Trong bài viết mới đây,
trên talawas, Bùi Văn Phú tìm cách chứng
minh, TCS không phải là VC, khi ông so sánh với
mấy thứ chính cống Bà Lang Trọc, thí dụ như HPNT,
hay Lữ Phương, hay Huỳnh Tấn Mẫm.
Hiển nhiên, TCS không là VC. Giả như VC có
những người như TCS thì đâu còn là... VC?
Đây cũng là điều tác giả bài viết nghĩ tới,
khi ông giả sử, nếu TCS ở Miền Bắc thì may lắm cũng trở thành
một thứ như Văn Cao.
Chính cái sự giả dụ của ông, đó, nói
lên cái tuyệt vời của Miền Nam. Chỉ ở Miền Nam, chúng
ta mới có cái thời của chúng ta, theo nghĩa, bạn có
thể chọn cho mình một cách ở đời.
Ở Miền Bắc, không có thời, không có người,
chỉ có... Đảng.
Đẩy lên một mức cao hơn nữa, không có thời, là
không có gì hết.
Đây là ý của Erhart Kastner, được Rudiger Safranski
dùng làm đề từ cho cuốn viết về Heidegger của ông:
Heidegger và thời của ông [nguyên
bản tiếng Đức, bản dịch tiếng Pháp của Isabelle Kalinowki, nhà
xb Grasset]:
Une vérité doit pouvoir bénir le
temporel, comme on disait autrefois; sans quoi elle est dépourvue
de monde...
Một chân lý thì có thể chúc phúc
cho thời, như người xưa nói; nếu không, nó sẽ không
có đời...
Quả là chúng ta đã có một
"thời của chúng ta", những năm trước 1975. Chúng ta có
thời, có người, có đời. Trong "có người", chúng
ta có cả những người như HPNT, như Đào Hiếu, thí dụ.
Và tất nhiên, có TCS!
Không phải "tự nhiên, tình cờ" mà một cô
bạn của HPNT ở hải ngoại hỏi ông, vưỡn vác thánh giá?
[Gấu đọc trên Hợp Lưu]. Hỏi như thế, hiểu theo một nghĩa nào
đó, là muốn ông chấp nhận sự thách đố là
"vụ án Mậu Thân", đối diện với nó, không thể
trả lời thoái thác, lúc đó tôi ở trên
rừng được.
Rudiger Safranski viết: Tên của Heidegger mở ra chương hấp dẫn
nhất của lịch sử tinh thần Đức của thế kỷ 20. Phải kể nó ra, cả tốt,
cả xấu, và vượt cả xấu lẫn tốt.... Câu chuyện về cuộc đời và
câu chuyện về tư tưởng của Heidegger là một câu chuyện
mới về Faust...
Liệu HPNT và, quá cả HPNT, liệu, bất cứ một cá
nhân nào trong chúng ta Miền Nam, đều đã từng
ký hợp đồng với Quỉ, khi cầu cứu VC Miền Bắc, khi chấp nhận chấm
dứt cuộc chiến với bất cứ giá nào, khi tặc lưỡi nghĩ thầm,
một tên Yankee mũi tẹt, máu đỏ da vàng, thì
hẳn là hơn một tên Yankee mũi lõ?
Trần Văn
Chánh Những hồi ức quý giá Từ 2013 đến 2017,
nhà thơ Võ Chân Cửu đã cho xuất bản liền
mạch ba…
Thật vậy, tác giả
Võ Chân Cửu tỏ ra rất sành sỏi và có
trách nhiệm về việc mình làm. Bằng những câu
chuyện kể sinh động vừa dựa trên ký ức, vừa qua những tài
liệu “hữu tín hữu trưng”, chính bằng những thư từ trao
đổi qua lại có ghi rõ ngày tháng, tên
tuổi người, hoặc qua những câu / bài thơ được trích
dẫn cẩn thận để chứng minh, dẫn dắt câu chuyện.
Nói theo cách diễn đạt cũ, đây có
thể gọi là những tập “thi thoại” hiện đại với khối lượng tài
liệu / sự kiện rất phong phú đa dạng được kết nối lại một cách
tài tình khéo léo qua nghệ thuật kể chuyện
lan man, tự nhiên, sinh động, thỉnh thoảng chen vào những
câu nhận xét tinh tế, nhẹ nhàng mà thấm thía,
sâu sắc. Như về tính khí, lối sống thật đôi
khi “điên điên khùng khùng”, hoặc tự cao
tự đại, rởm đời nhưng khả ái của một số nhà thơ tác
giả từng chung đụng, kiểu như Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn…
Chỗ người viết tỏ ý mai mỉa thì cũng khá tế nhị,
nhẹ nhàng, duyên dáng, và thường có
chen vào chút tình cảm, với thái độ cảm thông,
cố tự kìm chế ở mức không làm cho người ta nổi
nóng hoặc cảm thấy bị xúc phạm. Nhiều chuyện kể kèm
theo nhận xét thật thú vị, đúng tâm lý
nhà thơ, như nói: “Nhiều
người tỉnh táo nhận ra rằng các thi sĩ lớn cũng đều có
tật xem cái danh rất lớn. Suốt cả các trang viết, kể cả
khi tự nhận rằng mình điên, Bùi thi sĩ [tức Bùi
Giáng] thường phê bình vài nhà thơ cùng
thời (trường hợp khen thơ của thi sĩ Huy Tưởng trong Đi vào cõi
thơ là vì… cùng quê Quảng Nam). Có
lần Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn tình cờ gặp
nhau tại nhà tôi, cả hai đều sững người nhìn nhau
rồi… ngó lơ như không hề biết nhau” (22 tản mạn, tr. 69-70).
Đoạn kể vừa nêu trên gợi ta liên tưởng
đến câu nói để đời của Tào Phi (187-226) nước
Ngụy thời Tam Quốc: “Văn nhân tương khinh, tự cổ nhi nhiên”
(Bọn nhà văn coi thường nhau, từ xưa vẫn thế)!
Võ Chân Cửu nhận xét tiếp: “May mắn sao,
các nhà thơ… giả bộ điên chỉ để chứng tỏ mình
tài năng, thông thái, không ai lâm
vào cảnh ‘giả lâu thành thiệt’. Đến sau năm 1975,
diễn đàn văn nghệ tự do chấm dứt. Miếng cơm, manh áo trở
thành nỗi lo thực tế. Xu thế bây giờ phải là… vô
sản mới được coi trọng. Nhiều người liền… hết điên” (sđd, tr. 70).
Còm:
Viết về Bùi Giáng và Huy Tuởng, như
trên, rõ ràng là quá khốn nạn.
Cả hai đều là thi sĩ và đều có tác phẩm,
hay dở tuỳ người đọc. Làm sao dám hạ bút, BG
viết về HT là do cùng quê?
Bùi Giáng, điên thực, tuy cũng tỉnh thực.
Sau 1975, ông bị Vẹm nện rất nhiều lần không lẽ Võ
Chân Cửu không biết?
Còn cái chuyện “sững người”, là chuyện
thường, giữa người thường cũng như thi sĩ. Dễ gì vồ lấy nhau.
Ai cũng có tự trọng, đâu phải chỉ thi sĩ.
Tay VCC này, lần ra hải ngoại, viết nhảm về Brodsky,
Gấu đã phải lên tiếng.
Tên của Joseph Brodsky, cái từ Joseph là
tên thánh, ông là thi sĩ, và là
tín hữu Ky Tô, và ai đọc thơ ông, thì
cũng thấy chất Ky Tô, như Czeslaw Milosz, và chính
nhờ tinh thần Ky Tô, mà cả hai sống sót đế quốc
Đỏ, vậy mà dám hạ bút viết:
Ở ý
này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo
sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển
đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có
quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích
tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm
thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn
liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)
He used to tell his students
that they probably were not terribly familiar with the Decalogue, but
it was possible to learn, since there were only seventeen: the Ten Commandments
and the seven cardinal sins-taken together, the foundation of our civilization.
His Muse,
the spirit of language, was, he said, Christian, which explains the
Old and New Testament themes in his poetry.
Milosz: Notes about Brodsky [Nàng thơ của ông, linh hồn,
tinh anh của ngôn ngữ là Ky Tô giáo, điều
này giải thích những đề tài Cựu và Tân
Ước trong thơ của ông]
“Tây nguyên” trong
bài là lúc ông cùng tôi về
Bảo Lộc. Tiếng gà trưa từng khiến cho nhiều người nao lòng,
dứt cơn nghĩ ngợi mông lung. Nhưng tiếng gà làm cho
một người điếng hồn, có lẽ là lần đầu tiên được nhà
thơ Nguyễn Đức Nhân diễn tả. Trong một thư điện tử gần nhất, Nguyễn
Đức Nhân khẳng định với tôi và Nguyễn Lương Vỵ rằng
anh chưa bao giờ qua thơ để so đọ về tài năng. Vì đó
là cõi thị phi của làng văn nghệ. Những con chữ
rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm nhất là:
“làm sao có thể từ thơ đến được với cõi vô ngôn”.
Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những
điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện
Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph
Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải
Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo
mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác
phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín
điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)
Đã 1 Thầy Kuốc, phịa ra
… Roland Barthes.
Bi giờ thêm 1 nhà thơ VCC, phịa ra… Brodsky,
“đếch biết gì về Ky tô giáo", đúng hơn,
"đếch gắn liền với một tín điều cụ thể nào"!!
Khủng thật!
Chắc là cũng nghi, đếch ai tin, cho… chắc ăn,
ông nhà thơ Mít bèn lôi 1 tay Trùm
Viện Hàn Lâm Thụy Điển ra, để bảo chứng!
Làm thơ dở như NDN, vậy mà, không chỉ
sợ cõi thị phi hỏi thăm tới ông, mà còn đòi
mò tới cõi vô ngôn!
Cả hai cõi đó, chúng đâu thèm
biết đến thơ “điếng hồn” của ông!
Viết lách liều lĩnh, áo thụng vái nhau,
vậy mà bày đặt khai quật, làm sống lại một nền
văn chương bị VC quăng vô thùng rác, tìm
lại hồn cho nó!
Việc này, có lẽ nên để cho đám
hậu duệ VC làm, có lẽ lại bảnh hơn, chăng?
GCC thực sự không hiểu, mối
kết nối giữa, cái “vô ngôn” của nhà thơ Mít,
bạn của VCC, và cái "không gắn liền với 1 tín
điều nào", của... Brodsky.
Chắc là đấng này tính phán, “không
gắn liền”, là “vô ngôn”?
Vả chăng VCC không cho biết nguyên văn câu nói,
của đại giáo sư Sture Allen, ra sao, thành ra khó
quá, thôi bỏ đi tám!
Trước 1975, VCC có làm
thơ, và hình như có được VL cho đăng trên Thời
Tập. Nhưng xb thơ thì chưa. So với những Bùi Giáng,
Nguyễn Đức Sơn, Huy Tưởng… đúng 1 thứ cắc ké, có lẽ
Người có tí đau, bèn phạng luôn cả 1 đám
nhà thơ trước 1975!
Nhớ, VCC có viết về lần gặp NMG, và NMG cho biết, Hà
Nội có nhắc tới ông, và xếp vào loại thơ....
thiền (nhớ đại khái).
Ôi chao Hà Nội biết đến VCC, mà.... "cắc ké"
sao, hở Gấu Cù Lần?
Nhà
văn Trần Vũ nói rằng, ông sống ở Pháp trên 30 năm
nhưng chẳng bao giờ thấy một bài thơ của nhà thơ đương thời
nào đăng trên báo hay tạp chí, kể cả những tạp
chí văn chương. Buồn ghê, lẽ nào thơ đã chết!
Ừ, người ta đã chôn cất nàng thơ ở Pháp,
và có thể nàng cũng đang hấp hối ở nhiều nơi khác
trên thế giới. Trừ ở Việt Nam...
MM và nhà thơ Carl
Sandburg: Nàng đến trễ hẹn 3 tiếng vì ở chỗ làm tóc,
để có một mái tóc y chang của nhà thơ.
Những dòng thơ tuyệt vời trên đây, là để
xưng tụng nàng.
TV vốn chuyên về
truyện ngắn, và ký, và về phỏng vấn. Ông chẳng
đã từng lặn lội từ hải ngoại về lại xú Mít để phỏng
vấn đao phủ Mậu Thân, HPNT?
Nhưng thơ, sợ ông không rành. Báo Tây,
báo nào mà chẳng có tí thơ. Tờ ML rành
hẳn 1 chương cho thơ. Rồi The Paris Revew...
Thận Nhiên, tuy thi sĩ, nhưng thú thực Gấu chưa hề đọc
được 1 bài thơ nào của ông, nhưng đây là
về khiếu thưởng ngoạn, không hợp gu, như thường nói.
________________________________________
mới sáng
sớm nhà Z đã ăn luôn một con cá voi vì
có liên quan tới ông lày
:'(
đồng chí nào đọc cuốn này rồi giơ tay
Note: Cái tít, dịch
như trên, theo GCC, làm lệch ý của nguyên tác.
Ai đọc tập truyện rồi, thì
sẽ thấy, phải dịch là, “Những người ở Dublin”, "Những cư dân
của Dublin"....
Tẩy cũng phải giữ nguyên, là vậy, “Les gens de Dublin”.
Bản tiếng Việt, của GCC, dịch từ bản tiếng Tẩy.
Bởi thế, khi dịch 1 truyện ngắn
trong đó, Gấu phán, chúng là "những mảnh
đời xé ra từ thành phố", và Joseph Huỳnh Văn, thư
ký tòa soạn TSVC, thú quá, gật đầu, được,
được!
Vả chăng, cái cụm từ “Người Dublin”, nó
có riêng, nghĩa của nó, để chỉ tính
chất của người dân của 1 thành phố lớn, thí dụ, “người
Paris”, “người Sài Gòn”, “người Hà Nội”….
The schizophrene, the cyclothyme,
Pass from the droll to
the sublime.
Coming of epileptoid
stock
They tell the time without
a clock.
NON SENSE IS NEVER JUST NON SENSE;
it is more like good sense with all the logic removed. At its highest point
poetry makes use of nonsense in order to indicate a level of experience beyond
the causality principle. You don't quicken or laugh at nonsense because it
is complete non-sense; but because you detect its resemblance to sense.
Logic,
syntax, is a causal instrument, inadequate for the
task of describing the whole of reality. Poems don't describe,
but they are sounding-boards which enable the alert consciousness
to pick up the reverberations of the extra-causal reality
for itself.
Poems
are negatives; hold them up to a clean surface of
daylight and you get an apprehension of grace. The words
carry in them complete submerged poems; as you read your
memory goes down like the loud pedal of a piano, and all
tribal, personal, associations begin to reverberate. Poems
are blueprints. They are not buildings but they enable you to
build for yourself. Serious nonsense and funny nonsense are of
the same order: both overreach causality and open a dimension independent
of logic but quite real. Shakespeare and Lear are twins who do
not dress alike. Serious nonsense and comical nonsense have a
common origin, and an uncommon expression.
Nothing is lost, sweet self
Nothing is ever lost.
The spoken word
Is not exhausted but
can be heard.
Music that stains the
silence remains,
O! echo is everywhere
the unbeckonable bird! (1)
NOTE
1. This stanza is later modified
to become Durrell's poem "Echo" (1943).
Vô nghĩa không bao giờ chỉ là
vô nghĩa, nó bảnh hơn cả cái “tốt nghĩa”,
một khi mà mọi luận lý bị gỡ bỏ. Ở điểm cực cao,
thơ sử dụng cái vô nghĩa, để chỉ ra, cái tầm
độ của kinh nghiệm, quá nguyên lý nhân
quả. Bạn không cười toáng lên, trước cái
vô nghĩa, bởi là vì nó hoàn toàn
vô nghĩa, nhưng bởi vì bạn nhận ra cái giông
giống của nó, với “có nghĩa”.
Luận lý, cú pháp là
dụng cụ nhân quả, bất toàn, không chu toàn
nhiệm vụ miêu tả trọn thực tại. Thơ không miêu
tả, nhưng chúng là những bảng âm thanh, có
khả năng đánh động ý thức, để nghe ra những cú
rội của “siêu thực tại” vượt quá nhân quả,
cho chính nó.
Thơ thì phủ định. Cầm chúng lên,
lôi chúng ra 1 nơi sáng sủa sạch sẽ, và
bạn có cảm giác lĩnh hội, cái gọi là
ân sủng. Những từ trong chúng hoàn tất
những bài thơ, hoàn tất cái phần chìm
ẩn của chúng; như là bạn đọc hồi ức của bạn chạy
dài như
For anyone who has lived
out seventy years, according to the Book of David, there
is little to hope for except to go on plying familiar skills,
with an occasional mild variation and with tedious repetitions.
To escape, or possibly to extenuate, that monotony, I chose to
admit, perhaps with rash hospitality, the miscellaneous interests
that crossed my everyday writer's attention. Parable follows on
the heels of confession, free or blank verse on the sonnet. In the
earliest times, which were so susceptible to vague speculation and
the inevitable ordering of the universe, there can have existed no division
between the poetic and the prosaic. Everything must have been tinged
with magic. Thor was not the god of thunder; he was the thunder and the
god.
For a true
poet, every moment of existence, every act, ought to
be poetic since, in essence, it is so. As far as I know, no
one to this day has attained that high state of awareness. Browning
and Blake got closer to it than anyone else. Whitman aimed in that
direction, but his careful enumerations do not always rise above
a kind of crude cataloguing.
I distrust
literary schools, which I judge to be didactic constructs
designed to simplify what they preach; but if I were obliged
to name the influence behind my poems, I would say they stemmed
from modernismo-that enormous liberation
that gave new life to the many literatures that use the Castilian
language and that certainly carried as far as Spain. I have spoken
more than once with Leopoldo Lugones-that solitary, proud man-and
he would interrupt the flow of the conversation to mention "my friend
and master, Ruben Dario." (I think, furthermore, that we ought to
emphasize the affinities within our language, and not its regional differences.)
My reader will
notice, in some pages, a philosophical preoccupation.
It has been with me since my childhood, when my father showed
me, with the help of a chessboard (it was, I remember, a cedarwood
board), the paradox of the race between Achilles and the tortoise.
As for the
influences that show up in this volume ... First, the writers
I prefer-I have already mentioned Robert Browning; next,
those I have read and whom I echo; then, those I have never read
but who are in me. A language is a tradition, a way of grasping
reality, not an arbitrary assemblage of symbols.
-J.L.B.
Buenos Aires, 1972
-A.R.
Với bất cứ ai trời cho quá bẩy bó,
theo như Khổng Tử phán, đều thuộc loại cổ lai hi,
thì, với cái lũ cổ lai hi này, chẳng
mong thu hoạch thêm cái đọc, cái điệc chi
nữa, ngoại trừ nhai lại, như trâu bò nhai cỏ.
Để tránh cái đơn
điệu, nhai đi nhai lại, hoặc chôm chĩa đầu này
đầu nọ, - lũ Mít mê thứ này lắm - tớ, Borges,
bèn chọn, chấp nhận, có lẽ với sự hiếu khách
vội vã, những thích thú, đến với một nhà
văn như tớ, trong cuộc sống thường ngày của mình.
Ngụ ngôn, hay ẩn dụ, theo gót chân của thú
nhận, thơ tự do, hay thơ không vần, về sonnet. Vào
cái thuở hồng hoang, chắc chẳng có chi phân
biệt giữa poetic và prosaic. Mọi thứ phải nhuốm mùi
thần kỳ. Thor đâu phải là Thần Sấm. Xừ luý là
Sấm, là Thần.
Với nhà thơ, thứ thực,
mọi khoành khắc, mọi hành động, đều "thơ",
theo yếu tính của nó, và phải như thế
đó, và, đúng là như thế đó.
Theo như tớ biết, đếch có
ai vươn tới tình trạng khủng như thế.
May lắm, thì có
Browning, hay Blake, xém tí thì đạt
được. Whitman, cũng nhắm cú này, nhưng ông
ta ưa đếm điếc này nọ, thành ra chưa vươn
tới bảng phân loại, theo cái kiểu của 1 nhà
khoa học Nga, đã làm đưọc, cái gì
gì, bảng tuần hoàn!
Tớ [Borges] không tin ba cái
trường văn, mà theo tớ, chúng là những
kiến trúc mô phạm, được dựng lên, chỉ để
giản dị hóa điều chúng tụng – mày không
thuộc cours tao, là tao đánh rớt mày, như
Thầy Trung phán – nhưng nếu tớ bắt buộc phải khui ra những
ảnh hưởng, đằng sau thơ của tớ, tớ có thể phán, nguồn
của chúng, là từ modernismo –
sự giải phóng khổng lồ, đem đến một cuộc đời mới cho nhiều
nền văn chương sử dụng ngôn ngữ Castilian, và nó
chắc chắn đi xa, như là xứ sở Tây Ban Nha. Tớ đã
từng lèm bèm, hơn 1 lần với Leopoldo Lugones - một người
cô đơn, thật hách xì xằng – và ông
bèn ngắt cơn lèm bèm của tớ, để nhắc tới “bạn của
tôi, thầy của tôi, Ruben Dario", (tớ nghĩ thêm,
sau đó, là, chúng ta phải nhấn mạnh tới những
tinh tuý ở bên trong ngôn ngữ của của chúng
ta, thay vì để ý đến những khác biệt vùng
miền- cái này, là Borges chửi xéo lũ Mít,
khi chúng phân biệt tiếng Bắc, tiếng Nam, tiếng Trung)
Độc giả của tớ sẽ để ý, trong vài
trang, một sự bận rộn, quan tâm triết học. Cái
này, là từ hồi còn con nít, khi cha
tớ chỉ cho tớ, với sự trợ giúp của cái bàn cờ
tướng, nghịch lý Achilles và con rùa.
As my body continues on its journey,
my thoughts keep turning back and bury themselves in days past.
- GUSTAVE FLAUBERT to his mother, 23 November 1849
Preface
When I wrote a fragment of autobiography under the title
A Sort of Life I closed the record at the
age of about twenty- seven. I felt then that the future years belonged
as much to others as to myself. I couldn't infringe
their copyright ... They had a right to privacy, and it was
impossible to deal with my private life without involving theirs. All
the same I had tasted the pleasure - often enough a sad pleasure - of
remembering and so I began a series of introductions to the Collected
Edition of my books, looking back on the circumstances in which the
books were conceived and written. They too were after all 'a sort
of life'.
I have added essays which I have written occasionally
on episodes in my life and on some of the troubled places in the
world where I have found myself involved for no good reason, though
I can see now that my travels, as much as the act of writing, were
ways of escape.. As I have written elsewhere in this book, 'Writing
is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not write,
compose or paint can manage to escape the madness, the melancholia,
the panic fear which is inherent in the human situation.' Auden noted:
'Man needs escape as he needs food and deep sleep. '
More rarely than might be supposed the places I visited
proved sources for my novels. I wasn't seeking sources; I tumbled
on them, though perhaps a Writer's instinct may have been at work
when I bought my return ticket to Saigon or Port-au- Prince or Asuncion.
So here is what I wrote of Haiti before I thought of The Comedians,
of Paraguay which was to form a chapter in Travels with my Aunt.
Yet the Emergency in Malaya produced no novel, nor did the Mau Mau
rebellion in Kenya. Not even a short story emerged from the occasion
when I was deported by the American authorities from Puerto Rico or from
my experience of the Communist takeover in Prague in 1948. Poland in the
Stalinist 1950s left the novelist's imagination untouched, and yet and
yet ... Politics since 1933 have taken an increasing place in my novels,
and perhaps the Mau Mau prepared me for the more sinister Tontons Macoute
and my apprehensions of ambush in Malaya lent an extra dimension to the
fears which I sometimes experienced in Vietnam. I have included little
from the articles I wrote on the French war there, for the American
war made the earlier struggle seem a century away, and no one now can
feel interest in such vanished characters as the Emperor Bao-Dai and
Prince Buu-Loc, Those parts of a life most beloved of columnists remain
outside the scope of this book. The 'copyright' of others' lives I hope
I have continued to observe.
Cũng rất bất ngờ khi tôi biết được
rằng trước khi viết Nỗi buồn chiến tranh thì
Bảo Ninh đã đọc Vassily Grossman. Xưa nay người ta gắn
chặt Bảo Ninh với việc đọc Remarque, nhưng không phải điều
ấy là quan trọng nhất: phải Grossman, chứ không
phải Remarque, mới có thể là người gợi ý những
điều đặc biệt trong cuốn tiểu thuyết ấy.
Thú thực, lạ.
NQT
Bởi là vì làm sao
đọc Vassily Grossman, ở VN?
Qua tiếng Nga? Và cuốn nào?
Cách đọc Bảo Ninh, rồi nhớ đến
Remarque, thí dụ, theo GCC, là thói quen dễ dãi,
ở cả độc giả lẫn nhà phê bình, điểm sách.
Trong 1 bài viết cũ, Gấu có phân biệt, cái
thứ chiến tranh mà Remarque mô tả, khác thứ chiến
tranh của Bảo Ninh, dựa theo 1 ý của Steiner, nhớ đại khái.
Mới đọc Blog NL, anh còn nhắc tới Grossman, rồi phán
“chắc như bắp”, quan trọng nhất phải là tay này!
Khó hiểu nhất, là tiểu thuyết của Vassily Grossman.
cực kỳ phản động, 1 "trái bom chống toàn trị". Làm
sao ở trong nước đọc được, hay, được đọc?
Cuốn này, Nỗi Buồn này, là cuốn đầu tiên
Gấu viết về, khi ra hải ngoại, mà như lời ông chủ chi địa
NMG, mi ra trễ, chứ ra sớm, viết như thế, là chúng làm
thịt mi rồi.
Người vẫn cay lũ Khiến Chán. Chúng bắt Người
xin lỗi chúng, khi tả cái cảnh 1 anh Ngụy làm
thịt VC, rồi cắt cái tai, đeo lủng lẳng trên cổ, như vật
trang sức!
Alongside the unfamiliar scent in the air of teargas
and eucalyptus, one of the things that particularly startled me in
1969, the year I arrived in Berkeley as a twenty-five-year-old assistant
professor, was the enormously heavy drinking of my senior colleagues
in the English Department. It was a time in which many of these colleagues,
whether from motives of pure generosity toward the young or a sly desire
to scout out which among the large cohort of untenured faculty might be
worth keeping, invited the new arrivals to an endless round of dinner
parties, generally held in implausibly beautiful, redwood-clad houses in
the hills.
