*

 





Thơ Mỗi Ngày

Đặt tay vô chỗ không thể đặt. MT
Bạn click vô chỗ không thể click, thì ra.... bài điểm sách:

Vagina: Một tiểu sử mới


Remembering the Departed Spirits: Liu Xiaobo’s “June Fourth Elegies”

By Alisha Kaplan

“Let the darkness transform into rock across the wilderness of my memory.”

— From “Fifteen Years of Darkness,” June Fourth Elegies

*




TO THE HYPHENATED POETS

Richer than mother's milk
is half-and-half.
Friends of two minds,
redouble your craft.

Our shelves our hives, our selves
a royal jelly,
may we at Benares and Boston,
Phillyand Delhi

collect our birthright nectar.
No swarm our own,
we must be industrious, both
queen and drone.

Being two beings requires
a rage for rigor,
rewritable memory,
hybrid vigor.

English herself is a crossbred
- mother mutt,
primly promiscuous
and hot to rut.

Oneness? Pure chimera.
Splendor is spliced.
Make your halves into something
twice your size,
        

your tongue a hyphen joining
nation to nation.
Recombine, become a thing
of your own creation,

a many-minded mongel,
the line's renewal,
self-made and twofold,
soul and dual.

-Amit Majmudar

The New Yorker Sept 17, 2012

Charles Simic

Against Winter

The truth is dark under your eyelids.
What are you going to do about it?
The birds are silent; there's no one to ask.
All day long you'll squint at the gray sky.
When the wind blows you'll shiver like straw. 

A meek little lamb you grew your wool
Till they came after you with huge shears
Flies hovered over your open mouth,
Then they, too, flew off like the leaves,
The bare branches reached after them in vain. 

Winter coming. Like the last heroic soldier
Of a defeated army, you'll stay at your post,
Head bared to the first snowflake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You're crazier than the weather, Charlie.

The Paris Review, Issue 137,1995

Chống Đông

Sự thực thì mầu xám dưới mi mắt anh
Anh sẽ làm gì với nó?
Chim chóc nín thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày dài anh lé xệch ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió thổi, anh run như cọng rơm.

Con cừu nhỏ, anh vỗ béo bộ lông của anh
Cho tới bữa họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ trên cái miệng há hốc của anh
Rồi chúng cũng bay đi như những chiếc lá
Cành cây trần trụi với theo nhưng vô ích.

Mùa Đông tới. Như tên lính anh dũng cuối cùng
Của một đạo quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng hơn cả thời tiết, Charlie. (1)

*

Liu Xiaobo: That Day

Interview with Haris Vlavianos

Ông làm thơ hay thơ làm ông?
Do you write the poem or does the poem write you?
Thoạt đầu bạn làm thơ, sau tới những bài thơ làm thơ, và sau cùng, những bài thơ làm thi sĩ.

"Even God Needs an Eye-Witness"

So that man
no longer exists.

He spoke for a while
then fell silent.
A mourning veil
- virtually transparent -
now covers
his favourite words,
those that once
had given him
(with no little generosity)
his share of silence:
of the night's whiteness
(flakes of clear conscience
in the page's margin)
and death.

Perhaps, one day;
when turning to look back
we'll feel his absence
weighing upon us
like his voice,
when our thoughts
on his irrevocable end
light the path
of our own exile.

HARIS VLAVIANOS (1)
Translated by David Connolly
TLS 10 September, 2010

 “Ngay Ông Giời Cũng Cần Chứng Nhân Nhìn Tận Mắt”

Như vậy là người đàn ông đó
Không còn nữa 

Ông ta lèm bèm một lúc
Rồi lặng thinh
Một tấm khăn tang
-Gần như trong suốt-
Vào lúc này phủ lên những từ bảnh tỏng của ông ta
Những từ đã có lần
Đem đến
(không phải không có tí ti rộng lượng)
Phần chia nín khe của ông:
Của sắc trắng của đêm
(những bông lương tâm trong trắng
ở lề trang sách)
và cái chết.

Có lẽ một ngày nào đó
Khi ngoái nhìn lại
Chúng ta cảm nhận sự vắng mặt của ông ta
Đè lên chúng ta
Như tiếng nói của ông,
Khi những ý nghĩ của chúng ta về sự tận cùng không thể thay đổi của ông
Soi sáng con đường lưu vong của riêng chúng ta

Live at Club Revolution

Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll
In a slow, absentminded striptease.
Her shoulders are already undraped,
And so is one of her sagging breasts.
The kisses she blows to us
Are as cold as prison walls.

Once we were a large wedding party.
It was a sunny weekend in June.
Women wore flowers on their straw hats
And white gloves over their hands.
Now we run dodging cars on the highway.
The groom, someone points out, looks like
President Lincoln on a death notice.

It's time to burn witches again,
The minister shouts to the congregation
Tossing the Bible to the ceiling.
Are those Corinna Brown's red panties
We see flying through the dark winter trees,
Or merely a lone crow taking home
His portion of the day's roadkill?

Charles Simic

Nhạc sống tại Câu Lạc Bộ Cách Mạng Thành Hồ

Tương lai xứ Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống tắc nghẹn
Trong một xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ để trần
Cũng thế, là một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em ban cho chúng ta
Lạnh như tường nhà tù Phan Đăng Lưu 

Một lần tụi này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi này đang chạy xe lắt léo trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một tay nào chỉ ra,
Sao giống y chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.

Đã đến giờ lại thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1 chú quạ
đem về nhà
phần chia những xác chết vì xe cán trong ngày? 

Mother Tongue

That's the one the butcher
Wraps in a newspaper
And throws on the rusty scale
Before you take it home

Where a black cat will leap
Off the cold stove
Licking its whiskers
At the sound of her name

Charles Simic

 

Tôi êu tiếng nước tôi

Đó là thứ tiếng mà tay đồ tể
Gói trong tờ báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ Lăng,
Rồi thẩy lên cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả tiền
Và mang về

Nơi con mèo đen nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu Miu”

Bữa rượu nhỏ

Nàng không tin nàng còn xinh
Cười đưa hoa ấu chồng mình ngắm chơi
Rót ly rượu nhỏ cùng soi
Chân mày môi má hồng thôi là hồng (1)

Đặng Lệ Khánh

Note: Bắc Kít nói, Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!

Tks
NQT

Người Huế cũng nói "hồng ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì hơi "liếng" .
Để nghiêm chỉnh hơn một tí thì dùng chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch và viết nhiều quá, K đọc không kịp !!!

Tôi tính chỉ dịch thơ, và dịch 1 số truyện ngắn, và bỏ hết những mục khác, nhưng chưa được.
Tôi cũng định chuyển 1 số bài viết cho a2a, nhưng phải là những bài nhẹ nhàng, và “hoàn tất”!

Tks agian
NQT

Giáng Sinh

Giáng Sinh chưa nhấp môi đã thấy nhớ nhà
Dường như có một người bạn thân ở trong ta
Đi rất xa
Rất lâu
Chợt về đêm nay 

Người bạn thân hay là quê hương cũ
Tiếng cười xưa rộn rã với đêm này
Nến rực rỡ soi hồn ta rất rõ
Chút ngậm ngùi bay theo hơi rượu cay. 

Rượu rất cay mà lòng rất vui
Chúc tụng nhau bằng bài thơ mới
Ba mươi năm thơ vẫn đẹp như người.

Bữa rượu nhỏ làm Gấu nhớ đến bài trên làm bữa Noel đầu tiên, 1994, gặp lại cô bạn ở Xứ Lạnh.
Gấu Cái giận ơi là giận vì dòng thơ chót.


