*


Thơ Mỗi Ngày

THE LIGHT

Admittedly, yours is an odd
Sort of work, galactic traveler.
I watched you early this morning
Get on your knees by my bed
To help a pair of my oId shoes
Find their way out of the dark.

ÁNH SÁNG

Thành thực mà nói, công việc của bạn có chi kỳ kỳ
Bạn, người du hành thiên hà.
Sáng sớm bữa nay tớ quan sát bạn
Quỳ ngay bên giường
Để giúp đôi giầy há mõm của tớ
Kiếm ra đường ra khỏi bóng tối.


Thơ Dã Viên


     

Once we had the world backwards and forwards:
- it was so small it fit in two clasped hands,
so simple that a smile did to describe it,
so common, like old truths echoing in prayers. 

History didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung dirty sand into our eyes.
Ahead of us lay long roads leading nowhere,
poisoned wells and bitter bread. 

Our wartime loot is knowledge of the world,
- it is so large it fits in two clasped hands,
so hard that a smile does to describe it,
so strange, like old truths echoing in prayers.

From Unpublished Collection 1944-1948

Đã có thời chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt trong hai vòng tay
Giản dị, một nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen, như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa

Lịch sử đếch đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc Kít. (1)
Trước mắt chúng ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng

Nam Kít nhận họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể diễn tả được.
Cái gì gì, vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.

(1) Bà vợ góa của Osip Mandelstam, với lũ văn sĩ Liên Xô: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta".
Bà DTH, lịch sự hơn:
Năm 1994, nhờ sự can thiệp của phu nhân tổng thống Pháp, Danielle Mitterrand, bà Hương được sang Pháp nhận một giải thưởng. Bà được đề nghị hưởng quy chế tị nạn chính trị. “Tôi trả lời, ‘cám ơn, nhưng ở nước tôi, sự sợ hãi đang nghiền nát mọi thứ, những người lính can đảm đã trở nên thường dân hèn nhát’, bà nhớ lại. “Vì vậy tôi phải trở về. Tôi trở về để làm điều duy nhất: phỉ nhổ vào mặt chế độ.’”  (2)

*

Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
Joseph Brodsky
Gửi DTH.
Jennifer Tran

Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.

Tôi muốn tản mạn thêm một chút, ở đây. Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm tính, ở đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc nhất cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là ngôn ngữ. Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế  - có được lăng kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác nhất, và có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có những tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần, bởi vì, do định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng những nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng, coi cá mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn).

Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng -  khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.

if art for its subject
will have a broken jar
a small broken soul
with a great self-pity

what will remain after us
will be like lovers' weeping
in a small dirty hotel
when wallpaper dawns

Zbigniew Herbert

Giả như nghệ thuật, về đề tài của nó
Có cái bình bể
Một linh hồn nhỏ tan hoang
Với nỗi tủi thân thực là bự

Cái còn lại, sau chúng ta
Sẽ là tiếng nức nở của những kẻ yêu nhau
Ở 1 khách sạn nhỏ dơ dáy
Khi tờ giấy dán tường sáng lên dần cùng với rạng đông

GCC đọc đoạn trên, từ bài viết của Adam Zgajewsi, cái Tiều Tụy và cái Đỉnh Cao The Shabby and the Sublime, trong A Defense of Ardor, thì bèn nhớ ra bài này đã giới thiệu trên TV, kèm luôn cả bài viết của chính tac giả về bài thơ của ông, nhưng chưa có bản tiếng Việt.

I CHOSE THIS POEM after some hesitation. I do not consideration the best poem I've written, nor is it one that can represent my poetic program. I think it does have two virtues: it is simple, dry, and speaks of matters that are truly close to my heart, without superfluous ornament or stylization.
Tớ chọn bài thơ này, sau tí lưỡng lự. Tớ không coi nó là bài thơ bảnh nhất, cũng không phải thứ đại diện cho thơ của mình. Nhưng có lẽ chỉ vì, nó giản dị, khô, và rất gần gụi với trái tim của tớ, ấy là những gì bài thơ lèm bèm, thay tớ, không màu mè, không huê dạng.

Lâu lắm, Tin Văn không đi 1 đường nào về Adam Zagajewski.

GCC đọc bài viết trên, trước hết là do câu Adam trích dẫn, làm chó gì có thứ thơ thấp lè tè, thơ tán gái, thơ tán bạn, thơ tán cà phê.
Nếu có, thì nó chính là cái Tiều Tụy, đầy rẫy trong thơ Mít, hà hà!

Il n'est pas de poésie sans hauteur...
-Philippe Jaccottet

Đây cũng là quan niệm của Joseph Brodsky, như bài viết dưới đây, Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980], cho thấy:

Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh.

Bèn đi luôn bài của Adam, bài thơ, và bài viết về thơ của chính tác giả: Tại sao [Những Nhà] Cổ Điển?

Cái gọi là Đỉnh Cao, là Đẳng Cấp, là Văn Hóa, như Milosz định nghĩa, khi viết về Brodsky:

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

TTT cũng đã trải qua những khoảnh khắc thần tiên còn hoài hoài, khi cùng bạn tù nghe đọc thơ của ông, được 1 bạn tù phổ nhạc:

Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền 

Note: Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2



THE WHITE LABYRINTH

There is one waiting for you,
On every blank sheet of paper.
So, beware of the monster
Guarding it who'll be invisible
As he comes charging at you,
Armed as you are only with a pen.
And watch out for that girl
Who'll come to your aid
With her quick mind and a ball of thread,
And lead you by the nose
Out of one maze into another.

-Charles Simic

Mê cung trắng

Có một mê cung như thế đấy
Nó đang chờ bạn
Trên mọi tờ giấy trắng
Vậy thì, hãy coi chừng
Con quỷ vô hình canh giữ nó
Nó sẽ quạt cho bạn 1 trận
Yếu ớt như bạn,
Trang bị bằng, chỉ cây viết.
Và hãy trông chừng
Luôn cả cô gái
Tới cứu bạn
Với cái đầu lanh lẹn, với cuộn chỉ len
[Bằng 1 cuộn chỉ như thế, 1 cô gái đã từng cứu được dũng sĩ Hercules
Ra khỏi mê cung có quái thú Minotaur]
Cô gái sẽ xỏ mũi bạn bằng sợi len
Kíu bạn ra khỏi mê cung,
Và đẩy bạn vô 1 mê cung khác.

That one remaining, barely moving leaf
The wind couldn't get to fall
All winter long from a bare tree -
That's me! Thinks the old fellow, 

The one they roll out in a wheelchair
So that he can watch the children
Play in the park, their mothers
Gossip all day about their neighbours

While pigeons take turns landing
And taking off from a newly arrived hearse
Parked in front of the parish church,
Dragging his gaze along as they do.

Charles Simic 

LRB [London Review of Books] May 9 2013

Trong thời gian ngọt ngào của riêng nó

Cái lá còn lại, lâu lâu khẽ run 1 phát
Từ cái cây trần-trụi-thùi-lụi
Suốt mùa đông dài
Là Gấu đấy
Gió đếch làm sao làm rụng được, ít ra là vào lúc này

Thằng chả ngồi xe lăn
Được đẩy ra công viên
Nhìn lũ trẻ nô đùa
Mẹ của chúng thì buôn chuyện tối ngày
Về lối xóm của họ

Khi bồ câu xếp hàng
Chờ tới lượt xà xuống
Hay cất cánh từ một cái xe tang mới tới
Đậu ngay đằng trước nhà thờ giáo khu
Cũng lết lết cái nhìn, từ con mắt lé của nó
Như lũ chim.


*

NYRB May 9, 2013

Khi bạn đi lên đồi

Bạn sẽ thấy bò gặm cỏ trên đồng
Và có lẽ, một chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ, nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của mình xuống đó
Cô gái, tất nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!

Và rất nhiều cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên đó
Còn những cành cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả như bạn đang thèm
Một buổi xế trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.

Khi một điều gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa sổ bể, gãy, tan hoang.

Bài thơ có bề ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa”, ở đây, là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ cả…
Nói theo Kim Dung, thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau cùng, đòn chí tử, là khổ thơ chót.

Đọc sao mà thê lương chi đâu:

When something tells the birds to hush,
And the one streetlight in the village
To keep a few moths company
And the large old house put up for sale
With some of its windows broken.