I grew up in a household entirely innocent of wine, apart
from the treacly Robitussin-like drink consumed for liturgical purposes
at the Passover Seder. On rare occasions, in the company of their friends,
my parents would sip small glasses of rye whiskey, but always consumed
with a peculiar air of caution, as if they were handling TNT. At university
I managed to get drunk once or twice, but I hated the experience—the
muddled thinking, the spinning room, the nausea—and, having no desire
to repeat it, I learned when to stop after a cocktail or a few glasses
of wine. Hence I was astonished to find myself in the company of highly
distinguished academics who seemed already sodden when we arrived for
dinner and who became progressively more sloshed as the evening wore
on. Notable among these was the celebrated critic and writer Mark Schorer,
whose short stories I had avidly read in The
New Yorker and who somehow managed to convey that his inebriation
was stylish, in the manner of William Powell in The Thin Man,
or even that it was a literary achievement. It wasn’t, I observed, that
alcohol sparked in him any great flights of poetic inspiration, but rather
that it seemed to keep at bay the melancholy that has always haunted creative
minds.
By far the most memorable of the tipplers was Thomas
Flanagan. The endless tumblers of Irish whiskey that he downed only
sharpened his wit, even as they slurred his speech. His flashes of
merriment, as Hamlet says of Yorick, would set the table on a roar.
His humor was so apt that on several occasions I thought he must be
faking intoxication, keeping his head by secretly pouring the booze in
a flowerpot. But I sat next to him once at a dinner table when he followed
a particularly inspired witticism by slipping off his chair and onto
the floor, and I can testify that the collapse was not feigned.
In Flanagan’s drunkenness, there seemed to be no undertone
of melancholy. That did not prevent me from inventing a hidden sorrow
for him. Why, I asked myself, had this supremely intelligent and learned
man accomplished so little? A full professor at Berkeley, he had but
a single, slim book to his name, published back in 1959, and that a
warmed-over version of his doctoral dissertation. I imagined that he was
struggling to write a successor to The Irish Novelists: 1800–1850,
but that he was blocked. I did not think that drink was keeping him
from writing literary criticism, but rather that it somehow transmuted
whatever must be inhibiting his writing into his reckless, mad—and,
sadly, evanescent—wit.
But as it turned out, Flanagan did have a secret work
gestating within him. In 1979 he surprised all of his friends by publishing
a brilliant historical novel, The Year of the French. An enormous
critical and popular success, and deservedly so, it seemed at the time
to have come from nowhere, though he must have been working on it quietly
after the endless meetings and protests and marches that occupied so many
hours of our days during the 1970s, or at nights after I watched his
wonderful wife Jean help him stumble to the car and drive him home. (It
was a mercy for all of us, we thought, that he had never learned to drive.)
In Flanagan’s own account, the inspiration for the novel
came to him in a single flash. He was sitting in his office in Wheeler
Hall, waiting for Jean to pick him up at the end of the day, when
he had a vision. The vision was of a man, a poet, walking down a road
in Ireland. It was simple and spare, but it was enough: out of it, Flanagan
spun a cunningly plotted, richly detailed, and moving story of Ireland’s
failed uprising against the British in 1798. The novel—and two other
immense historical novels that he published in its wake—drew upon massive
scholarly erudition amassed over decades, but that erudition would never
have issued into fiction without the image that suddenly, uninvited,
came into Flanagan’s head. I do not know if it would have come to him
anyway, without the course of heavy drinking. Had he been drinking
already on that particular afternoon? I doubt it, or rather, if he had,
I imagine it was only enough to make him light-headed. “MacCarthy was
light-headed that night when he set out from Judy Conlon’s cabin in
the Acres of Killala,” the novel begins. “Not drunk at all, but light-headed.”
Gấu mới đọc tờ The Threepenny, số Mùa Xuân, 2017
có cái bàn tròn văn học về tiểu thuyết lịch
sử. Bèn chơi liền.
Trước hết, khoe hàng cũ cái đã!
It was a soldier's story, set in battlefields of rotted corpses
and the tortured soul of a young teenager who went off to serve his
country, and when the novel was published in 1991 it brought Bao Ninh
the closest thing in Vietnam to instant literary
celebrity.
Đây là câu chuyện của một người
lính được đặt để trong khung cảnh của những trận đánh,
và chiến trường thì đầy những xác chết đã
thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn
bị tra tấn đến rách bươm ra, của một chàng trai trẻ, lên
đường phục vụ xứ sở của mình, và khi nó ra lò
vào năm 1991, lập tức tác giả nổi lên như cồn tại
Việt Nam.
Christianity has been stigmatised
"as a redoubt of ignorance", as has the word "liberal…as if generosity
were culpable".
Tinh thần Ky Tô bị bêu rếu như “đồn
nhỏ, ga xép của sự ngu dốt", như thể "rộng luợng là
phạm tội"!
Tây phương hay nói
“Giá trị Kitô”; các giá trị này,
Liberté, Égalité, Fraternité, Tự do,
Bình đẳng,
Huynh đệ có nguồn gốc từ Lời dạy của Jésus, dù lời
dạy này đã có từ muôn ngàn năm trước nhưng
điểm mốc vẫn là từ năm zéro.
Liberté: Có nhiều dụ ngôn đề
cao tinh thần làm chủ: Làm chủ mới có tự do.
Égalité: Mọi người đều được mời cả
những thành phần indésirables, intouchables.
Fraternité: Yêu người như mình
vậy.
Nguồn gốc này bây
giờ trở thành “Ở đời muôn sự của chung” nên
mới không còn căn tính của mình: the word 'Christian' now is seen less as identifying
an ethic and more as identifying a demographic!
Mong bác khỏe luôn
nghe.
Tks
Merry Christmas and Happy New Year to Both of U.
NQT
Tinh thần Ky Tô Mẽo, công
chúng, và chính trị của khổ hạnh, cả ba
đều cảm thấy họ "như được nhắc tới", [all three got tough ride],
trong đêm Thứ Năm [28.11.2013], khi Marilynne Robinson, nữ
tiểu thuyết gia vừa đoạt giải Pulitzer, nói chuyện với cử
tọa tại London.
Là tín hữu Ky
Tô, bà cho biết, được dậy dỗ về sự rộng lượng và tinh
thần lạc quan, bởi phong trào nhân quyền, nhưng, bà than
thở, hàng chục năm nay, tinh thần Ky Tô bị bêu rếu, “như
là đồn xép, ga nhỏ của sự ngu dốt”, như thể, “hào phóng,
rộng lượng là phạm tội”. Bà tố thêm, "cái
từ 'Ky Tô' bây giờ, thì ít được coi như
đạo hạnh, và nhiều, như là 1 từ thuộc phạm trù
nhân khẩu học”.
Hệ quả, là cú
song đấu, giữa cái tốt, cái đẹp “versus” tinh thần Ky Tô.
Và, “bộ lạc” Ky Tô, những thành viên của họ “có
thể ác liệt tha thứ cho chính họ, và, rất độc ác,
khi tố cáo bất cứ người nào khác.”
Đúng là 1 hoàn
cảnh chẳng thú vị, không hề hấp dẫn: Có những
điều tệ hại hơn nhiều, so với “đã chắc gì như thế”,
và, trong số đó, cái “bất chắc” này
cũng là 1 giả dụ.
Truyền thông, công
chúng, the media, Mẽo, cảm thấy nhột hơn nhiều, khi bà
“lịch sự” nói, họ đếch thích thứ người biết điều,
"the media do not find reasonable people interesting". Sau đó,
với 1 tay của BCC, [Mark Lawson], bà buộc tội một số chương
trình TV, đài phát thanh Mẽo, đã làm
ung thối nặng nề cuộc chát chiếc quốc gia, profoundly corrupting
the national conversation. Nó bị giựt dây, và
có mùi phản dân chủ, ở ngay gốc của nó, bởi
là vì nó muốn đưa vô cuộc sống công
cộng những nhận xét giả tạo”, "It's manipulative and at its root
it's anti-democratic, because it wants to intrude artificial considerations
into public life."
Khủng nhất, là khi
bà đưa ra nhận xét, khi được 1 khán thính
giả hỏi, bà nghĩ gì về thứ chính trị của sự
khắc khổ: "Tôi nghe người ta nói, 'Bạn nhịn đói
hôm nay, để ngày mai ăn khỏi trả tiền'! Tôi đếch
tin, tất nhiên! Tôi cũng đã sống đủ, biết đủ, để
mà nói rằng thì là, chúng ta đang
đếch làm cái gì cả, ngoại trừ phá huỷ tương
lai, khi cướp đoạt, bỏ đói… những con người dễ bị tổn thương.
Thật quá tởm, đối với tôi”
Acceptance Speech
Diễn Văn Nobel
Members of the Swedish Academy, Your Majesties, ladies
and gentlemen, I was born and grew up on the other shore of
the Baltic, practically on its opposite gray, rustling page. Sometimes
on clear days, especially in autumn, standing on a beach somewhere
in Kellomaki, a friend would point his finger northwest across the
sheet of water and say: See that blue strip of land? It's Sweden.
He would be joking, of
course: because the angle was wrong, because according to the
law of optics, a human eye can travel only for something like
twenty miles in open space.
The space, however, wasn't open.
Nonetheless, it pleases
me to think, ladies and gentlemen, that we used to inhale the
same air, eat the same fish, get soaked by the same-at times-radioactive
rain, swim in the same sea, get bored by the same kind of conifers.
Depending on the wind, the clouds I saw in my window were already
seen by you, or vice versa. It pleases me to think that we have had
something in common before we ended up in this room.
And as far as this room
is concerned, I think it was empty just a couple of hours ago,
and it will be empty again a couple of hours hence. Our presence
in it, mine especially, is quite incidental from its walls' point
of view. On the whole, from space's point of view, anyone's presence
is incidental in it, unless one possesses a permanent-and usually
inan- imate-characteristic oflandscape: a moraine, say, a hilltop,
a river bend. And it is the appearance of something or some- body
unpredictable within a space well used to its contents that creates
the sense of occasion.
So being grateful to you for your decision
to award me the Nobel Prize for literature, I am essentially
grateful for your imparting to my work an aspect of permanence,
like that of a glacier's debris, let's say, in the vast landscape
of literature.
I am fully aware of the
danger hidden in this simile: of coldness, uselessness, eventual
or fast erosion. Yet if that debris contains a single vein of
animated ore-as I, in my vanity, believe it does-then this simile
is perhaps prudent.
And as long as I am on
the subject of prudence, I should like to add that through
recorded history the audience for poetry seldom amounted to more
than 1 percent of the entire population. That's why poets of antiquity
or of the Renaissance gravitated to courts, the seats of power; that's
why nowadays they flock to universities, the seats of knowledge. Your
academy seems to be a cross between the two; and if in the future-in
that time free of ourselves-that 1 percent ratio is sustained, it will
be, not to a small degree, due to your efforts. In case this strikes
you as a dim vision of the future, I hope that the thought of the population
explosion may lift your spirits somewhat. Even a quarter of that 1 percent
would make a lot of readers, even today.
So my gratitude to you,
ladies and gentlemen, is not entirely egotistical. I am grateful
to you for those whom your decisions make and will make read poetry,
today and to- morrow. I am not so sure that man will prevail, as
the great man and my fellow American once said, standing, I believe,
in this very room; but I am quite positive that a man who reads
poetry is harder to prevail upon than one who doesn't.
Of course, it's one hell
of a way to get from St. Petersburg to Stockholm; but then,
for a man of my occupation, the notion of a straight line being
the shortest distance between two points lost its attraction a long
time ago. So it pleases me to find out that geography in its own turn
is also capable of poetic justice.
Thank you.
Joseph Brodsky
Sep 16, 2011
Tâm sự của nước độc
khai
quật đồ cổ :p
Note: GCC chưa được đọc cuốn này, nhưng lại
cứ nhớ lộn, là Tàn Đèn Dầu Lạc
Cũng rất bất ngờ khi tôi biết được rằng trước
khi viết Nỗi buồn chiến tranh thì
Bảo Ninh đã đọc Vassily Grossman. Xưa nay người ta gắn chặt
Bảo Ninh với việc đọc Remarque, nhưng không phải điều ấy là
quan trọng nhất: phải Grossman, chứ không phải Remarque, mới
có thể là người gợi ý những điều đặc biệt trong
cuốn tiểu thuyết ấy.
Thú thực, lạ.
NQT
Bởi là vì làm sao đọc Vassily
Grossman, ở VN?
Qua tiếng Nga? Và cuốn nào?
Bác
đọc quyển này chưa – 832 trang, bây giờ bán
ở format de poche rồi. Bác cốp theo kiểu này viết
đi, lồng trong chế độ là cảnh đời của người dân. Bác
có trí nhớ phi thường, bác không viết
thì ai mà viết được.
Tks NQT
"Mort de l'esclave
et réssurection de l'homme libre".
Dans ce roman-fresque,
composé dans les années 1950, à la façon
de Guerre et paix,
Vassili Grossman (1905-1964) fait revivre l'URSS en guerre à
travers le destin d'une famille, dont les membres nous amènent
tour à tour dans Stalingrad assiégée, dans
les laboratoires de recherche scientifique, dans la vie ordinaire du
peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas de l'Armée
rouge. Au-delà de ces destins souvent tragiques, il s'interroge
sur la terrifiante convergence des systèmes nazi et communiste
alors même qu'ils s'affrontent sans merci. Radicalement iconoclaste
en son temps - le manuscrit fut confisqué par le KGB, tandis
qu'une copie parvenait clandestinement en Occident -, ce livre pose sur
l'histoire du XXe siècle une question que philosophes et historiens
n'ont cessé d'explorer depuis lors. Il le fait sous la forme d'une
grande œuvre littéraire, imprégnée de vie et d'humanité,
qui transcende le documentaire et la polémique pour atteindre
à une vision puissante, métaphysique, de la lutte éternelle
du bien contre le mal.
Destin de Grossman
Vie
et destin est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème siècle.
On n'en lisait pourtant qu'une version incomplète depuis
que les manuscrits avaient été arrachés au KGB
et à la censure. Celle que Bouquins propose désormais
est la première intégrale. Elle a été
révisée à partir de l'édition russe
qui fait désormais autorité, celle de 2005, et traduite
comme la précédente par Alexis Berelowitch et
Anne Coldefy-Faucard. Raison de plus pour se
le procurer. Ce volume sobrement intitulé Oeuvres
(1152 pages, 30 euros) contient également une dizaine de
nouvelles, le roman Tout passe, texte testamentaire
qui dresse notamment le portrait d'une série de Judas, et divers
documents dont une lettre à Kroutchtchev. Mais
Vie et destin, roman dédié à sa mère
par un narrateur qui s'adresse constamment à elle, demeurera l'oeuvre
qui éclipse toutes les autres. La bataille de Stalingrad est
un morceau d'anthologie, et, au-delà de sa signfication idéologique,
la manière dont l'auteur passe subrepticement dans la ville
de l'évocation du camp nazi au goulag soviétique est un
modèle d'écriture. Toute une oeuvre parue à titre
posthume.
Dans son éclairante préface,
Tzvetan Todorov résume en quelques
lignes "l'énigme" de Vassili Grossman(1905-1964)
:
" Comment se fait-il
qu'il soit le seul écrivain soviétique connu à
avoir subi une conversion radicale, passant de la soumission à
la révolte, de l'aveuglement à la lucidité
? Le seul à avoir été, d'abord, un serviteur
orthodoxe et apeuré du régime, et à avoir osé,
dans un deuxième temps, affronter le problème de l'Etat
totalitaire dans toutes son ampleur ?" On songe bien sûr à Pasternak et Soljenitsyne.
Mais le préfacier, anticipant la réaction du lecteur,
récuse aussitôt les comparaisons au motif que le premier
était alors un écrivain de premier plan et que la
mise à nu du phénomène totalitaire n'était
pas au coeur de son Docteur Jivago ; ce
qui n'est évidemment pas le cas du second avec Une Journée
d'Ivan Denissovitch, à ceci près rappelle
Todorov, qu'étant un inconnu dans le milieu
littéraire, il n'avait rien à perdre. La métamorphose
de Grossman est donc un cas d'école
unique en son genre:"mort de l'esclave et réssurection
de l'homme libre".
Bảnh hơn Pasternak, bảnh
hơn cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa, thổi
Đời & Số Mệnh
của Grossman: Cái chết của tên nô lệ và sự
tái sinh của con người tự do.
Tờ Obs, số đặc biệt về những tuyệt tác của
văn học, kể ra hai cuốn cùng dòng, là Gulag của Solz, 1 cuốn sách lật
đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin
của Grossman: Trái bom chống toàn
trị.
TV sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Ovivier Rolin,
trên tờ Obs.
Note: Trái bom chống toàn trị, làm
sao có ở xứ Mít?
Hà, hà!
Kafka ra đời tại 1 khu Do Thái
ở thành phố Prague vào năm 1883. Ông thì
bịnh và đau khổ, buồn bực (chagrin). Ông bố không
ngừng khinh bỉ, miệt thị, (mépriser) trong bí mật,
en secret, và hành hạ, (tyrannisa) ông con, cho
tới năm 1922. Cái sự cha con không hợp nhau này,
như chính ông con nói, “đầm đìa” (découlait)
trong tất cả tác phẩm của ông. Từ tuổi trẻ của ông,
chúng ta biết được hai điều: ông đau khổ vì 1 thứ
tình yêu trái ngược, contrarié, và
ông có cái thú về du ký (le gout
des récits de voyages). Học xong Đại Học, có thời gian
ông làm trong ngành bảo hiểm, và chỉ được
giải phóng, thoát ra khỏi ngành này, ôi
chao, thảm thay, nhờ căn bịnh ho lao. Nửa đời sau ông thường
thăm thú, cư ngụ tại những nhà dưỡng bịnh, des sanatoriums,
ở Tyrol, Carpates, Erzgebirge.
Vào năm 1913, ông cho in tác
phẩm đầu tay, Contemplation, Chiêm ngưỡng, và vào
năm 1915, là cuốn nổi tiếng của ông Hoá Thân,
La Métamorphose, và 1919, là 14 contes fanstastiques
[truyện kỳ quái], hay 14 ác mộng ngắn gọn (cauchemars
laconiques), làm thành (composer) Y Sĩ Đồng Quê,
Un médecin de campagne.
Sức nặng của cuộc chiến đè nặng lên
những tác phẩm này: cái sức nặng mà
tính chất của nó là tàn khốc bắt
buộc con người phải giả đò hạnh phúc, hoặc can đảm
cùng mình… Bị bao vây, và thất trận,
những đế quốc Trung Âu bèn đầu hàng nhưng sự
phong tỏa chẳng vì thế mà bớt đi, và Kafka
là 1 trong những nạn nhân. Vào năm 1922, ông
trú ngụ ở Berlin cùng với một thiếu phụ thuộc bộ tộc
Hassidim, hay Pieux, Dora Dymant. Mùa hè 1922 bịnh
tật của ông trở nên tệ hại vì sự cùng túng,
thiếu hụt trong thời gian chiến tranh và hậu chiến tranh,
ông mất tại 1 nhà dưỡng bịnh thuộc khu vực Vienne.
Max Brod bạn của ông, làm ngược
ý muốn của Kafka, và cho xb những bản thảo của
ông. Phải nói là chúng ta chịu ơn ông
ta, về cái sự thông minh không vâng theo
di chúc của người chết, và nhân loại bèn
có được những tác phẩm đặc dị, 1 không 2, của thế
kỷ của chúng ta!
Hai ý nghĩ – đúng hơn, hai ám
ảnh, chi phối, régir, tác phẩm của Kafka. Sự tuỳ
thuộc, la dépendance, là 1 trong 2. Sự vô cùng,
l’infini, là cái thứ nhì. Hầu hết những giả
tưởng của Kafka, có những đẳng cấp, thứ bậc, hiérarchies,
và những thứ bậc này thì vô cùng.
Volkov: Do you mean the line,
"Thank God I was left on this earth without a homeland?”
Those words proved prophetic. How did they pop out
of you then, in 1962?
Brodsky. Well, there
was this idea of solitude ... of detachment. After
all, in that Leningrad topography, there is really a very powerful
split. There's a tremendous difference between the center
and the outskirts. And suddenly I realized that the outskirts
were the beginning of the world, not the end. 'They were
the end of the familiar world but the beginning of the unfamiliar
world, which is much bigger, much vaster. In principle the idea
was that, in leaving for the outskirts, you're distancing yourself
from everything you know and setting out for the real world.
Volkov: Bạn tính nói
cái dòng thơ “Cám ơn Trời
tôi bị bỏ lại trên thế gian này đếch
có quê hương?”
Đúng là
dòng thơ tiên tri. Quái làm
sao, nó lại bật ra vào năm 1962?
Brodsky: Chắc là
do cô đơn, tách rời. Nói cho cùng,
cái địa thế của Leningrad gây chia lìa,
(đi hay ở là chọn lựa chết người. TTT). Có
1 sự khác biệt khủng giữa trung tâm và
ngoại vi. Và bất thình lình tôi
nhận ra, ngoại vi là khởi đầu của thế giới, không
phải tận cùng. Chúng là tận cùng
của thế giới quen thuộc, nhưng là bắt đầu của thế
giới không quen thuộc, lớn hơn, rộng hơn. Khi rời bỏ
trung tâm tới ngoại vi, là bạn tự tách
mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và bước
vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện
trò với Brodsky
Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg
tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong
bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương,
đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không
Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và
tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà
Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn Quốc Trụ
31 Tháng Chạp 1953, Sàigòn.
Một trong những cái thú của một nơi chốn xa xôi
lạ hoắc, đó là, cái thú "bạn của bạn", theo
nghĩa, một cái nét đẹp của nó, đã từng quyến
rũ một người bạn của bạn, đột nhiên, nó cũng tóm
lấy bạn!
Tôi đã gặp đúng một tình trạng như
vậy, một buổi chiều, một người bạn như trên, tới gặp tôi,
sau một vài hơi whisky, đèo tôi đi trên chiếc
xe gắn máy của anh ta, một bác sĩ hải quân, dạo chơi
Sàigòn. Chúng tôi tới thăm mấy tiệm hút.
Tiệm đầu tiên ghé, thuộc loại rẻ tiền, ở trên
một tầng lầu, bên dưới là một trường học, nơi đám
học trò đang lo thi kỳ thi "tiểu học và trung học đệ nhất
cấp". Ông chủ tiệm cũng dân trong nghề, một bệnh tưởng, a
malade imaginaire, người khô quắt, như bị vắt sạch nước, hậu quả
của sáu chục bi một ngày. Một bé gái ngủ gật,
và một cậu trai. Thuốc phiện không nên để cho người
còn trẻ vướng vào, như ngưòi Tầu tin tưởng, mà
chỉ để dành riêng cho những ngưòi đứng tuổi, hoặc
già cả. Một bi ở đây tốn mười đồng. Sau đó, chúng
tôi tới một tiệm sang hơn, Chez Pola. Ở đây, bạn có
phòng dành riêng, và có thể mang theo
bạn. Một cái dù Tầu thật lớn che trên một cái
giường tròn lớn. Một quầy đầy những sách ở ngay kế bên
giường. Lạ làm sao, và cũng tuyệt vời làm sao, tôi
thấy hai cuốn của tôi, trên quầy sách: Le Ministère
de la peur và Rocher de Brighton. Tôi bèn lôi
xuống, viết mấy lời đề tặng.
Một bi ở đây tốn ba chục đồng.
Kinh nghiệm hít tô phe của tôi bắt đầu vào
Tháng Mười năm 1951, khi tôi ở Hải Phòng trên
đường ra Vịnh Hạ Long...
Graham Greene. Tam Thập Lục Kế, Tẩu Vi Thượng sách: Ways
of Escape
Tính viết về “phe” lần đầu của GCC. Post khúc trên
làm mồi
Về từ Miền Lạnh Bạt
[Cho lần xb 50 năm sau, tháng này,
Tháng Tư, 2013)
Tôi viết Tên
điệp viên về từ miền đất lạnh ở cái tuổi ba mươi của mình,
dưới sức ép thật căng, không thể chia sẻ với ai,
và cực kỳ cá nhân. Là 1 sĩ quan tình
báo với cái vỏ bọc là 1 nhà ngoại giao
trẻ ở Tòa Đại Sứ Anh ở Bonn, tôi là 1 bí
mật, với những đồng nghiệp, và trong hầu hết thời gian, với
chính tôi. Tôi đã viết vài cuốn
tiểu thuyết trước đó, bắt buộc dưới 1 cái tên giả,
và Sở của tôi gật đầu cho phép in. Và sau
1 hồi dài tra hỏi linh hồn (soul-searching), họ cũng gật đầu
với The Spy.
Vào ngày này, [50 năm sau],
tôi tự hỏi, nếu Sở lắc đầu, thì quyết định của tôi
sẽ ra sao.
Như chuyện xẩy ra, họ có vẻ như kết luận,
hẳn là có ngần ngại, rằng cuốn truyện thuần giả
tưởng, từ đầu cho tới cuối, chẳng có gì cho thấy
là rút ra từ kinh nghiệm cá nhân, và
như thế, nó không phạm luật xé rào an
ninh. Tuy nhiên, đây không phải là cách
nhìn của giới báo chí thế giới, mà, với
một tiếng nói, quyết định rằng, cuốn sách không
hoàn toàn chân thật, nhưng mà là
1 thứ Thông Điệp Từ Phía Bên Kia có tính
phát giác, mặc khải gì đó, một phán
quyết như thế khiến tôi, đâu có phản ứng nào
khác, ngoài chuyện ngồi im re, và theo dõi,
lẽ dĩ nhiên cũng rất ư là lạnh cẳng, như thể cuốn sách
leo mãi lên tít cao của danh sách những best-seller,
rồi chết sững ở đó, trong lúc hết nhà phê
bình này tới nhà phê bình khác
gật gù, đúng thứ thiệt đấy!
Và cái lạnh cẳng của tôi,
thì sau đó được thêm vào, với thời
gian, cái giận dữ, cũng của tôi.
Một giận giữ bất lực.
Bởi là vì, kể từ ngày cuốn
tiểu thuyết của tôi được xb, tôi nhận ra là,
bây giờ cho đến mãi về sau, tôi bị chụp mũ, một
tên điệp viên biến thành nhà văn, chứ
không phải, một nhà văn, và, bởi vì là
nhà văn, lại có tí lem nhem với thế giới bí
mật, và thế là bèn viết về nó. Tôi
là 1 tên bí mật ngay cả với chính tôi!
Nhưng những ký giả thời đó không
phải như thế. Tôi là 1 tên điệp viên
Ăng Lê, một kẻ bước ra khỏi thế giới bí ẩn của mình,
và nói, nó thực sự như thế nào, và
bất cứ cái gì tôi nói ngược lại, thì
đều củng cố thêm lên, huyền thoại. Và, bởi
vì tôi viết cho một công chúng ăn phải
bả [hooked on] Bond và tuyệt vọng cố tìm thuốc rã
độc [desperate for the antidote], huyền thoại càng dính
cứng. Cùng lúc, tôi có được 1 thứ quan
tâm mà nhà văn mơ tưởng. Vấn đề độc nhất của tôi
là, tôi đếch khoái công chúng của
riêng tôi. Tôi đếch khoái, ngay cả khi tôi
phụ thuộc vào nó, đăng ký nó [subscribing
to it].