Thiếu Khanh

Giới thiệu bài thơ Tiểu Chước của Cao Bá Quát

Nàng nghĩ mình lúc này già xấu
Đưa chồng xem bông ấu trên tay
Mời ta chung rượu rót đầy
Lung linh phản chiếu nét mày thắm tươi

Note:
Có câu ca dao liên quan tới trái ấu, cũng hợp với bài thơ này lắm.
Nhân SN, mượn đỡ, tặng Gấu Cái!
NQT

blue. tháng 8

tháng 8. ngày còn lại. dấu chấm
31. buồn. vòng xoay
một điểm cuối. tháng 8
trời ui mây. trĩu
black. dừng lại. tháng 8
xác ve. vào buổi sớm
74 độ f. lúc 6 giờ. sáng
lần cuối. tháng 8. buồn
hơi thở. sương mù
blue. quạnh. quẽ
mùa bão. biển. ngày
31 cuối. đừng buồn
không blue. mùa hè đi. qua
tháng 8. em. đừng nói
câu. trĩu đen trời. thấp
qua mau. qua mau. ngày
31. tháng 8. những giọt nước
sũng lời nói. chia xa
vẳng. theo tiếng chuông. sớm
những chiếc lá. chưa muốn. lìa
cành. café đắng hơn. ngày cuối
con đường nhỏ. trước nhà. rưng rức
nước. tị tách xoay. quanh
bóng nước. dáng em ngồi. hiên nhà
tóc xỏa. chiếc ghế đu đưa
theo điệu gió. tháng 8
không nắng. buồn. vỡ. theo
những giọt nước. em
hôn nhau. trên những cánh hoa
tàn tạ. rũ rơi. ngày cuối. 31
giờ cuối. tháng 8
black. blue
tháng 8 chấm buồn

Đài Sử

Limits

Of all the streets that blur into the sunset,
there must be one (which, I am not sure)
that I by now have walked for the last time
without guessing it, the pawn of that Someone

who fixes in advance omnipotent laws,
sets up a secret and unwavering scale
for all the shadows, dreams, and forms
woven into the texture of this life.

If there is a limit to all things and a measure
and a last time and nothing more and forgetfulness,
who will tell us to whom-in this house
we without knowing it have said farewell?

Through the dawning window night withdraws
and among the stacked books that throw
irregular shadows on the dim table,
there must be one which I will never read.

There is in the South more than one worn gate,
with its cement urns and planted cactus,
which is already forbidden to my entry,
inaccessible, as in a lithograph.

There is a door you have closed forever
and some mirror is expecting you in vain;
to you the crossroads seem wide open,
yet watching you, four-faced, is a Janus.

There is among all your memories one
which has now been lost beyond recall.
You will not be seen going down to that fountain,
neither by white sun nor by yellow moon.

You will never recapture what the Persian
said in his language woven with birds and roses,
when, in the sunset, before the light disperses,
you wish to give words to unforgettable things.

And the steadily-flowing Rhone and the lake,
all that vast yesterday over which today I bend?
They will be as lost as Carthage,
scourged by the Romans with fire and salt.

At dawn I seem to hear the turbulent
murmur of crowds milling and fading away;
they are all I have been loved by, forgotten by;
space, time, and Borges now are leaving me.
-A.R.

LIMITES

Creusé par le long cours des trottoirs et des toits
Le soir décline. Quelques-unes de ces rues
- Mais lesquelles ? - je dois les avoir parcourues,
Sans le savoir, déjà pour la dernière fois.

Je suis promis à vous, toutes-puissantes normes ;
Je subis l'ordre étroit secrètement fixé
A ces tenebres, à ces rêves, à ces formes
Par quoi l'homme est tissé, détissé, retissé.

La mesure et la fin, ce qui va disparaitre,
Le «désormais », le «jamais plus » plaisent à Dieu :
II est dans nos maisons quelqu'un, tout près peut-être,
A qui sans le savoir nous avons dit adieu.

La veille se prolonge ; à la fenêtre grise
Va s'achever la nuit. De ces livres en tas
Dont l'ombre se répand sur la table indécise
II en est quelques-uns que nous ne lirons pas.

Je connais vers le Sud, sous l'agave et la mure
Et la jarre en ciment, un vieux portail perdu.
Je l'aimais bien; il m'est désormais défendu
Comme s'il n'existait que sur une gravure.

Quelques miroirs jamais ne te regarderont ;
Ces portes, tu les as pour toujours condamnées ;
Le carrefour semble s'ouvrir à tes journées,
Mais il est surveillé par Janus Quadrifront.

Ta mémoire te reste ; et pourtant il est une
Image que tu vois pour la dernière fois.
Jamais le blanc soleil, jamais la jaune lune
Ne te verront descendre à la source des bois.

Cette langue d'oiseaux, de coupes et de roses
Que t'offrait le Persan, tu ne l'entendras plus;
Elle t'échappera quand dans les soirs diffus
Tu voudras murmurer d'inoubliables choses.

Et mon passé d'Europe, aujourd'hui si réel,
Et ce Rhone incessant, et son lac, et le Tage?
lis connaitront bien tot le néant de Carthage
Qu'effaca le Latin par la flamme et le sel.

Je crois entendre au loin des rumeurs qui s'agitent,
Désordre de départs au levant embrume ;
Une foule m'oublie après m'avoir aimé ;
Voila le temps, l'espace et Borges qui me quittent.

Note: GCC mới kiếm thấy bản tiếng Tây.
Sẽ sửa lại bản tiếng Việt

RAYMOND CARVER

THE BLUE STONES

If I call stones blue it is because
blue is the precise word, believe me.
-FLAUBERT

You are writing a love scene
between Emma Bovary and Rodolphe Boulanger,
but love has nothing to do with it.
You are writing about sexual desire,
that longing of one person to possess another
whose ultimate aim is penetration.
Love has nothing to do with it.
You write and write that scene
until you arouse yourself,
masturbate into a handkerchief.
Still, you don't get up from the desk
for hours. You go on writing that scene,
writing about hunger, blind energy-
the very nature of sex-
a fiery leaning into consequence
and eventually, utter ruin
if unbridled. And sex,
what is sex if it is not unbridled?

You walk on the strand that night
with your magpie friend, Ed Concourt,
You tell him when you write
love scenes these days you can jackoff
without leaving your desk.
"Love has nothing to do with it," you say.
You enjoy a cigar and a clear view of Jersey.
The tide is going out across the shingle,
and nothing on earth can stop it.
The smooth stones you pick up and examine
under the moon's light have been made blue
from the sea. Next morning when you pull them
from your trouser pocket, they are still blue.

-for my wife

THE CURRENT

These fish have no eyes
these silver fish that come to me in dreams,
scattering their roe and milt
in the pockets of my brain.

But there's one that comes-
heavy, scarred, silent like the rest,
that simply holds against the current,

closing its dark mouth against
the current, closing and opening
as it holds to the current.

LE COURANT

Ils n'ont pas d'yeux, ces poissons
ces poissons d'argent qui me visitent en rêve,
semant leurs oeufs et leur laitance
dans les poches de mon cerveau.

Mais il en est un qui vient -
énorme, balafré, muet comme les autres,
qui se maintient simplement contre le courant,

fermant sa bouche sombre contre
le courant, la fermant et l'ouvrant
tout en résistant au courant. 

Dòng nước

Những con cá này không có mắt
Những con cá bạc đến thăm tôi trong giấc mơ
Rải trứng và tinh dịch
Trong những cái túi ở trong não của tôi 

Nhưng có 1 con – to bự, có sẹo, câm nín như mọi con khác
Chú cá bự này giản dị chống lại dòng nước

Khép cái miệng tối thui chống lại
Dòng nước, khép lại, mở ra
Luôn chống lại dòng nước.

THE OTHER LIFE

Now for the other life. The one
without mistakes.
-LOU LIPSITZ

My wife is in the other half of this mobile home
making a case against me.
I can hear her pen scratch scratch.
Now and then she stops to weep,
then-scratch scratch.

The frost is going out of the ground.
The man who owns this unit tells me,
Don't leave your car here.
My wife goes on writing and weeping,
weeping and writing in our new kitchen.

L'AUTRE VIE

Et maintenant l'autre vie.
Celle où on ne fera pas d'erreurs.
Lou LIPSITZ.

Ma femme est dans l'autre moitié de ce mobile home
dressant un acte d'accusation contre moi.
J'entends son stylo crisser.
De temps à autre elle s'arrête pour pleurer,
ensuite le crissement reprend.

Le sol est en train de dégeler.
Le proprietaire du camping me dit :
Ne laissez pas votre voiture ici.
Ma femme continue d'écrire en pleurant,
de pleurer en écrivant dans notre nouvelle cuisine.
 

Cõi Khác

Nào, bây giờ là cõi khác

Cõi đếch có lầm lẫn

Vợ tớ ở một nửa căn mobile home
Đang gây gổ với tớ
Tớ nghe ngòi viết cào cào, cào cào
Thỉnh thoảng nàng ngưng, để khóc
Rồi lại, cào cào, cào cào

Mặt đất đang tan băng
Người chủ khu nhà biểu tớ:
Đừng để xe ở đây.
Vợ tớ tiếp tục viết và khóc
Khóc và viết trong căn bếp mới của chúng tớ
*

INTERVIEWER [The Paris Review]
Is it true-a friend of yours told me this-that you celebrated your first publication by taking the magazine to bed with you?