Quái làm sao, câu thơ đầu, “khi một điều gì đó nói lũ chim câm đi”, làm Gấu nhớ đến cái mail chót, của 1 nữ thi sĩ, “mi làm phiền ta quá”… “kiếp trưóc mi đúng là con đỉa”….

Hà hà!

Nhưng cái mail kế chót thì thật là tuyệt vời.
Em quả có tí thương [hại] Gấu!

Our Gang

Like moths
Around a streetlamp
In hell
We were

Lost souls
One and all
If found,
Returned to sender

Tụi Tớ

Như thiêu thân
Quanh ngọn đèn đường
Ở địa ngục
Tụi tớ

Những linh hồn mất linh hồn
Một và tất cả
Nếu kiếm thấy
Gửi trả người gửi


A child lifted in his mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding around his feet in the park,
Could they be the same person?

The blind woman who may know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
Glide one night all lit up past her kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.

Granta: Summer 2013: Travel

Note: Bản trong The Lunatic, có tí khác:

The blind woman who may know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
All lit up in the night sail past her kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.

Vĩnh Cửu

Đứa bé níu tay mẹ, cố ngước nhìn đám rước ngày 30 Tháng Tư 1975
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay
Vui sao nước mắt lại trào,
Và cái tay già khằn, vừa lùn vừa lé, đang ném những mẩu bánh mì cho đàn bồ câu
Quanh quẩn dưới chân anh già ở 1 công viên Toronto, Canada
Phải chăng là cùng 1 người?

Người đàn bà mù có thể có câu trả lời
Nhớ lại
Đã có 1 lần nhìn thấy 1 con tầu to bằng cả một góc biển Đông,
Chạy suốt mảnh đất hình chữ S
Đưa bà và hai đứa con đến bến cảng Xề Gòn
Trong một đêm tối thui, bão tố đầy trời.

Nhân VC đang đốn cây ở Hà Nội, bèn post lại bài thơ này, thêm 1 bài trên TLS số  April 3, 2015 điểm cuốn Minh Triết Của Cây, The Wisdom of Trees

RESIGNATION

I like trees because they seem more resigned
to the way they have to live than other things do.
— Willa Cather

Here the oak and silver-breasted birches
Stand in their sweet familiarity
While underground, as in a black mirror,
They have concealed their tangled grievances,
Identical to the branching calm above
But there ensnared, each with the others' hold
On what gives-life to which is brutal enough.
Still, in the air, none tries to keep company
Or change its fortune. They seem to lean
On the light, unconcerned with what the world
Makes of their decencies, and will not show
A jealous purchase on their length of days.
To never having been loved as they wanted
Or deserved, to anyone's sudden infatuation
Gouged into their sides, to all they are forced
To shelter and to hide, they have resigned themselves.

—J. D. McClatchy

AN PHẬN

Tôi thích cây cối bởi vì chúng trông có vẻ an phận với đời hơn hết thảy những loài khác .
Willa Cather

Này là cây sồi và những cây bạch dương
Lúc nào trông cũng đứng an lành
Trong khi đó, như thể soi qua một tấm kính đen,
Dưới lòng đất thì chúng giấu đi những nỗi oán than đang quặn thắt
Giống hệt những cành vươn ra êm ả ở trên không
Nhưng dưới kia, bị cầm kẹp, chúng nương nhau mà bám lấy những gì được trao cho – đời như thế cũng đã đủ tàn bạo rồi
Vậy mà, trên không kia, chẳng cành nào chịu tìm cách thích cánh cùng nhau
Hoặc tìm cách thay đổi vận mệnh mình . Chúng dường như chỉ
ỷ vào ánh sáng, chẳng hề quan tâm xem thế giới
đang làm gì với những thứ lịch lãm của chúng, và cũng sẽ không tỏ ra tranh tìm gì cho đời sống của mình
Đối với việc chưa bao giờ được yêu mến  như chúng mong muốn,
hay xứng đáng, đối với những mê đắm bất ngờ của ai đó đang đục khoét sườn mình
Đối với tất cả những ai bắt chúng phải che chở hay giấu giếm ,
Chúng đều nhận tất .

J. D. McClatchy

K dịch

Tks. NQT

*

Cây

Max Adams admits at the start of his book, The Wisdom of Trees, that trees are not wise in the conventional sense. "They do not think, because they have no brains; they do not 'feel' because they have no nervous systems .... Trees know, literally, nothing." Yet, he says, they are dazzlingly sophisticated chemically and mechanically; they have far longer lives than we do; and they reproduce themselves in ways "so subtle and refined that it is hard not to credit them with cunning". So, while trees may not be wise, "we would be wise to learn from them".
    The core of his book is about the remarkable ways in which, over a period of 200 million years, evolution has enabled the trees to survive and flourish. Needing sunlight, they do everything they can to get a good supply of it. They find the places where they can grow high enough to catch it, and they can even move their leaves around to face the sun. They have sex by distributing pollen. Sometimes they employ the wind to carry it away - a rather hitand-miss method, so some pollen has developed a positive electrical charge, while the female stigma has a negative charge to attract it. If, alternatively, the trees use insects, they create nectar - and even edible pollen - to lure them, so that, when the insects leave the flower, they transport the pollen away on their backs.Reading Adams's account of pollination made me feel that it was like a modem human economy managed by an invisible mind.
    Another arboreal accomplishment is the transportation of water and sugar. Both get sucked up in a column by the drop in pressure above it, as water evaporates from the leaves. However, if the column gets too high it will sometimes break because of the force of gravity pulling it back (this is called cavitation). Sometimes you can actually hear the column cracking in a tree. How does the tree cope with this problem? It seems that it enables the column to stay intact simply by getting the water to adhere to the walls of its woody cells. But scientists are still somewhat baffled by this defeat of gravitational pull.
    Adams then turns to the ways in which trees manage to hold themselves firm in what is often a very shallow depth of soil, how they cope with drought, how they manage flood damage, and how they defend themselves against enemies. But these issues arise in the course of rather oosely constructed chapters in which many other things are described and discussed on the way. Foremost are his recurring accounts of the pleasure he himself takes in woods and trees. He rejoices to find the first leaves of spring opening on the honeysuckle - "a shimmer of jade against the dun backcloth". He contemplates autumn from beneath "the dripping rain-soaked yellow and orange leaves of a spreading beech". He once spent three years in a caravan in a wood, the only signs of life, when he woke in the morning, being a red squirrel chewing a pine cone or a deer browsing for lichen. He compares those days with the time Henry David Thoreau spent with joy in the woods beside Walden Pond. He learns how to make charcoal, and how instrument makers can "hear the music" in the pieces of wood they choose. He likens one "stag-headed, lightning-blasted" oak to Houdon's bust of the wise, ageing Voltaire. It is a rich miscellany.
    However, this book on trees is curiously designed, and might itself be compared in appearance to a Christmas tree hung with baubles. In its broad margins there are short quotations from the text, illustrated with small images of nuts and seeds - a newspaper device that might help to draw people into reading an article, but which seems otiose here. Larger baubles are his "Tree Tales", short sections on some individual species of tree. These are attractive, but not an integral part of the text, and seem decorative rather than anything else.
    The main illustrations in the book are a different matter. They are reproductions of the fine plates by Johann Sebastian Muller that were used to illustrate the 1776 edition of John Evelyn's Sylva, the book on forestry that Evelyn wrote for Charles II in 1664. Evelyn seems to be making reappearance in the lives of woodlanders. The handsome book on trees by Gabriel Hemery that was published last autumn was called The New Sylva, in emulation of Evelyn's work. Max Adams's deeply felt book can be seen and welcomed as further homage to Evelyn's great pioneering passion for trees.

Chúng ta đều biết, cây thở, ngược với người, chúng nhả oxy, hít thán khí, và nhờ thế làm sạch không khí. Rừng nhiệt đới, [The Amazon: The World's Largest Rainforest], được coi là những lá phổi khổng lồ của trái đất.
Khi Romain Gary viết Cột Chống Trời, Cột ở đây là Voi, nhưng bây giờ, nó có nghĩa là Cây.