It takes three (two short, one long)
to show his measured fury. "'This is a war,' Leamas replied.
'It’s graphic and unpleasant because it is fought on a tiny scale
at close range; fought with a wastage of innocent life sometimes,
I admit. But it’s nothing, nothing at all besides other wars—the last
or the next.'" ("The Spy Who Came in from the Cold")
Câu văn thần sầu
Phải ba (hai ngắn, một dài),
để chỉ ra, cơn cuồng nộ cố dằn lại của ông. “Đây
là một cuộc chiến,” Leamas trả lời. “Nó có
tính đồ thị, minh họa, và làm khó chịu,
bởi là vì xẩy ra trong 1 phạm vi hẹp, và ngay
trong tầm tay; đôi khi làm phí những mạng người
vô tội, tôi đồng ý. Nhưng bõ bèn gì,
bên cạnh những cuộc chiến khác – cái vừa qua, hay
cái sắp tới.” ("Tên điệp viên về từ miền lạnh”)
*
Với Gấu Cà Chớn, câu văn thần sầu
của Gấu mà nhờ Le Carré mới viết được - vắt qua
hai cuộc đời, một đã qua cùng cuộc chiến đã
qua, và một sắp tới, cùng cuộc chiến hội nhập sắp
tới - là câu văn mà, chỉ 1 khi Gấu được Cao Uỷ
Tị Nạn cho xe tới rước, sau hai tháng tù vì tội
nhập vô Thái Lan bất hợp pháp, tại nhà tù
quốc tế Bangkok, và sau đó đưa vô Trại Phanat Nikhom
- chỉ tới khi đó, mới viết được khúc đuôi của nó:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn
thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi,
tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính
mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống
lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài
Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
(1)
His early books sketched, as
he once put it about his Smiley novels, “a kind of ‘Comédie
humaine’ of the cold war, told in terms of mutual espionage.”
Còm
của độc giả Mẽo:
Look up this guy's comments on
9/11. He thinks the U.S. provoked what it got. He's got his head in too many
absurd moral fictions. Đọc gã này phán
về cú 9/11. Hắn nói, Mẽo đã gây ra,
provoke, cú đó. Hắn bị THNM vì đọc quá
nhiều cái thứ giả tưởng phi lý mà còn
bày đặt đạo đức ở trong đó.
[Tuyệt. Quả là độc giả
thứ thiệt của Le Carré, một cách nào đó. Có
chất đạo hạnh bậc thầy ở trong truyện của Le Carré, theo Gấu]
I was very disappointed by Carre's
last book, very anti-American and quite preposterous.
His great works all came out during the cold
war and they told us - fiction or modified fact - how complex
the spying business was. They added a 'human face' to this basically
grisly business.
Not the last one I remember only vaguely now.
This guy does not like our country very much, to say at least.
Tôi rất bực cuốn mới nhất của ông
ta, rất ư là bài Mẽo, và thật là
phi lý, nếu không muốn nói, láo xược.
Những tác phẩm lớn của ông ta, là
từ cuộc chiến tranh lạnh mà ra. Và chúng
nói với chúng ta - giả tưởng hay sự kiện được thay
đổi đi, chế biến khác đi – ngành điệp vụ đa dạng, rắc
rối như thế nào. Chúng đem “bộ mặt người” đến cho
cái thế giới, tự bản chất của nó, thì vốn xám
xịt.
Gã này đếch ưa xứ sở của chúng
ta, đếch ưa 1 tí nào, phải nói như vậy.
*
Le Carré
luôn tỏ ra "ưu ái", với những người Cộng Sản chân
chính. Có vẻ như ông tin rằng, chính
những người đó có lý hơn ông, như trong
đoạn cuối ở trên, Smiley nước mắt ràn rụa, hét
lớn, nhìn thân xác Dieter chìm xuống lòng
sông, giữa sương mù Luân Đôn: -Dieter! Tại sao bạn
không bắn tôi? Tại sao?…
*
Antoine SPIRE :
Ông có đưa ra một tay
già, thông tuệ kinh tan-mút, phán::
Chúng ta cầu nguyện Chúa Cứu Thế
tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì có
những đấng Do Thái, trong bóng tối, thì thầm
với Thượng Đế: Này, đừng có nhập thế đấy nhé!
George STEINER:
Tôi mô phỏng Hegel. Tay
này không ưa dân Do Thái. Một bữa ông
ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế vi hành, gặp một
tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì,
giữa 2 món này, hoặc là cứu chuộc, hoặc tờ nhật
báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.
Căng lắm đấy, cái câu
chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là
1 dân tộc bị hớp hồn bởi lịch sử, bởi những đỉnh cao thời
đại, bước ngoặt vĩ đại… là cái số mệnh của chúng
tôi, và thỉnh thoảng, tôi tự nhủ thầm, có
khi còn mỉm cười và nhủ thầm: Giá mà
“Chúa Cứu Thế”, tức anh VC Giải Phóng Bắc Kít,
đừng có tới, thì thật đỡ khổ biết là chừng nào!
TTT, hẳn là bị ám ảnh
bởi 1 câu chuyện tiếu lâm như trên, thành
thử khi đọc Trầm Tư của 1 tên tử tù của Hồ
Hữu Tường, trong đó, ông mơ tưởng Đức Phật sẽ có
ngày trở lại với dân Mít, nhà thơ hoảng
quá, viết:
Giấc mơ Đức Phật trở lại thì
cũng nát tan như mảnh đồng Bắc Kít chằng chịt
những bờ, và bờ thì nhiều hơn là ruộng.
Ui chao, một khi cánh đồng
liền thành một mảnh, qua Cải Cách Ruộng Đất, qua
tập thể hoá… là Quỉ Đỏ xuất hiện, thay vì Đức
Phật! Tội nghiệp dân Mít! Hà, hà!
Par Pierre Assouline dans Magazine
Littéraire 569
daté juillet-août 2016 -
1375 mots
Converti au catholicisme,
le Britannique conjuguait la foi et le doute : il fut toujours
hanté par le vertige de la déloyauté.
Trong bài viết về GG,
trên số ML mới nhất, PA coi Người Mỹ trầm lặng là
tiểu thuyết trinh thám!
Nhảm quá.
Cái tít bài viết của PA, 1 ân sủng đếch trầm lặng, cho
thấy, là từ Người Mỹ Trầm Lặng mà ra.
Tuy nhiên, người nhận ra ý nghĩa
của từ ân sủng, trong GG, là Coetzee, khi ông
đọc cuốn Brighton Rock. Nó mắc
mớ tới Ky Tô giáo
Ngày 23 Tháng Giêng,
1963, Kim Philby, gián điệp Anh (cộng tác viên một thời
cho Người Kinh Tế) chuồn qua Xô Viết. Chín tháng
sau, “Điệp Viên Từ Miền Lạnh" ra lò. Giả tưởng, tất nhiên,
nhưng hình như nó còn thực hơn cả sự thực,
phản chiếu một thực tại rộng lớn hơn, cái gọi là Cuộc
Chiến Lạnh. Bảnh hơn nữa, nó
xuất hiện, và sau đó, tiểu thuyết điệp viên
thay đổi hẳn, không còn như trước nữa. Cuốn tiểu thuyết mở ra với cảnh Alec Leamas, điệp
viên Anh, phụ trách một đơn vị phản gián ở
Bá Linh, chờ 1 đệ tử, biệt kích ném qua Đông
Đức, bị cháy, và phải bỏ chạy, qua Trạm kiểm soát
Charlie. Ngay từ câu “rất” đầu tiên, là cái
viết của Le Carré, như 1 con rắn độc, thò mỏ ra chơi
1 phát. Những xen, cảnh thì được chiếu sáng
theo kiểu cà giựt, bằng “flashpoint” [điểm hỏa, tia loé].
Nhân vật thì được phác họa bằng những câu
sắc, lẹ. Câu văn ngắn, điểm đúng huyệt. Tình tiết
rắc rối, không dễ mò, nhưng không bao giờ lâm
vô tình trạng quá tải, với những nhân vật
phụ, những cú xoắn thừa thãi, hay khúc ngoặt
không cần thiết. Không giống tiểu
thuyết gián điệp “James Bond 007”, thế giới của le Carré
gân guốc, chai sạn, và rặt một màu u tối. Leamas
tự mình chuốc rượu mình, trong những căn phòng
tù mù, bàn ghế không phải không bày
mà gần như đếch có. Đờn bà thì câm,
nếu không muốn nói là nín khe, trầy trụa,
không phải thứ lụa là gấm vóc của Ian Fleming. Xa
vời cái thứ hoành tráng, say đắm, những điệp viên
của le Carré thì, bằng những từ của Leamas, "tuồng ảo
hóa đã bày ra đấy, toàn 1 lũ khùng
điên, ba trợn, phản bội, những tên sa đích, ghiền
rượu,những kẻ thắp sáng cuộc đời
thối rữa của chúng, bằng cách chơi trò cao bồi
vs mọi da đỏ”, “a squalid procession of vain fools, traitors…pansies,
sadists and drunkards, people who play cowboys and Indians to brighten
their rotten lives”. Cái sự “trần thùi
lụi” này làm cho thế giới của những tên ma
quỉ, gián điệp hai mang của le Carré, nếu không
“xác thực”, thì “đáng tin”, như chính ông
viết, trong lời bạt, 50 năm sau khi nó được xb lần thứ nhất.
Cái viết ông mắc nợ rất nhiều từ 1 bậc thầy khác,
trong giới viết truyện điệp viên bảnh tỏng, Graham Greene, và
tác phẩm thần sầu của ông này, “Brighton Rock”,
xb năm 1938. Nhưng cái vẻ gân guốc, chai sạn của “Tên
Điệp Viên Từ Miền Lạnh” còn có thể tìm thấy
ở trong 1 giả tưởng khác, cũng xuất hiện vào thời kỳ này.
Năm năm trước đó, Allan Sillitoe viết về cuộc sống của giai cấp
lao động ở Nottingham, trong “Saturday Night, Sunday Morning”, đã
làm độc giả phát sốt với những miêu tả những vụ phá
thai ở những con phố sau, những chiều tối trải qua trong những quán
rượu, bằng tiền trợ cấp thất nghiệp. Vào năm 1956, John Osborne
viết “Nhìn lại với Cáu Giận”, “Look Back in Anger”, một
vở kịch hiện thực xoay quanh một anh chàng trẻ tuổi cáu
giận, bất mãn. Tiểu thuyết của le Carré xoay quanh một
chuyện khác, và nó phản chiếu một vết nứt rạn rộng
hơn, về thời hậu chiến Anh, và mở ra 1 đường viết khác
về cuộc sống ở xứ sở này. Chẳng bao lâu sau khi
cuốn tiểu thuyết xb, le Carré nghỉ chơi với sở ngoại giao
và chỉ lo viết. Chừng 20 cuốn tiếp theo, kể cả cuốn mới
ra lò, đầu năm nay, 2013, “Một Sự Thực Thanh Nhã.” Tất
cả đều có thứ văn phong căng thẳng, và xoáy vào
chi tiết. Nhưng “Điệp viên từ Miền Lạnh” kể như bảnh nhất. Gần
30 năm sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ, cuốn tiểu thuyết của
le Carré vẫn làm độc giả nhức nhối với Cuộc Chiến Lạnh,
sự bất lực và dối trá của nó. Cuốn tiểu thuyết
nhắc nhở chúng ta, 1 giả tưởng, thứ thật bảnh, có thể
tra hỏi, về chuyện, nhà nước làm ăn ra làm sao.
Prospero *
Lần kỷ niệm lần thứ 100, năm
sinh của Greene [1904-1991], tác
phẩm của ông được xb toàn bộ [chắc thế], mỗi cuốn
kèm 1 bài biết thật bảnh.
Coetzee, trong tập tiểu luận của ông, chọn
Brighton Rock
[Introduction, ấn bản Penguin,
New York, 2004] Theo ông, đây là tác
phẩm nghiêm trọng đầu tiên của Greene, his first serious
novel, theo nghĩa, viết với những ý nghĩ nghiêm trọng.
GG rất mê mấy dòng thơ dưới đây:
Our interest's on the dangerous
edge of things.
The honest thief, the tender murderer,
The superstitious atheist.
[Nỗi quan hoài của chúng ta, là
vào sát na sợi tóc nguy hiểm, ở mép
bờ.
Tên trộm lương thiện, tên sát
nhân dịu dàng. kẻ vô thần mê tín].
Robert Browning,
« Bishop Blougram's Apology »
[Lời xin lỗi của Bishop Blougram]
Thầy của le Carré, là
Greene. Thầy của Greene, là Conrad.
Nếu phải chọn đề từ cho toàn bộ tác
phẩm, Greene chọn câu trên, theo Coetzee.
Thế giới của Greene, 'Greeneland',
là một miền đất trong đó, những con người bất toàn,
imperfect, chia năm xẻ bảy, divided, như bất cứ một vẹn toàn,
integrity, trong khi niềm tin bị thử thách ở mức tới hạn,
their belief tested to the limit, và Thượng Đế, nếu có,
thì đánh bài chuồn, nếu không muốn nói,
đi trốn, ở ẩn, hidden.
*
Coetzee, có thể nói,
là 1 người dẫn GCC vô văn chương thế giới hiện đại,
như là 1 phê bình gia, nhà điểm sách,
lương tâm của 1 thời, cùng với những đấng như Steiner.
Đọc ông rất thú, vì thể nào bạn cũng
kiếm thấy 1 ý, 1 câu thần sầu của ông, chiếu rọi
1 tác giả.
Thí dụ, khi ông
viết về Walter Benjamin, và nhìn ra hai tác
phẩm khổng lồ về điêu tàn của thế kỷ 20, ngó
nhau:
Từ một khoảng cách,
tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn
lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"),
của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng
đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được
dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích dẫn, và
trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình
ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và
đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên
là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu
tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh
giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với
thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào
thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì
con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin,
là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.
Ông viết
về Paul Celan, mà chẳng tuyệt sao:
Celan là
thi sĩ ngọn tháp Âu Châu ở những thập niên
giữa thế kỷ 20, người mà, thay vì chuyển hóa
thời của mình – ông đếch có hứng đó –
thì xử sự như một cây roi điện xả hết luồng điện cực
kỳ khủng khiếp chứa chất trong nó, của thời của mình.
Tuyệt!
Celan is the towering European poet of the middle
decades of the 20th century, one who, rather than
transcending his times – he had no wish to transcend them – acted as
a lightning rod for their most terrible discharges.
Đâu có
như phê bình gia Mít. Hoặc dởm, hoặc bịp.
Và đều đếch có tí lương
tâm: Bỏ nước ra đi, tố cáo VC chán, lại mò
về, làm như đếch có chuyện gì xẩy ra!
Nhà văn vào thời
này, Tây hay Đông, nếu đúng là
thứ thiệt, gắn bó với viết lách, nói chung,
đều thật rành cái thế giới của họ, không chỉ
như nhà văn, mà còn như là nhà
phê bình, điểm sách. Coetzee là 1 trong
thứ đó. Trong bài giới thiệu tập tiểu luận thứ nhì
của ông Inner Workings, người
viết, Dereck Attridge, đã đặt ra câu hỏi, và trả lời,
chúng ta cần gì đọc phê bình điểm sách
của một tiểu thuyết gia bậc thầy đã đoạt Nobel? Điều gì khiến
chúng ta tò mò muốn đọc thứ đó?
Gấu mê đọc tiểu luận của
Coetzee. Tiểu thuyết, mua gần như đủ cả, và thường là
cả hai, tiếng Anh và tiếng Tẩy, nhưng chỉ đọc "Ô Nhục",
tính đọc thêm cuốn, lấy khung cảnh St Petersburg, để
vinh danh sư phụ của ông, là Dostoiesky: The Master of St Petersburg.
Tiểu thuyết của Coetzee, sự thực,
cũng pha tiểu luận. V/v Văn phong, phải là cái tay trên
Intel, khi chỉ ra, tính hà tiện để/đến chảy máu mắt, khi
viết của Coetzee.
Nhà văn Mít
chưa ai hiểu ra được điều này. Chữ đầy ra đấy, tại sao
hà tiện. Họ đâu có biết, viết, thừa 1 chữ,
là hỏng 1 chữ đã được viết ra, vì không
trân quí nó! NQT (1)
Aleksandr Solzhenitsyn, tiểu
thuyết gia chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, mất
ngày 3 Tháng Tám 2008, thọ 89 tuổi.
Vài tuần sau khi chôn ông,
nhà nước Nga của Putin làm 1 cú thật đểu
cáng, [a sly, even cynical gesture] đổi tên 1 cái
phố lớn nhất của VC Nga, ở Moscow, thành tên của Solz.
Và còn làm 1 tấm plaque vinh danh những thành
tựu văn học của ông, kế ngay bảng tiệm McDomald, trên
cùng con phố!
Bà vợ góa của nhà văn, Natalia
Solzhenitsyn kiên nhẫn ôm những trớ trêu của
lịch sử. Tuần lễ vừa rồi, bà tới Triển Lãm Sách
Mẽo, ở trung tâm Javits Center, vì một dự án
tưởng niệm quan trọng hơn nhiều: Thành lập một kho dự trữ
hồ sơ văn học gồm tất cả những gì, từ tuổi thơ bị đóng
đinh thập tự của Solz, tới hàng ngàn trang bản thảo
viết tay của ông, trong có bản thảo Quần Đảo Gulag mà bạn bè
đã chôn giấu từ 20 năm ở vùng quê Estonia,
bên ngoài tầm tay của KGB.
Bản dịch mói thấy
trên net, của PQT, cho thấy, dịch giả để cả nguyên tác
tiếng Tây Bán
Nhà. Do không biết thứ tiếng này, nên
thua.
Nhưng nếu chỉ so với bản tiếng Anh, thì...
thua bản của GCC!
PQT bỏ từ "precise", chính xác";
"crucify" không
phải là "đóng đinh", mà là "đóng
đinh thập tự"!
Bỏ tên dịch giả tiếng
Anh. Phải cho biết ai dịch, vì có rất nhiều người
dịch thơ/văn của Borges
Đảo ngược trật tự từ: "cây thập tự &
những cái đinh", không phải "đinh & thập giá"
Quá cẩu thả (b), không rành
tiếng Mít.
Không tôn trọng dịch giả khác...
(b)
Sự may mắn hay bất hạnh của tôi
cũng chẳng có gì quan trọng
[PQT]
Tại sao lại "cũng" ở đây?
Quá quan trọng, mới đúng, bởi là
vì sau đó, Borges giải thích:
Tớ là thi sĩ!
TheAccomplice
They crucify me. I have to be
the cross, the nails.
They hand me the cup.
I have to be the hemlock.
They trick me. I have to be the
lie.
They burn me alive. I have to be that hell.
I have to praise and thank every instant of time.
My food is all things. The precise
weight of the universe. The humiliation, the
rejoicing.
I have to justify what wounds me.
My fortune or misfortune does not matter.
I am the poet.
-H.R.
Kẻ đồng lõa
Chúng đóng đinh
thập giá tôi. Tôi phải là cây
thập tự, những cái đinh.
Chúng đưa tôi cái ly. Tôi
phải là thuốc độc
Chúng đánh lừa tôi. Tôi
phải là lời dối trá
Chúng thiêu sống tôi. Tôi
phải là cái địa ngục đó.
Tôi phải vinh danh, xoa đầu chúng,
và lúc nào cũng phải cám ơn chúng
lia chia.
Thức ăn của tôi là mọi thứ, mọi điều.
Sức nặng đích thực của vũ trụ. Sự lăng
nhục. Niềm vui mừng.
Tôi phải xác minh điều làm
tôi thương tổn.
May mắn, hay bất hạnh của tôi chẳng là
cái chó gì ở đây.
Tôi là thi sĩ
[NQT]
Kẻ
tòng phạm
Người ta
đóng đinh tôi. Tôi phải là đinh, là
thập tự giá.
Người ta
đưa tôi một cái chén. Tôi
phải là thuốc độc.
Người ta
lừa tôi. Tôi phải là lời nói dối.
Người ta
thiêu sống tôi. Tôi phải là địa ngục.
Tôi
phải ca tụng và cám ơn từng giây từng phút.
Thực phẩm
của tôi là mọi thứ.
Toàn
bộ sức nặng của vũ trụ. Sự sỉ nhục, sự vui mừng.
Tôi
phải biện chính cho những gì làm tôi
thương tổn.
Sự may
mắn hay bất hạnh của tôi cũng chẳng có gì quan
trọng.
Tôi
là nhà thơ.
—–
Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm.
Trong Jorge Luis Borges, Jorge
Luis Borges: Selected Poems (New York: Penguin Books,
1999), 455.
Dear Gấu Nhà Văn,
Trong bài hát "Ly Rượu Mừng" có
câu "Nhấc chén đầy vơi chúc người người vui..."
Tôi phải ngợi ca và cảm ơn từng phút
giây (tôi đang sống, bất luận sướng khổ ra sao), không
phải ngợi ca hay cảm ơn "bọn đó".
Tôi phải biện minh cho cả những điều đã
làm tổn thương tôi. Không phải xác minh
mà là biện hộ giùm cho cái kẻ làm
hại mình, khổ thế?
Nói chung, tôi là thi sĩ, để làm
được ra thơ, hay chỉ cần được thì thầm trong câm nín
với Nàng Thơ thôi, thì cái gì
tôi cũng chịu được, kể cả bị đóng đinh. ??
Bác Gấu dịch "Call for the Dead" hay quá
sao không dịch trọn quyển nhỉ? Kính chúc an
vui.
H.Â.
Sent from my iPad
Today at 5:51 PM
Tks
How Are You?
Tính dịch cho H/A đọc, vì có
hứa, nhưng lu bu quá.
Mua lại cuốn sách là vậy.
Take Care
NQT
"Nói cho cùng,
tất cả chúng ta đều cố gắng là thi sĩ; mặc
dù những thất bại, tôi vẫn tiếp tục muốn là một
thi sĩ." Borges mở đầu buổi nói chuyện, cho một số
sinh viên tại đại học Columbia, vào mùa xuân
năm 1971.
Note: TV giới thiệu rất nhiều thơ của Borges, và,
như có lần Gấu đọc trên net, có 1 tay nhận xét,
chính cái gọi là xoàng trong thơ Borges
làm chúng ta mê thơ ông, vì rõ
ràng là, chúng ta cảm thấy, mình cũng
thừa sức làm thứ thơ này!
Tuyệt.
Tên số 2, bạn quí cùa bạn Cà,
cũng đã từng chê thơ bạn Cà, bài Khi ta
chết hãy ném thây ta xuống biển, bài thơ
này, ai cũng có thể làm được, "1 cách nào
đó", là cũng theo nghĩa đó!
Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu
phải nhà văn đầu tiên, càng không phải
nhà văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc
mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ
nghệ thuật mà mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới
Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC
vô!]. Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay
kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô
có mỗi cú đó, với “cái mình, cái
đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ xoáy
vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm
ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài
Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung
tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới"
[xém thêm cái tên của nó, là
Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên
“ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng
cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot juste], vô da vô
thịt họ.
Cú
khó sau chót, về dịch, là cái từ
trong cái tít. Không giống từ tiếng Anh, “metamorphosis,”
“hóa
thân”, từ tiếng ĐứcVerwandlung
không đề nghị cách hiểu tự nhiên, tằm nhả
tơ xong, chui vô kén, biến thành nhộng, nhộng
biếnthành bướm, trong vương
quốc loài vật. Thay vì vậy, đây là 1 từ, từ chuyện
thần tiên, dùng để tả sự chuyển hóa, thí dụ như
trong chuyện cổ tích về 1 cô gái đành phải giả
câm để cứu mấy người anh bị bà phù thuỷ biến thành
vịt, mà Simone Weil đã từng đi 1 đường chú giải tuyệt
vời.
“Hóa thân” là phải hiểu theo
nghĩa đó, giống như GCC, có thể đếch chết, và
thay vì chết, thì biến thành rồng, như lời
chúc SN của bạn DV!
Hà,
hà!
One
last translation problem in the story is the title itself. Unlike
the English “metamorphosis,” the German word Verwandlung
does not suggest a natural change of state
associated with the animal kingdom such as the change from caterpillar
to butterfly. Instead it is a word from fairy tales used to describe
the transformation, say, of a girl’s seven brothers into swans. But the
word “metamorphosis” refers to this, too; its first definition in the
Oxford English Dictionary is “The action or process of changing in form,
shape, or substance; esp. transformation by supernatural means.” This
is the sense in which it’s used, for instance, in translations of Ovid.
As a title for this rich, complex story, it strikes me as the most luminous,
suggestive choice.
Viết là cố phịa ra 1 lý thuyết mới về văn học
Câu mở ra bài viết của
Vila-Matas, theo Gấu, chính là cái gọi là
chủ nghĩa Mác Xít, khi nó đạt điểm tới của nó:
tri và hành là một.
Dans un État Idéal... Trong 1 nhà nước lý
tưởng, lý thuyết và thực hành là một.
Kim Dung mượn, và để cho nhà sư quét dọn Tàng
Kinh Các giải thích, tại làm sao mà Phật Pháp,
Tri, lại rong ruổi Võ Công, Hành.
Lập luận của nhà sư già tại Tàng Kinh Các,
khi giải thích tại sao Phật pháp lại giong ruổi với Võ
học, xem ra như có vẻ vay mượn từ Lý thuyết (Théorie)
và Thực hành (Praxis) của triết học duy vật biện chứng:
Trên đường giong ruổi, Théorie và Praxis triệt tiêu
lẫn nhau, quyện vào nhau, để cùng biến mất và từ đó
xuất hiện, con người hoàn toàn (l'homme total), tức giấc
đại mộng của Marx.
Nguyễn Đình Thi, thay, Tri và Hành, bằng Tĩnh
và Động, và đây là nội dung cuốn Triết Học
Nhập Môn của ông, đã 1 thời Đại Học Văn Khoa Sài
Gòn coi là sách giáo khoa, bắt buộc phải đọc,
của cái bằng cử nhân Triết của lũ Nguỵ, tếu thế!