CARVER
That's partly true. Actually, it was a book, The Best American Short Stories annual. My story "Will You Please Be Quiet, Please?" had just appeared in the collection. That was back in the late sixties when it was edited every year by Martha Foley and people used to call it that - "The Foley Collection." The story had been published in an obscure little magazine out of Chicago called December. The day the anthology came in the mail I took it to bed to read and just to look at, you know, and hold it, but I did more looking and holding than actual reading. I fell asleep and woke up the next morning with the book there in bed beside me, along with my wife.

Đọc 1 phát là nhớ ngay ra cái cảnh GCC đọc Những Ngày Ở Sài Gòn, khi nó được đăng trên tờ Nghệ Thuật.
GCC, do làm part time cho UPI, nên phải dưỡng thương, sau cú ăn hai trái mìn VC, ở ngay tại Đài Liên Lạc.VTD thoại số 5 Phan Đình Phùng.
Bữa đó đó, đọc bài thơ của CTC trên tờ NT, thế là bèn nổi hứng lên, bèn lôi mớ bản thảo truyện Những Ngày Ở Sài Gòn, thai nghén từ những ngày nằm Grall [tôi đứng ở cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời, và chiến tranh bèn bỏ đi từ hồi nào hồi nào, là có thiệt, và đúng là giấc mơ của Gấu những ngày nằm Grall], đánh bóng nó, nhờ Trần Công Quốc, một trong Thất Hiền, khi đưa vợ đi làm [bà vợ là nữ điện thoại viên, nhân viên Đài], đưa cho ông anh nhà thơ TTT.
Khi báo ra, Gấu, đúng như Carver, ôm tờ báo ngủ, cùng với, không phải vợ, mà là cái áo giáp, tức lớp platre bao quanh người, và cái tay ăn mìn VC, khi ngủ phải nằm sát bên tường, dựa cánh tay lên đó!

LOST

Lost, lost in gray hallways.
At night the lightbulbs hiss like signals of sinking ships.
We read books forgotten by their authors.
There is no truth, wise men repeat.
Summer evenings: festivals of swifts,
peonies erupting in the suburbs.
Streets seem abbreviated
by the heat, the ease of seeing.
Autumn creeps up surreptitiously.
Still sometimes we surface for a moment,
and the setting sun sometimes gleams
and a short-lived certainty appears,
nearly faith.

Adam Zagajewski

Thất lạc

Thất lạc, thất lạc trong những hành lang xám
Ban đêm, những cái bóng đèn huýt gió, như tín hiệu của những chiếc tầu đang chìm
Chúng ta đọc những cuốn sách bị bỏ quên bởi những tác giả của chúng.
Đếch có sự thực, mấy bậc hiền giả lập đi lập lại
Những buổi chiều hè: hội hè của chim én,
Mẫu đơn nở rộ nơi ngoại ô
Phố xá như thu vén lại bởi cái nóng, tầm nhìn như thoáng ra
Mùa thu lồ lộ, chẳng thèm giấu diếm
Tuy nhiên, thỉnh thoảng, chúng ta cũng chường mặt ra, trong thoáng chốc
Và mặt trời lặn đôi lúc loé sáng
Và cái thực, cái chắc, đoản mệnh - chết non thì cũng thế - xuất hiện
Xém 1 tí thì trở thành niềm tin

Borges Page

The Streets

My soul is in the streets
of Buenos Aires.
Not the greedy streets
jostling with crowds and traffic,
but the neighborhood streets where nothing is happening,
almost invisible by force of habit,
rendered eternal in the dim light of sunset,
and the ones even farther out,
empty of comforting trees,
where austere little houses scarcely venture,
overwhelmed by deathless distances,
losing themselves in the deep expanse
of sky and plains.
For the solitary one they are a promise
because thousands of singular souls inhabit them,
unique before God and in time
and no doubt precious.
To the West, the North, and the South
unfold the streets-and they too are my country:
within these lines I trace
may their flags fly.
-S.K.

Những con phố

Hồn Gấu ở trong những con phố Sài Gòn
Không phải những con phố tham lam,
với những đám đông xô đẩy, xe cộ chèn ép
Nhưng những con phố với những ngõ hẻm, khu xóm, nơi chẳng có gì đang xẩy ra
hầu như là vô hình do sức mạnh của thói quen,
được cái thứ ánh sáng nhàn nhạt, yếu ớt của buổi hoàng hôn
làm thành bất tử.
Và những khu xóm xa hơn tí nữa, những Ngã Ba Chú Ía, Ngã Năm Chuồng Chó, Cây Da Xà, thí dụ;
trống rỗng, không hàng me Nguyễn Du với ly cà phê ấm lòng buổi sáng
Nơi những căn nhà nhỏ khắc nghiệt chẳng hề mơ tưởng chuyện phiêu lưu
Bao phủ bởi những khoảng cách vời vợi
Tự xoá nhòa vào khoảng không sâu thẳm
Của bầu trời và đồng bằng
Với 1 kẻ cô đơn như Gấu, thì chúng là một hứa hẹn,
Bởi vì hàng ngàn linh hồn bướm lẻ loi, mình ên ngụ ở đó
Độc nhất trước Thượng Đế và đúng lúc
Và chẳng hồ nghi
Cực quí giá.
Về hướng Tây, hướng Bắc, hướng Nam
những con phố trải dài mãi ra – và chúng là xứ sở của Gấu
Trong những dòng thơ này, Gấu vẽ ra, và cầu chúc
Cờ Ba Que phất phới!

Limits

Of all the streets that blur into the sunset,
there must be one (which, I am not sure)
that I by now have walked for the last time
without guessing it, the pawn of that Someone

who fixes in advance omnipotent laws,
sets up a secret and unwavering scale
for all the shadows, dreams, and forms
woven into the texture of this life.

If there is a limit to all things and a measure
and a last time and nothing more and forgetfulness,
who will tell us to whom-in this house
we without knowing it have said farewell?

Through the dawning window night withdraws
and among the stacked books that throw
irregular shadows on the dim table,
there must be one which I will never read.

There is in the South more than one worn gate,
with its cement urns and planted cactus,
which is already forbidden to my entry,
inaccessible, as in a lithograph.

There is a door you have closed forever
and some mirror is expecting you in vain;
to you the crossroads seem wide open,
yet watching you, four-faced, is a Janus.

There is among all your memories one
which has now been lost beyond recall.
You will not be seen going down to that fountain,
neither by white sun nor by yellow moon.

You will never recapture what the Persian
said in his language woven with birds and roses,
when, in the sunset, before the light disperses,
you wish to give words to unforgettable things.

And the steadily-flowing Rhone and the lake,
all that vast yesterday over which today I bend?
They will be as lost as Carthage,
scourged by the Romans with fire and salt.

At dawn I seem to hear the turbulent
murmur of crowds milling and fading away;
they are all I have been loved by, forgotten by;
space, time, and Borges now are leaving me.
-A.R.

*

BUENOS AIRES

Te voici devenue une carte, ma ville -
Où j'épingle l'échec, la honte, le souci.
Sous ce portail tombaient mes soirs mornes ; voici
Le parc où s'épuisait mon attente inutile.
Ici le passé vague et le présent borné
M'offrent mon lot banal d'espérance et de crainte ;
Et chaque heure qui passe ajoute au labyrinthe
Incalculable que mes pas ont dessiné,
C'est ici que cendré de lumière automnale
Chaque soir pense aux fruits que lui doit le matin ;
Ici bientôt cette ombre vaine, mon destin,
Va se fondre en la non moins vaine ombre finale.
Ce n'est pas le bonheur qui nous joint, c'est l'effroi.
Ma ville, si je t'aime tant - voilà pourquoi ?

Sài Gòn

Sài Gòn bây giờ là tấm bản đồ
Gấu găm lên đó thất bại, xấu hổ, âu lo, và phiền muộn
Dưới cái cổng này, những buổi chiều rầu rĩ của Gấu theo nhau đổ xuống;
Đây là Ngã Sáu, nơi Gấu đợi một cách vô ích một cuộc gặp gỡ tưởng tượng
Nơi quá khứ mơ hồ và hiện tại cụt thun lủn
Chúng thí cho Gấu cái phần số tầm phào của hy vọng và sợ hãi
Và mỗi giờ qua đi thì lại thêm vào mê cung không thể tính được, mà những bước chân của Gấu vẽ nên
Chính là ở đây, xám lên màu tro, thứ ánh sáng mùa thu
Mỗi buổi chiều thì nghĩ tới những trái cây mà buổi sáng thiếu nó.
Ở đây, chẳng bao lâu nữa, cái bóng vô ích, số phần của Gấu
Sẽ tan vào cái bóng sau cùng, cũng vô ích chẳng kém
Không phải hạnh phúc kiếm chúng ta để mà nhập vô, nhưng mà là khiếp sợ
Thành phố của Gấu, Sài Gòn của Gấu,
Gấu yêu mi mới vô cùng làm sao, và đó là lý do tại sao?