Đọc bài viết trên, Gấu thú nhất, là cây cũng biết làm tình: They have sex by distributing pollen. Một bài viết thật lạ và thật tuyệt: They do not think, because they have no brains; they do not 'feel' because they have no nervous systems .... Trees know, literally, nothing." Yet, he says, they are dazzlingly sophisticated chemically and mechanically; they have far longer lives than we do; and they reproduce themselves in ways "so subtle and refined that it is hard not to credit them with cunning". So, while trees may not be wise, "we would be wise to learn from them". Minh triết, túi khôn của cây? Chúng không suy nghĩ, vì đâu có não, chúng không có 'cảm', vì đâu có hệ thống thần kinh. Cây, chẳng biết cái chó gì hết. Tuy nhiên, chúng "hóa học và cơ khí học" rắc rối nhiêu khê thật là quái dị; chúng sống lâu hơn chúng ta, chúng sản xuất cho chính chúng, theo những đường hướng rất ư là tinh tế thật khó mà coi thường chúng [thật khó mà nói chúng xảo quyệt như con người, nhất là con người Hà Lội đang chặt chúng!] Bởi vậy, trong khi cây có thể đếch khôn ngoan, nhưng chúng ta, do khôn ngoan, thì có lẽ cũng nên học từ chúng.
Cũng số báo, có 1 bài thơ ngắn, thật là tuyệt, và 1 bài trong mục Sổ Tay, viết về tu sĩ nhà thơ.

In the National Gallery

'View of the Westerkerk, Amsterdam' by van der Heyden

To see with such exactness and repose
Is all of prophecy and art in one.
Myths are revealed in dusty humbug clothes,
Working cheap terrors from behind a curtain.
The gravitational and lordly sun
Makes every brick look weighted, placed, and certain.

KIERON WINN

Bài viết về tu sĩ & thi sĩ, thì làm nhớ tới thi sĩ phản chiến của xứ Mít, Thích Nhất Hạnh, nhưng chắc là do 30 Tháng Tư ngay kế bên, nhiều hơn là do thơ của ông, cái gì gì, nghe tin thằng em chết, cùng lúc trong vườn nở bông hoa....

A Buddhist Poet in Vietnam

Note: Tin Văn post bài này, như 1 lời cầu chúc gửi tới Thầy TNH, và cầu mong Thầy mau chóng xuất viện.    

THICH NHAT HANH

A Buddhist Poet in Vietnam

Originally published June 9, 1966

The essay and poems that follow are by the Buddhist monk Thich Nhat Hanh, the former Director of the School for Social Studies in Saigon and one of the most popular poets in Vietnam during the 1960s. The poems were translated by Nhat Hanh himself and the essay was written by him when he arrived in New York in the middle of May, 1966 to lecture on the Vietnam crisis and on the work of the School of Youth for Social Service that he describes below. Nhat Hanh was born in 1926 in Dalat and became a novice at sixteen. He was a student of literature and philosophy at Saigon University and of the philosophy of religion at Princeton in 1961. He lectured on Buddhism at Columbia in 1963 and then returned to Saigon to play a leading role in the Buddhist political and social movement. He was Editor of the principal Buddhist weekly paper, and his many books include Oriental Logic, Actualized Buddhism, and Engaged Buddhism. He also contributed a letter, "In Search of the Enemy of Man," addressed to Martin Luther King, to the symposium Dialogue, which reflects the attempt of young Buddhists to formulate a synthesis of Buddhism and existentialism appropriate to the problems of Vietnam. Thich Nhat Hanh was exiled from Vietnam in 1966 shortly after writing this article. He has since lived in a spiritual community in France.          

Monks and poetry.

More than one reader has suggested an addition to our catalogue of versifiers who combine monkish with poetic devotion, mostly of the off-beat type. Leonard Cohen is an ordained Rinzai Zen Buddhist monk who, according to Tony Carpino of Bristol, "nearly became an abbot in the 1990s before he returned to the world of troubadours". At the Mount Baldy Zen Center near Los Angeles, Cohen was known as "Jikan", He wrote this poem about his teacher, Joshu Sasaki Roshi:

I never really understood
what he said
but every now and then
I find myself
barking with the dog
or bending with the irises
or helping out
in other little ways

Philip Whalen, whom we have previously mentioned in passing, was a friend of the poet (and Zen priest) Gary Snyder and a member of the San Francisco Beat scene of the 1950s. He became a monk in 1972 and eventually was made Abbot of the Hartford Street Zen Center. "The Dharma Youth League", written in Japan in 1966, opens, "I went to visit several hundred gold buddhas", and ends:

Does Buddha fail. Do  I.
Some day I guess I'll never learn.

We have also mentioned monk-poets in Britain. Father Gerard Garrigan, OSB, a Benedictine monk of Saint Louis Abbey, a foundation of Ampleforth Abbey in York, writes with the charming message that he "may be your most avid monk-poet reader". His book The Sacred, the Profane, the Hodiamont contains a poem on the subject of the first of our monk-poets, Thomas Merton. It includes these lines:

from haIf-way round your cloister now become the world
you flew on love loosed wings to take that Buddha's smile
and eyes with light within to a home you'd never seen ...

J.C.

Tờ Người Kinh Tế cũng đi 1 bài về vụ chặt cây ở Hà Lội.

The internet in Vietnam

If a tree falls…

…online, will the Communist Party hear anything?

Apr 18th 2015 | HANOI | From the print edition 

*

SAPLINGS have sprouted on several streets in Hanoi, Vietnam’s leafy capital. They are puny replacements for at least 500 grand old trees that were uprooted last month without public consultation. The clearance was supposed to be the first phase of a city-government project to replace 6,700 mature specimens. But it spawned outrage on Facebook in a campaign which gathered 20,000 supporters in 24 hours, some of whom speculated that officials were motivated by the chance of selling the valuable timber. Three days later, on March 19th, the city’s leader, Nguyen The Thao, put the cutting on hold. He later suspended scores of officials and commissioned an investigation, due to be completed in a few days.
Such U-turns are rare in one-party Vietnam. Yet the tree-felling controversy is among several recent cases in which online criticism has prompted back-pedalling by the government. Last year a plan to build a cable car near a UN-recognised world-heritage site was also stalled by Facebook critics. In January Nguyen Tan Dung, Vietnam’s prime minister, told senior members of the Communist Party that it was “impossible” to block social media, and that the government should make more effort to put out “correct” information through them.
Vietnam’s 40m internet-users live in one of the better-connected countries in South-East Asia. Around 45% of Vietnamese are online (roughly the same proportion as in China). In the region, only Malaysia and Singapore have higher penetration rates. The use of social media has leapt—by two-fifths in the past year alone, according to one estimate.
Vietnam patrols the internet with a relatively light touch. In China both Twitter and Facebook are banned by censors. In Vietnam Twitter is accessible though not commonly used. Facebook is the country’s most-visited website, ahead of Google’s search engine. Attempts to block it have been sporadic and half-hearted. Yet this does not mean there is free speech online. The party controls dissent by using vaguely-written laws—recently strengthened—to imprison bloggers and to impose fines on outspoken users of social media. Freedom House, an American NGO, says Vietnam is among the ten worst abusers of internet freedom—worse than Saudi Arabia, though better than China.
Vietnam has nowhere near enough money or expertise to build a web-blocking system as overbearing as China’s so-called Great Firewall. Officials want to encourage internet use because they hope it will help boost innovation and economic growth. Party insiders are themselves making use of anonymous blogs and other social media to lobby for their own interests—particularly as factions jostle in advance of a change in leadership expected next year.
Vietnamese officials have “stopped seeing social media as evil”, argues Dang Hoang Giang at the Centre for Community Support Development Studies, a consulting firm in Hanoi. But he doubts that recent responses to mass online criticism mark the dawn of a more open politics. The campaigns are loosely organised, he explains, and the tree fiasco highlights a disturbing trend of increasingly brazen profiteering by local party officials.
Moreover, Vietnam’s information ministry is continuing to sharpen its censorship laws by rolling out “circulars” detailing how authorities should interpret the vague edicts on its statute books. A draft of one of them, released on April 13th, would require internet firms such as Facebook and Google to remove unwanted content and hand over information about rabble-rousers. According to Reporters without Borders, a Paris-based watchdog, at least 30 netizens are in jail.
The repercussions from the tree-felling debacle are starting to look depressingly familiar. Vietnamese journalists have been ordered off the beat. Academics in Hanoi, who at first talked to the press, have been told to shut up. And a memo issued by a Communist Party ward committee warns that “bad people” are exploiting outrage over tree-cutting to “undermine social order”. Plainclothes agents have attended a handful of events organised by the campaigners, including a lakeside “tree hug” that attracted hundreds of people (pictured above).
Duong Ngoc Tra, a nature lover who helped stop the tree-felling, says that she does not consider herself political. “We just want to showcase our love for Hanoi, and our concern,” she says. Last month Ms Tra delivered a letter to the city government, with 22,000 signatures, saying just that. No one replied.