Borges đọc “Hóa Thân” (1938)
Kafka ra đời tại 1 khu Do Thái
ở thành phố Prague vào năm 1883. Ông thì
bịnh và đau khổ, buồn bực (chagrin). Ông bố không
ngừng khinh bỉ, miệt thị, (mépriser) trong bí mật,
en secret, và hành hạ, (tyrannisa), ông con, cho
tới năm 1922. Cái sự cha con không hợp nhau này,
như chính ông con nói, “đầm đìa” (découlait)
trong tất cả tác phẩm của ông. Từ tuổi trẻ của ông,
chúng ta biết được hai điều: ông đau khổ vì 1 thứ
tình yêu trái ngược, contrarié, và
ông có cái thú về du ký (le gout des
récits de voyages). Học xong Đại Học, có thời gian ông
làm trong ngành bảo hiểm, và chỉ được giải phóng,
thoát ra khỏi ngành này, ôi chao, thảm thay,
nhờ căn bịnh ho lao. Nửa đời sau ông thường thăm thú, cư
ngụ tại những nhà dưỡng bịnh, des sanatoriums, ở Tyrol, Carpates,
Erzgebirge.
Vào năm 1913, ông cho in tác
phẩm đầu tay, Contemplation, Chiêm
ngưỡng, và vào năm 1915, là cuốn nổi tiếng
của ông Hoá Thân, La Métamorphose,
và 1919, là 14 contes fanstastiques [truyện kỳ quái],
hay 14 ác mộng ngắn gọn (cauchemars laconiques), làm
thành (composer) Y Sĩ Đồng Quê, Un médecin
de campagne.
Sức nặng của cuộc chiến đè nặng lên
những tác phẩm này: cái sức nặng mà
tính chất của nó là tàn khốc bắt buộc
con người phải giả đò hạnh phúc, hoặc can đảm cùng
mình… Bị bao vây, và thất trận, những đế quốc
Trung Âu
Saigon 1970 - Một lớp học tại trường
Gia Long
source: Viet-Nam Bulletin - Secondary Education
in Viet-Nam (October 1970)
Một lớp học tại trường Nữ trung học Gia Long
ở Saigon: cả cô giáo và học sinh đều mặc
áo dài quần trắng, đồng phục của rất nhiều lớp
học tại Nam VN.
Vụ hành quyết năm xưa (1)
- Diễn ra trên đường Minh Mạng chứ không phải Lý
Thái Tổ
Gần đây, một người nước ngoài
(ông Paul Blizard) đã cất công tìm
lại được đúng địa điểm thật của vụ tướng Loan xử tử đặc
công VC năm 68. Vụ đó diễn ra trên đường Minh mạng,
nay là Ngô Gia Tự, chứ không phải Lý
Thái Tổ như thông tin trước đây.
Paul Blizard - Saïgon Chợ Lớn Then &
Now
Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu
phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà
văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc mình ra,
như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà
mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém
1 tí là thêm tên GCC vô!]. Nhưng ông
bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì
hục, chỉ chúi vô có mỗi cú đó, với “cái
mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded]
chỉ xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó,
tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài Kafka
ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung tâm
câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém
thêm cái tên của nó, là Xứ Mít
bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám
chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng cây kim châm
khắc mẹ bản án [le mot juste],
vô da vô thịt họ.
Cú
khó sau chót, về dịch, là cái từ trong cái
tít. Không giống từ tiếng Anh, “metamorphosis,”
“hóa
thân”, từ tiếng ĐứcVerwandlung
không đề nghị cách hiểu tự nhiên, tằm nhả tơ xong,
chui vô kén, biến thành nhộng, nhộng biếnthành bướm, trong vương quốc loài
vật. Thay vì vậy, đây là 1 từ, từ chuyện thần tiên,
dùng để tả sự chuyển hóa, thí dụ như trong chuyện cổ
tích về 1 cô gái đành phải giả câm để cứu
mấy người anh bị bà phù thuỷ biến thành vịt, mà
Simone Weil đã từng đi 1 đường chú giải tuyệt vời.
“Hóa thân” là phải hiểu theo nghĩa đó,
giống như GCC, có thể đếch chết, và thay vì chết,
thì biến thành rồng, như lời chúc SN của bạn DV!
Hà,
hà!
One
last translation problem in the story is the title itself. Unlike the
English “metamorphosis,” the German word Verwandlung does
not suggest a natural change of state associated with the animal kingdom
such as the change from caterpillar to butterfly. Instead it is a word from
fairy tales used to describe the transformation, say, of a girl’s seven brothers
into swans. But the word “metamorphosis” refers to this, too; its first
definition in the Oxford English Dictionary is “The action or process of
changing in form, shape, or substance; esp. transformation by supernatural
means.” This is the sense in which it’s used, for instance, in translations
of Ovid. As a title for this rich, complex story, it strikes me as the
most luminous, suggestive choice.
Borges đọc “Hóa Thân” (1938)
Kafka ra đời tại 1 khu Do Thái
ở thành phố Prague vào năm 1883. Ông thì bịnh
và đau khổ, buồn bực (chagrin). Ông bố không ngừng khinh
bỉ, miệt thị, (mépriser) trong bí mật, en secret, và
hành hạ, (tyrannisa), ông con, cho tới năm 1922. Cái
sự cha con không hợp nhau này, như chính ông
con nói, “đầm đìa” (découlait) trong tất cả tác
phẩm của ông. Từ tuổi trẻ của ông, chúng ta biết được
hai điều: ông đau khổ vì 1 thứ tình yêu trái
ngược, contrarié, và ông có cái thú
về du ký (le gout des récits de voyages). Học xong Đại Học,
có thời gian ông làm trong ngành bảo hiểm, và
chỉ được giải phóng, thoát ra khỏi ngành này,
ôi chao, thảm thay, nhờ căn bịnh ho lao. Nửa đời sau ông thường
thăm thú, cư ngụ tại những nhà dưỡng bịnh, des sanatoriums,
ở Tyrol, Carpates, Erzgebirge.
Vào năm 1913, ông cho in tác phẩm đầu tay, Contemplation,
Chiêm ngưỡng, và vào năm 1915, là cuốn nổi
tiếng của ông Hoá Thân, La Métamorphose,
và 1919, là 14 contes fanstastiques [truyện kỳ quái],
hay 14 ác mộng ngắn gọn (cauchemars laconiques), làm thành
(composer) Y Sĩ Đồng Quê, Un médecin de campagne.
Sức nặng của cuộc chiến đè nặng lên những tác
phẩm này: cái sức nặng mà tính chất của nó
là tàn khốc bắt buộc con người phải giả đò hạnh phúc,
hoặc can đảm cùng mình… Bị bao vây, và thất
trận, những đế quốc Trung Âu
Hãy yêu người bằng một
thứ tình yêu cũ xì, cằn cỗi vì thương hại, cáu
kỉnh và cô đơn.
"Aimer les hommes d'un vieil amour usé par la pitié,
la colère, et la solitude".
C. Milosz: Hành Trình qua Tây Phương.
Nhìn lại, Gấu nghĩ, Gấu và
Joseph phải được coi như là hai thằng bạn thân. Nhưng nhìn kỹ lại, Gấu nhận ra một
điều: Chưa từng được bạn ta tặng cho một bài thơ nào! Trong khi đó, nào là
tặng Nguyễn Đạt, những vần lặng lẽ này... Nào là
nhắn Nguyễn Tân Văn, đọc xong, ghé tôi "phe cà"... Một bữa,
nằm mơ, gặp anh. Bèn cự. Anh cười: -Mi viết truyện ngắn, về Bông Hồng Đen,
còn được đi, nhưng mi viết điểm sách, phê bình,
viết ba thứ "hôi" như thế, làm sao mi đọc được Mùa Cầm Xanh?...
Tôi đề nghị, anh đã
từng làm bồi Mẽo, thì tốt nhất, lại xin đi làm
bồi Mẽo, ở ngay nước Mẽo.
Nhưng nếu anh không thích Mẽo, mà có
lẽ tôi đoán đúng như vậy, thì nên
đi Canada. Ở đó có vùng Quebec, Montreal, nói
tiếng Tây....
Tui cũng "khoái" anh đấy, nhưng nếu lấy anh, là
mất một xuất dành cho mấy người kia.
-Thôi, mày nói vậy, là tao hiểu rồi.
Tuy đây là chương trình Nhân Lực, nhưng lâu
lâu, nhận một người như mày, cũng không sao.
Tay Canada già, trưởng phái đoàn Canada, vừa
gấp hồ sơ của Gấu lại, vừa nói.
Còn ở hải ngoại này thì
không một ai dí súng vào màng tang
bắt viết, thì hà cớ gì phải vừa viết vừa cảnh giác
đề phòng cộng đồng biểu tình chống đối?
Hoàng Khởi Phong, trả lời Trần Văn Thuỷ: Ở hải ngoại
này có tự do sáng tác hay không?
Theo tôi, quả là có nỗi sợ bị "dí
súng vào màng tang", ở một số nhà văn hải
ngoại, ở những thời điểm nóng bỏng của nó.
Trong những năm chiến tranh, Gấu tui may mắn có được
một vài dịp bỏ chạy cuộc chiến, nhưng có thể, bởi vì
nó dai như đỉa đói, cho nên, cuối cùng đều
hỏng cả.
Có lần, vào phút chót, tưởng đi
mười mươi, lại khựng lại. Lý do khựng lại, không phải
do ngoại cảnh, mà như thể có một người nào, ở bên
trong Gấu, xúi bậy xúi bạ, này đừng, ra đi là...
hết rồi, là khốn nạn đấy con ạ, đi là không thể nào
trở về được đâu, mà có trở về, thì cũng chẳng
còn gì nữa. Có nhớ chàng Lưu, chàng
Nguyễn không? Đến Thiên Thai làm gì cho khốn
khổ khốn nạn, khi trở về là hết đời của mình rồi! [Đào
thơm đâu cần phải đến Thiên Thai mí có!]
Như thể đời của lũ chúng tôi, chính là
cuộc chiến khốn kiếp đó.
"Đời của mi đâu rồi, hôm nay sao không đi
đón mi?"
Gấu tôi chợt nhớ Bông Hồng Đen, và câu
nói đùa của bạn cô, những lần Gấu tôi bận
việc sở không thể đi đón, khi tan trường...
Trở lại với vấn đề dịch, một truyện ngắn, thí dụ như
Em Yêu Anh Không của Khánh Trường, ra tiếng ngoại.
Nó đòi ít nhất là hai điều kiện,
cần và đủ, cho một định lý có tên là
"Sống Cái Chết Việt Nam."
Thành thử mấy ông bỏ chạy cuộc chiến, đã
có tí mặc cảm, dịch là vứt đi!
Và phải đọc truyện đó, hơn cả tác giả của
nó, khi viết nó.
Với tôi, KT tuy là người viết truyện, nhưng chỉ
là thứ "thừa hành". Chủ nhân đích thực của
truyện ngắn, chính là cuộc chiến tại miền nam, với "người
hùng" thảm hại của nó - một thứ phản anh hùng. Đây
là lý do tại sao Thanh Tâm Tuyền bỏ dở hai truyện
dài viết về cuộc chiến vừa qua: Ông cố tạo ra một thứ anh
hùng, nhưng sau cùng nhận ra, không thể...
Tác phẩm văn học, theo tôi, luôn có
một nhan sắc thầm, như để dành riêng cho một bạn tri âm
của nó. Bạn phải ở một tuổi nào, đó, sống một
cuộc đời, như thế nào, đó, thì mới đọc được, nó.
Tôi muốn nói mới nhận ra được cái nhan sắc thầm
kia.
Thí dụ, như mọi người đều biết, Nguyễn Tuân, một
con người rất tài hoa, với những dòng văn rất tài
hoa. Nhưng cái nhan sắc thầm của ông, lại là những
câu văn rất mộc mạc, như thể những tài hoa nhất mực như
thế, là chỉ để làm bật ra cái mộc mạc kia. Hoặc
giấu biệt nó, trước những cặp mắt phàm phu tục tử. Có
lần tôi đã sử dụng huyền thoại mắt xanh, mắt trắng để nói
về hai cái đẹp, một sắc sảo, một mộc mạc của văn Nguyễn Tuân.
Với độc giả, bất kỳ độc giả, là cặp mắt trắng dã, là
nét đẹp tài hoa, nhưng với một tri âm, ông
lôi cái món ăn ông thích nhất, thí
dụ, món cơm nắm ăn với muối vừng, tức cái mộc mạc giản dị,
của một nhà văn miền bắc.
Cuộc chiến Việt Nam, nó giống như một thai đố, mà
những mật hiệu, clues, cho thấy, nó "bắt buộc" phải như vậy.
Bất thình lình, ngày 30 tháng Tư cho thấy,
nó không phải như vậy.
Cũng thế, nếu nói về mặt văn học: Văn học xã hội
của miền bắc. Nó y hệt như chủ nghĩa Cộng Sản, là cái
nền khổng lồ mà nó dựa vào đó. Nó khổng
lồ như là chủ nghĩa CS khổng lồ. Đùng một cái, ngày
30 tháng Tư, nó đụng vào một bức tường mềm, là
cuộc sống thực của miền nam, nó gặp kẻ thù của nó,
là nền văn học chẳng ai thắng ai, nó gặp "văn hữu" của nó,
những nhà văn suốt đời chỉ mơ được làm một phó thường
dân. Nhân vật tiểu thuyết, những Sài những Mía,
những Núp... đột nhiên nhận ra, mình có những
phần giông giống họ, tôi muốn nói, giống những nhân
vật ở trong Ngoại Ô Dĩ An Và Linh Hồn Tôi, Dọc Đường,
Em Yêu Anh Không... nhưng cứ cố tình vờ đi, để
viết... dưới ánh sáng của Đảng.
Norman Manea đã từng tự hỏi, tại sao, một ông khổng
lồ như thế, đột nhiên té chỏng khu: Cuộc sụp đổ nhanh chóng
của đế quốc Đỏ.
Thế nào là bỏ chạy cuộc chiến?
Có khi bạn sống ở Sài Gòn, trong những
ngày tháng cay nghiệt như thế đó, mà vẫn
chỉ là một thứ bỏ chạy cuộc chiến.
Linda Lê, rời Việt Nam năm 14 tuổi, mang theo được gì,
từ cuộc chiến, từ cái gia tài của mẹ, vậy mà bà
vẫn sống, tôi muốn nói, luôn đối đầu với Cái
Chết Việt Nam? Bà lấy ở đâu ra, cái xác chết,
là đứa trẻ Việt Nam, mà bà luôn cưu mang đó?
Cái xác chết, như tôi hiểu được, cũng là
cái bản đồ Việt Nam tỉ lệ xích 1/1 rách nát,
mà người Việt cố mang ra ngoài này để vá
víu lại.
Văn chương Việt Nam hải ngoại, theo tôi, là một
toan tính làm sống lại một đứa trẻ đã chết, mà
Linda Lê luôn cưu mang ở trong bà
Đọc một vòng, tôi càng
thấy rõ hơn, văn chương thực chất là một cái bẫy.
Phải tự đặt câu hỏi chứ: tại sao cả Tô Hoài lẫn Võ
Phiến đều gắn vào với Nguyễn Tuân? Trả lời được thì
sẽ hiểu được rất nhiều điều.
Ở Tô Hoài, sự gắn vào Nguyễn Tuân là
cố ý, còn với Võ Phiến, dường như "câu chuyện
Võ Phiến-Nguyễn Tuân" xuất phát từ một nhận xét
của Nguyễn Hiến Lê.
Gấu nhớ là, khi Tràng Thiên, tức Võ
Phiến, được trong nước chiếu cố, hình như NN có phán,
VP viết ký bảnh hơn Nguyễn Tuân?
Tô Hoài, theo GCC, là 1 trường hợp cực kỳ ghê
gớm của xứ Bắc Kít, không đơn giản.
Sợ còn bảnh hơn cả Nguyễn Tuân!
Tấn bi kịch hãi hùng
về cải cách ruộng đất ở một xã đồng bằng Bắc bộ do chính
người trong cuộc: ông đội phó đội cải cách, kiêm
chánh án, kể. Một trong những ông đội phó
cải cách, kiêm chánh án những năm tháng
“nhất đội, nhì trời” ấy, lại chính là nhà
văn lớn Tô Hoài (năm 1954-1955, ông mới 34 - 35 tuổi),
tác giả Ba người khác. Vì thế, tiểu thuyết này
rất sinh động, hấp dẫn, khiến người đọc chỉ có thể từ tin đến rất
tin những điều trần trụi, khốc liệt được lần lượt phơi bày trong tác
phẩm.
Ba người khác, có thể
hiểu như tự truyện của nhân vật “tôi”, tên Bối, đội
phó Đội cải cách ruộng đất, kiêm chánh án,
kể về mình và hai người khác là Cự (đội trưởng)
và Đình (cán bộ đội), cùng không hiểu
biết gì về nông thôn, nông dân, nhưng “được
tiếng là đánh địch (địa chủ, phản động) giỏi, có thành
tích” trong ba đợt cải cách ở Thanh Hóa, được cấp trên
tin cậy, điều về “cải thổ” một xã ở Hải Dương, mới tiếp quản sau
khi quân Pháp rút.
Và tấn đại
bi kịch đã được nhà văn vẽ ra. Một vùng quê đang
yên lành, bỗng chốc chìm ngập trong các cuộc
đấu tố, tranh giành, oan khốc, đen tối và đẫm máu...
Thực tế, những bi kịch về cải cách
ruộng đất, nếu các tác phẩm văn học nhiều năm qua, vì
nhiều lý do, chưa nói đến hoặc nói không đầy
đủ thì những dấu ấn nặng nề về những sai lầm và hậu quả xã
hội lâu dài của nó đến nay, sau hơn 50 năm, nhiều
cá nhân, gia đình vẫn chưa hết nhức nhối.
Bởi vậy, bi kịch về những sai lầm trong
cải cách ruộng đất ở Ba người khác, với những người quan tâm
hoặc hiểu biết về nó, đều đã quen thuộc. Có lẽ cũng
biết điều này, để tránh sự “quen thuộc”, nhà văn Tô
Hoài đã chọn cách viết tác phẩm từ lời kể
của tên tội phạm, khác với những tác giả trước đây,
viết với tư thế là nạn nhân, pháp quan, thầy đời v.v…
Và sự lựa chọn
này đã khiến Ba người khác ngay lập tức được các
nhà phê bình, nhà văn “tài cao, đức
trọng”, tôn vinh nhiệt liệt như đón chào ngôi
sao rực sáng trên bầu trời văn chương Việt Nam.
Trong Ba người khác,
nếu cứ căn theo lời kể của “Tôi”, thì Bối, Cự, Đình
thực sự là ba gã bản chất lưu manh theo ba kiểu khác
nhau. Khi về địa phương, họ bắt mối và tập hợp quanh mình
các “rễ”, “chuỗi” u tối, toàn đui, què, mẻ, sứt,
nếu không cũng khùng khùng, điên điên...
Cả ba ông Đội
tuy cùng trình độ văn hóa thấp, vẫn đều đủ khôn
ranh để biết việc nào đúng, sai, tốt, xấu, lợi, hại, nhưng
vì sức ép thành tích, vô trách
nhiệm, tham vọng quyền lực cá nhân, ham muốn thỏa mãn
dục vọng thấp hèn, biết sai, xấu vẫn làm; biết dối trá,
tội ác vẫn “vô tư” lăn xả… gây ra bao nhiêu bi
thương, tang tóc cho làng xóm.
Bằng thứ giọng
bình thường hóa tội ác, toàn bộ lời kể của
Đội Bối, trong Ba người khác, không chỗ nào tỏ ra đau
khổ hay sám hối. Không biết khi kể chuyện, Bối đã hết
chất lưu manh, dối trá hay chưa, nhưng ở cái xã và
các xã đang “thổ cải” thời kỳ ấy, những nơi mà mầm
mống nhân tính đã bị chính những người như họ
tiêu diệt thì chắc chắn không thể có một ông
Đội Bối vô can, và bây giờ lại uốn éo thanh minh
rằng mình cũng chỉ là nạn nhân.
Trong Ba người khác,
chuyện tình dục tội lỗi được kể bằng thứ ngôn ngữ chính
xác, khoái cảm hả hê, tâm đắc. Chỉ với 250 trang
sách mỏng, những cảnh hoang dâm, quần dâm diễn ra
thường xuyên, mọi lúc mọi nơi: Ba anh Đội: Cự, Bối, Đình
thay nhau, nhường nhau làm tình các nữ dân
quân, bần cố nông “rễ, chuỗi”: Đơm, Duyên… bất kể ban
đêm, ban ngày, trước, sau lúc hội họp, lúc đấu
tố; làm tình ngay bụi cây bên đường làng,
bên đống rạ trong sân; làm tình cô Đơm
trước người mẹ tàn tật, làm tình cô Duyên
bên ông bố điếc; Đội Bối quần dâm với nhiều nữ dân
quân trong một đêm ở lán gác…
Trong Ba người khác,
Đội thấy gái và gái thấy Đội, bất cứ hoàn
cảnh nào, cũng như lũ cuồng dâm vồ nhau làm tình,
không hề từ tình cảm mà chỉ từ động dục, đổi chác,
lợi dụng nhau... giữa làng xã tiêu điều, đói
khát, oan khốc, đấu tố tùy tiện. Viết về tình dục và
dâm đãng để tạo ra sự rùng rợn về một loài kinh
tởm hơn cầm thú và man di mọi rợ chưa từng có trong
xã hội loài người, thì Ba người khác quả là
“ép phê”.
Nhưng người đọc buộc
phải ngờ anh Đội Bối “tố điêu”, vì chắc chắn cái
hiện thực hoang dâm hủ bại ngập ngụa trên, chỉ có trong
trí tưởng tượng ác độc, vô luân của bọn tố điêu,
chứ không thể có ở làng quê Việt Nam bất cứ
thời kỳ nào. Cái giỏi của nhà văn lớn Tô Hoài
chính là ở chỗ này: Vừa làm cho Ba người khác
trở thành tác phẩm ăn khách mà vẫn tiếp tục
lột trần Đội Bối, cà cuống chết đến đít còn cay, đã
thất bại thảm hại, rơi xuống dưới đáy xã hội mà vẫn
nguyên vẹn bản chất dối trá, lưu manh của anh Đội Bối ngày
xưa.
Trong Ba người khác,
đội phó Bối, kiêm chánh án, không chỉ
dùng “nghệ thuật” hoang dâm (vì ngày nay, hoang
dâm đang được nhìn nhận là “đổi mới tư duy”) để bình
thường hóa tội ác, mà còn trút hết mọi
tội ác diễn ra ở xã thời cải cách, lên đầu đội
trưởng Cự, một kẻ theo địch, đã chết, chẳng bao giờ có cơ
hội viết tự truyện để bào chữa cho mình, đổ tội sang người
khác, và nói thêm: Hàng nghìn
vụ xử án, kết án oan “kẻ thù giai cấp” hồi đó
đều không thể thiếu chữ ký của chánh án Bối.
Dưới thần bút của Tô Hoài, có thể nói,
Đội Bối là chân dung nhân vật tội đồ hoàn hảo
nhất từ trước tới nay trong văn chương Việt Nam.
Song đỉnh điểm cao
thâm của nhà văn lớn Tô Hoài trong Ba người
khác lại ở chỗ, vừa rút hết vốn sống của người trong cuộc,
viết ra loại sự thật đáp ứng được khẩu vị và sự hiếu kỳ,
khiến người đọc, nhất là các nhà phê bình
đang muốn nổi của nền văn học Việt Nam, phải trầm trồ tâm phục khẩu
phục, ông đồng thời vẫn tách bạch được sự thanh cao, thánh
thiện bằng giọng văn dưng dửng, biếm biếm, như mình hoàn
toàn là người ngoài cuộc, nên cùng lúc,
ông cũng được ca ngợi là khách quan, dũng cảm khi dám
mổ xẻ, phanh phui đến tận cùng một đề tài nhạy cảm.
Đương nhiên,
đọc văn học, phải cố gắng tách tác phẩm ra khỏi những hiểu
biết về tác giả, nhiều bậc thầy đã dạy thế, nhưng khi chính
tác giả tự ghép mình vào tác phẩm
thì tách làm sao được...
Trong Ba người khác,
cuối cùng, ba kẻ gây tội ác, cũng phải chịu luật
nhân quả, như nhiều chục năm qua, trong dân gian vẫn lan truyền
về thân phận hẩm hiu của những kẻ gieo ác trong cải cách
ruộng đất: Đội Cự vào Nam, chiêu hồi, bị đặc công ta
giết; Đội Đình và vợ con đi ăn mày rồi tha hương vào
vùng kinh tế mới Lâm Đồng, tiếp tục đeo đuổi giấc mơ trại
Đại Đồng hão huyền; Đội Bối bị vợ con bỏ, bật ra lề hè bơm
xe... Bi kịch cải cách ruộng đất ở xã nọ kết thúc có
hậu, kèm theo lời giải đáp “đúng hướng” về nguyên
nhân đẻ ra sự xáo trộn làng quê kinh hoàng:
Đội Cự có vẻ như do địch cài vào, Đội Bối là
đảng viên giả mạo, còn Đội Đình, đảng viên thật
sự, chỉ có mỗi tội lãng mạn không tưởng.
Nhiều người bảo
Ba người khác đã mở ra diện mạo mới cho văn chương Việt
Nam.
Nói như thế là chưa thấy hết tầm cỡ của Tô Hoài,
chưa hiểu thế nào là thuật kim thiền thoát xác.
Đọc xong Ba người khác, không nhìn ra người thứ tư,
một anh Đội Bối B, sau cải cách, sau sửa sai, vẫn tiếp tục được
thăng quan tiến chức, hưởng ngập mặt những bổng lộc, quyền lợi, nhờ cải
cách ruộng đất, và đến tận cuối đời, chứng khôn ranh
vẫn nguyên vẹn, vẫn thu hút được quanh mình đủ loại
“chuỗi, rễ” đời mới, là chưa hiểu hết cái sâu xa, cái
vô cùng của tác phẩm.
Ce qu'il faut craindre, ce n'est pas
tant la vue de l'immoralité des grands que celle de l'immoralité
menant à la grandeur.
ALEXIS DE TOCQUEVILLE, De la démocratie
en Amérique [Về dân chủ ở Mỹ].
Henning Mankell trích dẫn, trong
Người Cười, L'homme qui souriait, tiểu thuyết
trinh thám, nguyên tác tiếng Thụy Điển
Điều đáng sợ, không phải
viễn ảnh về sự vô đạo đức của những đại gia, thí dụ như
Tô Hoài, nhưng mà là của sự vô đạo đức,
chính nó, đưa đến đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử.