IN 1940

1.

When they bury an epoch,
No psalms are read while the coffin settles,
The grave will be adorned with a rock,
With bristly thistles and nettles.
Only the gravediggers dig and fill,
Working with zest. Business to do!
And it's so still, my God, so still,
You can hear time passing by you.
And later, like a corpse, it will rise
Ride the river in spring like a leaf,-
But the son doesn't recognize
His mother, the grandson turns away in grief,
Bowed heads do not embarrass,
Like a pendulum goes the moon.
Well, this is the sort of silent tune
That plays in fallen Paris. 

Khi họ chôn một thời kỳ
Không tụng ca được đọc khi hạ huyệt
Ngôi mộ sẽ được điểm trang bằng 1 cục đá.
Với cây kế tua tủa và tầm ma
Chỉ mấy đấng thợ, đào, và sau đó lấp, mồ.
Họ háo hức, hăm hở. Công việc mà!
Và thật câm lặng, Chúa ơi, thật câm lặng!
Bạn có thể nghe thời gian qua đi.
Và sau đó, như 1 cái thây ma, nó trỗi dậy
Bay trên mặt sông vào mùa xuân như 1 chiếc lá –
Nhưng ông con trai không nhận mẹ
Đứa cháu trai bỏ đi trong đau khổ
Những cái đầu cúi xuống đâu làm phiền ai
Như con lắc, mảnh trăng đong đưa
Đúng rồi, đúng điệu nhạc âm thầm đó
Dân Sài Gòn chơi, ngày mất Sài Gòn. 

IN MEMORY OF MIKHAIL BULGAKOV

This poem comes to you instead of flowers,
Graveyard roses, or incense smoke;
You who even in the final hours
Showed marvelous disdain. You drank wine. You joked
Like no one else. As for the rest-
You suffocated in a walled-off square;
You yourself admitted the terrible guest,
And remained alone with her there.
Now you don't exist: no one says a thing
About your bitter and beautiful life;
Only my flutelike voice will sing
At this, your silent funeral feast.
It's unbelievable, to say the least,
That I, half-mad, mourning the past,
Smouldering on top of the slowest coal,
Having lost everything and forgotten them all,
Am fated to commemorate someone so strong,
Bright and steady to the final breath-
Was it yesterday we spoke? Has it been so long?-
Who hid the shuddering throes of death.
1940

Tưởng nhớ MIKHAIL BULGAKOV

Bài thơ này cho bạn, thay vì hoa
Hồng nghĩa trang, hay khói trước mồ
Bạn, những giờ cuối
Vẫn khinh khi lũ VC Nga thật là tuyệt cú mèo
Bạn uống hồng đào
Bạn chọc quê, kể chuyện hài, như chưa từng có ai làm được như thế
Về những gì còn lại –
Bạn nghẹt thở giữa bốn bức tường
Bạn, chính bạn đã chấp nhận vị khách khủng khiếp
Và một mình với nàng ở đó
Bây giờ bạn : Chẳng ai nói một điều gì
Về cuộc đời cay đắng và đẹp đẽ của bạn
Chỉ có giọng sáo diều của ta
Sẽ hát, ở đó,
Ở tang lễ im lìm của bạn
Thật là không thể tin nổi, chỉ nói thế thôi,
Rằng, ta, nửa khùng, nửa điên,
Tưởng niệm quá khứ
Âm ỉ trên đỉnh mớ than thấp, ở dưới đáy
Mất mọi thứ, và quên tất cả mọi thứ
Là người được số phận trao
Tưởng nhớ một người nào đó thật mãnh liệt,
Sáng ngời, và kiên định cho đến hơi thở chót –
Mà có phải là ngày hôm qua chúng ta nói tới? Sao lâu thế? –
Kẻ giấu những cơn giãy dụa của cái chết?

1940

Akhmatova


*

Xuống phố đổi phim, vớ được cuốn mới ra lò của Todorov, “Hồi nhớ như là thuốc khử Cái Ác”. Mỏng, nhưng thần sầu, và như đẩy câu  của Borges lên 1 mức cao hơn nữa, đúng hơn, qua hẳn 1 phạm trù khác:
Liệu chỉ bằng hồi nhớ, chúng ta khử được....Cái Ác Bắc Kít & VC?
[Dịch nhảm: Can we escape evil by the sheer power of memory?]

To a Minor Poet of 1899

To leave a verse concerning the sad hour
That awaits us at the limit of the day,
To bind your name to its sorrowful date
Of gold and of vague shade. That's what you wanted.
With what passion as the day drew to its close
You labored on and on at the strange verse
That, until the universe disperses,
Would confirm the hour of the strange blue!
I do not know if ever you succeeded
Nor, vague elder brother, if you existed,
But I am alone and want oblivion
To restore your fleeting shade to the days
In the supreme already worn-out effort
Of words wherein the evening may yet be.
-C.T. 

A UN POETE MINEUR DE 1899

La tristesse qui guette à l'heure où le jour fuit
Te demandait un verse. Tu voulus d'une lente
Ligne lier ton nom à la date dolente
Où l'or va se mêlant à l'imprécise nuit.
Dans la lueur qui se soumet et qui s'echange
De quel amour tu dus polir l'
étrange vers
Qui, jusqu'à la dispersion de l'univers,
Saurait seul confirmer I'heure d'azur étrange !
Y parvins-tu jamais ? De toi, mon vague ainé,
Que savoir et que dire? Es-tu mort? Es-tu né ?
Mais je veux que l'oubli rende à ma solitude
L'ombre légère de ta vie, et ton espoir,
Embué par le mien d'un peu de lassitude,
Qu'en quelques mots humains puisse tenir le soir 

Gửi nhà thơ làng nhàng trước 1975

Đã để lại 1 dòng thơ về cái giờ buồn thảm
Đợi chúng ta ở mút chót của ngày
[30 Tháng Tư, 1975?]
Để cái tên của anh, Joseph Huỳnh Văn vô cái ngày rầu rĩ
Bằng vàng [30 năm mới có ngày hôm nay]
Hay bằng một cái bóng mơ hồ
[Vui sao nuớc mắt lại trào?]
Đó là điều bạn ta muốn?
Bằng đam mê nào, khi cái ngày 30 Tháng Tư đó tiến dần tới đêm đen,
Bạn hì hục loay hoay mần câu thơ lạ thường đó?
Cho đến khi vũ trụ [thiên đường Miền Nam, Ấp Tara..] tiêu tùng,
Và đó là cái giờ của màu xanh lạ thường được xác nhận?
Gấu thật tình chẳng làm sao biết được, liệu bạn thành công chăng?
Và cũng chẳng biết, bạn, nhà thơ làng nhàng của Miền Nam trước 1975, đã từng hiện hữu?
Nhưng Gấu thì trơ cu lơ một mình, hết còn bạn quí
Và chỉ muốn đi vào quên lãng
Bởi vì chỉ có sự quên lãng thì mới cứu lại được cái bóng của bạn lừng lững khuất nẻo dòng đời
Trong 1 sự cố gắng phi thường đã rách nát của những từ ngữ,
mà ở trong chúng,
buổi chiều của hai đứa chúng ta cứ vưỡn còn hoài.

Note: Bài thơ này GCC mới kiếm ra bản tiếng Tây của nó. Post, như 1 tưởng niệm bạn thơ của GCC.
Khi anh còn sống, GCC chẳng biết làm thơ. Ông anh nhà thơ thì có đọc mấy bài thơ của Gấu rồi, khi Gấu gửi ông cuốn Lần Cuối Sài Gòn,  1998, lần qua Cali đầu tiên, nhân cuốn sách ra lò, qua 1 nhà thơ Kế Iêm, Trùm & Giáo Chủ trường phái Tân Hình Thức

*

Trong bài viết về “Bếp Lửa”, 1972, trên TSVC, Gấu viết, học trò khám phá ra Thầy, không phải Thầy khám phá ra trò.
Gấu thuổng ý này từ1 bản tiếng Tẩy, của 1 tay nào đó, chẳng hề nhớ, và mê quá, bèn chôm luôn.
Ui chao, chỉ đến khi ra được hải ngoại, đọc Borges, thì mới biết câu trên là từ Borges, và, câu văn này biến đổi toàn bộ lịch sử văn học thế giới:
“Mọi nhà văn sáng tạo ra những người đi trước mình”.