Cái cú “U turn” này của nhà nước VC hơi bị lạ. Một em ở Hà Nội giải thích, em mê cây, đếch mê chính trị.
Thảo nào chưa 1 tên Bắc Kít nào Tác Dăng nổi giận về vụ VC đốn Ngụy ở trong những Trại Cải Tạo!


ON THE BROOKLYN BRIDGE

Perhaps you're one of the many dots at sunset
I see moving slowly or standing motionless,
Watching either the gulls in the sky or the barge
With a load of trash passing on the river below.

The one, whose family doesn't want to hear from,
On his way to a night class in acting, passing
An old Chinese waiter going in the opposite direction,
And a bodybuilder and a nurse holding hands.

And what about the one I'm always hoping to run into?
Though I barely remember what she looked like?
She could be one of the few that have lingered on,
Or the one that vanished since I last glanced that way.

Trên cầu Brooklyn Bridge

Có lẽ em là một cái chấm nhỏ trong rất nhiều chấm chấm vào lúc mặt trời lặn
Mà anh nhìn thấy đang chuyển động
Hay đang đứng bất động
Nhìn những con hải âu trên bầu trời
Hay con thuyền chở rác trên dòng sông bên dưới

Hay là một cái chấm mà gia đình không thèm muốn nghe nói tới
Đang loay hoay, len lỏi
Trên con đường tới lớp đêm
Hay tên bồi người Tàu đi ngược lại
Và một tên lực sĩ và một cô y tá, tay trong tay.

Nhưng mà này, còn cái người mà anh luôn luôn mong muốn chạy tới ôm chầm lấy?
Tuy nhiên chán làm sao anh không làm sao nhớ ra nổi khuôn mặt em
Ở tiệm cà phê Starbucks buổi sáng bữa đó
Em có thể là một trong vài người lần lữa,
Hay cái người mà đã biến mất từ MCNK [một chủ nhật khác] không hề có?
Cái người mà anh lần cuối nhìn lại
Như nhìn lại Xề Gòn
Đã mất?


Kêu đêm

I

Giọt mực khô, trên giấy mới, đêm thêm sâu. Tiếng kêu
vọng từ hang thẳm thời gian.
Hãy lui lại, mân mê vết thương hằn vách dựng. Mệt ngủ quên cái chết
dài sâu. Đợi mầm chết trổ hoa trên đá. Và vệt máu
hoen trên giấy ố phẳng phiu

II

Đội nón mê lướt qua cánh đồng. Lúa chưa gặt
như kho vàng cất giấu, lãng quên. Những hột mồ hôi, muối
trả về đất. Vào mùa hấp hối, máu nhỏ giọt trên cánh chim
đơn độc. Khi cơn bão quỷ ma ào tới, thành bầy bù nhìn giăng
trên dây gai. Và nửa đêm mắt cú sáng rực.  

III

Núi cao đèn treo. Bước quanh co chỉ thấy bóng lớt phớt.
Người lìa phố đổ nát theo tiếng vọng khe sâu. Bản thảo
thời gian gõ trên bậc đá rêu. Nghe xa xa tiếng kẹt cửa, âm tiết
im bặt trong cõi người bấy lâu.

IV

Cái nhìn im trong khoảng gió lặng. Nét cọ nắng vàng
bình minh hay xế chiều. Ngửng đầu lên ngưng đọng tuổi trái chín.
Mắt môi ngực chìm sâu khung trời đêm thâu. Bước đi mãi
tìm tiếng gọi sơ đầu. Đêm nhẹ buông những sợi đàn run rẩy.  

Dã Viên

Twenty-year-old students talking poetry and philosophy until dawn, sitting in a cheap cafe in a garret in Krakow or Paris: who can match their ardor, who can defend or indict all writers, living and dead, with greater passion? No one better honors the works of the human spirit than students sitting for hours in the smoke-filled rooms oflittle restaurants, students caught up in conversation.

Adam Zagajewski: Another Beauty

Zagajewski was considered one of the “Generation of ’68” or “New Wave” writers in Poland; his early work was protest poetry, though he has moved away from that emphasis in his later work. The reviewer Joachim T. Baer noted in World Literature Today that Zagajewski’s themes “are the night, dreams, history and time, infinity and eternity, silence and death.” The titles of his collections of poetry suggest some of these concerns: Tremor (1985), Mysticism for Beginners (1997), and World Without End: New and Selected Poems (2002). (a)

* *

Gombrowicz died; Americans walked on the Moon,
hopping cautiously, as though it might break.
Erbarme dich, mein Gatt
, one black woman sang
in a certain church.
Summer scorched us,
the lake water was warm and sweet.
The cold war dragged on, the Russians occupied Prague.
We met for the first time that year.
Only the grass, worn and yellow, was immortal.
Gombrowicz died. Americans walked on the Moon.
Have mercy, time. Have mercy, destruction.

1969

Gombrowicz chết; Người Mẽo đi bộ trên Mặt Trăng
Nè, bước nhè nhẹ coi chừng bể!

Erbarme dich, mein Gatt, một người đàn bà da đen hát
trong 1 nhà thờ nào đó
Mùa hè làm sém thịt sém da chúng ta
Nước hồ thì ấm và ngọt
Cuộc chiến lạnh kéo dài mãi
Người Nga chiếm đóng Prague
Chúng ta gặp nhau lần đầu năm đó.
Chỉ có lũ cỏ, mòn ra, vàng đi, là bất tử
Gombrowicz chết. Người Mẽo đi bộ trên Mặt Trăng
Cám ơn mi, Thời gian. Cám ơn mi, Huỷ diệt.

Adam Zagajewski
Without End

1969

Cõi Khác

Chúng ta gặp nhau lần đầu năm đó

Tuyệt!
Đúng là me x
ừ Adam này tả giùm GNV, cũng gặp cô bạn năm đó, 1969, và viết ra được cái mẩu Cõi Khác, và còn có thêm được cái khúc 1996 sau này!

Cám ơn mi, thời gian!
Đếch cám ơn mi, huỷ diệt!

 


Yes, defending poetry, high style, etc.,
but also summer evenings in a small town, where gardens waft and cats sit quietly
on doorsteps, like Chinese philosophers.
Adam Zagajewski
[Eternal Enemies 2008]

Bảo vệ thơ, và vân vân.

Đúng rồi, bảo vệ thơ, văn phong cao, v...v…
Nhưng cũng bảo vệ những buổi chiều mùa hạ
trong một thành phố nhỏ,
với những khu vườn đong đưa,
và những con mèo ngồi trầm tư nơi bậu cửa,
như những nhà hiền triết Trung Hoa
*

Kính gửi đến ông vài lời, sau khi làm độc giả thường nhật của tanvien.net hơn một năm nay. Bởi quá thích, mục Thơ mỗi ngày, nên hôm nay mới đánh bạo viết mấy dòng gửi ông, để cám ơn những gì mà một mình ông làm, kiến tạo và duy trì hào hứng trang web này trong suốt thời gian qua. Kính chúc ông viết hăng mỗi ngày, và qua việc viết, sẽ đem đến cho đời ông, và độc giả những chất liệu và phương thức sống, đọc & viết tươi mới mãi.
Trân trọng.

Phúc đáp: Đa tạ
Mục “Thơ Mỗi Ngày”, do trục trặc kỹ thuật, một số bài bị ‘delete’. Trong có mấy bài về Pessoa, và mail của bạn, trên.

Sorry abt that. NQT

[GCC post lại mail trên, hy vọng vị độc giả vưỡn đọc TV, và reply, vì GCC không còn địa chỉ mail của vị này]

A FLAME 

God, give us a long winter
and quiet music, and patient mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a flame, high, bright.