*
Henning Mankell, sinh năm 1948, tại
Harjedalen, sống giữa Mozambique và Thụy Điển, nhà văn
đa dạng, một trong những bậc thầy không chối cãi của tiểu
thuyết trinh thám Thụy Điển. Loạt tiểu thuyết- với nhân vật trung tâm,
ông cò cảnh sát Wallander, đã đem đến cho tác
giả giải thưởng lớn về văn chương trinh thám, của Hàn Lâm
Viện Thụy Điển – miêu tả cuộc sống tại một thành phố nhỏ
Scanie, và những cuộc tra hỏi đáng ngại của cảnh sát,
đối diện một xã hội trượt ra khỏi họ. Tại Pháp ông
được Prix Mystère de la Critique, Calibre 38, và le Trophée
813.
Như nhân vật thần kỳ, ông
cò Maigret, của Simenon, Wallander cũng đối diện với bài
toán thiện/ác, nhưng Wallander bị cái ác
hỏi thăm sức khỏe hơi bị nhiều, so với Maigret. Tại làm sao mà
có những kẻ, tay này thì làm việc thiện,
lo cho cái mỹ, cái lý tưởng, cái chân
lý, tay kia, làm thịt người một cách thật tàn
nhẫn, và thật vô phúc cho kẻ nào, thí
dụ như Wallander, cản đường họ.
Ở cuối Người Cười, một nhân
vật hỏi Wallander:
Đâu là giới hạn của sự độc ác.
-Làm sao tôi biết được? (1)
Người kia xì một cái, bĩu môi: Mi là
cảnh sát mà mi không biết, thì ai biết?
*
Đâu là giới hạn của cái
ác ở trong Ba Người Khác?
Mi là nhà văn, tức một thứ cảnh sát của lương
tâm, mi trực tiếp tham dự cái ác, làm sao mi
không biết?
Note: GCC mới đọc 1 bài trên
net về Nguyễn Bình Phương.
Khen thủng trời luôn, mà, như Gấu được biết, cũng
1 tay chuyên phục vụ Cái Ác, 1 tay đánh người,
giết người, 1 tay viết văn, hay, "nhà văn của Quân Đội Nhân
Dân"!
Gấu chưa đọc đấng này thành ra không có
ý kiến!
Để từ từ tính!
Note: Tay này,
vua viết trinh thám, biết mình sắp đi,
ung thư phổi, bèn viết cuốn này. Gấu mua, làm
mồi, viết cuốn của Gấu!
Chắc là sẽ viết về những ngày ở
nông trường cải tạo Đỗ Hòa, nơi Gấu tính
chọn, để chết, đếch thèm trở về Đời!
Nơi chốn hạnh phúc, là nơi chốn
để chết!
Khi ông anh của Gấu viết MCNK, ông
biết, mình là con voi già, trở
về cái nghĩa địa voi, tức là Đà
Lạt của ông, để chết.
Nơi chốn hạnh phúc nhất?
Thì đọc thư viết cho đảo xa thì
biết.
Hay đọc mấy bài thơ của ông gửi
cho đảo xa.
Em và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ
nóng không hợp thật. Mấy ngày em
ở Sài Gòn, tuy nói với em là vẫn
làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả.
Làm mấy bài thơ thì có. Lúc
nào anh cũng ngóng, biết em không đến,
nhất là hai bữa cuối trước ngày em đi. Em đi
lần này không có anh đưa. Giả thử anh có
đưa chỉ làm em nặng thêm, máy bay nặng
thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa
ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình
ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn
nói bậy không. Lúc nào anh
cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy
cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui
anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh
không làm như với những người khác, hay
bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người.
Bữa em hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh
thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh
biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không bao giờ
anh có được cái mà tất cả mọi người đều có.
Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà.
Nó chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ kính,
nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng
có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có biết anh
đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó
là anh rồi. Những đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên
khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
http://tanvien.net/TG_TP/Beckett_vs_VKK.html
Về cái chuyện sống, Sam
đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng
tôi có hẹn nhậu, liền sau khi Gill và tôi
lấy nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai, ba, lần thứ ba.
Một vợ là đủ rồi. Ông gật gù, lèm bèm.
Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn
ông cần có. Yeats một, và chỉ một mà thôi,
như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. – Tôi cũng sẽ chỉ
có thế.
Sam có những người hùng của ông… và
tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong số đó.
Những hồi ức quan trọng nhất của tôi về Beckett thì
không phải về 1 nhà văn thần sầu, số dách, tuyệt cú
mèo nhưng mà là một người bạn thần sầu. Tôi biết
đến ông, là qua những gì ông viết, nhưng liền
đó, với tôi, ông trở thành một trong số ít
ỏi, mà chúng ta cẩn thận chọn, ngược hẳn ý bà
mẹ, để phục vụ, như là ông via của mình.
Lần gặp chót, cách đây chừng vài tháng,
thì ông mỏng và trong suốt như...1
anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
Ông sống trong 1 phòng của 1 cái nhà
dành cho đám người già ở đường Remy-Dumonce, chỉ
cách nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh"
của ông chừng vài nhà. Tôi sững sờ khi nhận
ra, ông sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới
được căn phòng của ông, người ta phải đi qua 1 cái
gì được gọi như là "phòng giải trí" của người
già. Chừng một, hoặc hai tá ông già bà
lão Tẩy ngồi một dọc, giống như đám chim sẻ trên sợi
dây điện, coi 1 màn ca hát nhảy múa thật là
cà chớn, của một người đàn ông trên màn
hình của 1 cái TV đen trắng, ở xứ Bắc Kít, khi chưa
giải phóng được Miền Nam để…nhận hàng,
dù là bơ thừa phó mát cặn Yankee mũi lõ
bỏ lại. Tôi nhảy bổ vào giấc mơ chiến thắng Miền Nam của
đám già đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi
phòng của bạn quí của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như
chẳng có ai biết ông. Tôi kiếm văn phòng của
“viện dưỡng lão”, và sau đó, được dẫn qua một cái
sân nhỏ ở đằng sau khu nhà, và tôi nhìn
thấy một căn phòng nhỏ xíu, ở tầng chệt, màn cửa sổ
ấp ló. Beckett ở trong phòng, mặc 1 cái áo
cũ te tua, làm việc với cây viết và mực, tại 1 cái
bàn [loại bàn thường dùng để chơi bài bridge].
Tôi đột nhiên đứng sững, lơ láo nhìn,
nhớ lại cú sốc của Beckett, lần ông khám phá
ra, tôi đếch biết “Dong buồm tới [Sailing to] Byzantium” của Yeats.
Đêm đó, trước khi rời cái bàn, bài
thơ của Yeats chạy từ hồi ức của Mr Beckett qua hồi ức của tôi,
cùng với 1 cái ghi chú nho nhỏ, có tính
khoa bảng, của sự cẩn trọng, của Sam: "Tôi thực sự không hoàn
toàn gật đầu hài lòng, ở cái phần “linh
hồn vỗ tay” của bài thơ!"
Căn phòng sau cùng của Samuel Beckett thì
xác xơ, nhỏ xíu, và buồn bã: một cái
giường một cái bàn bridge, và một cái ghế bàn
ăn, một cái TV “cho những sự kiện thể thao”, Giống 1 phòng
nhà tù, thấy sao thấm thía, và cái
phản ứng liền tù tì của tôi, là ôm ông
lên, rồi bỏ chạy ra khỏi căn phòng, ra khỏi lúc này,
trở về 1 khúc nào đó của thời đã qua. Phải
cỡ chừng một năm trời thì tôi mới quen nổi với cảm giác
thôi đành chịu như thế, đành để ông ở đó,
đành chấp nhận đó là sự chọn lựa của ông.
Hai chúng tôi nói chuyện vài tiếng
đồng hồ. Ông hỏi tôi về mấy đứa nhỏ, về công việc của
tôi, về những cuốc chạy marathon của Gill, bà xã
tôi, tôi có cần tiền không, hay là tôi
OK?
Đến lượt tôi. Tôi hỏi về tình trạng sức khỏe
của ông. Ông rành căn bịnh đặc biệt của mình,
giải thích những cơ chế của nó như 1 khoa học gia. Não
của ông, máu luân lưu không đủ, không đúng
điệu. Nhưng khi ông chi ly về cái cảm giác, sensation,
[“xăng xa xườn”, Gấu Cà Chớn phiên âm theo kiểu “phiện
thú lắm”, “yên sĩ phi lý thuần”, inspiration] - về
vấn đề căn bịnh nó hành ông như thế trong cơ thể đặc
biệt của mình, thì lúc đó, ông là
quả là cả 1 nhà văn, all writer: cô đọng, sáng
sủa một cách rất là nghệ thuật, succinct and artfully clear:
“Tớ ở trong Cát Lầy của
TTT”,
"I am standing in quicksand."
Khi tôi rời Sam lần chót,
tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett
còn sống nữa. Tôi loay hoay sắp xếp đời mình, để
có thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần,
bắt đầu vào tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát
lầy, tính sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì đó về ông, rồi
cát lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông
luôn viết điều gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và
nếu như thế, họ sẽ bỏ qua một sự thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất:
Với cuộc đời của mình, Mr. Beckett [thì cũng giống như
Mr. Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái thế kỷ khốn kiếp, tồi
bại, là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà
văn, thì sau cùng vẫn khả hữu điều này: Sống, và
làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau chút lớn, và
một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể:
Không phải một vì thánh - ở vào những lúc
chẳng ra cái chó gì – not even totally tasteful –
nhưng vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ
sĩ: giọng trong sáng, đảm trách, thẳng 1 dòng với cái
đẹp nhất.
Và với nghĩa cả, good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối
tha, ghê tởm, và phẩm chất của Cái Chết, thì
là một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao
mà hài lòng, thỏa mãn.
Tham
ong ba Gau manh khoe. Nhin hinh moi nhat cua ong tren tanvien thay gia`
di nhieu qua.
Thảo Trường
Bàn của Gấu,
hè đường Lê Thánh Tôn,
nơi người bộ hành qua đường.
Cái Honda thường dựng trên hè đường,
đầu chiếc xe tải...
DREAMS
My physical body may be in Lucerne, in Colorado or in Cairo,
but each morning when I awake, when I once again take on the habit
of being Borges, I invariably emerge from a dream which takes place
in Buenos Aires. Whether the dream-images involve sierras, or swamps
with stilt huts, spiral staircases sunk in cellars, sand dunes whose
grains of sand I must perforce count, all of them are a particular cross
street in Buenos Aires: in the Palermo or Sur quarter. When I am sleepless
I am always at the center of a vague luminous haze, gray or blue in hue.
Asleep, in my dreams, I see or converse with the dead. None of these things
surprises me in the least. I never dream in the present but only of a past-tense
Buenos Aires, and of the galleries and sky-lights of the National Library
on Mexico Street. Does all this mean that beyond the limits of my will and
consciousness I am, irreparably, incomprehensibly, a porteiio, a native-born
descendant of the people of the port of Buenos Aires?
-A.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
Những giấc mơ của tớ
Thân thể của tớ có thể ở Lucerne, ở Colorado, hay ở Cairo,
nhưng mỗi buổi sáng, thức 1 phát là lại 1 lần
tớ thấy tớ ở Xề Gòn, có những thói quen là
1 tên GCC ở Xề Gòn, nghĩa là, tớ luôn luôn
nhỏm dậy từ giấc mơ xẩy ra ở Xề Gòn, quái thế!
Cho dù những hình ảnh trong giấc mơ, nào
là những núi đá lởm chởm, những đầm lầy với những
căn lều xiêu vẹo, những cầu thang xoắn lún xuống những
tầng hầm, những đụn cát mà những hạt cát tớ phải
đếm được từng hạt một.... tất cả những thứ hầm bà làng như
thế, là phải xẩy ra tại 1 đường phố Xề Gòn, tại 1 góc
phố đặc biệt nào đó (chắc là ngã tư Lê
Thánh Tôn & Tự Do, nơi có Quán Chùa
?]
Khi tớ đếch làm sao ngủ được, tớ luôn luôn
thấy mình ở ngay cái rốn của 1 thềm sương mù,
mơ mơ hồ hồ, sang sáng, một mầu xám, hay màu xanh
huế, hay huệ, cái gì gì đó.
Mơ mơ màng màng, nửa thức nửa ngủ, hay sắp
rớt vào giấc ngủ, thì tớ lại thấy mình, ở trong
những giấc mơ, đang lèm bèm với những người đã
chết, đúng như tớ đã từng làm những vần thơ, về những
cuộc trò chuyện như vầy, cái gì gì, trong
vương quốc của những người đã chết, tớ vẫn thường tha thẩn đi về.
Những chuyện như thế chưa từng 1 lần làm tớ kinh ngạc,
hay bỡ ngỡ.
Tớ chưa từng mơ trong thì hiện tại, mà luôn
trong thì quá khứ, 1 quá khứ Xề Gòn, nào
khu Ngã Ba Chú Ía, ba muơi tết chúc mừng
năm mới với mấy em điếm, cùng ông bạn Phạm Năng Cẩn…
Liệu tất cả những thứ lẩm cẩm như thế, là quá
quá quà qua, cái giới hạn của lòng mong
ước, hay cái ý thức “tớ là tớ”, bây giờ,
1 thằng tớ vô phương sửa chữa, không làm sao hiểu
được, hay thông cảm được, một tên Bắc Kít, nhà
quê, của 1 cái làng Thanh Trì, ở ven con đê
sông Hồng, mà tớ có lần thề bồi, không bao giờ
trở lại?
Hát ở đâu đâu...
Ngoảnh nhìn lại quãng
nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã
sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng
cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não
nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng
cuối
Hát ở đâu đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày
tháng đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn ma
Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất
thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của những người đã
chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu giấc
mộng cuối (2)
(1)... that lonely halfway house which
we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền
SLEEP
The
night assigns us its magic
task. To unravel the universe,
the infinite ramifications
of effects and causes, all lost
in that bottomless vertigo, time.
Tonight the night wants you to forget
your name, your elders and your blood,
every human word and every tear,
what you would have learned from staying awake,
the illusory point of the geometricians,
the line, the plane, the cube, the pyramid,
the cylinder, the sphere, the sea, the waves,
your cheek on the pillow, the coolness
of the fresh sheet, gardens,
empires, the Caesars and Shakespeare
and the hardest thing of all, what you love.
Oddly enough, a pill can
erase the cosmos and erect chaos.
-S.K.
Cuốn sách quí giá
nhất của tôi, là tờ thông hành.
Salman Rushdie
Sau này, khi thi đậu quốc tịch,
và được phát thẻ công dân Canada,
Gấu gọi điện thoại về Sài Gòn báo tin cho Bà
Trẻ, bà mừng quá, nói: Bây giờ, cháu
lại là người rồi!.
Còn lại một việc nữa: văn chương miền Nam đâu
có dừng lại ở năm 1975. Đây mới là điều huyền
bí nhất. Tất nhiên là không thể như vậy
được. Giờ, ta cần xác định, đâu là những cột trụ
quan trọng nhất để nói đến một sự bảo toàn cho di sản văn
chương miền Nam. Với tôi, hiển nhiên không thể là
Võ Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân
vật từng hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước 1975.
Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của họ lại nằm ở
đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó hiểu và khó
nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người
ra đi ngay từ đầu, ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người
đã, ngược hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu
hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra
đi vào khoảng giữa. Đó chính là Nguyễn
Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi
đến cái ngày, ngoài việc được viết về một
số người khác, được nói đến đối thủ lâu năm của
tôi, Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ.
Don’t set them up to jail
To become an asylum seeker in Europe is to have overcome
adversity. First, to have survived the dangers in your homeland.
Then to have survived the journey and reached your destination. Only
last week, Unicef warned that women and children were being raped, beaten
and starved in Libyan detention centres. Last year, more than 5,000 migrants
died attempting to cross the Mediterranean, and Balkan countries shut
their borders, blocking many who had hoped to reach northern Europe.
To have your claim recognized, and to become a refugee, is harder still.
It means negotiating a complicated system that often gets it wrong.
So refugee status is a mark not only of suffering but of the ability to
withstand it. The attention already given to perilous journeys, and the
populist backlash to the surging numbers of asylum seekers in Europe over
recent years - though arrivals fell in 2016 - now needs to encompass what
happens at their destination. Making a home in a new land is challenging
even for those who move by choice and with plentiful resources. Now add
in trauma and sometimes physical issues too; a language barrier; skills
or qualifications that cannot be transferred. But many of the problems
they face are entirely unnecessary.
How the UK treats those gaining admittance is just as
critical as who we do and don't let in. We have not done our part
if we allow them through the door, but not to make themselves at
home. Of Europe's big five nations, only Italy - handling much larger
numbers - treats asylum seekers and refugees worse than Britain, which
is, for instance, the only EU nation to allow indefinite immigration
detention. Asylum seekers are almost never granted the right to work.
Bizarrely, those recognized as refugees are routinely forced into destitution
because they lose existing entitlements and accommodation before their
new benefits and housing have been processed. The "move on" period is
28 days; the British Red Cross has found it takes an average of 42 days
to first payment of benefits, and in some cases far longer.
The UK needs a proper dispersal policy, so asylum seekers
are not just dumped in areas with cheap housing. Allowing them
to work - as many European countries do - would help them to integrate
and to support themselves. Much could be learned from the UK's own
Syrian Vulnerable Persons Resettlement Programme, bringing in those
already recognized as refugees. Though it has its shortcomings, it
is better funded and offers integrated support for 12 months. That has
led to a two- tier system, and the challenge should be to raise up the
way that others are treated, not engage in a race to the bottom. Treating
people decently is the right thing to do. It ensures that they are able
to contribute to their new society as soon as possible. That is better
for everyone. Those seeking asylum in the UK have already succeeded against
the odds. Why do we then set them up for failure?
Note: GCC đến trại tị nạn sau dead
line, tức là sau cái ngày được tự động coi là
tị nạn chính trị, và phải trải qua thanh lọc.
Gửi thư cầu cứu 1 vị nữ văn sĩ, 1 trong 5 vị nổi tiếng
số 1 trước 1975, tại Miền Nam, vị này được 1 đấng Mẽo bệ về
Mẽo trước 30 Tháng Tư chừng ít ngày, khi thấy
tên bà trên măng xét 1 tờ báo của
lực lượng Khiến Chán ở trong trại.
Bà viết thư trả lời, mi đi trễ quá, đi
làm khỉ gì nữa, hết mùa vượt biển rồi - nội
dung thư đúng là như thế - GCC đọc thư, thú thực,
chỉ muốn viết thư cho VC, xin được hồi chánh!
May quá. có được địa chỉ của Nguyễn Đông
Ngạc, qua 1 vị ở trong Trại.
Viết 1 phát là bạn trả lời liền kèm
tý tiền còm.
Tuyệt vời nhất, là bạn thông báo
cho cả 1 lũ ở bên Mẽo, những Viên Linh, Định Nguyên,
chúng phôn cho vị Chủ tịch Pen Mít ở hải ngoại.
Vị này, cũng nhận được lời cầu cứu qua vị nữ
văn sĩ, nhưng nếu không có lũ bạn bè như Viên
Linh, NDN, DN phôn phiếc, chắc là cũng vờ, vì,
khi vị nữ văn sĩ thông báo với anh, bà vờ luôn
địa chỉ ở Trại của Gấu, chán thế.
Anh viết, bà nhờ tôi can thiệp cho 1 kẻ
mà chính bà vờ không cho biết địa chỉ
của ông ta, làm sao tôi can thiệp?
Vị này, viết thư xác nhận GCC là
member của PEN/VN (Ngụy)
Kể như xong được tầng đầu địa ngục!
Giả như không có được địa chỉ của Nguyễn Đông
Ngạc, là kể như xong đời GCC!
Tờ Nghệ thuật số 3, từ 16/10 đến 23/10 năm 1965, mục phê
bình sách.
Hai cuốn được bình luận là Đêm dài
muôn thuở của Hoàng Trúc Ly và Gió
mùa của Ngô Thế Vinh:
"cái khay mỏng mảnh nhỏ chặt chồng chất những chứa
đựng cồng kềnh"
"những vấn đề quá lớn đặt ra một cách khái
quát và giản lược"
không hề biết tới "kỹ thuật xây dựng một truyện
dài" (thế mà vẫn dám viết một truyện dài)
"thiếu thuần thục", "sống và sượng"
"Đây là một sáng tác nhiều nhiệt
tình. Nhưng đây cũng là một tiểu thuyết chưa thành
hình".
Nhiệt tình trong sinh sản thì tạo ra những
gì chưa thành hình. Người viết bài này
quá giỏi, tôi [NL] nghĩ đó là Mai Thảo
(ở Nghệ thuật, Mai Thảo là chủ nhiệm
kiêm chủ bút, Thanh Nam là tổng thư ký). Giỏi
ghê gớm, bởi vì nói từ cách đây hơn
nửa thế kỷ mà giờ vẫn đúng.
Hiện nay, các nhân vật còn lại của
"văn chương miền Nam" đang tỏa một hào quang nhất định, bất
kỳ ai. Nhưng trong đấy vô số là hào quang giả
vờ. Đâu có phải cứ là nhân vật từng viết
lách thời Việt Nam Cộng hòa thì nhất thiết có
giá trị: miền Bắc thời ấy có nhiều giá trị giả
thế nào thì miền Nam cũng nhiều tương đương.
Một câu hỏi rất "nhạy cảm": ở miền Bắc của thập niên
50, 60, 70, kể cả 80, nhân vật văn chương miền Bắc nào
rất kém tài nhưng được hưởng lớn nhất từ sự nhập nhằng,
thậm chí bất lực của những nhìn nhận giá trị?
Nhân vật nào được hưởng nhiều nhất từ một xã
hội gần như "xăng phú" đánh giá văn chương?
Hiển nhiên, đó cũng là một nhân
vật rất "nhiệt tình". Và nhân vật ấy là
Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc là giá trị giả
lớn nhất của văn chương miền Bắc một thời đại.
Blog NL
[To: NL. Ở "Nghệ Thuật", có loạt bài "Thế nào
là văn chương dấn thân?", nếu có thể, scan, mail,
thì rất ư là cám ơn. NQT]
Note: GCC quen NTV từ khi còn là sinh viên
Y khoa, và đã có viết về anh, khi mới ra hải
ngoại.
Những nhận xét về văn chương của NTV, thì
có NL & MT nói rồi.
Cuốn Cửu Long của anh, đã từng dự thi giải văn chương
của băng Y Khoa hải ngoại, và, thay vì Cửu Long, thì
băng này chọn 1 cuốn viết về sử, của 1 tay sử gia, Trần Gia Phụng,
theo như GCC được biết.
NTV làm GCC nhớ tới nhà văn Mẽo Cynthia Ozick,
và nhận xét của bà, về những con người, ngay
từ khi "chưa ra đời", là đã sửa soạn cho mình 1 vai
để đóng rồi!
Rõ rệt là cuộc đời của Romain Gary, chưa ra
đời, là cả bà mẹ lẫn ông con đều sửa soạn cho
1 lần thứ nhì nhập thế của Chúa Jesus!
Ở NTV, theo GCC, là cũng 1 trường hợp tương tự!
Cái vai mà anh đóng trong cuộc chiến
Mít, có gì tương tự với 1 Chúa Ky Tô,
ta ra đời đây, là để chịu tội thay cho tất cả xứ Mít!
Hiển nhiên, đó cũng là một nhân
vật rất "nhiệt tình". Và nhân vật ấy là
Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc là giá trị giả
lớn nhất của văn chương miền Bắc một thời đại.
NL
Chắc NN, cũng thế!
Cái vai của NN, GCC đã ban cho ông ta
rồi, nhưng ông ta không làm nổi!
NQT
Tên già NN, phải làm 1 việc, tương tự như
trên:
Cởi trần cởi truồng, tay đầy máu Ngụy ngày nào,
quỳ trước mả Ngụy, cầu xin tha thứ...
Quỳ kế bên, nếu được 1 tên Nguỵ, như 1 ông
Chánh Tổng An Nam ở Paris, thì càng tốt!
NQT
Đỉnh Cồn,
Vòng Đai Xanh, Ngô Thế Vinh, và tôi
Tôi quen biết Ngô Thế Vinh rất sớm, từ cái
thuở anh còn là sinh viên ở cư xá Minh
Mạng. Anh học y khoa, chữa bệnh cho từng con người. Anh làm báo
Tình Thương, toan tính chữa bệnh cho một thời đại. Anh
viết văn, mơ tưởng chuyện chữa bệnh cho một dân tộc. Nhân
làm báo Tình Thương, với tư cách một phóng
viên, anh khám phá ra một cuộc chiến trong một cuộc
chiến: Cuộc chiến của những đồng bào Thượng. Độc giả đọc Vòng
Đai Xanh, có thể coi đây là một ân sủng, đối
với tác giả. Ông đã tìm ra cái cõi
của riêng ông. Trong cõi đó, không chỉ
có văn chương mà còn có những đứa con của núi
rừng.
Đó là lần gặp gỡ đầu tiên, và
cuối cùng của hai đứa tại Việt Nam. Chúng tôi xa
thật xa mà cũng gần thật gần. Tôi xa anh thì đúng
hơn. Anh vẫn thường xuyên theo dõi những bài viết
của tôi. Tôi còn nhớ có một lần, khi tôi
phụ trách trang Văn học Nghệ Thuật cho báo Tiền Tuyến,
trong một bài viết, tôi sử dụng giọng văn khề khà,
và tôi nhận được ngay một lời trách cứ của anh, qua
một người bạn, đại khái như vầy: Bạn chưa già đâu,
đừng giở cái giọng văn "mệt mỏi" đó ra. Lẽ dĩ nhiên,
đây là cách diễn đạt của riêng tôi, về
lời ân cần nhắc nhở của anh. Ai đã từng quen biết Ngô
Thế Vinh, đều biết rõ con người nhỏ nhẹ từng lời nói, trân
trọng từng cử chỉ đó. Tôi chưa hề nói cho anh biết
tôi đã cảm động và biết ơn anh như thế nào,
khi đó, và sau này, khi tôi bị cuộc sống cá
nhân hành hạ đến trở thành sống dở chết dở, có
những lúc muốn buông xuôi, nhưng trong tiềm thức,
vẫn oái oăm một câu trách cứ của anh ngày nào,
và tất nhiên của những người thân, của một hồng nhan
tri kỷ (cũng có thể)... đã khiến tôi đành phải
bò dậy.
Tôi xa anh, xa anh thật. Hồi đó tôi
làm UPI, chuyên viên chuyển vô tuyến viễn
ảnh. Máy đặt ngay tại Đài Liên Lạc Vô Tuyến
Điện Thoại Quốc Tế, tầng lầu trên cùng, tòa nhà
số 7 Phan Đình Phùng Sài-gòn. Ở trên
đỉnh cồn đó, đọc đủ thứ văn chương "viễn mơ", chứng kiến - qua
hình ảnh - cuộc chiến từ khắp nơi, từ khắp các vùng
chiến thuật, quen biết, chuyện trò với đủ thứ tinh anh hào
nhoáng của giới truyền thông Tây-phương, nhìn
cuộc chiến từ phía hậu trường của nó... tôi vẫn tự
cho mình là kẻ thấy hết, hiểu hết: Tôi đã đọc
Vòng Đai Xanh, như một kẻ chân không chấm đất... như
thế đó, khi cuốn truyện được xuất bản lần thứ nhất, tại Sài-gòn.