Alberto Manguel, trong With Borges, viết

In spite of himself, Borges changed forever the notion of literature and consequently that of the history of literature. In a famous text (1) whose first version was published in 1952, he wrote: "Every writer creates his own precursors." With this statement, Borges adopted a long lineage of writers who now appear Borgesian avant la lettre: Plato, Novalis, Kafka, Schopenhauer, Remy de Gourmont, Chesterton ... Even writers who seem beyond all individual claim, classics among classics, now belong to Borges's reading, like Cervantes after Pierre Menard.

With Borges kể thời gian Manguel được Borges mướn làm người đọc sách cho ông, khi ông bị mù. Có những chi tiết thật thú về Borges. Những câu phán thật lạ.

Thí dụ, Borges phán, về thần học, tôi ngược hẳn với đám Ky Tô Á Căn Đình, họ tin, nhưng đếch quan tâm. Còn tôi quan tâm, đếch tin. Ông cũng cho biết, rất mê cách sử dụng ẩn dụ Ky Tô của Saint Augustine, thí dụ, ông này nói, "Cây thập tự cứu chúng ta khỏi mê cung vòng tròn của đám stoics", và, Borges nói thêm, tôi vẫn mê "mê cung vòng tròn", circular labyrinth.

Câu này cũng thú: Tôi cảm động về những túi khôn nhỏ nhỏ, của 1 con người nhỏ nhỏ, chết đi cùng với người đó. [“I am moved by small wisdoms that are lost at every death: Tôi xúc động vì những khôn ngoan nhỏ, mất đi với mọi cái chết”]
Cái khôn ngoan nhỏ mất đi với mọi cái chết, theo GCC - với riêng GCC, đúng hơn - là những kỷ niệm thật thân thương về 1 người thân đã đi xa.
Thí dụ như kỷ niệm của GCC với BHD khi em chê Gấu không bằng “boyfriend” của em:

Gấu không làm nổi việc đó đâu!
Em nói về những lần, nghe Sài Gòn rục rịch xuống đường, biểu tình, biến động… là anh bạn cùng học khệ nệ vác vài bao gạo đến nhà ông bố vợ chưa cưới!
Khi ra hải ngoại, chuyện hai người ly dị, Gấu nghe qua 1 người bạn, là cũng có liên quan đến chuyện, ông chồng làm một số việc Gấu không làm được!

But why?

Em có thể lấy 1 người không giống…  Gấu, nhưng cũng không giống...  ông chồng chứ, nhỉ?
Khó hiểu quá!

*

Xuống phố đổi phim, vớ được cuốn mới ra lò của Todorov, “Hồi nhớ như là thuốc khử Cái Ác”. Mỏng, nhưng thần sầu, và như đẩy câu  của Borges lên 1 mức cao hơn nữa, đúng hơn, qua hẳn 1 phạm trù khác:
Liệu chỉ bằng hồi nhớ, chúng ta khử được....Cái Ác Bắc Kít & VC?
[Dịch nhảm: Can we escape evil by the sheer power of memory?]

THE GENEROUS FRIEND

In the year 1102, Magnus Barfod attempted to conquer all the kingdoms of Ireland. It is said that he received the following greeting from Muirchertach, the king of Dublin, the night before he died:

May gold and storms serve your army well, Magnus Barfod.
May your battle tomorrow be successful, in the fields of my kingdom.
May your regal hands weave the sword's cloth, sowing terror.
May those who oppose your sword be food for the red swan.
May your many gods grant you your fill of glory-may they sate you with
blood.
May you be victorious at dawn, o king who trods Ireland underfoot.
May none of your numerous days shine more brightly than the day of
tomorrow.
Because this will be your last day, King Magnus, I swear it.
Because before its light is snuffed out, I will defeat you and snuff you out,
Magnus Barfood.

-from Anhang zur Heimskringla (1893) by H. Gering

L'ENNEMI GÉNÉREUX

Magnus Barfod entreprit en 1102 la conquête générale des royaumes d'Irlande; on raconte qu'il recut, la veille de sa mort, cette salutation de Muirchertach, roi de Dublin:

Que dans tes armées combattent l'or et la tempête, Magnus Barfod.
Que demain, sur les campagnes de mon royaume, ta
bataille soit heureuse.
Que tes mains de roi tissent terribles la toile de l'épée.
Que soient pature aux cygnes rouges ceux qui s'opposent à ton épée.
Que tes nombreux dieux te rassasient de gloire, qu'ils te rassasient de sang.
Que tu sois victorieux à l'aurore, roi qui mets le pied sur
l'Irlande.
Que de tes nombreux jours aucun ne resplendisse comme
le jour de demain.
Parce que ce jour sera le demier. Je te le jure, roi
Magnus.
Parce qu'avant que sa lumière ne soit effacée, je te vaincrai et je t'effacerai, Magnus Barfod.

H. GERING, Anhang zur Heimskringla (1893).

Note: Bài thơ của Borges, có hai cái tít khác nhau, nói ra cái nghĩa, bạn quí chính là kẻ thù quí, rộng lượng!

Pussy Riot's Punk Prayer is pure protest poetry

*

Đọc bài viết thì GCC nghĩ tới nhóm Ngựa Trời của Sài Gòn

Những chiếc lá ở Cypress

Tớ chỉ có 1 kẻ thù. Tớ không biết bằng cách nào hắn ta vô nhà tớ vào đêm 10 Tháng Tư, 1977. Hắn mở không phải một mà hai cửa. Cửa lớn mở ra con phố, và cửa căn phòng của tớ. Hắn  bật đèn, đánh thức tớ ra khỏi 1 cơn ác mộng, mà tớ không nhớ chi, ngoài chuyện, có 1 cái vườn ở trong đó. Không lớn giọng, hắn ra lệnh cho tớ dậy, mặc quần áo liền tức khắc. Cái chết của tớ kể như được quyết định và nơi chốn hành quyết thì cũng chẳng xa lắm. Ngạc nhiên làm nghẹn lời, tớ thì bèn vâng lời. Hắn không cao như tớ, nhưng chắc nịch, và hận thù cho hắn sức mạnh. Thời gian trôi không ảnh hưởng gì tới hắn, trừ điều này, tóc của hắn điểm trắng, trên cái đầu đen. Hắn như sướng điên lên bởi một niềm vui gớm ghiếc. Hắn đã từ lâu thù tớ, và bây giờ hắn sẽ làm thịt tớ. Beppo, con mèo ngắm hai đứa chúng tớ, làm hắn lệch pha ra khỏi cõi vĩnh cửu của hắn, nhưng chẳng thể cứu tôi. Cũng vậy, là con hổ màu xanh bằng đất nung ở trong phòng ngủ, và luôn cả những nhà ảo thuật và những vị thần ở trong toàn bộ Ngàn lẻ Một Đêm. Tớ cần 1 cái gì đó làm bạn đường, và hỏi hắn cho mang theo 1 cuốn sách. Cuốn Thánh Kinh, thì đếch có thể được rồi! Một cách thật tình cờ, ngẫu nhiên, tay tớ sờ vô 1, trong 1 bộ 12 cuốn của Emerson. Thế rồi hai đứa rón rén xuống cầu thang. Tôi đếm mọi bước chân. Tớ để ý hắn cần thận không để chạm vô người tớ, sự sợ lây cái gì đó.
Borges

UNE ROSE ET MILTON

Sans rien qui la distingue ou l'étrange des choses
Qui furent, se consume au fond du temps pâli
Une rose. Je veux la tirer de l'oubli.
Retrouvez cette rose, ô families des roses.
Donnez-la-moi ; le sort me dispense ce soir
Le privilège de nommer pour la première
Fois cette fleur silencieuse, la dernière
Que rapprocha de son visage, sans la voir,
Milton. Qui que tu sois, rouge, jaune peut-être
Ou blanche rose au coeur d'un jardin effacé,
Je demande qu'un charme écarte ton passé
Et te fasse éclatante en mon vers apparaitre
Avec tes ors, tes ivoires et tes carmins,
Ou ta ténèbre - ô ténèbreuse entre ses mains. 