Một ngọn lửa 

Chúa ơi, cho GNV một mùa đông dài
và nhạc trầm lặng, những cái miệng nhẫn nại
và một tí phách lối - trước khi những ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu Già sự ngỡ ngàng, kinh ngạc
và một ngọn lửa, cao, sáng.

Adam Zagajewski Without End

FOR YOU

 It's not the only poem-are you asleep now
in a cloud of woolen dreams-I've written for you.
For you, triumphant, smiling, lovely,
but also for you, conquered and subdued,

(although I've never understood
who could defeat you!),
for you, mistrustful and uneasy,
I've written poem after poem, 

as if hoping one day-like the tortoise
– to reach, by way of faulty words
and images, the place where you have been so long,
where life's lightning carried you.

 Cho Em

Đây không phải là bài thơ độc nhất – em lúc này thì đang ngủ
ở giữa  một đám mây của những giấc mơ mượt mà – anh viết cho em.
Cho em, thắng thế, mỉm chi, đáng yêu,
và cũng vẫn cho em, bị chinh phục, và chịu trận

 (mặc dù anh chẳng bao giờ hiểu được,
ai có thể đánh bại em),
cho em, chẳng đáng tin cậy, và cũng thật khó khăn
anh viết bài thơ này tới bài thơ khác

 như thể, để hy vọng, có 1 ngày nào,
đài gương soi đến dấu bèo-
hay,
như 1 con rùa
– bò tới được - bằng những từ ngữ và hình ảnh không hoàn hảo,
 – lâu đài em hằng ngự,
nơi ánh sáng cuộc đời nâng niu em.

 Adam Zagajewski
Without End


Thơ mỗi ngày

November 18, 2010 5:49:49 AM

Kính bác Gấu:

       Thơ mỗi ngày mỗi dày đặc, trên Tản Viên, nhưng thơ thứ thiệt, thì bao nhiêu cho đủ? Hầu như bài nào cũng hay, thích nhất mấy bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy mất... niềm hứng khởi của GNV!
À, từ đầu đến cuối thấy bác lèm bèm hoài hoài về Brodsky, sao không giới thiệu thơ của ông?
Rất cảm ơn sự miệt mài của bác.
DV
*
Tks

Tôi thích giới thiệu những essays của Brodsky hơn. Chúng có gì liên quan tới cái xứ Bắc Kít ngày nào của tôi. Hồi mới ra được hải ngoại, tôi biết đến Brodsky là nhờ đọc Coetzee viết về ông trên tờ NYRB, 1 bài viết về những tiểu luận của B. Khi đó, vốn liếng tiếng Anh quá ít ỏi, đọc cái được, cái mất, bây giờ, đọc lại, cũng là để mong có hứng viết về xứ Bắc Kít, những ngày đi tù VC của tôi "vs" của Brodsky!

Nhưng trên TV cũng có 1 bài thơ thật là tuyệt vời của Brodsky, gửi cô con gái.
Post lại ở đây, (b) trong khi chờ hứng, dịch tiếp Phận lưu vong

Thân
NQT


Simic trả lời phỏng vấn

Ông tới Mẽo khi còn là 1 đứa con nít. Ông bật mí cho biết cái mánh hội nhập nó ra làm sao?

Phiến diện mà nói, tôi hội nhập cũng khá nhanh. Tiếng Anh cháo húp quanh, nhờ vậy mà đọc sách, có thêm bạn, lậm vô xã hội mới, văn hóa phổ thông... Cũng mất đâu chừng hai, ba năm. Cái còn lại thấm từ từ khi sống cùng 1 cái đời như những người đương thời. Tôi vô quân đội, rồi Cuộc Chiến Mít [như ông Gấu nói], rồi thì thập niên 1960 etc… 40 năm dòng dã tại xứ sở này, và tôi cảm thấy hoàn toàn ở nhà.

Ông nhận được "bố cu" giải thưởng, kể cả Pulitzer. Nhiều như thế có ảnh hưởng gì tới ông?

Ảnh hưởng khỉ gì. Thơ của tôi bán bảnh hơn nhiều. Chúng xâm nhập nhiều trường trung học qua những tuyển tập. Mọi người nghĩ, thằng chả khôn lắm! Không, tôi không phải như vậy. Nói 1 cách rốt ráo, thì như… châm ngôn: “Mọi phép lạ chỉ kéo dài được 3 bữa”!

Tới một mức độ nào, ở Mẽo, nếu nói về cái sự thăng bằng giữa, 1 bên là những nguyên lý vật chất, và 1 bên là những nguyên lý về tinh thần?

Chẳng có mắc mớ gì giữa hai món đó. Mẽo không phải là 1 xứ sở; nó là 1 đại lục được cư ngụ bởi chồng chất những truyền thống, văn hóa, tín ngưỡng, một nơi chốn đầy những mâu thuẫn, ngược ngạo. Cái mâu thuẫn, ngược ngạo nhất, theo tôi, là chúng tôi bằng 1 cách nào đó, cứ sống bên nhau hoài hoài như thế. Hay, nói như 1 ông VC nào đó, cầm tay nhau đi dưới bảng hiệu Mẽo!
Và đó là cái viễn ảnh hợp nhất độc nhất. Một lý tưởng về 1 dân tộc, thống nhất, và khác biệt.
Nguồn
*

Vừa mới ra lò.
Nóng hổi vừa thổi vừa đọc!

Four Poems by Charles Simic

THE ESCAPEE

The name of a girl I once loved
Flew off the tip of my tongue
In the street today,
Like a pet fly
Kept in a matchbox by a madman-
Gone!
Making my mouth fall open
And stay open,
So everyone walking past could see.

OH, MEMORY

You've been paying visits
To that hunchbacked tailor
In his long-tom-down shop,
Hoping to catch a glimpse
Of yourself in his mirror
As he sticks steel pins
And makes chalk marks
On a small child's black suit
Last seen with its pants
Dangling from a high beam
In your grandmother's attic.

THE FEAST

Dine in style tonight
With your misery, Adele.
Pur on your silver wig
And that black dress
With plenty of cleavage,
And haughtily offer it a seat
At the head of the table,
Leaving the intimacies
That are sure to follow
This feast of empty plates
To your neighbor's imagination.

SCRIBBLED IN THE DARK

Sat up
Like a firecracker
In bed,

Startled
By the thought
Of my death.

*

Hotel of Bad Dreams.

The night clerk
Deaf as a shoe brush.

*

Body and soul
Dressed up
As shadow puppets,

Playing their farces
And tragedies
On the walls of your room.

*

Oh, laggard snowflake
Falling and melting
On my dark windowpane,
Eternity, the voiceless,
Wants to hear you
Make a sound tonight.

*

Softly now, the fleas are awake.

The Paris Review 209, Summer 2014

[Mới lục ra, không biết đã dịch chưa!]

Rồi! (1)


Yes, defending poetry, high style, etc.,
but also summer evenings in a small town, where gardens waft and cats sit quietly
on doorsteps, like Chinese philosophers.
Adam Zagajewski
[Eternal Enemies 2008]

Bảo vệ thơ, và vân vân.

Đúng rồi, bảo vệ thơ, văn phong cao, v...v…
Nhưng cũng bảo vệ những buổi chiều mùa hạ
trong một thành phố nhỏ,
với những khu vườn đong đưa,
và những con mèo ngồi trầm tư nơi bậu cửa,
như những nhà hiền triết Trung Hoa
*

Kính gửi đến ông vài lời, sau khi làm độc giả thường nhật của tanvien.net hơn một năm nay. Bởi quá thích, mục Thơ mỗi ngày, nên hôm nay mới đánh bạo viết mấy dòng gửi ông, để cám ơn những gì mà một mình ông làm, kiến tạo và duy trì hào hứng trang web này trong suốt thời gian qua. Kính chúc ông viết hăng mỗi ngày, và qua việc viết, sẽ đem đến cho đời ông, và độc giả những chất liệu và phương thức sống, đọc & viết tươi mới mãi.
Trân trọng.

Phúc đáp: Đa tạ
Mục “Thơ Mỗi Ngày”, do trục trặc kỹ thuật, một số bài bị ‘delete’. Trong có mấy bài về Pessoa, và mail của bạn, trên.