Nói hết ra: Khi đó tôi không
sống, anh sống.
Qua đây, anh cũng lại là người đầu tiên
chú ý đến những bài viết của tôi. Tôi
biết là anh rất mừng khi thấy tôi viết lại. Và
anh gửi cho tôi, những cuốn sách của anh, những cuốn tôi
chưa hề đọc tuy đã từng được anh gửi tặng. Hay đúng
ra, đã từng đọc, khi không sống. Anh cũng gửi tập truyện
mới nhất của anh, Mặt Trận ở Sài-gòn.
Như trong cuộc trả lời phỏng vấn của báo Bách
Khoa, nay được dùng thay cho lời tựa của cuốn Mặt Trận ở Sài-gòn,
Ngô Thế Vinh cho biết, ông có ý định viết
một cuốn sách sưu khảo về cao nguyên, thay vì cuốn
tiểu thuyết Vòng Đai Xanh. Lý do, theo ông là
để tránh kiểm duyệt. Nhưng sau đó, báo Tình
Thương bị bắt buộc phải đóng cửa, ông có thì
giờ tưởng tượng hóa tư liệu, cho nó chết đi để rồi sống
lại, trong tiểu thuyết.
Thật kỳ cục, đọc Vòng Đai Xanh, tôi vẫn
có cảm giác đây là một cuốn biên
khảo, một thứ khảo cổ học (1). Ở đây là khảo cổ học về
nguồn gốc một cuộc chiến (trong một cuộc chiến). Hoặc có thể coi
đây là chương mở đầu của một trường thiên tiểu thuyết
về cuộc chiến Việt Nam.
Là những kẻ sống sót, tuy do những lý
do hoàn toàn khác biệt, một kẻ chui rúc
trên đỉnh cồn, đọc, ngốn bất cứ thứ gì vướng vào
mắt, như loài trâu bò, để mong rằng sau này
nhai lại, nếu sống sót, hoặc mang đi sang thế giới bên kia,
như những kỷ niệm tức tưởi về một đời "lầm lỡ đầu thai", "hết thuốc chữa";
còn một kẻ, đã từng mường tượng ra thế giới (Miền Nam)
sẽ phân ba: Những đứa con của núi rừng, những người CS miền
Bắc, những người quốc gia ở miền Nam, ngay từ khi còn ở trong
"lều cỏ" là khu cư xá sinh viên Minh Mạng. Đã
từng là y sĩ trưởng của Liên Đoàn 81 Biệt Cách
Dù, "chẳng bao giờ sai hẹn, như chu kỳ hàng năm, cứ vào
đầu mùa mưa, chúng tôi cùng những đơn vị bạn
từ vùng đồng bằng châu thổ, ùn ùn kéo
lên Cao nguyên (Tây Thục, người viết thêm vô),
để tao ngộ với những đại đơn vị địch quân - để tranh nhau một vài
ngọn đồi trơ trụi hay giành giựt một khúc lộ trống... Rồi
Mùa Mưa cũng phải qua đi, không hẹn mà định, chiến
cuộc điên cuồng lại tạm ngưng nghỉ khi thời tiết bắt đầu mùa
khô ráo... chúng tôi trở về đồng bằng -với những
chiếc xe trống trải hơn, cùng những người lính mỏi mệt xác
xơ hơn nhưng may mắn còn được sống sót." (Mặt Trận ở Sài-gòn).
Hai cái sống sót thật khác xa nhau. Nhưng cuộc gặp
gỡ qua điện thoại giữa hai đứa chúng tôi gần như bắt thời
gian quay ngược lại, cùng với lần gặp gỡ tại cư xá Minh Mạng.
Anh có giấc mộng năm 2000. Còn tôi, hầu như chẳng có
gì. Nếu có chăng, vẫn là lời nhắn nhủ của anh ngày
nào: Bạn chưa già đâu...
Hy vọng được như vậy.
(1) Từ "khảo cổ học" (archeology) ở đây, được sử dụng
theo nghĩa của Michel Foucault, không họ hàng gì
với địa chất học (geology), hoặc phả hệ học (genealogy), và
chỉ là phân tích bản văn/nói trong dạng
thức thư khố của nó (it's the analysis of discourse in its
modality of archive). M. Foucault cho biết, ông luôn bị
"săn đuổi" bởi một cơn ác mộng từ hồi còn nhỏ: Dưới mắt
ông là một văn bản mà ông không làm
sao đọc được, hoặc chỉ một phần rất nhỏ của bản văn có thể được
"giải mã"; "Tôi làm bộ như đang đọc nó, nhưng
tôi biết là tôi đang bịa đặt; rồi bản văn bỗng nhiên
mờ hẳn đi. Tôi không còn đọc được gì nữa, ngay
cả bịa đặt cũng không, cổ họng tôi thắt nghẹn, và tôi
tỉnh dậy..." (M. Foucault, The Discourse of History, Foucault Live, nhà
xb Columbia University, 1989). Chúng ta (những độc giả của Ngô
Thế Vinh) cứ "giả dụ" rằng, ông cũng bị một bản cổ văn (cuộc chiến
trong một cuộc chiến) ám ảnh, và chỉ một phần rất nhỏ của
nó được giải mã (Vòng Đai Xanh, Mặt Trận ở Sài-gòn...),
và ông cũng làm bộ đọc nó, mà sự thực
là đang bịa đặt...
NQT
Có những con người, vừa [hoặc, chưa] sinh
ra đời, là đã tính
bịp thiên hạ rồi, thế mới ghê!
Gấu quen một ông, không hẳn là đẻ ra
đã tính bịp thiên hạ, nhưng ngay từ khi học trung
học, đã rắp tâm làm điều này rồi, bịp thiên
hạ, và nếu cần, thí mạng cùi, nghĩa là,
hy sinh luôn cái thân mình, cha mẹ ban cho
mình để… bịp.
Trường hợp Romain Gary, mà chẳng vậy sao, theo một
nhà phê bình:
Và điều mà tôi toan tính làm,
là, sẽ thuyết phục bạn, về một sự kiện, bề ngoài xem
ra có vẻ quái dị khó tin [incredible], ông
Romain Gary này cứ nhẩn nha nghĩ về mình, và tạo
vóc dáng cho mình, y như là đây là
Lần Tới Thứ Nhì [as if it were the Second Coming]: Romain Gary
là một "self-anointed, self-appointed, self-resurrected" [tự xức
dầu thánh, tự phong chức, tự tái sinh], và, sau
hết, một Chúa Cứu Thế Tự Đóng Đinh Chính Mình,
a self-crucified Messiah.
Note: Lần Tới Thứ Nhất, là vào ngày
25 Tháng Chạp.
*
Cynthia Ozick, trả lời phỏng vấn, "Cuốn sách thay
đổi đời tôi", cho biết, đó là cuốn Washington
Square, của Henry James. Bà viết:
Một bữa, khi tôi 17 tuổi, ông anh mang về nhà
một tuyển tập những câu chuyện bí mật, mystery stories,
trong, lạ lùng sao, có truyện The Beast in the Jungle
của Henry James. Đọc nó, tôi có
cảm tưởng đây là câu chuyện của chính đời
tôi. Một người đàn ông lớn tuổi, đột nhiên khám
phá ra, ông bỏ phí đời mình hàng bao
năm trời.
Đó là lần đầu tiên Henry James làm
quen với tôi. Washington
Square tới với tôi muộn hơn. Câu
chuyện của cô Catherine được kể một cách trực tiếp, cảm động,
và gây sốc. Đề tài xuyên suốt tác phẩm này
là: Sự giả đò. Giả đò làm một người nào
đó, mà sự thực mình không phải như vậy. Ở trong
đó có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, giả
đò làm một người cha thương yêu, lo lắng cho con hết
mực. Có, một anh chàng đào mỏ giả đò làm
người yêu chân thành sống chết với tình, một bà
cô vô trách nhiệm, ngu xuẩn, ba hoa, nông nổi giả
đò làm một kẻ tâm sự ruột, đáng tin cậy của cô
cháu. Và sau cùng, cô Catherine, nạn nhân
của tất cả, nhập vai mình: thảm kịch bị bỏ rơi, biến cô trở
thành một người đàn bà khác hẳn.
Ozik cho rằng, ý tưởng giả đò đóng
vai của mình, là trung tâm của cả hai vấn đề,
làm sao những nhà văn suy nghĩ và tưởng tượng,
và họ viết về cái gì. Không phải tất cả những
nhà văn đều bị vấn đề giả đò này quyến rũ, nhưng,
tất cả những nhà văn, khi tưởng tượng, phịa ra những nhân
vật của mình, là khởi từ vấn đề giả đò, nhập vai.
Tuy nhiên, nguy hiểm khủng khiếp của vấn đề giả đò
này là:
Những nhà văn giả đò ở trong đời thực, sẽ
không thể nào là những nhà văn thành
thực của giả tưởng. Cái giả sẽ bò vô tác
phẩm.
[Writers who are impersonators in life cannot be honest
writers in fiction. The falsehood will leach into the work].
Đây là đòn Kim Dung gọi là Gậy
ông đập lưng ông!
*
Gấu đọc Washington Square
khi còn Sài Gòn, và bị nó đánh
cho một cú khủng khiếp, ấy là vì cứ tưởng tượng,
sẽ có một ngày, bắt cóc em BHD ra khỏi cái
gia đình có một ông bố tàn nhẫn, ích
kỷ, đảo ngược cái cảnh tượng thê lương ở trong cuốn tiểu
thuyết:
Khi ông bố không bằng lòng cho cô
con gái kết hôn cùng anh chàng đào
mỏ, cô gái quyết định bỏ nhà ra đi, và
đêm hôm đó, đợi người yêu đến đón,
đợi hoài, đợi hoài, tới tận sáng bạch...
Và Gấu nhớ tới lời ông anh nhà thơ
phán, mi yêu thương nó thì xách
cổ nó ra khỏi cái gia đình đó, như vậy
là may mắn cho cả nó và cho cả mi!
Ôi chao giá mà Gấu làm được
chuyện tuyệt vời đó nhỉ.
Thì đâu thèm làm Gấu nhà
văn làm gì!
Ngược
lại, là trường hợp của Brodsky, của Akhmatova.., bị số phận
lọc ra bắt phải đóng vai của mình!
Với Mít, theo Gấu, là trường hợp nhà
thơ TTT. Ông cũng bị lọc ra đóng vai nhà văn ‘tiết
tháo’, đại diện cho lũ nhà văn Miền Nam sau 1975.
Lạ, là ông nhận ra điều này, có
vẻ như vậy, khi để cho nhân vật của ông thực hiện ước
mơ của ông, sống cuộc đời bình thường, và nếu cần,
'chẳng ra cái chó gì', của mình:
Ôi
ta còn gì đâu. Những chút hạnh phúc
rất độc và rất đẹp. Những chút hạnh phúc dấm dúi
trong hàng ngày. Những chút hạnh phúc buồn
bã và khủng khiếp… Độc và Đẹp
*
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động
dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.
Kiệt trở giọng giận dữ – Mình là cái quái
gì. Anh chỉ mong được mọi người coi thuờng anh…
(Thanh Tâm Tuyền, Một Chủ Nhật Khác)
Mình là cái đéo gì,
đúng không, mấy "thánh nữ", của GCC?
Câu trên, viết để tặng 1 nửa nhân loại,
nhân ngày 8/3!
LOPEZ LECUBE: You said once that you
have always been in love with a woman.
BORGES: Yes, but the women have changed over time.
LOPEZ LECUBE: Have you had so many loves?
BORGES: 1 asked my sister about her first love and she said to me,
"I don't remember much from my life but 1 know that I've been in love since
I was four years old," and as far as I remember I have always been in love,
but the people change.
The love is always the same, and the person is always unique, even
if she is different.
LOPEZ LECUBE: Who is that unique person?
BORGES: There have been so many that I've lost track.
LOPEZ LECUBE: Have you been in love with many women?
BORGES: It would be very strange if I hadn't.
LOPEZ LECUBE: Because I would say that actually one has very few
great loves.
BORGES: All love is great, love doesn't come in different sizes,
whenever one is in love, they're in love with a unique person. Maybe every
person is unique, maybe when one is in love they see a person as they
really are, or how God sees them. If not, why fall in love with them? Maybe
every person is unique, I could go further: maybe every ant is unique,
if not why are there so many of them? Why else would God like ants so
much? There are millions of ants and each one is undoubtedly as individual
as, well, as Shakespeare or Walt Whitman. Every ant is undoubtedly unique.
And every person is unique.
LOPEZ LECUBE: Like women ... ? The species known as woman?
BORGES: I think that they're more sensible than men, I have no doubt
that if women governed countries, there would be no wars, men are irrational,
they've evolved that way, women too.
Borges: The Last Interview
Ông có lần phán,
ông luôn luôn yêu 1 người đàn bà. Borges: Đúng thế nhưng đàn bà
ưa thay đổi
Như vậy ông có nhiều tình yêu? Tôi hỏi bà chị của tôi về mối
tình đầu của bà, và bà cho biết, “bà
không nhớ, nhưng nhớ là, yêu từ khi bảy tuổi”, và
như tôi nhớ được thì tôi luôn luôn yêu,
nhưng con người thay đổi. Tình yêu thì luôn cũng
vậy, vũ như cẩn, và người yêu luôn duy nhất, ngay cả khi
người đó khác đi.
Ai là cái người duy nhất đó? Nhiều quá làm sao lần ra.
Như vậy là ông yêu rất nhiều người đàn
bà? Lạ, là, nếu tôi không yêu
rất nhiều người.
Tôi hỏi như thế, là bởi vì thật khó mà
1 người có nhiều mối tình lớn trong đời. Mọi cuộc tình thì đều lớn, đều vĩ
đại, đều số 1: tình yêu không đến với những kiểu cọ
lớn nhỏ khác nhau. Một khi yêu, là một khi duy nhất,
một người duy nhất. Có thể là như thế này: Mọi con
người thì đều là duy nhất, khi 1 người đang yêu,
họ nhìn con người thực sự như là con người, như Chúa
nhìn họ như thế đó. Nếu không, thì yêu
làm khỉ gì cho mệt? Mọi người thì đều mọi duy nhất,
và tôi có thể phăng thêm: có thể mọi con
kiến thì đều duy nhất, nếu không thế, thì tại làm
sao Chúa yêu chúng quá như thế? Có hàng
triệu triệu con kiến mà một con kiến như thế, là 1 cá
nhân như Shakespeare, hay Walt Whitman. Mọi con kiến, không
nghi ngờ chi, là duy nhất. Và mọi người là duy nhất.
Cái sự bành trướng
về phía Nam
là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng
sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai hiểm
họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất
sông Hồng nhỏ quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì
chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng
co lại vì bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày
càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng chặn hết
mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục
ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có Đàng Trong,
là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó,
như là Miền Đất Hứa. Thành ra giải phóng Miền
Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp
nhất của xứ Bắc Kít. Nhưng
không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc
mơ đẹp nhất, là Cái Độc, Cái Ác của
một miền đất. Chỉ
đến khi lấy được Miền Nam thì Cái
Ác mới lộ diện. Phải
đầu hàng, không có bàn giao bàn
giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ! Mày
phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng,
đất đai của mày, nhà của mày, vợ con của mày,
của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao,
của chúng ông, tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa,
chú gà tồ Big Minh! Source
Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về JeanAméry,
trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt
[Against the Irreversible.
On JeanAméry. On the natural history of destruction,
nhà xb Vintage Canada]. Améry viết, tra
tấn có cái tính quái dị, không thể
tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là
suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu
tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal
du pays, le Hauptwehe, “nỗi nhức nhối số 1", “la douleur
capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì
khác, cực khác về bản chất, so với những gì tôi
viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn
bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát
hỏng Thuyền Viễn Xứ cái
con mẹ gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít
đã mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt
nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải là
tự an ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion,
mais l’autodestruction.
"Perhaps", writes
Nietzsche in the Genealogie der Moral,
"there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory
of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind
so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có
chi khủng khiếp và bí ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu
ấn của con người, Nietzsche viết trong Genealogie der Moral: Chúng
ta đánh dấu trái tim của chúng ta bằng lửa, sao
cho, chỉ cái đau được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss learned
in exile to understand the fate he escaped...... so vital to him, of
whether he himself was on the side of the creditors or the debtors. He
finds the answer to the question in the course of his own study, as it
becomes increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and
exploited, are in fact the same species, so that he, the potential victim,
must also range himself with the perpetrators of the crime or at least
theirs accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của
mình, ở về phía kẻ ăn cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm
thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên
cứu của chính ông, và mọi chuyện càng ngày
càng trở nên rõ ràng, đối với ông, là,
cai trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng
rứa, và, bởi vì ông ta sinh ra là có tướng
bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng
cùng với những kẻ tạo ác, hay chí ít, cũng
đồng phạm.
… Weiss to attend the Auschwitz
trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event
by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent
somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the
pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought
was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a
contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept
of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse
of the Heart. On Memory and
Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss tham dự tòa án
xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do
ông vẫn còn hy vọng, một niềm hy vọng chẳng hề tàn
lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái phần tương
đương của nó, ở đâu đó, và có thể thực
sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông
qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào
gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng
này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của
chúng ta về công lý, và nó, như ông
nói, “nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa
chủ nợ và con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời
như là quan niệm về luật pháp, chính nó”
W.G. Sebald:Sự hối hận
của con tim.
…even if it be through the pain of whoever inflicted the injury.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác
và hình phạt, Par-delà
le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói
như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác
Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Con chim ousen [chim két] hót
ở trong rừng Cilgwri.
Hót hoài hót hoài như một dòng
suối dội lên những hòn đá rêu xanh
Nhưng cũng chưa xa xưa bằng con nhái Cors Fochno
Cảm thấy làn da lạnh chũng vào tới tận xương
tận tuỷ.
Rushdie viết, rất ít nhà
thơ kết hôn sâu xa đằm thắm với đất mẹ như nhà thơ
R.S. Thomas, một nhà thơ dân tộc Welsh [a Welsh nationalist],
những vần thơ của ông tìm kiếm, bằng cách nhận
ra, để ý [noticing], khẳng định [arguing], làm thành
vần điệu, huyền hoặc hóa, biến đất nước thành một sinh
vật rất ư là nồng nàn, rất ư là trữ tình.
Tuy nhiên, cũng chính
ông này, cũng viết:
Sự hận thù mất nhiều thời gian
Để mà đâm chồi nẩy lộc, và lòng
hận thù của tôi
Kể từ khi sinh ra, cứ thế mà tăng trưởng..
Không phải tôi thù
cái mảnh đất tàn nhẫn thô bạo dã man mà
tôi ra đời...
Tôi nhận ra một điều:
Cái lòng hận thù đó, là
thù cái làn da khốn kiếp của tôi,
Cái thứ khốn kiếp, là chính tôi!
Hate takes a long time
To grow in, and mine
Has increased from birth;
Not for the brute earth...
I find
This hate's for my own kind.
*
Thảo nào, thằng cha Gấu
thù chính nó, thù cái chất Yankee
mũi tẹt của chính nó! (1)
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ:Cái sầu xa xứ thứ thiệt,
le vrai mal du pays, le Hauptwehe,
“nỗi nhức nhối số 1 “la douleur capitale”, nếu tôi được phép
mượn từ của Thomas Mann, thì khác, cực khác về bản
chất, so với những gì tôi viết ở trên, và nó
chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn. Vào lúc đó,
đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì
nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã
mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt nước mắt
đồng lõa.
Sầu Xa Xứ không phải là tự an ủi, mà là
tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais
l’autodestruction.
Dong TrinhCâu chuyện có vẻ như kỳ bí
mà cũng như thực! Đâu là thực, đâu là hư?
Tuyệt tác! Cảm ơn tác giả, đọc và nhớ một thời ở Thái,
con tôi mỗi ngày chạy qua trại tù mua thức ăn cho mấy
chú bên đó, lấy tiền mua một chai nước tương để hai
mẹ con chan cơm ăn, ngày đi còn nửa chai, bán lấy tiền
mua mì gói xách qua Phi ăn ! Những người cùng
khổ!
Trong số báo Văn, GCC
lục lọi tại nhà bạn Bạn, trên, có rất nhiều
Gấu ở trong đó:
Bài phỏng vấn đầu tiên ở hải ngoại, do
bạn quí thực hiện: Từ Sơ Dạ Hương tới Nguyễn Quốc
Trụ: Nhà văn ở phút nói thật
(1)
Truyện ngắn
đầu tiên viết ở hải ngoại, và về Trại Tù Thái
Lan: Bụi
Truyện ngắn này, thú
vị hơn nữa, đã từng được 1 đài phát thanh của
Mít ở thủ đô Bolsa đọc trên Đài, tình
cờ làm sao GCC, ở Toronto nghe được. Gấu Cái phán,
tụi này giỏi thật, cái truyện ngắn hay, mà cái
thằng chọn nó để đọc cũng thật là bảnh.
Bạn quí đăng trên
Văn,
nhưng không để ý đến cách sắp trình bày,
làm hỏng truyện nhiều quá.
Chán bạn quí quá, nhưng lần gặp
này, thì lại quí bạn quí quá!
Note: Bài Ký
này, không hiểu sao bị mất hẳn
1 kỳ, kỳ đầu, viết về “Bạn Bạn”, về Sad Seagull, về cái vụ đứng
ở bên ngoài Phước Lộc Thọ, tính tự làm
thịt mình, và may sao được cứu thoát...
và cái vụ hẹn gặp Tháng Ba sắp tới ở Hành
Lang Thiên Đàng, quán Hạ Cờ Tây, Remys
Sorry. NQT
Passage Eden, Toronto. Hồi xửa
hồi xưa, Passage Eden Sài Gòn nổi tiếng vì
gánh hàng bún ốc.
Ăn bún ốc, ngày xưa, mà uống Remy,
bây giờ, nhỉ?
Bây giờ, ăn chi được bún ốc.
Đâu có còn chiếc răng nào?
Lũ bạn khả ố cười hô hố,
tại vì mi tính hôn Em, với chỉ 1 chiếc răng
còn lại, Emsợ quá nên
lặn mất tiêu, đúng không?
Chúng còn nói đểu lắm, nhưng thực
sự là ghen với GCC!
Hà, hà!
Cái gói quà,
đến chót đời, Ông Giời, xém tí nữa quên,
may sao nhớ, trao cho Gấu, dễ gì ai có được?
Chẳng phải cái bĩu môi, cái nhìn
thờ thẫn, vẻ dửng dưng chẳng chờ mong bất cứ điều gì, nhưng
dung nhan tàn tạ ở em làm anh giật mình. Anh
tự nhủ thầm, đây là một thiếu nữ ngày xưa chắc
chắn xinh đẹp lắm. Cái bĩu môi kia ngày nào
chúa láu lỉnh, bây giờ thêm một chút
chua chát, chán chường... Đây cũng là một
con người vừa thoát ra khỏi quá khứ và chắc chắn
không làm sao quên nổi.
"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn
tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em?"
Ôi chao, hóa ra đây là cách
độc nhất để lũ Ngụy nhận ra nhau, sau ngày 30 Tháng
Tư 1975.
có một điều không bao
giờ cần làm, là nói cho dân Bắc
Kỳ phải làm gì
NL
Cái sự đối xử tàn nhẫn của Bắc Kít,
đối với Ngụy, sau 30 Tháng Tư, trước, Gấu cứ nghĩ là
do cuộc chiến kéo dài lâu quá, mà
nỗi thù hận thì lại dài quá, những…
bốn ngàn năm đói khổ, sợ giặc phương Bắc, sống chen chúc
ở trong cái đồng bằng bờ nhiều hơn ruộng, nhìn về phía
Nam thèm quá, đến khi lấy được Miền Nam 1 phát,
con quỉ chuồng heo bèn xổng chuồng…. nhưng Primo Levi, trong
chương “sự hung dữ vô dụng”, useless violence, trong "Những kẻ
chết đuối và những kẻ được cứu vớt", lại đưa ra 1 nhận xét
khác GCC: Chỉ có cách đó, thì những
tên đao phủ mới cảm thấy đỡ tội: before dying, the victim must
be degraded, so that the murderer will be less burdened by guilt.
Đây
là một người, hay là Bi kịch của một người lạc quan
Lò
Thiêu Người, Holocaust, là một kinh nghiệm mang tính
kỹ nghệ, thực dụng "siêu đẳng": Làm thế nào để
giết được nhiều người nhất, trong một thời gian nhanh nhất, ở một nơi
có diện tích nhỏ hẹp nhất, ít tốn tiền nhất. Trong
những cuốn sách viết về kinh nghiệm đó, "Những người
chết đuối và Những người được cứu vớt" (The Drowned and the Saved),
xuất bản năm 1988, tác giả Primo Levi, chỉ như một tiểu chú,
nhưng thật quý giá.
Đây
là kinh nghiệm của tác giả, một nhà văn Ý,
gốc Do thái, khi ông làm lao động khổ sai tại
Auschwitz, trong cuộc
Chiến Tranh Lớn 1939-45. Trước khi tự tử vào tháng Tư
năm 1987, ông có đưa ra nhận xét: Khi viết về thế
giới bi đát của những trại tập trung, ông hy vọng tránh
được hai điều: lợi dụng tu từ, văn chương làm mủi lòng
người đọc, và dấy lên tâm lý trả thù.
Thay vì vậy, ông chọn ngôn ngữ trầm tĩnh, nghiêm
trang, nhã nhặn, và mực thước, của một người chứng. Nhưng
trên tất cả, người đọc vẫn nhận ra, đây là một ngôn
ngữ rất buồn thảm.
Sau
khi được thả, ông viết hai cuốn, nay trở thành cổ điển, "Sống
sót tại Auschwitz" (1947),
"Lại tỉnh thức" (1963). Cuốn sách nhỏ bé "Những kẻ chết
đuối..." là nỗ lực sau cùng của tác giả nhằm "hiểu"
kinh nghiệm đó, một kinh nghiệm như tác giả đã từng
chỉ ra, vượt khỏi cõi "nhân tri".
