as you can from Gard du Nord
from which they took
200,000 Jews to camps,
so that not a single one came back,
carry me away from Europe
poisoned with wars and plagues,
as far as possible from the United States
where people die in hunger and ignorance,
take me back to Serinda where to breathe is more important
than sublime thought and moving about,
take me to the make-believe land of poetry
and keen spirit
where women don't speak of equality
and where men dance the tango all day
and all night,
lift me high, wind
and make me forget
this terrible ever-present reality,
since, if the spring has indeed come
why am I trotting
so far behind it?

Charles Simic: The Horse Has Six Legs, an anthology of Serbian Poetry.

Khúc Ode gửi Tây Phong

Ôi ngọn gió Tây nhớn ơi là nhớn,
Hãy nhấc Gấu lên, đưa Gấu trở lại xứ Bắc Kít mà Gấu hằng iêu dấu
Hãy kíu Gấu ra khỏi cái trật tự tân cổ điền, tân hình thức cái con mẹ gì này
Và tất cả những cái ngu si cà chớn của nó
Đưa Gấu đi xa, xa chừng nào tốt chừng đó
Xa Ga Bắc
Nơi chúng tống 200 ngàn tên Do Thái vô Trại Tù
Và đếch có 1 tên nào trở lại
Đưa Gấu ra khỏi Âu Châu
Tẩm độc với chiến tranh, bịnh dịch
Xa thật xa Mẽo Quốc
Nơi người ta chết vì đói, vì ngu si
Đưa Gấu trở lại xứ Đoài mây trắng lắm!
Nơi, chỉ nội được thở ở đó thôi, thì quan trọng hơn nhiều,
Và sướng điên lên rồi
So với tư tưởng vời vợi, hay, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Bắc Kít ôi Bắc Kít
Xứ sở của thi ca,
Của tinh thần Non Tản Sông Đà
Nơi đờn bà đếch cần bình đẳng bình điệc
Nơi đờn ông suốt ngày sáng đêm uống riệu, nhảy đầm
Ôi gió ơi
Nhắc Gấu lên cao, thật cao
Làm cho Gấu quên đi cái thực tại trần truồng luôn luôn hiện tại khủng khiếp này,
Kể từ mà, nếu Mùa Xuân đã thực sự tới
Thì hà cớ mà sao mà Gấu cứ lẽo đẽo ở mãi đằng sau nó?

Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa

NXH's Poems of the Night

*

Cầm bằng thí cho gió


Ngày chúng ta đi
Gió mò xuống
Lấy đi những dấu chân của chúng ta

Gió lấy bụi,
Phủ những dấu vết chúng ta để lại
Khi tản bộ

Ngoài ra,
Thì kể như là chúng ta vưỡn còn sống

Thế đó,
Gió là kẻ chúng ta,
Cầm bằng thí cho nó
"Bàn chân ai rất nhẹ,
Tựa hồn những năm xưa"!

Hà, hà!

Song Nam Tang

8 hrs ·

St

Blown away

The day we die...

See More

Like · Comment · Share

Song Nam Tang chữ "mò" của Mr TV hay cực, nhưng nếu đã "vưỡn" thì ngán gì mà bác hem cho "chúng ta đai"!

Like · Reply · 8 hrs
 

Mít bi giờ sính ngoại. Đi, hay “đai”, thì cũng một chuyến!

Tks