Sorry abt that. NQT

[GCC post lại mail trên, hy vọng vị độc giả vưỡn đọc TV, và reply, vì GCC không còn địa chỉ mail của vị này]


Caliban the slave
taught human speech
waits

his mud in dung
his feet in paradise
he sniffs at man waits
waits

nothing arrives
nothing in Prospero’s magic cloak
nothing from streets and lips
from pulpits and towers
nothing from loudspeakers
speaks to nothing
about nothing

Tadeusz Rozewicz: Nothing in Prospero’s Cloak

Milosz trích dẫn trong bài viết “Điêu Tàn và Thơ Ca”. Một tiểu luận về kinh nghiệm thơ, ở vào 1 thời điểm và nơi chốn cực kỳ rõ rệt, in a strictly defined time and place. Thời gian, 1939-1945. Nơi chốn, Ba Lan.


To Laziness

Only you understood
How little time we are given,
Not enough to lift a finger.
The voices on the stairs,
Thoughts too quick to pursue,
What do they all matter?
When eternity beckons.

The heavy curtains drawn,
The newspapers unread.
The keys collecting dust.
The flies either sluggish or dead.
The bed like a slow boat,
With its one listless sail
Made of cigarette smoke.

When I did move at last,
The stores were closed.
Was it already Sunday?
The weddings and funerals were over.
The one or two white clouds left
Above the dark rooftops,
Not sure which way to go.

Charles Simic

Gửi Đại Lãn

Chỉ mi hiểu,
Đôi ta còn tí ti thì giờ
Chẳng đủ để nhấc ngón tay
Tiếng nói ở cầu thang
Ý nghĩ tư tưởng bỏ chạy, quá nhanh
Làm sao truy đuổi,
Nhưng để ý làm chó gì tất cả những chuyện đó
Khi vĩnh cửu vẫy tay gật đầu

Những bức màn nặng buông xuống
Những tờ nhật báo không đọc
Những chiếc chìa khoá thu gom bụi
Những con ruồi, hoặc lờ đờ, hoặc ngỏm
Cái giuờng thì giống như cái thuyền lừ khừ
Với cánh buồm thờ ơ
Làm bằng khói thuốc lá

Sau cùng khi Gấu bèn cố đi 1 đường cử động cái thân xác luời biếng của mình
Những cửa tiệm đã đóng cửa
Chủ Nhật rồi ư?
Cưới hỏi, ma chay thì cũng đã xong
Một, hay hai đám mây trắng còn lại
Trên mái nhà tối thui
Đếch biết nhắm hướng nào.


*

The Paris Review Spring 2015

Hilary Mantel on the art of fiction: “I suppose if I have a maxim, it is that there isn’t any necessary conflict between good history and good drama.” Lydia Davis on the art of fiction: “ I find what happens in reality very interesting and I don’t find a great need to make up things, but I do like retelling stories that are told to me.”  Elena Ferrante on the art of fiction: “ The media simply can't discuss an artwork unless it can point to some protagonist behind it. And yet there is no work of literature that is not the fruit of tradition, of many skills, of a sort of collective intelligence.”

Poems

Three Poems

Charles Simic

January

Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.

An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.

[Note: Bài thơ này, trên báo giấy, có hai khúc, như trên.
Trên báo net, ba:

January

Children’s fingerprints
On a frozen window

Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,

Maintains itself through
The cruelty of its prisons.]

Tháng Giêng

Vân tay con nít trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi trường nhỏ

Một đế quốc, Gấu Cà Chớn đọc đâu đó
Tự gìn giữ, chính nó
Bằng sự độc ác của những nhà tù của nó 

[Ui chao, đọc bài thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng, nhờ cái thứ giáo dục, ngày hôm nay, em bắn rớt ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên Ngụy, mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó, mà còn đánh thắng được cả hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới]

A LIFE OF VICE BEGINS IN THE CRADLE

Grandpa loved crawling
Under the skirts of his mother's friends
As they sat on the porch
On warm summer afternoons
Sipping sweet tea and chatting
About neighbors and relatives,
Ignoring the toddler running
His small hands up their legs.

Một đời trụy lạc bắt đầu từ trong nôi

Ông nội mê xục xạo
Bên dưới váy mấy bà bạn của mẹ
Khi họ ngồi buôn chuyện
Ở bên dưới vòm cổng
Vào những chiều hè
Về lối xóm và bà con họ hàng
Lim dim chiêu ngụm chè tươi
Vờ ngón tay thằng bé lăn tăn, lăn tăn
Giữa những sợi lông chân
Tới tận háng!

MYSTERY THEATER

Bald man smoking in bed,
Naked lightbulb over his head,

The shadow of his cigar
Next to him on the wall,

Its long ash about to fall
Into a pitch-dark fishbowl.

Tuồng Bí Mật

Đầu trọc nằm hút thuốc lá trên giường
Cái bóng đèn trộc lốc trên đầu hắn ta

Cái bóng điếu xì gà
Kế hắn ta, trên tường

Mẩu tàn thuốc, dài ơi là dài
Hăm he rớt
Xuống cái chậu cá, đen ơi là đen.


*

Note: Số báo này, mua xon ở Lào. Có bài Intro của Kazin. Tay này tuyệt lắm. Di dân Mẽo gốc Do Thái. Trong tập essay GCC mới mua, dưới đây, có 1 bài về tay này.

*

GCC đang tính tìm hiểu Mít di dân có thể nào thành công không, về cái chuyện viết lách ở Mẽo, so với Mẽo gốc Do Thái.
Trên tờ The New Yorker, trong bài viết về cú Mỹ Lai, tác giả có nhắc tới Nguyễn Quí Đức, đấng này về luôn Việt Nam rồi, có giải thích, ở Mẽo không làm sao hoàn tất là 1 con người được, về Việt Nam tìm cái phần thiếu, nhớ đại khái [sẽ check lại sau].
Rồi Thận Nhiên, lưu vong kép, rồi Đinh Linh, rồi Sến ở Đức…



Night with No Moon

Now you are darker than I can believe
it is not wisdom that I have come to

with its denials and pure promises
but this absence that I cannot set down

still hearing when there is nothing to hear
reaching into the blindness that was there

thinking to walk in the dark together

W.S. Merwin: The Shadow of Sirius

Đêm Không Trăng

Bây giờ thì em còn đen hơn là anh có thể tin tưởng
Không phải sự thông thái anh tìm tới

Với những chối từ và những lời hứa thuần khiết của nó
Nhưng mà là sự trống vắng anh không làm sao đặt để

Vưỡn nghe khi chẳng có chó gì để mà nghe
Vươn tới sự mù lòa, thì nó có đó

Nghĩ, đang đi cùng với em, đen hơn cả đen, BHD.

TO GIOVANNI DA PI STOIA

(On painting the vault of the Sistine Chapel)

1509

I've grown a goiter from this trap I'm in,
as cats do from foul water in Lombardy,
or some such place, wherever it may be.
My stomach's almost up against my chin,

My beard points skyward, at my nape the store
of memory dangles, I've grown a harpy's breast,
and from above, my dripping brush, for jest,
transforms my face into a mosaic floor.

And while my haunches press into my gut,
my ass serves as a steady counterweight.
My feet tread blindly somewhere down below.

In front I feel my skin stretched lengthwise, but
in back it crimps and folds. This is my state:
arched and indented like a Syrian bow.

Not to be trusted, though,
are the strange thoughts that through my mind now run,
for who can shoot straight through a crooked gun?

My painting's dead. I'm done.
Giovanni, friend, remove my honor's taint,
I'm not in a good place, I cannot paint.

-Michelangelo

(Translated from the Italian by Joel Agee)

NYRB June, 19, 2014



Đầu tháng lòi ra bài này:

/gocsaigon/sg_ten_cua_cuoc_chien.html

Note: Tên trường: Văn Hóa, không phải Văn Lang, theo Ngô Khánh Lãng, 1 ông bạn cùng học thời đó, cho biết.
Sawada, bị Khờ Me Đỏ hành quyết cùng trưởng phòng UPI, ở Nam Vang [
Phnôm Pênh], theo 1 tờ báo của Mẽo, viết về cuộc chiến Mít sau 40 năm, GCC mới được đọc.