Một
trong những chương của cuốn sách viết về "Sự hung dữ vô
dụng". Những chi tiết về những trò độc ác của đám
cai tù, khi hành hạ tù nhân một cách
vô cớ, không một mục đích, ngoài thú
vui nhìn chính họ đang hành hạ kẻ khác. Sự
hung dữ tưởng như vô dụng đó, cuối cùng cho thấy,
không phải hoàn toàn vô dụng. Nó đưa
đến kết luận: Người Do thái không phải là người. (Kinh
nghiệm cay đắng này, nhiều người Việt chúng ta đã
từng cảm nhận, và thường là cảm nhận ngược lại: Những người
CS không giống mình. Ngày đầu tiên đi trình
diện cải tạo, nhiều người sững sờ khi được hỏi, các người sẽ đối
xử như thế nào với "chúng tôi", nếu các người
chiếm được Miền Bắc. Câu hỏi này gần như không được đặt
ra với những người Miền Nam, và nếu được đặt ra, nó cũng không
giống như những người CSBV tưởng tượng. Cá nhân người viết
có một anh bạn người Nam ở trong quân đội.
Anh chỉ mơ, nếu có ngày đó, thì tha hồ mà
nhìn ngắm thiên nhiên, con người Hà-nội, Miền
Bắc. Lẽ dĩ nhiên, đây vẫn chỉ là những mơ ước, nhận
xét hoàn toàn có tính cách
cá nhân).
Từng
bước một, Levi cho thấy, trò nhục mạ, làm mất tính
người ở trong trại tùy thuộc vào những "đặc quyền,
đặc lợi", tuy nhỏ nhặt nhưng nó làm nên lằn ranh
phân biệt giữa sống và chết. Có những công
việc nho nhỏ, dành cho một số tù nhân nào
đó, để được thêm một chút khẩu phần. Có những
công việc khấm khá hơn, dành cho đám công
chức hạng thấp như lau chùi, quét dọn, gác đêm,
trợ tá của trợ tá... Ông ngần ngại khi phải phán
đoán, những người làm ăng ten, cũng như những người dám
đứng lên chống đối, và cố gắng giữ một đáp ứng dung
hòa đôi khi vượt khỏi khả năng của con người. Trả lời một
số phóng viên, Levi cho biết cảm tưởng, về những lời bào
chữa "không biết đến những chuyện đó": Không thể
tin được. Rằng, tinh thần bài Do thái không phải
do Nazi bịa đặt ra mà đã đóng rễ lâu đời trong
văn hóa Đức.
Đọc bài viết của NL, thì
GCC lại nghĩ đến 1 trong những ẩn dụ, ở đầu cuốn dạy tiếng Anh, mà
cái tít của nó, là từ bài thơ của Frost,
"Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ",
trong có câu, tôi còn những lời hứa,
trước khi lăn ra ngủ, Promises To Keep.
Một trong những lời hứa phải
giữ, là 1 ẩn dụ, mà GCC tóm tắt sau đây.
Ẩn dụ này khiến
GCC tự hỏi, nếu Cái Ác Bắc Kít gây
họa, thì liệu, Cái Đói Bắc Kít, thay
vì Cái Đẹp của Dos, sẽ cứu chuộc… thế giới?
Có 1 anh chàng
khi còn nghèo khổ, được ăn 1 trái chuối,
nhớ hoài, đến khi giầu có, tha hồ ăn chuối, thì
không làm sao thấy ngon như lần đầu.
Cái trái chuối
đó, với GCC là con ốc nhồi, vớt được ở cái
ao, ở bên ngoài cổng nhà cô Hồng Con, cô
con gái địa chủ, sau này bị cả làng của GCC bỏ
cho chết đói, và trong đêm, đói, bịnh, khát
nước[do sốt thương hàn], bò ra
khỏi nhà, tới ao, bò lết xuống, chết ngay ở bờ ao.
GGC nhớ hoài, con ốc nhồi
nằm dưới 1 đám bèo. Gấu gạt đám bèo, con ốc lộ
ra, chưa kịp lặn, là thằng cu Gấu hớt liền.
Bèn nổi lửa ngay bên bờ ao, chơi liền.
Sau này, vào Nam,
Gấu quá mê món bún ốc, nhất là
của cái bà có cái sạp ở Passage Eden,
1 phần là vậy.
Cũng là cái trái chuối trong
ẩn dụ kể trên. Và từ đó, là vấn nạn, cái
đói BK cứu chuộc thế giới.
Còn 1 quán bún ốc, ở trong 1
cái hẻm, kế bên rạp chiếu bóng ngay đường Lê
Lợi, quán Ba Ba Bủng, hình như vậy, cũng ngon, nhưng
không bằng.
Are you ashamed because you are
alive in placeof another? And in particular,
of a man more generous, more sensitive, more useful, wiser, worthier
of living than you? You cannot block out such feelings: 'you examine
yourself, you review your memories, hoping to find them all, and that
none of them are masked or disguised. No, you find no obvious transgressions,
you did not usurp anyone's place, you did not beat anyone (but would you
have had the strength to do so?), you did not accept positions (but none
were offered to you ... ), you did not steal anyone's bread; nevertheless
you cannot exclude it. It is no more than a supposition, indeed the
shadow of a suspicion: that each man is his brother's Cain, that each
one of us (but this time I say us in a
much vaster, indeed, universal sense) has usurped his neighbor's
place and lived in his stead. It is a supposition, but it gnaws at us;
it has nestled deeply like a woodworm; although unseen from the outside,
it gnaws and rasps.
After my return from imprisonment at
Auschwitz, I was visited by a friend older than myself, mild and intransigent,
the cultivator of a personal religion, which, however; always seemed
to me severe and serious. He was glad to find me alive and basically
unhurt, perhaps matured and fortified, certainly enriched. He told me
that my having survived could not be the work of chance, of an accumulation
of fortunate circumstances (as I did then and still do maintain) but rather
of Providence. I bore the mark, I was an elect: I, the nonbeliever,
and even less of a believer after the season of Auschwitz, was a person
touched by Grace, a saved man. And why me? It is impossible to know, he
answered. Perhaps because I had to write, and by writing bear witness:
wasn't I in fact then, in 1946, writing a book about my imprisonment?
Such an opinion seemed monstrous to
me. It pained me, as when one touches an exposed nerve, and kindled
the doubt I spoke of before: I might be alive in the place of another,
at the expense of another; I might have usurped, that is, in fact, killed.
The "saved" of the Lager [the concentration camps] were not the best,
those predestined to do good, the bearers of a message: what I had seen
and lived through proved the exact contrary. Preferably the worst survived,
the selfish, the violent, the insensitive, the collaborators of the
"gray zone," the spies. it was not a certain rule (there were none,
nor are there certain rules in human matters), but it was nevertheless
a rule. I felt innocent, yes, but enrolled among the saved and therefore
in permanent search of a justification in my own eyes and those of others.
The worst survived, that is, the fittest; the best all died.
Chaim died, a watchmaker from Krakow,
a pious Jew who despite the language difficuties made an effort to
understand and be understood, and explained to me, the foreigner,
the essential rules for survival during the first crucial days of captivity;
Szabo died, the taciturn Hungarian peasant who was almost two meters
tall and so was the hungriest of all, and yet, as long as he had the strength,
did not hesitate to help his weaker companions to pull and push; and
Robert, a professor at the Sorbonne who spread courage and trust all
around him, spoke five languages, wore himself out recording everything
in his prodigious memory, and had he lived would have answered the questions
that I do not know how to answer; and Baruch died, a longshoreman from
Livorno, immediately, on the first day, because he had answered the first
punch he had received with punches and was massacred by three kapos in
coalition. These, and innumerable others, died not despite their valor
but because of it.
My religious friend had told me that
I survived so that I could bear witness. I have done so, as best I
could, and I also could not have done so; and I am still doing so, whenever
the opportunity presents itself; but the thought that this testifying
of mine could by itself gain for me the privilege of surviving and living
for many years without serious problems troubles me because I cannot
see any proportion between the privilege and its outcome.
I must repeat: we, the survivors, are
not the true witnesses. This is an uncomfortable notion of which
I have become conscious little by little, reading the memoirs of others
and reading mine at a distance of years. We survivors are not only
an exiguous but also an anomalous minority: we are those who by their
prevarications or abilities or good luck did not touch bottom. Those
who did so, those who saw the Gorgon, have not returned to tell about
it or have returned mute, but they are the submerged, the complete witnesses,
the ones whose deposition would have a general significance. They
are the rule, we are the exception. We who were favored by fate tried,
with more or less wisdom, to recount not only fate but also that of
the others, indeed of the drowned, but this was a discourse "on behalf
of third parties," the story of things seen at close hand, not experienced
personally. The destruction brought to an end, the job completed, was
not told by anyone, just as no one ever returned to describe his own
death. Even if they had paper and pen, the drowned would not have testified,
because their death had begun before that of their body. Weeks and months
before being snuffed out, they had already lost the ability to observe,
to remember, to compare and express themselves. We speak in their stead,
by proxy.
Primo
Levi, from “The Drowned and the Saved”.
Arrested for his involvement in the Italian resistance
during World Word II, Levi entered Auschwitz on February 26, 1944,
and the identifying number 174517 was tattooed on his arm. Soviet
troops liberated the camp eleven months later, and he made his way
home to Turin by foot and by train. He published Survival in Auschwitz
in 1947 and The Periodic Table in 1975. Levi died, apparently by suicide,
in 1987 at the age of sixty-seven-in the same house in which he was born.
I looked and there was a pale
green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with him. -Book of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và
thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết,
và Diêm Vương, đằng sau anh ta.
Khe Sanh 1968, Sarajevo
1992, Cõi Khác 1969... là cùng
dạng “memoir”, kể cả "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng
có chung cái air "độc thoại". Đoạn mở ra Sarajevo, đọc
1 phát là nhập vô liền:
There was spring rain and pale
fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering
over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân và sương mù lợt
tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của tôi
loay hoay chọn hướng đáp xuống thành phố, bên
trên những ngọn đồi thấp, màu xanh, của núi Mount
Igman.
Câu văn còn làm
nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận
xác chồng”, cái gì gì, “phi cơ đáp
xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm
vài kiếp nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không
biết!
Ngày mai đi nhận xác
chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà
áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Em không nhìn được
xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu
!
Lê Thị Ý
[net]
Lần
đầu tiên Gấu nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải
đi lao động, tại nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè,
đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng
hết cả mình, nhớ lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại
Sóc Trăng. Đó cũng là
lần đầu Gấu biết được mùi thịt chuột, và nó ngon
đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời” xoay chuyển]
như thế nào mới được thưởng thức!
Tôi biết, nghĩa là
gì, không trở về. Qua những hàng rào
kẽm gai tôi nhìn thấy
mặt trời xuống và chết Và da thịt tôi
như bị xé ra Bởi những dòng thơ
của một thi sĩ già: “Mặt trời thì có
thể lặn và mọc Nhưng chúng tôi,
ngược hẳn lại Ngủ, sau 1 tí ánh
sáng ngắn ngủi, Một đêm dài
ơi là dài”
And
I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.
But
the hills are still the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.
Derek Mahon
Giận
dữ lưu vong
Và
tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng
bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống
dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì
ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo
ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành Và
biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì
Note:
Có thể, cái tít bài viết Cô Tư
được ‘gợi hứng’ từ Thomas Mann.
Và nếu như thế, Cô Tư thường ghé... TV?
The Voronezh Notebooks survived
by a miracle, or rather through the
extraordinary determination of Nadezhda
Mandelstam. In exile and poverty, under persecution
and in isolation, his manuscripts hidden in teapots, shared
out with friends, nightly renewed in the fragile
casket of her human, fallible recall, she made it her
life's work to preserve her husband's poetry.
Theo ông, Lò Thiêu
bắt nghĩ “bi quan, tiêu cực” về con người?
Imre
Kertész. L'Holocauste est différent des autres génocides.
Parce qu'il a eu lieu au sein de la civilisation chrétienne.
Ce qui est arrivé a ruiné de manière spectaculaire
toutes les valeurs qui avaient cours jusqu'alors. C'est rare d'assister
à un traumatisme humain universel de cette nature.
Lò Thiêu khác những cú
diệt chủng khác, bởi là vì nó
là “con cưng” của tinh thần, văn minh Ky Tô,
nó huỷ diệt thật cụp lạc “gia tài của mẹ”,
có được từ trước cho tới bây giờ.
Le titre de votre ouvrage, «l'Holocauste
comme culture», n'est-il pas provocateur? Cái tít của cuốn sách
của ông, cực khiêu khích, “Lò
Thiêu như Văn Hoá”?
I.
Kertész. En 1992, j'ai reçu une invitation de
l'université de Vienne pour un colloque sur Jean
Améry [opposant au régime nazi et rescapé
d'Auschwitz qui s'est suicidé en 1978]. Je n'avais
jamais entendu son nom. Je me suis donc empressé de
lire plusieurs livres, que j'ai trouvés fantastiques.
J'ai pris le risque de dire qu'Auschwitz et l'Holocauste
faisaient totalement partie de notre culture, au même
titre que notre langue, notre musique, notre littérature.
A ma grande surprise, cet essai n'a pas été
mal interprété, ni mal accepté.
Quả thế, nhưng thiên hạ coi bộ lại khoái,
cái ý tưởng, không phải nền văn
minh sông Hồng đưa đến Tận Thế là đây,
với Mít, mà chính là Cái
Ác Bắc Kít. Rõ ràng là
không có 1 tên Bắc Kít nào
tỏ ra bực bội về Tù Cải Tạo, thì Tù
Cải Tạo phải thuộc về văn hoá, văn minh sông
Hồng!
Tin Văn
1. Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001.
Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho
nhà văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh
tại Chaguanas, gần Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã
nhập làm một - một lối viết tự sự mẫn cảm và một cái
nhìn soi mói đừng hòng mong mua chuộc – vào
trong những tác phẩm bắt chúng ta nhìn vào
những cuộc đời bị vùi giập” (bản tiếng Anh: “… for having united
perceptive narrative and incorruptible scr...
1. Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001.
Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho
nhà văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh
tại Chaguanas, gần Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã
nhập làm một - một lối viết tự sự mẫn cảm và một cái
nhìn soi mói đừng hòng mong mua chuộc – vào
trong những tác phẩm bắt chúng ta nhìn vào
những cuộc đời bị vùi giập” (bản tiếng Anh: “… for having united
perceptive narrative and incorruptible scrutiny in works that compel
us to see the presence of suppressed histories”).
Một tác giả gây tranh luận (“Controversial author”)
đã thắng giải văn chương Nobel, theo như một ký giả.
Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã đặc biệt nhấn mạnh tới
cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “The Enigma of Arrival” (tạm
dịch “Bí ẩn khi tới”, 1987), coi đây là “hình
ảnh, cứ thế mà lặng lẽ suy sụp, của văn hoá thực dân
cũ, và sự suy tàn của những xóm làng Âu
Châu” (“an unrelenting image of the placid collapse of the old colonial
ruling culture and the decline of European neighbourhoods”. Luôn
cả “cái nhìn soi mói không thể nào
bị mua chuộc” đối với xã hội hậu thuộc địa, và những nhận
định gay gắt đối với Hồi giáo chính thống (Muslim fundamentalism).
Naipaul được chọn, trong một danh sách chót gồm
năm người. Tên những người còn lại phải 50 năm sau mới được
công bố, nhưng theo tin tức hành lang, trong đó có
nhà văn người Israel, Amos Oz, nhà văn Nam Phi, JM Coetzee,
nhà văn người Canada, Margaret Atwood, và nhà văn
người Mỹ, Philip Roth.
Trên VHNT, người viết đã từng giới thiệu Naipaul,
trước khi ông được Nobel, nay xin đăng lại, và tiếp đó,
xin cống hiến bạn đọc một số nhận xét, và phản ứng của
một số tác giả, và của chính Naipaul, trước tin
ông được Nobel.
***
“Con người và nhà văn là một. Đây
là phát giác lớn lao nhất của nhà văn.
Phải mất thời gian – và biết bao là chữ viết! – mới nhập
một được như vậy.”
(Man and writer were the same person. But that is a writer’s
greatest discovery. It took time – and how much writing! – to arrive
at that synthesis)
V.S. Naipaul, “The Enigma of Arrival”
Trong bài tiểu luận “Lời mở đầu cho một Tự thuật”
(“Prologue to an Autobiography”), V.S. Naipaul kể về những di dân
Ấn độ ở Trinidad. Do muốn thoát ra khỏi vùng Bắc Ấn nghèo
xơ nghèo xác của thế kỷ 19, họ “đăng ký” làm
công nhân xuất khẩu, tới một thuộc địa khác của Anh
quốc là Trinidad. Rất nhiều người bị quyến rũ bởi những lời hứa
hẹn, về một miếng đất cắm dùi sau khi hết hợp đồng, hay một chuyến
trở về quê hương miễn phí, để xum họp với gia đình.
Nhưng đã ra đi thì khó mà trở lại. Và
Trinidad tràn ngập những di dân Ấn, không nhà
cửa, không mảy may hy vọng trở về.
Vào năm 1931, con tầu SS Ganges đã đưa một ngàn
di dân về Ấn. Năm sau, trở lại Trinidad, nó chỉ kiếm được
một ngàn, trong số hàng ngàn con người không
nhà nói trên. Ngỡ ngàng hơn, khi con tầu tới
cảng Calcutta, bến tầu tràn ngập những con người qui cố hương chuyến
đầu: họ muốn trở lại Trinidad, bởi vì bất cứ thứ gì họ nhìn
thấy ở quê nhà, dù một tí một tẹo, đều chứng
tỏ một điều: đây không phải thực mà là mộng. Ác
mộng.
“Em ra đi nơi này vẫn thế”. Ngày nay, du khách
ghé thăm Bắc Ấn, nơi những di dân đợt đầu tiên tới
Trinidad để lại sau họ, nó chẳng khác gì ngày
xa xưa, nghĩa là vẫn nghèo nàn xơ xác, vẫn
những con đường đầy bụi, những túp lều tranh vách đất, lụp
xụp, những đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh đồng cũng vẫn
cảnh người cày thay trâu… Từ vùng đất đó, ông
nội của Naipaul đã được mang tới Trinidad, khi còn là
một đứa bé, vào năm 1880. Tại đây, những di dân
người Ấn túm tụm với nhau, tạo thành một cộng đồng khốn khó.
Vào năm 1906, Seepersad, cha của Naipaul, và bà mẹ,
sau khi đã hoàn tất thủ tục hồi hương, đúng lúc
tính bước chân xuống tầu, cậu bé Seepersad bỗng hoảng
sợ mất vía, trốn vào một xó cầu tiêu công
cộng, len lén nhìn ra biển, cho tới khi bà mẹ thay đổi
quyết định.
Chốn cũ vẫn như xưa, nhưng chốn mới chẳng hơn gì; cha
của Seepersad, chết trẻ; gánh nặng gia đình chuyền qua
ông anh lớn, còn là một đứa nhỏ, đã phải
lăn lưng vào đời, lãnh 8 xu mỗi ngày, tại một trại
trồng mía – nửa thế kỷ sau, kỷ niệm ấu thời làm ông
bật khóc trước mặt đứa cháu của mình là Naipaul.
Bà chị của Seepersad, một cô gái mù chữ, bị
gửi đi xa, làm việc cho một người bà con trong gia đình;
bà chịu đựng hai cuộc hôn nhân bất hạnh. Quãng
đầu đời của Seepersad cũng chẳng hân hoan thơ thới gì. Ông
sống với người chị/em của mẹ mình, ngày đi học, đêm
làm việc tới khuya trong một cửa tiệm. Sau này, khi đã
có vợ, có thời gian ông phải sống bám vào
gia đình bà vợ giầu có. Mãi sau đó, ông
cố kiếm đường ngoi lên, bằng một việc làm tại một tờ báo
ở Trinidad, tờ Guardian; bà mẹ vẫn sống, và sau cùng
chết, trong nghèo nàn cùng cực.
Chính cái nền đó, – những thảm kịch nho
nhỏ của một nhóm người nghèo đói, bị đánh
bật ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, túm tụm với nhau tại
vùng West Indies, Trinidad – đã làm cho “Một căn
nhà cho Ông Biswas” (1961) - nhân vật chính
lấy khuôn mẫu từø người cha của Naipaul - trở thành
một trong những cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh tuyệt vời nhất
của thế kỷ 20. Hơn thế nữa, nó còn là một tài
liệu giá trị, về một phần đất không ai thèm ngó
tới - theo nghĩa tinh thần – của thế giới. Không thèm ngó
tới, bởi vì đôi khi, nó, và những phần đất
tương tự như nó, có vẻ như chẳng có gì đủ
quan trọng, để được nhân loại để ý ghi chép, về mặt
chính trị cũng như văn hóa, và thường ra, những
vùng đất như thế đó chẳng thể nào đẻ ra được những
nhà văn, nhà trí thức: chính những người này
[mới] có thể ghi nhận sự thịnh suy của chúng.
Naipaul đã mượn luôn những câu chuyện về thời
thơ ấu ông bố, như là một đứa trẻ nhà quê
Ấn Độ, rồi những năm tháng đầu tiên sống đời di dân
tại một vùng quê Trinidaa, một cuộc đời mà Seepersad
đã cố gắng ngoi lên, và rồi viết về nó. Viết,
đối với ông bố của Naipaul, là “tất cả, cho dù nghịch
cảnh”: nó là hứa hẹn về một phẩm giá con người, một
“từ chối bị tiêu diệt”. Ông đã truyền lại cho người
con, và với cả hai, là mong ước “một sự công chính,
ở một tương lai nào đó”. Trên tờ Điểm Sách
Nữu Ước, Pankaj Mishra, khi điểm những lá thư nhà (“Giữa
Cha và Con: Thư Nhà”, “Between Father and Son: Family
Letters”. V.S. Naipaul, nhà xb Knopf) đã coi nghèo
đói, nỗi sợ bị tiêu diệt (extinction), hy vọng một sự công
chính (justice), và viết như một cứu chuộc, là những
đề tài trao đổi giữa Naipaul và gia đình (Seepersal
Naipaul, ông bố là tác giả tập truyện “Những cuộc phiêu
lưu của Gurudeva”, được xuất bản “một cách riêng tư”, privately,
vào năm 1943, tái bản có sửa chữa và mở rộng
thêm vào năm 1976, rồi năm 1995), bắt đầu vào năm 1950,
khi Naipaul tới Anh làm sinh viên tại Oxford, nhờ học bổng
toàn phần của nhà nước thuộc địa. Ông bố lúc này
coi như hết còn làm việc được nữa; Kamla, bà chị của
Naipaul, là sinh viên tại đại học Benares Hindu University tại
Ấn Độ, cô đơn, và bất hạnh (unhappy), nhưng không làm
sao có phương tiện rời bỏ. Naipaul, 18 tuổi đầu, mang trên mình
không chỉ trách nhiệm cứu thoát gia đình khỏi
nỗi khốn khó, mà còn đèo thêm tham vọng
văn chương, chưa biết nó sẽ ra làm sao, và chưa biết
sẽ thực hiện như thế nào. “Bí ẩn khi tới” (1987) thoát
thai từ những lá thư nhà này, một cuốn tiểu thuyết
mang tính tự thuật về một thanh niên nhà quê
hết sức ngu ngốc (profoundly ignorant) bị đánh bật gốc, nỗi sợ hãi,
chết khiếp, tứ cố vô thân không nơi nương tựa, tại Anh
Quốc.
Và như độc giả có thể đoán ra được, vượt
lên những bức thư, là một bức điện tín, gửi cho gia
đình, vào đầu năm 1956: TIỂU THUYẾT ĐƯỢC CHẤP NHẬN=YÊU,
và liền sau đó, ông viết thư cho người chị: “Đó
là bức thư mà em hằng mong được viết về cho gia đình,
kể từ ngày rời Trinidad. Một bức thư về cuốn sách của em.”
***
Chính trị hay không chính trị, không
ai có thể phủ nhận tính chất văn học của những tác
phẩm của Naipaul. Năm nay 69 tuổi, nhà văn người Anh, gốc Ấn,
sinh tại Trinidad, hiện đang sống ở Anh, trong vòng trên
45 năm đã cho ra đời tổng cộng 26 tác phẩm, nhưng tuyệt
phẩm của ông là cuốn “Căn nhà cho Ông Biswas”
(A House for Mr. Biswas). Những tiểu luận, những tác phẩm phi-giả
tưởng của ông thật sống động, và cũng thật khiêu khích
(provocative).
Horace England, thư ký Hàn Lâm Viện
Thụy Điển, người gọi điện thoại cho Naipaul báo tin ông
được giải, cho biết, “Ông thực sự ngạc nhiên, và tôi
không nghĩ là ông giả đò. Ông thực sự
ngạc nhiên, bởi vì cho rằng, như là một nhà
văn, ông chẳng đại diện cho một ai, ngoại trừ chính mình.”
Đây có lẽ cũng là một trong những lý do, ông
được giải văn chương cao quí nhất của nhân loại, cùng
với Cao Hành Kiện, năm ngoái. Nhà văn người Pháp
gốc Trung Quốc này cho rằng, câu chuyện văn chương chỉ là
tri âm tri kỷ giữa những con người chẳng cần phải gặp gỡ, hoặc
chẳng thể nào có duyên được gặp gỡ, mặt nhìn
mặt, tay cầm tay nên chỉ còn trông mong vào
mớ chữ nghĩa… Có vẻ như Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã
phá bỏ truyền thống ban giải thưởng cho những công trình
văn học lớn lao, hoặc đề cao vai trò nhà văn với một nhiệm
vụ cao cả nào đó…
“Tôi đã tưởng rằng mình ra rìa
rồi.” (“I thought I was no longer in the running, you know? I thought
I had fallen away”), Naipaul nói với thông tín viên
thông tấn xã AP. Đã từ lâu, thiên hạ xì
xào về ông, như là một “chuẩn Nobel”; ông là
nhà văn người Ấn đầu tiên được Nobel, kể từ Tagore, vào
năm 1913. Ông nói, sự kiện ông được Nobel là
“một dâng tặng cho cả hai, Ấn Độ, quê cha đất tổ của tôi
và những đất nước khác trong tiểu lục địa.”
Caryl Phillips, tiểu thuyết gia người Anh mà gia đình
cũng tới từ vùng Caribbean, cho biết, ông “ngưỡng mộ tính
tổng hợp giả tưởng và phi-giả tưởng của Naipaul”. “Ông
ta ôm gọn cả hai dạng văn học, thông minh tài tình,
và tràn trề sinh lực, như nhau”. Nhưng Phillips nói
thêm, “Naipaul không ưa những người gốc Phi Châu,
điều này theo tôi không thể giải thích, chỉ
bằng sự kiện ông gốc Ấn. Ông ta cũng ‘thật là không
ưa’ người Hồi giáo. Ông ta là một con người có
đủ thứ vấn đề, với những con người ở ngoài cái vòng
tròn mà ông ta gọi là “trung tâm mang
tính lịch sử”. Và cái trung tâm này
được đóng rễ ở Âu Châu.