A Rose and Milton

From all the generations of past roses,
Disintegrated in the depths of time,
I want one to be spared oblivion-
One unexceptional rose from all the things
that once existed. Destiny allows me
The privilege of choosing, this first time,
That silent flower, the very final rose
That Milton held before his face, but could
Not see. O rose, vermilion or yellow
Or white, from some obliterated garden,
Your past existence magically lasts
And glows forever in this poetry,
Gold or blood-covered, ivory or shadowed,
As once in Milton's hands, invisible rose.
-A.R.

BHD và Gấu

Từ hàng hàng thế hệ những bông hồng
Đã “tàn hôn lên môi”, rồi rã ra, theo chiều sâu thăm thẳm của thời gian
Gấu muốn 1 bông hồng, chỉ một, được cứu rỗi khỏi lãng quên –
Một bông hồng, cũng thường thôi, chẳng có gì đặc biệt trong cõi vô thường
Đã từng hiện hữu [liệu có nên thêm chi tiết, đã từng học Gia Long?]
Số phận cho phép Gấu
Cái ưu tiên chọn lựa, lần đầu tiên này
Bông hồng thầm lặng, hồng rất hồng, bông hồng đen sau cùng.
Gấu đã từng cầm trong tay,
Nhưng không thể sở hữu.
[Thánh nữ mà]
Ôi bông hồng đen
Cái quá khứ của em, những ngày ở Sài Gòn, thì cứ còn hoài
Một cách thần kỳ, huyền diệu
[Trong Tứ Tấu Khúc]
Và đỏ bừng lên qua bài thơ này
Vàng, hay phủ máu, hay ngà, hay phủ bóng tối
Một lần Gấu ôm trong tay,
Trở thành vô hình.

To a Minor Poet of 1899

To leave a verse concerning the sad hour
That awaits us at the limit of the day,
To bind your name to its sorrowful date
Of gold and of vague shade. That's what you wanted.
With what passion as the day drew to its close
You labored on and on at the strange verse
That, until the universe disperses,
Would confirm the hour of the strange blue!
I do not know if ever you succeeded
Nor, vague elder brother, if you existed,
But I am alone and want oblivion
To restore your fleeting shade to the days
In the supreme already worn-out effort
Of words wherein the evening may yet be.
-C.T.

Gửi nhà thơ làng nhàng trước 1975

Đã để lại 1 dòng thơ về cái giờ buồn thảm
Đợi chúng ta ở mút chót của ngày
[30 Tháng Tư, 1975?]
Để cái tên của anh, Joseph Huỳnh Văn vô cái ngày rầu rĩ
Bằng vàng [30 năm mới có ngày hôm nay]
Hay bằng một cái bóng mơ hồ
[Vui sao nuớc mắt lại trào?]
Đó là điều bạn ta muốn?
Bằng đam mê nào, khi cái ngày 30 Tháng Tư đó tiến dần tới đêm đen,
Bạn hì hục loay hoay mần câu thơ lạ thường đó?
Cho đến khi vũ trụ [thiên đường Miền Nam, Ấp Tara..] tiêu tùng,
Và đó là cái giờ của màu xanh lạ thường được xác nhận?
Gấu thật tình chẳng làm sao biết được, liệu bạn thành công chăng?
Và cũng chẳng biết, bạn, nhà thơ làng nhàng của Miền Nam trước 1975, đã từng hiện hữu?
Nhưng Gấu thì trơ cu lơ một mình, hết còn bạn quí
Và chỉ muốn đi vào quên lãng
Bởi vì chỉ có sự quên lãng thì mới cứu lại được cái bóng của bạn lừng lững khuất nẻo theo dòng đời
Trong 1 sự cố gắng phi thường đã rách nát của những từ ngữ,
mà ở trong chúng,
buổi chiều của hai đứa chúng ta cứ vưỡn còn hoài.

Bài thơ sau đây, cũng có thể coi như 1 bi khúc về bạn ta, theo nghĩa, thơ của bạn ta, và của TTT, đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên cả 1 thế hệ thơ Miền Nam, và, theo nghĩa, chẳng ai có thể vươn tới hai cõi đó nữa!

THOMAS MERTON
1915-1968

Thomas Merton, before he became a monk in a Trappist monastery, Gethsemane, in Kentucky, had already been a writer, and obviously he respected writers who shaped the style of his 8eneration. In prose, the strongest influence was exerted by Ernest Hemingway. When Hemingway killed himself, at the age of sixty-three, a service for his soul was, for the monk Merton, also a farewell to his own youth, to his adventurous "I," from which he looked for escape in the monastery.
Czeslaw Milosz

Thomas Merton, trước khi trở thành tu sĩ tại tu viện Trappist, Gethsemane, Kentucky, đã là 1 nhà văn, và rõ ràng là ông kính trọng những nhà văn đã tạo vóc dáng cho văn phong của thế hệ của ông. Về văn xuôi, ảnh hưởng của Ernest Hemingway cực dũng mãnh, số dách. Khi ông này tự tử ở tuổi 63, một buổi lễ đã được cử hành cho linh hồn của tác giả Chuông Gọi Hồn Ai, cho vì tu sĩ, và cũng là 1 lời vĩnh biệt cho tuổi trẻ của riêng ông, cho cái “Tôi” phiêu lưu của ông, mà vì nó mà ông tìm kiếm sự giải thoát ở trong tu viện

AN ELEGY FOR ERNEST HEMINGWAY

Now for the first time on the night of your death
your name is mentioned in convents, ne cadas in

obscurum.

Now with a true bell your story becomes final. Now
men in monasteries, men of requiems, familiar with
the dead, include you in their offices.

You stand anonymous among thousands, waiting in
the dark at great stations on the edge of countries
known to prayer alone, where fires are not merciless,
we hope, and not without end.

You pass briefly through our midst. Your books and
writing have not been consulted. Our prayers are
pro defuncto N.

Yet some look up, as though among a crowd of
prisoners or displaced persons, they recognized a friend
once known in a far country. For these the sun also
rose after a forgotten war upon an idiom you made
great. They have not forgotten you. In their silence
 you are still famous, no ritual shade,

How slowly this bell tolls in a monastery tower for a
whole age, and for the quick death of an unready
dynasty, and for that brave illusion: the adventurous
self!
For with one shot the whole hunt is ended!

Bi Khúc cho Ernest Hemingway

Và bây giờ, lần thứ nhất trong đêm của cái chết của bạn
Tên của bạn đã được nhắc tới trong thiền viện, nhà tu kín
ne cadas in obscurum.

Bây giờ với hồi chuông báo tử thực, câu chuyện của bạn trở thành chấm hết.
Bây giờ những vì đàn ông ở trong tu viện, những người của kinh cầu,
thân quen với người chết, bao gồm cả bạn trong đó, ở trong những phòng ốc của họ.

Bạn đứng, vô danh, giữa hàng ngàn người, đợi trong bóng tối, tại những nhà ga lớn
ở mép bờ của những xứ sở,
chỉ người cầu nguyện biết
nơi lửa thì không phải là nhẫn tâm,
chúng ta hy vọng, và không phải không tận cùng

Trong 1 thoáng, bạn đi qua lớp sương mù của chúng ta.
Những cuốn sách và những gì bạn viết thì không được nhắc tới.
Những người cầu nguyện thì
pro defuncto N.

Tuy nhiên một số nhìn lên, như thể, mặc dù giữa một đám đông
những tù nhân, những cô hồn vất vưởng không nơi nương tựa, trú bám,
họ nhận ra một người bạn, đã từng quen biết tại một xứ sở xa xăm.
Với họ, mặt trời vẫn mọc sau một cuộc chiến bị lãng quên,
theo như 1 câu danh ngôn mà bạn làm cho nó trở thành lớn lao.
Họ đã quên bạn. Và trong sự im lặng của họ,
bạn vẫn nổi tiếng, không bóng dáng nghi lễ.

Tiếng chuông chầm chậm từ tháp chuông tu viện gọi hồn trọn một thế hệ,
một cái chết mau lẹ của một triều đại không sẵn sàng,
và ảo tưởng can đảm này: Cái Ngã phiêu lưu!
Cho 1 cú bắn trọn cuộc săn chấm dứt!