Tên tù tham lam 

Một tên tù
lấn chiếm cuộc đời em
tham lam và hung tàn đến vậy
Rút cuộc cũng không cho phép em
tự mua cho mình một bó hoa, một thỏi sôcôla
một bộ cánh thời trang
Hắn không cho em một chút thời giờ
một phút cũng không

Hắn coi em như mẩu thuốc lá trên tay
bặp cho kỳ hết
cả tàn tro cũng chẳng thuộc về chính em
Thân hắn giờ trong nhà ngục đảng cộng sản
lại dựng lên phòng giam linh hồn em
không có cửa, không có cửa sổ
không một khe hở
khoá chặt em trong cô độc
cho đến mốc meo 

Hắn buộc em phải chịu đựng mỗi đêm
sự cáo buộc của xác chết
Hắn sai sử ngòi bút em
khiến em phải viết thư không ngừng
khiến em kiếm tìm hi vọng một cách tuyệt vọng
nỗi đau của em bị chà đạp
thành chút lạc thú duy nhất trong cõi vô vị của hắn 

Cánh chim ấy của em
bay lạc trong đường chỉ tay rối rắm của bàn tay hắn
bị bốn đường chỉ tay giăng mắc
mỗi một đường trong đó
đều đã từng dối gạt em 

Kẻ độc tài mắt ráo hoảnh này
Nhưng lại cướp đoạt thi thể em
chỉ trong một đêm tóc bạc mái đầu
thêu dệt nên truyền thuyết, huyền thoại của hắn
khi hắn tưởng công đức viên thành
thì em đã trắng tay
nhưng tên tù này vẫn
bám cứng lấy tương lai trống rỗng của em 

Lại đến ngày rồi
hắn lại ban bố mệnh lệnh
em lại phải đơn độc lên đường
không có thân thể không có ký ức
dùng sinh mạng đã bị cướp trắng
gánh gồng đống sách vở nặng nề
mang đến cho hắn
Hắn quả là tên đầu cơ có nghề
chưa từng bỏ qua
mỗi một cơ hội để tước đoạt từ em 

Vợ
vợ yêu dấu
trong tất cả mọi thứ hèn mạt
trên cõi đời này
cớ sao em
khăng khăng chọn anh để chịu đựng

                  23/7/1999


C. 815: Tầm Dương

Tuyết dầy Cửu Long Giang mùa đông năm thứ 10 này
Nước sông biến thành trứng cá,
Là những cục băng
Cành cây gẫy và rớt xuống
Chim đói, từng đàn hàng trăm con, ngợp đông, ngợp nam
Một con ngỗng trời, lạc bầy, đói, trong số đó, la lớn giọng hơn cả
Lấy mỏ cố moi trong lớp băng, tí ti cỏ
Ngủ trên lớp băng
Đôi cánh lạnh giá đập chậm dần cố bay lên
Chẳng bao lâu con ngỗng lọt vô lưới của 1 chú bé ở bên sông
Kẹp con vật vô nách, chú bé mang ra chợ, bán.
Nhớ xưa kia, ở miền bắc, tôi bị lưu đầy tới nơi này
Người và chim; tuy khác nhau, những cả hai đều là khách cả
Thật nhức nhối vô cùng, như là khách viếng thăm,
nhìn con chim, cũng khách viếng thăm như mình, đau đớn.
Và thế là tôi xùy cho chú bé tí tiền chuộc, và phóng thích con ngỗng.
Ôi chú ngỗng, bay lên trời cao, lên tới tận những đám mây – chú bay đi nơi nào lúc này?
Đừng bay về phía bắc, nhớ chưa, đừng bao giờ bay về phía bắc, đó là nơi cuối cùng để mà nghĩ tới
Ở đó, ở vùng Water Gale, vẫn còn uýnh nhau, không có hòa bường đâu
Cả triệu binh lính quần thảo
Lính hoàng gia, lính phản động đối diện nhau đến trở nên già khằn
Đói, mệt nhoài, kiệt sức, họ chỉ mong tóm được chú
Những tên lính hung bạo. Họ sẽ bắn chú, và làm 1 bữa tiệc
Lông của chú thì họ gắn vào những mũi tên.

Bạch Cư Dị

Bạch Cư Dị “Thả Ngỗng Về Trời”. Bạch Cư Dị trải qua kiểm tra dân chính ở tuổi 28, vào năm 800 và sau đó, trong khi cần cù nghiên cứu xét nghiệm thêm hơn, theo như được biết, bị hỏng mắt vĩnh viễn. Trong một lá thư gửi nhà thơ Nguyên Chẩn, vào tháng Chạp 815, ông cho rằng mục đích của việc  làm thơ, trước là để “cứu thế giới” và sau tới “hoàn thiện tính cách của riêng nhà thơ”. Ông là nhà thơ làm thơ nhiều nhất thời Đường, hơn ba ngàn bài thơ hiện có, trong số có nhiều bài được trích dẫn đầy đủ, nguyên con trong The Tale of Genji, của Murasaki Shibiku, một tiểu thuyết gia Nhật có ảnh hưởng của thế kỷ 11.

Người là 1 con vật độc nhất có thể cư xử “như là bạn quí” với những nạn nhân, mà anh ta tính làm thịt, cho đến khi làm thịt họ.
Man is the only animal that can remain on friendly terms with the victims he intends to eat until he eats them.
Samuel Butler, c. 1890

Một vị độc giả, còn là thân hữu, gửi mail cám ơn vì đã khui ra câu trên.

Cái số báo về loài vật này có nhiều câu thần sầu, cực thần sầu.
Câu sau đây, chẳng tuyệt cú mèo sao:

Một con chó chết đói ở cổng nhà chủ tiên đoán sự lụi tàn của 1 đất nước
A dog starved at his master’s gate
Predicts the ruin of the state.
William Blake, 1807

Nhưng bảo đảm, chuyện này không xẩy ra cho xứ Mít.
Làm gì có chuyện chó chết đói ở cái xứ Hạ Cờ Tây!

Gấu chỉ tiếc 1 tị, là cái tay chủ tờ báo, “quên” 1 câu thần sầu, của Beckett, với riêng Gấu, khi áp dụng vào xứ Mít.

Old dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Beckett: Waiting for Godot (1)

Post thêm vài câu thú vị:

Khi chim ưng im lặng, là lũ vẹt huyên thuyên
When the eagles are silent, the parrots begin to jabber
Winston Churchill, 1945

Một con chó ngoan, thưa ngài, xứng đáng 1 khúc xương hoành tráng!
A good dog, sir, deserves a good bone.
Ben Jonson, 1633

"I am his highness's dog at Kew; / Pray tell me, sir, whose dog are you?" reads an epigram that Alexander Pope wrote in the 1730s and had engraved on the collar of one of his puppies, whom he gave to Frederick, Prince of Wales.
Tớ là chó của hoàng thân ở Kew
Bạn là chó của vị nào thế?

Đó là câu mà Alexander Pope viết, thập niên 1730, và cho khắc vào 1 miếng thẻ, đeo vào cổ 1 trong những con chó của ông, và sau biếu Frederick, ông Hoàng xứ Wales

Giai thoại trên làm Gấu nhớ những ngày liền sau 30 Tháng Tư 1975.
Vào đúng những ngày đó, đám Nguỵ quân bỏ chạy, cứ chui vô cái sân chung cư của Gấu ở, số 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn, để trút bỏ đồ lính, thay đồ thường dân – thường là áo thung, quần lót, chân trần…  chứ gì nữa, không lẽ tụt luôn cả chim bỏ lại? – và ở ngay lề đường, là 1 chiếc xe cứu thương, đầy thuốc.
Bà cụ Gấu nghĩ liền tới thằng con ghiền đang cai ken, rất cần thuốc bổ, thế là bèn leo lên xe, khiêng về nhà cả 1 lô.
Liền đó, là những ngày quân quản, và VC, vẫn cái trò mị dân, và còn để canh chừng dân Sài Gòn, cho bộ đội đến ở cùng với dân trong xóm. Một anh bộ đội, chắc là y tá, bèn làm công việc thiện nguyện, hàng ngày ghé nhà Gấu, chích thuốc bổ cho thằng ghiền đang cai ken.
Anh ta dùng 1 thứ thuốc súng, để đốt cồn, luộc kim ống.

Một lần, đang lui cui với cái đèn cồn, ống kim… anh la lớn, Thiệu, Thiệu!
Gấu ngạc nhiên quá, nhưng liền đó, Gấu thấy 1 con chó chạy tới!
Anh ta giải thích, tôi đặt tên nó là Thiệu.
Anh ta thật cưng con chó.

Ba bài liên quan tới xứ Mít, và ngày 30 Tháng Tư năm nay:

Tin tức / Việt Nam

Học Khu Westminster bỏ sách giáo khoa bị chỉ trích ‘thân cộng’

Đóng thùng, gửi trả VC!

VC đang bỏ đói đồng bào thiểu số!

Ethnic minorities in Vietnam

Out of sight

Continuing grinding poverty in Vietnam’s minority regions is a liability for the Communist Party

*

Chính trị học của hồi ức: Cờ nào, ba que hay cờ máu?

Russia’s politics of memory

Nemtsov Bridge

A fight over the site of a politician’s killing is a proxy for a broader battle 

Remembered with love MEMORY has long been the subject of fierce and often deadly ideological battles in Russia. Those who control the past also control the present.

Eibei Dogen
Japanese
1200-1253

SNOW

All my life
        tangled in false and true
                    right and wrong

admiring the moon
        laughing in the wind
                    listening to birds

year after year wasted
        seeing a mountain
            covered with snow

only this winter
        I see the snow
            is the mountain

1980s, version adapted from a literal translation by Kazuaki Tanahashi and David Schneider

W.S. Merwin: Selected Translations

Tuyết

Cả đời, tớ rối rắm trong
giả và thực
đúng và sai

chiêm ngưỡng trăng
cười trong gió
nghe chim hót 

Năm này qua năm khác, bỏ phí
nhìn núi phủ tuyết 

Chỉ có mỗi mùa đông năm nay
tớ nhìn tuyết

núi
 

MY WHOLE LIFE

J.L. Borges 

Here once again the memorable lips, unique and like yours.
I am this groping intensity that is a soul.
I have got near to happiness and have stood in the shadow
        of suffering.
I have crossed the sea.
I have known many lands; I have seen one woman and two
        or three men.
I have loved a girl who was fair and proud, with a Spanish
        quietness.
I have seen the city's edge, an endless sprawl where the sun
        goes down tirelessly, over and over.
I have relished many words.
I believe deeply that this is all and that I will neither see
        nor accomplish new things,
I believe that my days and my nights, in their poverty and
        their riches, are the equal of God's and of all men's.

[W. S. Merwin]

MA VIE ENTIÈRE

Me voici encore, les lèvres mémorables, unique et semblable à vous.
J'ai persévéré dans l'à-peu-près du bonheur et dans l'intimité de la peine.
J'ai traversé la mer.
J'ai connu bien des pays; j'ai vu une femme et deux ou
trois hommes.
J'ai aimé une enfant altière et blanche et d'une hispanique
quiétude.
J'ai vu d'infinies banlieues ou s'accomplit sans s'assouvir
une immortalité de couchants.
J'ai gouté à de nombreux mots.
Je crois profondément que c'est tout et que je ne verrai ni
ne ferai de nouvelles choses.
Je crois que mes journées et mes nuits
égalent en pauvreté comme en richesse celles de Dieu et
celles de tous les hommes.

[Ibarra]

Trọn đời Gấu

Lại là tôi, ở đây, đôi môi gợi nhớ, độc nhất và như của em
Đắm đuối nơi “xém một tí” hạnh phúc, và, trong bóng của sự đau khổ
Tôi đi hết biển [đ
ếch thấy xứ Mít]
Tôi biết nhiều xứ sở; tôi nhìn thấy 1 người đàn bà, và hai hoặc ba người đàn ông
Tôi yêu một cô gái kiêu sa, trầm lắng Tây Ban Nha
Tôi đã nhìn thấy mép bờ thành phố,
một cõi bao la trải dài, nơi mặt trời lặn, lặn hoài,
không mệt mỏi.
Tôi nếm đi nếm lại rất nhiều từ
Tôi nghĩ như vậy là quá đủ, chẳng cần thêm gì nữa.  
Tôi tin tưởng, những ngày, những đêm của tôi, trong cái sự khốn cùng cũng như giầu sang của chúng,
thì chẳng thua gì, của Thượng Đế, và của tất cả mọi người.

Iosip Brodsky
Russian
1940-1996

THE MONUMENT

Let us set up a monument
in the city, at the end of the long avenue,
or at the center of the big square,
a monument
that will stand out against any background
because it will be
quite well built and very realistic.
Let us set up a monument
that will not disturb anybody.

We will plant flowers
around the pedestal
and with the permission of the city fathers
we will lay out a little garden
where our children
will blink
at the great orange sun
and take the figure perched above them
for a well-known thinker
a composer
or a general.
I guarantee that flowers will appear
every morning
on the pedestal.
Let us set up a monument
that will not disturb anybody.
Even taxi drivers
will admire its majestic silhouette.
The garden will be a place
for rendezvous.
Let us set up a monument,
we will pass under it
            hurrying on our way to work,
foreigners will have their pictures taken
            standing under it,
we will splash it at night with the glare
            of floodlights.

Let us set up a monument to The Lie.

1967, translated with
Wladimir weidlé

W.S. Merwin

Đài Kỷ Niệm

Mít chúng mình hãy xây 1 đài kỷ niệm/tưởng niệm/lăng miện/lăng mạ...
như Lăng Bác
Ở Xề Gòn, cuối con đường thiệt là dài Hồng Thập Tự
hay ở Quảng Trường Lớn Chợ Bến Thành
Một đài kỷ niệm hiên ngang, hùng dũng, vượt lên khỏi/đếch cần 1 thứ nền tảng, gốc gác
Ngụy/Cách Mạng/Bắc Kít/Nam Kít/Trung Kít…
Bởi là vì nó sẽ được xây thật là bảnh, và thật là hiện thực Xạo Hết Chỗ Nói
Mít chúng ta sẽ xây một đài kỷ niệm
Nó sẽ đếch làm bực mình bất cứ 1 tên Mít nào.

Chúng mình sẽ trồng hoa quanh Đài
Và, với sự cho phép của ông cha thành phố
Chúng mình sẽ xây dựng 1 công viên Lê Văn Tám nho nhỏ
Nơi đám con nít của chúng ta
Sẽ chói mắt khi mặt trời chân lý xoáy qua tim
Sẽ chụp hình kỷ niệm dưới chân Đài
Cho một tư tưởng gia nổi tiếng, thí dụ Bác Hồ
Một nhà soạn nhạc, Phạm Duy
Một ông tướng, Võ Tướng Quân
Tớ bảo đảm hoa sẽ nở mọi buổi sáng
quanh Đài.

Hãy để cho đám Mít Miền Nam dựng 1 Đài Kỷ Niệm ở Thành Hồ
như Lăng Bác ở Hà Lội
Nó sẽ chẳng làm phiền bất cứ một ai.
Ngay cả 1 tên tài xế tắc xi
Sẽ trầm trồ vì cái dáng sang cả của Đài
Khu vườn sẽ là nơi hò hẹn
Hãy dựng 1 Đài
Chúng ta sẽ đi dưới nó
Trên đường hối hả tới chỗ làm việc
Đám mũi lõ sẽ chụp hình búa xua, khi đứng tạo dáng bên Đài.
Mỗi lần Xề Gòn vào mùa mưa, là Đài sẽ lấp lánh với muôn vàn đợt sóng lung linh dưới ánh đèn lũ lụt
Hãy dựng 1 Đài Tưởng Niệm/Kỷ Niệm/Lưu Niệm Tình Hữu Nghị Việt-Trung…

Và đặt tên nó là: Sự Dối Trá

TTT 2006-2015

 *

Milosz, khi nhắc tới câu nói khủng khiếp của Adorno, Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man, đã thú nhận, chính là ở Lò Thiêu, khủng hơn, ở "hậu môn" của thế giới, mà ông làm được thơ.
"Thơ ở đâu xa" cũng được TTT làm ở Trại Tù. Hơn thế nữa, chính nhờ nhà tù mà ông làm lại được thơ.
Nhưng khi ra khỏi nhà tù, ông đụng vấn nạn, làm sao viết, như thể đếch có gì xẩy ra?
Còn 1 sự kiện lạ nữa, là, khi còn ở xứ Mít, khi còn Miền Nam, ông đã làm được cú “giao lưu hòa giải”, khi tưởng tượng ra 1 anh Mít lưu vong, 1 tên Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, vội vàng trở về, để chết, như là 1 tên Ngụy, bị lầm là VC?

Quái đản thật!