Borges Page

Parable of Cervantes and Don Quixote

Weary of his Spanish homeland, an aging soldier of the king's army sought comfort in Ariosto's vast geographies, in the lunar valley where lies the time that dreams squander away, and in the golden idol of Mohammed stolen by Montalban.
    Gently mocking himself, he thought up an impressionable man who, unbalanced from reading fantastic tales, went forth to find feats of arms and enchantments in ordinary places with names like El Toboso and Montiel.
    Defeated by reality-by Spain-Don Quixote died in his native village around 1614. Miguel de Cervantes briefly outlived him.
    For both the dreamer and the man he dreamed, the story was about the clash of opposing worlds: the unreal world of chivalric fiction and the average,  everyday world of the seventeenth century.
    Neither imagined that with the passage of years the strife would diminish, nor did they imagine that La Mancha and Montiel and the knight's scrawny physique would be no less poetic in the future than the adventures of Sinbad or Ariosto's vast geographies.
    Because myth is at the beginning of literature, and also at its end.

-Devoto Clinic, January 1955
-K.K.

Ngụ ngôn về Cervantes và Don Quixote

Mệt mỏi, chán ngấy quê nhà Tây Bán Nhà, một tên lính già của quân đội hoàng gia tìm sự thoải mái ở nơi núi đồi rộng lớn Ariosto, ở thung lũng trăng mờ, nơi thời gian trải dài, cùng những giấc mộng tan hoang, cùng bức thánh tượng bằng vàng của Mohamed bị Montalban đánh cắp.
Tự diễu mình, nhè nhẹ, anh già nhớ lại đời mình, 1 tên đàn ông thật ấn tượng, ngất ngư con tầu đi, do đọc ba thứ chuyện kỳ quái, bèn lên đường tìm những cuộc vui chiến trận và những trận cười đốt đuốc chơi đêm, nhất dạ đế vương, ở những nơi chốn bình thường với những cái tên như là El Toboso và Montiel.
Bị thực tại – bị xứ Tây Bán Nhà - đánh bại, Don Quixote chết tại làng quê, nơi ông chào đời vào khoảng 1614. Miguel de Cervantes sống dai hơn ông 1 tị.
Đối với cả hai, người nằm mơ, và người đàn ông mà anh ta mơ, câu chuyện là về sự đụng độ giữa những thế giới đếch chịu nhau, chống lại nhau: thế giới không thực của thứ giả tưởng nghĩa hiệp, hiệp sĩ, giang hồ, chưởng Kim Dung, và thế giới mọi ngày, làng nhàng từng ngày của thế kỷ 17.
Chẳng ai nghĩ đến chuyện, với ngày tháng qua đi, sự xung đột yếu dần, hay chuyện, La Mancha và Montiel và bộ vó khẳng khiu, cà tong cà teo của vị hiệp sĩ, thì đếch có tí thơ ca vãi linh hồn nào, so với những cuộc phiêu lưu của chàng thủy thủ Sinbad và không gian trời đất, địa lý bao la vô cùng Ariosto.
Bởi vì, huyền thoại khởi đầu, và… chấm dứt, văn chương!

Elegy

Oh destiny of Borges-
to have traversed the various seas of the world
or the same solitary sea under various names,
to have been part of Edinburgh, Zurich, the two Cordobas,
Colombia, and Texas,
to have gone back across the generations
to the ancient lands of forebears,
to Andalucia, to Portugal, to those shires
where Saxon fought with Dane, mingling bloods,
to have wandered the red and peaceful maze of London,
to have grown old in so many mirrors,
to have tried in vain to catch the marble eyes of statues,
to have studied lithographs, encyclopedias, atlases,
to have witnessed the things that all men witness-
death, the weight of dawn, the endless plain
and the intricacy of the stars,
and to have seen nothing, or almost nothing
but the face of a young girl in Buenos Aires,
a face that does not want to be remembered.
Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.
-A.R.

Bi Khúc

Ôi số mệnh của GCC -
Đã phiêu du nhiều biển trên thế giới,
Hay, vẫn chỉ một biển mang nhiều nick
Đã có phần ở Edinburgh, Zurich, ở Bắc Kít & Nam Kít,
Cordobas, Colombia, và Texas
Đã trở lại, sau nhiều thế hệ,
Những vùng đất xưa của ông cha,
Ở Andalucia, Portugal, những quận huyện,
Nơi đám rợ Saxon choảng nhau với Dane, trộn máu với nhau.
Đã lang thang những mê cung đỏ, hiền hòa ở London

Đã trở nên già trong rất nhiều tấm gương
Đã cực kỳ cố gắng, nhưng vô ích, nắm bắt ánh mắt cẩm thạch của những pho tượng
Đã nghiên cứu thạch bản, bách khoa toàn thư, bản đồ
Đã chứng kiến những điều mà tất cả những người đàn ông chứng kiến –
Cái chết, sức nặng của buổi bình minh, đồng bằng vô tận, sự phức tạp của những vì sao,
Đã nhìn chẳng cái gì, hầu như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu

Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì nó đâu!

The Moon

for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.

Trăng

Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.

Rain

Quite suddenly the evening clears at last
as now outside the soft small rain is falling.
Falling or fallen. Rain itself is something
undoubtedly which happens in the past.
Whoever hears it falling has remembered
a time in which a curious twist of fate
brought back to him a flower whose name was "rose"
and the perplexing redness of its red.
This rain which spreads its blind across the pane
must also brighten in forgotten suburbs
the black grapes on a vine across a shrouded
patio now no more. The evening's rain
brings me the voice, the dear voice of my father,
who comes back now, who never has been dead.
-A.R.

Mưa

Hoàn toàn bất thình lình, sau cùng, buổi chiều sáng ra
Như là giờ đây, bên ngoài mưa mềm, nhỏ, đang rơi.
Đang rơi hay đã rơi?
Mưa, tự nó là một cái gì chẳng nghi ngờ chi, xẩy ra trong quá khứ
Bất cứ ai nghe mưa rơi thì đều nhớ tới cái lúc mà số mệnh, xoắn 1 phát,
Mang trả lại cho anh ta một bông hoa, tên là.... BHD

Cơn mưa trải dài sự mùa lòa của nó dọc theo ô kính hẳn cũng làm sáng lên,
nơi những vùng ngoại vi thành phố bị bỏ quên,
những trái nho đen nơi hàng cây dọc theo
sân tẩm liệm nay không còn nữa.
Cơn mưa buổi chiều mang cho tôi giọng nói,
giọng nói yêu thương của BHD,
bây giờ trở lại, chẳng hề đi xa.

To Whoever Is Reading Me

You are invulnerable. Have they not granted you,
those powers that preordain your destiny,
the certainty of dust? Is not your time
as irreversible as that same river
where Heraclitus, mirrored, saw the symbol
of fleeting life? A marble slab awaits you
which you will not read-on it, already written,
the date, the city, and the epitaph.
Other men too are only dreams of time,
not indestructible bronze or burnished gold;
the universe is, like you, a Proteus.
Dark, you will enter the darkness that awaits you,
doomed to the limits of your traveled time.
Know that in some sense you are already dead.
-A.R.

Gửi bất cứ ai đang đọc GCC

Bạn thì “đả biến thiên hạ vô địch thủ, kim cương bất hoại..”
Hẳn là những vị thần đã ban cho bạn quyền lực vô biên: Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?
Hay là thời gian của bạn,
Không phải thứ "bất phản hồi", mà thằng cha Gấu ngồi ở bờ sông Mekong thấy xác của nó trôi qua?
Hay Heraclitus, nhìn qua gương, thấy hình ảnh cuộc đời bóng câu qua cửa sổ?
Một miếng đá cẩm thạch đang đợi bạn.
Bạn sẽ không đọc – trên miếng đá đã được viết ra, ngày tháng, thành phố, và mộ chí, tức câu văn ngắn nhất, gói trọn đời bạn.
Những con người khác, cũng thế, chỉ là những giấc mơ của thời gian
Không phải đồng không bị huỷ diệt, hay vàng bị đốt cháy
Vũ trụ thì cũng như bạn, một Proteus.
Tối thui, bạn sẽ đi vào bóng đen đang đợi bạn,
Thứ bóng đen bị trầm luân bởi những giới hạn của thời gian viễn du của bạn
Biết, theo 1 nghĩa nào đó, bạn đã chết từ đời nào rồi.

Note: Mấy bài thơ của Borges, GCC tính dịch, mừng sinh nhật Gấu!



À UN POÈTE MINEUR
DE L'ANTHOLOGIE

Gửi nhà thơ làng nhàng trong cõi thơ Mít, bạn của Gấu.

Ở bên đó, bạn mình bây giờ ra sao rồi, có còn giữ được,
Hồi ức những ngày trên cõi Miền Nam, mảnh đời hạnh phúc và đau khổ,
Cái vũ trụ của riêng bạn?
Hay là đã chơi chén cháo lú, và đi đầu thai kiếp khác?

Dòng sông của những năm tháng đếm được, vì tận cùng bằng 30 Tháng Tư 1975,
Thì cũng đã thất lạc rồi, bạn giờ này chỉ là 1 cái tên trong… VHTQ của VP,
[Mà này, có không nhỉ, hay ông tiên chỉ cũng đếch biết bạn là thằng chó nào?]
Những tên khác - toàn đám Trung Kít - vậy mà không có bạn -
Thì được những vị thần ban cho, nào nhà văn của thế kỷ,
Nhà phê bình xuất sắc nhất, nhà thơ số 1 xứ Thần Kinh,
Phượng trong Thành Nội, Con phố Trịnh… hà, hà, hà, hà!
Nhưng bạn mình đếch cần, và chúng ta chỉ biết về bạn mình,
Một người bạn u tối, nghe chim hót vào buổi chiều.

Trong những cây hoa lan của bóng tối,
Cái bóng vô ích, thừa thãi của bạn mình hẳn nghĩ
Những vị thần hơi bị hà tiện.
Nhưng những ngày tháng, nói cho cùng, là một sợi của những khốn cùng tầm phào, chẳng bõ kể ra.
Kẻ nào, ngoài nhà thơ làng nhàng, bạn của Gấu
Ngộ ra rằng, số phận, dù bảnh nhất, thì cũng cẩm như tro than của quên lãng
Về những kẻ khác, những vị thần ném xuống thứ ánh sáng vinh quang khắc nghiệt,
Ánh sáng này quan sát những tình cảm, đếm những vết nứt của vinh quang,
Và sau cùng, chấm dứt bằng cách vò nát bông hồng mà nó sùng bái
Với anh bạn nhà thơ của Gấu, sự thương hại của họ, những vị thần, lớn lao vô cùng
Trong mê ly, cực khoái của buổi chiều, một buổi chiều không phải một đêm
Anh bạn nhà thơ nghe tiếng sơn ca của Théocrite           

Sau khi dịch bài thơ gửi cho Joseph HV ở bên đó, lạ lùng làm sao, Gấu kiếm ra bài thơ Hạnh Phúc, ngày nào, bản tiếng Anh.
Đọc 1 phát, là sống lại những ngày “đếm được” đó.
Và thú vị hơn nữa, Gấu kiếm ra bản tiếng Anh của bài thơ "gửi bạn thơ làng nhàng", và sẽ sửa lại bản dịch tiếng Mít, sau khi đối chiếu bản tiếng Anh.

Sau đây là bản dịch đúng đắn, theo bản tiếng Anh.
Bản dịch loạn trên, bỏ đi thì tiếc!
Hà, hà!

Gửi nhà thơ làng nhàng trong tuyển tập thơ Hy Lạp

Nó đâu rồi, bây giờ, cái hồi ức những ngày của bạn trên trái đất, những ngày mang nợ – hay hàm ân thì cũng rứa -
niềm vui lẫn nỗi buồn, chúng làm nên thế giới của riêng bạn?
Con sông của những năm tháng đã mất chúng
Từ con nước đếm được của nó; bạn là 1 từ trong một index.
Với những kẻ khác những vị thần ban cho họ vinh quang chẳng tận cùng:
Những biển đề, những cái tên trên những đồng tiền, những đài tưởng niệm, những sử gia tận tâm;
tất cả những gì mà chúng ta biết, về bạn, một người bạn ở ẩn, lánh đời, là, bạn nghe chim sơn ca hót một buổi chiều.
Giữa những hoa nhật quang của Bóng Tối, bóng của bạn, trong cái hư ảo, phù hoa của nó, phải coi những vị thần là biển lận
Nhưng những ngày là 1 cái mạng của những phiền nhiễu nhỏ nhỏ
Và liệu có 1 sự chúc phúc lớn hơn, thay vì, dúm tro than từ đó lãng quên được làm ra?
[Cát bụi trở về cát bụi, bạn ta - dân Ky Tô - rành quá mà]
Trên những cái đầu khác, những vị thần kích động thứ ánh sáng khắc nghiệt của vinh quang, nó xoáy tới những phần bí ẩn và khám phá ra từng lỗi lầm tách biệt;
Vinh quang, sau cùng, nó vò nát bông hồng mà nó thờ phượng;
Những vị thần này, như thế, lại tỏ ra hơi bị được, đối với bạn.
Trong buổi chiều mê ly sẽ chẳng bao giờ là đêm
Bạn lắng nghe chẳng hề chán nản, chẳng hề chấm dứt
Tiếng chim sơn ca của [nhà thơ] Theocritus
 

Happiness

Whoever embraces a woman is Adam. The woman is Eve.
Everything happens for the first time.
I saw something white in the sky. They tell me it is the moon, but
what can I do with a word and a mythology.
Trees frighten me a little. They are so beautiful.
The calm animals come closer so that I may tell them their names.
The books in the library have no letters. They spring forth when I open
them.
Leafing through the atlas I project the shape of Sumatra.
Whoever lights a match in the dark is inventing fire.
Inside the mirror an Other waits in ambush.
Whoever looks at the ocean sees England.
Whoever utters a line of Liliencron has entered into battle.
I have dreamed Carthage and the legions that destroyed Carthage.
I have dreamed the sword and the scale.
Praised be the love wherein there is no possessor and no possessed, but
both surrender.
Praised be the nightmare, which reveals to us that we have the power to
create hell.
Whoever goes down to a river goes down to the Ganges.
Whoever looks at an hourglass sees the dissolution of an empire.
Whoever plays with a dagger foretells the death of Caesar.
Whoever dreams is every human being.
In the desert I saw the young Sphinx, which has just been sculpted.
There is nothing else so ancient under the sun.
Everything happens for the first time, but in a way that is eternal.
Whoever reads my words is inventing them.

Hạnh Phúc

Bất cứ 1 tên đực rựa nào ôm một em, thì hắn ta là Adam.
Em là Eve.
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu tiên, thoạt kỳ thuỷ.
Tớ nhìn một cái gì trắng trên bầu trời.
Họ biểu tớ đó là mặt trăng, nhưng tớ làm gì với một từ và môn thần thoại học
Những cái cây làm tớ sợ tí tí. Chúng mới đẹp làm sao.
Những con thú tới gần hơn, và tớ có thể nói cho chúng biết, tên của chúng
Những cuốn sách ở trong thư viện không có chữ.
Khi tớ mở, thì chúng mới nhẩy bổ ra.
Đảo qua bàn thờ, tớ phóng chiếu hình dáng của Sumatra.
Bất cứ kẻ nào bật que diêm trong đêm, kẻ đó phát minh ra lửa.
Bên trong tấm gương, một tên Gấu Khác rình rập.
Bất cứ kẻ nào nhìn biển, kẻ đó thấy Ăng Lê.
Bất cứ kẻ nào bật lên một tiếng, Ngụy, kẻ đó gây ra cuộc chiến Mít!
[Hà, hà, dịch loạn quá, trúng tùm lum tà la!]
Tớ mơ thấy Sài Gòn, và những binh đoàn VC Bắc Kít tàn phá Sài Gòn
Hãy tấn phong Tình Yêu, một khi mà chẳng có kẻ thắng cũng như người bại, nhưng cả hai đều đầu hàng.
Hãy tấn phong ác mộng, nó bật mí cho chúng ta, rằng chúng ta làm đếch gì có quyền năng để xây lên Hỏa Ngục Đỏ.
Bất cứ kẻ nào xuống 1 con sông, là sông đó,  Mekong, và tên đó, Gấu!
Bất cứ kẻ nào nhìn cái đồng hồ cát, là kẻ đó nhìn thấy đế quốc VC đang trên đà hủy diệt.
Bất cứ kẻ nào chơi với dao, là kẻ đó tiên tri cái chết của Xê Da.
Bất cứ kẻ nào mơ, thì kẻ đó là mọi con người
Ở sa mạc, tớ nhìn thấy con Nhân Sư: Vừa mới được khắc, tạc!
Chẳng có cái chó gì là “xưa rồi Diễm ơi” ở dưới ánh mặt trời!
Mọi chuyện xẩy ra lần đầu, nhưng, theo đường hướng được gọi là thiên thu, vĩnh viễn
Bất cứ vị độc giả nào đang đọc TV, là đang viết những dòng này.