“Giữa những tín đồ: Một chuyến đi về vùng đất Hồi”
(1981), là một ghi nhận về chuyến đi Iran, Pakistan, và
Indonesia. Đây là một bức chân dung thật cay nghiệt,
về những tín đồ quay lưng về phía tiến bộ và thế
giới hiện đại. Ông kết án Hồi giáo chính thống,
mà với nó, “lịch sử phải làm đầy tớ cho thần học,
luật pháp tách khỏi ý tưởng về sự bình đẳng
và học vấn tách khỏi học vấn (learning is separated from
learning).”
Mới hồi đầu tháng (10, 2001), Naipaul đã gây
phẫn nộ trong thế giới Hồi giáo, khi so sánh những hậu
quả của đạo này trên thế giới, cũng chẳng khác gì
của chế độ thực dân thuộc địa. “Nó tạo một hậu quả thê
thảm ở những người cải đạo”, ông nói, đặc biệt nhắm
vào Pakistan, “Muốn cải đạo, bạn phải huỷ diệt quá khứ, huỷ
diệt đời mình (your history).” Ông mô tả việc “quên
mình”, “bỏ ngã” (abolition of the self) mà Hồi
giáo đòi hỏi còn tồi tệ hơn sự huỷ diệt căn cước
của một con người dưới chế độ thực dân thuộc địa. Một thành
viên của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, Per Wastberg, đã
nói với hãng tin Reuters, Naipaul chỉ trích tất
cả mọi tôn giáo. “Ông ta coi tôn giáo
là tai họa cho nhân loại, nó thui chột mọi ước ao,
nó làm con người hết dám suy nghĩ, kinh nghiệm (nguyên
văn: He considers religion as the scourge of humanity, which dampens
downs our fantaisies and our lust to think and experiment). Trên
mục này, bạn đọc chắc còn nhớ bài phỏng vấn George
Steiner của tờ L’Express, và câu khẳng định của ông,
“nếu thế kỷ 21 là một thế kỷ của tín ngưỡng thì nó
sẽ tiêu luôn” (xem bài “Văn hóa không làm
tăng tính người”.)
Thật khó mà tin được, rằng Hàn Lâm
Viện Thụy Điển đã không để ý đến biến cố 911, những
diễn biến theo sau, và sự kiện Naipaul luôn tỏ ra “thù
nghịch” (hostility) Hồi giáo chính thống. Cũng khó
mà có thể tin được, họ đã quên một điều, rằng
họ vờ đi không lên tiếng khi cái đầu của nhà
văn Rushdie bị ra giá, trước đây, nhân vụ Quỉ Thi.
Tarek Fateh, chủ trì chương trình TV “Ký
sự Hồi giáo”, đã tỏ ra không thoải mái (uneasy)
về chuyện Naipaul được Nobel, mặc dù ông cho biết rất ngưỡng
mộ những khả năng văn học của ông ta. “Tôi thực sự tin rằng,
việc ông ta được Nobel sẽ gây ra những rắc rối sâu xa
hơn nhiều, vượt ra khỏi tầm tay văn chương”. “Nó gây tổn thương,
do quá nhiều những tình cảm chống Hồi giáo.”
Một nhà văn gây tranh luận. Đúng như vậy.
Ngay trong giới văn học, ông ta cũng không tỏ ra nương nhẹ
những “văn hữu”. Nói về James Joyce: Tôi không thể
hiểu nổi tác phẩm của một người mù. Về Dickens: Ông
ta cắn phải luỡi (tự nhại lại tác phẩm của chính mình)…
***
Hình như Borges có nói, người ta không
thể sử dụng từ ‘con dao’ trong một thai đố mà câu trả lời
là ‘con dao’; Rushdie viện dẫn nhà văn Á Căn Đình,
khi viết về cuốn “Bí ẩn khi tới” của Naipaul; và từ mà
ông không thể nào kiếm thấy ở trong cuốn sách
đó, là “tình yêu”. Và một cuộc đời
không có tình yêu, hay một cuộc đời mà
trong đó, tình yêu bị chôn sâu tới nỗi
không thể nào ló đầu ra, đó là điều
cuốn sách của Naipaul nói tới. Bởi vậy, nó thật buồn,
thật quá buồn.
Rushdie gọi, đó là nỗi buồn đồng quê,
trong bài viết về cuốn sách, trên tờ The Guardian
số ra ngày Thứ Sáu, 13, tháng Ba, 1987, khi nó
vừa được xuất bản; sau được in lại trong tập tiểu luận “Quê hương
tưởng tượng”. Khung cảnh của cuốn tiểu thuyết, là đồng quê
Anh, một thứ “khung rêu” (tên một tác phẩm của Thụy Vũ),
hay là câu chuyện về sự tàn tạ của một gia đình
miệt vườn ở miền nam nước Anh, với quá khứ thuộc địa, như là
gia tài của mẹ để lại, và rồi mang theo ra nước ngoài,
của người chủ đất. Rushdie cho rằng, thật có ý nghĩa, vì
trái ngược với đa số di dân khác, Naipaul đã chọn
cho mình một vùng quê Anh, với những trang viên
(manoirs) và những con sông lượn lờ chung quanh, để mà
tái định cư.
Rushdie viết: “Di dân phải bịa đặt ra miếng đất ở
dưới chân mình”. (L’immigré doit inventer la terre
qui se trouve sous ses pieds).
Cái sự bành trướng về
phía Nam
là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông
Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai hiểm họa, giặc Bắc và
lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ quá,
người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì
càng ngày càng co lại vì bờ nhiều hơn ruộng,
ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê
sông Hồng chặn hết mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày
càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có Đàng
Trong, là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn
về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra giải phóng
Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp
nhất của xứ Bắc Kít. Nhưng
không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp
nhất, là Cái Độc, Cái Ác của một miền đất. Chỉ
đến khi lấy được Miền Nam thì Cái
Ác mới lộ diện. Phải
đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc
mẹ cái gì hết! Bố khỉ! Mày
phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai
của mày, nhà của mày, vợ con của mày, của
cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của chúng
ông, tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà
tồ Big Minh! Source
What lay behind Russia’s interference in the 2016 election—and
what lies ahead?
By Evan Osnos, David Remnick, and Joshua Yaffa
Putin có thể ảnh hưởng cuộc bầu
cử Mẽo. Nhưng xừ lủy nhắm, không chỉ dzậy, but his plans are much
bigger.
Vụ này đang nóng.
1. Soft Target
On April 12, 1982, Yuri Andropov,
the chairman of the K.G.B., ordered foreign-intelligence operatives
to carry out “active measures”—aktivniye meropriyatiya—against
the reëlection campaign of President Ronald Reagan. Unlike classic
espionage, which involves the collection of foreign secrets, active
measures aim at influencing events—at undermining a rival power
with forgeries, front groups, and countless other techniques honed
during the Cold War. The Soviet leadership considered Reagan an implacable
militarist. According to extensive notes made by Vasili Mitrokhin,
a high-ranking K.G.B. officer and archivist who later defected to Great
Britain, Soviet intelligence tried to infiltrate the headquarters of
the Republican and Democratic National Committees, popularize the slogan
“Reagan Means War!,” and discredit the President as a corrupt servant
of the military-industrial complex. The effort had no evident effect.
Reagan won forty-nine of fifty states.
Active measures were used by
both sides throughout the Cold War. In the nineteen-sixties, Soviet
intelligence officers spread a rumor that the U.S. government was involved
in the assassination of Martin Luther King, Jr. In the eighties,
they spread the rumor that American intelligence had “created” the
AIDS virus, at Fort Detrick, Maryland.
They regularly lent support to leftist parties and insurgencies.
The C.I.A., for its part, worked to overthrow regimes in Iran, Cuba,
Haiti, Brazil, Chile, and Panama. It used cash payments, propaganda,
and sometimes violent measures to sway elections away from leftist
parties in Italy, Guatemala, Indonesia, South Vietnam, and Nicaragua.
After the collapse of the Soviet Union, in the early nineties, the
C.I.A. asked Russia to abandon active measures to spread disinformation
that could harm the U.S. Russia promised to do so. But when Sergey
Tretyakov, the station chief for Russian intelligence in New York,
defected, in 2000, he revealed that Moscow’s active measures had never
subsided. “Nothing has changed,” he wrote, in 2008. “Russia is doing
everything it can today to embarrass the U.S.”
What lay behind Russia’s interference in the 2016 election—and
what lies ahead?
By Evan Osnos, David Remnick, and Joshua Yaffa
Note: Bài này tuyệt lắm. GCC mua số báo, vì
bài này, và bài về Bishop. Về nhà,
mở net, thì mới biết, cho đọc free!
One Art
The art of losing isn't hard
to master;
so many things seem filled with the intent
to be lost that their loss is no disaster.
Lose something every day. Accept
the fluster
Of lost door keys, the hour badly spent.
The art of losing isn't hard to master.
Then practice losing farther,
losing faster:
places, and names, and where it was you meant
to travel. None of these will bring disaster.
I lost my mother's watch. And
look! my last, or
next-to-last, of three loved houses went.
The art of losing isn't hard to master.
I lost two cities, lovely ones.
And, vaster,
some realms I owned, two rivers, a continent.
I miss them, but it wasn't a disaster.
-Even losing you (the joking
voice, a gesture
I love) I shan't have lied. It's evident
the art of losing's not too hard to master
though it may look like (Write it!) like disaster.
-Elizabeth Bishop, The Complete Poems, 1927-1979,
Farrar, Straus & Giroux
[Robert Hass: Now & Then]
Một Nghệ Thuật
Nghệ thuật mất thì không
khó để trở thành một “sư”;
Rất nhiều thứ, có mặt trên cõi đời này,
là để mất đi, 1 cách hăm hở,
Ra ý, ta có ra khỏi đời mi, thì đâu
có phải là 1 thảm họa,
Vả chăng, mi cũng đâu có thương yêu gì
ta, hử, GCC?
Mất 1 cái gì đó,
mỗi ngày, mọi ngày.
Chấp nhận vô thường, mất nhộn nhịp
Nào chùm chìa khóa,
Nào những giờ phút qua đi một cách đếch
ra cái chó gì!
Nghệ thuật mất đâu có khó để mà
làm 1 bậc đại sư phụ.
Rồi thực tập nó, làm
sao mất mau lẹ hơn, xa mãi hơn: nơi chốn, tên tuổi,
những thánh địa mà bạn hằng mong thăm viếng
[căn nhà ở đường PDP ư?]
Chẳng có cái chi trong ba thứ làm xàm
đó sẽ mang đến thảm họa
Tớ mất cái đồng hồ của
mẹ tớ.
Mà nhìn kìa, căn nhà sau cùng,
kế cái sau cùng, của ba căn nhà thân thương,
thì đều đi đong!
Nghệ thuật mất, dễ ợt, không học cũng thành bậc
sư
Gấu mất một thành phố,
rồi hai thành phố, toàn những thành phố cực thân
thương.
Rồi rộng rãi hơn, thoáng hơn, Gấu mất mẹ một
đất nước.
Vài cõi Gấu sở hữu, hai con sông, một
đại lục
Gấu nhớ quá, làm sao không, nhưng đếch
phải 1 thảm họa
Ngay cả mất Em (một giọng nói
tếu tếu, một cử chỉ mà Gấu cực mê),
Gấu không nói dối. Thì hiển nhiên
rồi, nghệ thuật mất thì không khó làm chủ
Tuy rằng, nó cẩm như (Này, viết
ra liền nhe!), một thảm họa.
Whoever wishes
to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in forgetting
absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice Blanchot
Người nào mong mỏi hoài
nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên,
tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên
tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này
mà kỷ niệm được hình thành.
Người ta biết rằng sẽ quên, không
chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng
nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó
mà .
K
I seek the crucial region of
the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và
tình anh em đụng độ (1)
Nhà phê bình văn học Đặng
Tiến lẽ ra cũng thuộc vào những người lĩnh lấy công
việc này. Đặng Tiến, khi Đinh Hùng qua đời, thậm chí
còn là nhân vật quan trọng nhất nhận ủy thác
tinh thần của một quá khứ vừa kết thúc.
Thế nhưng, đặt Đặng Tiến ở trong so sánh
với Tạ Chí Đại Trường (đây chỉ là một cách
nhìn) thì thấy rõ ngay: trong thời gian miền
Nam còn tồn tại, cách tồn tại của Đặng Tiến rất giống
Chế Lan Viên bất hủ của câu thơ “Ta đã tính
Vàng Sao từ thuở ấy”.
Đặng Tiến còn ở mức độ tinh vi hơn nhiều:
ở trong cái sự nhất định không chịu in sách của một nhà
phê bình nổi tiếng (Vũ trụ thơ giống như một
lần sơ sảy, Đặng Tiến bị đặt trước sự đã rồi, và ngay trong
đó nhà phê bình cũng thể hiện mình không
mong muốn cuốn sách này), tôi nhìn thấy một ý
hướng không để lại dấu vết.
Để tiện lợi trong xoay xở về sau. Và
về sau, quả thật Đặng Tiến nhanh chóng trở nên thân
thiết với những Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài
etc., và những bài viết về các nhân vật
văn chương miền Nam của Đặng Tiến ngày càng hời hợt,
chiếu lệ. Chỗ đứng chênh vênh như thế, đâu có
thể nào giống như năm 1967 khi Đinh Hùng qua đời được.
Nhất là, khi Đặng Tiến chiêu tuyết
cho Tô Hoài và Võ Phiến gần đây, thì
mọi sự đã chạm đáy. Cỡ Đặng Tiến mà không
đánh giá đúng được văn nghiệp của Võ
Phiến hay Tô Hoài ư? Chẳng bao giờ tôi tin chuyện
đó.
Tư thế như vậy thì dẫn tới nhìn
nhận như thế mà thôi. Một nhà phê bình
quan trọng ở chỗ nói đúng những gì mình
nghĩ, chứ còn nói những điều để người khác thích,
thì đâu cần đến nhà phê bình. Thật
ra điều này đã được gieo mầm ngay từ bài viết về
Đinh Hùng cách đây nửa thế kỷ: hồi ấy ấy, đã
được mở cửa cho vào, nhưng
rốt cuộc Đặng Tiến, dường như sợ hãi vào đúng cái
khoảnh khắc không được phép sợ hãi, đã nhắm
tịt mắt lại, và cái nhìn về Đinh Hùng năm
ấy vẫn chưa hoàn chỉnh. Về sau này, gần đây, Đặng Tiến
rất tích cực quảng bá bài viết của mình về
Thanh Tâm Tuyền. Nhưng, Đặng Tiến, đã chối bỏ tư cách
nhà phê bình của mình, đâu có đủ
tư cách để bàn về thơ Thanh Tâm Tuyền?
Tạ Chí Đại Trường, và một số
người nữa, đã đi trọn vẹn con đường của mình. Con
đường phải đi thì phải đi thôi, sao mà có
chuyện lệch bên này bên kia được. Khôn ngoan
thì lại hay dẫn tới vực thẳm, thế mới oái oăm.
Note: Mới đọc được khúc trên: NL vs DT
?
Mới nhìn thấy cái hình ông
chánh tổng An Nam ở Paris, ở Hà Nội (?) với 1 bó
hoa to tổ bố, cười thật tươi, và 1 cái còm, cười
tươi hơn hoa!
Cỡ Đặng Tiến mà không
đánh giá đúng được văn nghiệp của Võ
Phiến hay Tô Hoài ư? Chẳng bao giờ tôi tin chuyện
đó.
NL
Thú thực, Gấu không đọc ra câu văn.
Bởi là vì VP, dễ đánh giá,
như NL đã từng, nhưng Tô Hoài, không dễ
đâu, theo GCC.
Chiêu tuyết? Từ này, Gấu cũng không
nắm được nghĩa, ở đây.
chiêu tuyết
Từ điển trích dẫn
1. Rửa sạch oan ức. ◇Nho lâm ngoại sử 儒林外史: "Na
dã thị tha học lí kỉ cá tú tài
vu lại tha đích, hậu lai giá kiện quan sự dã
chiêu tuyết liễu" 那也是他學裡幾個秀才誣賴他的, 後來這件官事也昭雪了 (Đệ ngũ thập tứ
hồi).
Từ điển Nguyễn Quốc Hùng
Làm sáng tỏ nỗi oan — Rửa hờn — Chữ Chiêu
cũng viết 招.
DT mà rửa sạch oan ức cho Võ Phiến và
Tô Hoài?
Vả chăng, hai đấng này oan ức ra sao mà
phải rửa sạch?
Khó hiểu quá!
NQT
Liệu chúng ra cũng có thể tóm
tắt, như thế, về TTT:
Ông ta là 1 tên Bắc Kít.
Tác phẩm của ông ta thì cũng
thế!
Cả 1 cõi thơ TTT, có thể nói,
đầy ắp Hà Nội, nhất là trong Tôi không
còn cô độc, Liên Đêm…
Con đường tình tự Ga Hàng
Cỏ
Nụ hôn đầu ôm mái
tóc lang thang
Đâu phải mưa ô buy vào
thành phố
Nửa đêm Hà Nội
Anh sợ cái cột đèn
đổ xuống....
Toàn những hình ảnh
của Hà Nội
Chỉ đến khi đi tù - trở lại
cố quận – thì người đàn
bà Nam Kít, xuất hiện, như hình ảnh của
một quê hương mới, chốn trở về sau khổ lụy.
Face à face sur le plateau
d' « Apostrophes », le 30 mars 1979, Anthony Burgess
et Gunter Grass (au premier plan), Alberto Moravia et Bernard Pivot.
Nhìn cái hình
những nhà văn nhớn xuất hiện trên chương trình
văn học “Apostrophes” của Pivot, trên TV Tẩy, thì lại
nhớ, đọc đâu đó, cái vụ "em" TK gọi điện thoại
TTT, xin nói chuyện, và chắc là cũng có
ý phỏng vấn phỏng viếc gì đó, cho đài phát
thanh Tẩy, ông đếch thèm trả lời. Nghe nói,
em quê quá, gần như phát điên, hà,
hà!
GCC cũng bị 1 lần như vậy!
Lần đó, NDN từ Montreal
xuống, bàn chuyện làm nhà xb, GCC xăng xái,
để xin ý kiến, và có thể, xin bài,
xin sách TTT.
Gọi, gặp bà xã, chị Mai Hoa. Chị
vui vẻ nói, anh ra ngoài, mua tờ báo, chú
chờ anh về, gọi lại.
Chờ, gọi, phôn reo, không ai trả lời.
Bữa hôm sau, GCC phôn, xin gặp ông
anh, ông bực quá, phán, không được cho
bất cứ ai, số điện thoại của tao, nghe!
PS. Tôi thấy một số người
liên hệ đến Tố Hữu và thơ của Tố Hữu. Sự thật là
sau khi Stalin chết có vài ngày, Hoàng
Cầm đã viết một bài thơ dài rất cảm động khóc
Stalin, in trong tập "Bên kia sông Đuống" (bản hồi đó
chứ không bản sau này).
Blog NL
Trên thế giới, nhiều nghệ
sĩ thứ thiệt viết/làm thơ/vẽ Xì. Gấu nhớ, có
cả Auden nữa. Picasso cũng chơi 1 bức về Xì [Steiner có
nhắc tới]. Tuy nhiên, Mít chúng ta chỉ nhớ bài
của Tố Hữu, vì khóc thảm quá, và, theo
Gấu, có 1 mối liên hệ tình cảm, nghệ sĩ gì
đó, giữa hai người, theo cái nghĩa, nghệ sĩ và
đao phủ thủ cùng ngự trị ngai vàng của Kundera.
Tào Tháo bảnh
hơn Lưu Bị, vì biết làm thơ. Trong đám VIP/VC
ở Bắc Bộ Phủ, chỉ có Tố Hữu biết làm thơ - thơ cách
mạng của ông mà chằng thần sầu ư - rành về giới
văn nghệ nhất.
Nguyễn Đình Thi chiếu dưới, về địa vị.
Hoàng Cầm thì lại còn chiếu
dưới nữa.
"Mộ chí của tên
Độc Tài", của Auden, dành cho Tố Hữu, cũng có
thể được, vì đám tinh anh Bắc Kít hồi đó,
sợ ông nhiều nhất, so với tất cả băng còn lại.
Hoàng Cầm làm
thơ khóc Xì thì làm so được với Tố Hữu, chắc
là vì thế.
Vả chăng, HC thì cũng đã từng ngồi
nắn nón viết tự kiểm để xin Tố Hữu tha, về nhà làm
thơ, tìm lá diêu bông, và rất
lấy tự hào về việc mình làm. Có tí
hách xì xằng tí nào đâu, kể cả
về mặt độc tài, lẫn nghệ sĩ.
Tố Hữu, có, cả hai.
Gấu thú nhất, Tố Hữu phán về vụ Hoàng
Cầm được giới nghệ sĩ, hay chính trị gia mũi lõ
xuống đường, ký tên, yêu cầu tha, thế hả, thế
thì cho hắn đi tù thêm vài tháng
nữa cho ta!
Tuyệt cú mèo!
Epitaph on a Tyrant
Perfection, of a kind, was what he
was after,
And the poetry he invented was easy to understand;
He knew human folly like the back of his hand,
And was greatly interested in armies and fleets;
When he laughed, respectable senators burst with
laughter,
And when he cried the little children died in the
streets.
January 1939
W.H. Auden
Bia mộ Bác Hát
Bảnh, thật bảnh - kiểu đó -
đó là cái mà Hắn tìm
Và thơ Hắn phịa ra - hoặc chôm của
Tẫu – thì thật dễ hiểu
Hắn rành sự khùng điên của
con người như lưng bàn tay
Hắn rất quan tâm tới những binh đoàn
kéo nhau ra tiền tuyến
Khi Hắn cười, cả bộ sậu Bắc Bộ Phủ bò ra
cười
Và khi Hắn khóc những đứa trẻ chết
như rạ ở đường phố Xề Gòn
Về sau này, gần đây, Đặng Tiến
rất tích cực quảng bá bài viết của mình
về Thanh Tâm Tuyền. Nhưng, Đặng Tiến, đã chối bỏ tư cách
nhà phê bình của mình, đâu có
đủ tư cách để bàn về thơ Thanh Tâm Tuyền?
NL
Được, được!
Theo GCC, bài viết tệ nhất của DT, là về
Thảo Trường, đăng trên BBC.
Nhân nhắc tới TTT, thì bèn nhắc tới
thơ nhạo nhại TTT của NDT.
Tay thi sĩ dởm chuyên nghề nhạo nhại này bỏ
đi sớm, hình như thế, nhưng chắc chắn là chưa từng
đi tù VC, nên chưa biết đến thứ thơ, nhạc nhại chính
thống của Nam Kít, trong tù VC.
Nhớ, lần đầu nghe Tình Đất Đỏ Miền Đông, ở
Đỗ Hoà, Gấu ngộ ra, đây mới là bản chính
của nó:
Cái gì gì, cây cuốc cong rồi
cây cuốc gãy....
Hay,
Tổ quốc ơi, ăn khoai mì, chán quá!
Từ trận thắng hôm nay,
Ta ăn độn dài dài!
Tại làm sao, khi đọc Trầm Tư của Hồ Hữu Tường,
khi HHT mơ Phật trở lại thế gian, TTT lại nghĩ đến cánh đồng
Bắc Kít chằng chịt, bờ nhiều hơn ruộng?
Và, khi cánh đồng Bắc Kít liền thành
1 dải, nhờ chính sách lao động tập thể của Vẹm, thay
vì Phật, Quỉ Đỏ xuất hiện.
Liệu đây là 1 ác mộng của TTT, như
những ác mộng của Kafka, tiên đoán thế giới toàn
trị?
Cái sự không làm sao đọc được 1 nhà
thơ Nga, như Osip, của những nhà thơ như Hass, hay Auden,
là do họ không làm sao cảm nhận ra được cái
sự khủng khiếp của Cái Ác Á Châu, đến mức
nào. ]
Xì đâu có phịa ra được 1 tội ác
nào mới mẻ: chúng có sẵn trong lịch sử Nga.
Với xứ Bắc Kít, chẳng khác. Đám hậu
duệ Vẹm ở trong nước thi nhau đổ tội cho Đảng, về những tội ác
giáng xuống đầu dân Mít, nhưng Đảng đâu
có cấm chúng nhỏ… 1 giọt nước mắt cho Trại Tù
VC dành cho Ngụy?
Một khi lấy được Miền Nam 1 phát là Cái
Ác Bắc Kít, lưu cữu 4 ngàn năm trong những
ao tù đóng váng, lập tức, như xổ chuồng, bèn
nở rộ.
Phan Khôi chẳng đã nhắc tới Cỏ Cụ Hồ, tức
Bông Cứt Lợn, xuất hiện ở mảnh đất Điện Biên, cùng
lúc với Vẹm ư?
Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình
cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ
được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người
(đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ
nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái
tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra,
mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang
vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa,
đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt
lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó
đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có
sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể
sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao
giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Bây giờ đọc lại Phan Khôi, liệu chúng
ta có thể hiểu ông nhiều hơn, khi không giản lược
câu chuyện ông kể, về Cỏ Cụ Hồ, chỉ là một cách
xả xú báp của một vị thâm nho, trước chế độ độc
tài, theo suy nghĩ châm biếm, hài hước là
khí giới của kẻ yếu thế. Trong Nhân
Văn Giai Phẩm, ông kể chuyện Điện Biên, và sự xuất
hiện một thứ cỏ tại vùng này. Cỏ nở hoa, "không thể
ngửi được". Người Miền Bắc gọi là hoa cứt lợn (heo). Nhưng người
dân Điện Biên vì thấy cỏ xuất hiện cùng lúc
với quân đội Cộng Sản, nên gọi là Cỏ Cụ Hồ.
Tuy nhiên, giấc mơ Phật trở lại xứ Mít của
HHT, được Steiner cùng cảm nhận và chia sẻ, và
cái nhìn của ông, còn giải thích cái
sự không làm sao đọc thơ Osip của Hass.
Có một nghịch lý
về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak,
những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới,
trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt
của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và
những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không có
chúng là không xong. Chúng ta không
thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của
chúng ta và của nhân loại nói chung, nếu không
có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng,
theo dòng lịch sử, chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có
thể so đo kèn cựa được với văn học Nga, nếu nói về tính
phổ quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải là
người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn
luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo.
Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén
một bản văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật
dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà
giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những
tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có
một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý,
đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước
ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan
tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những
mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương,
của giới quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn
học cao và Âu Châu hóa được những nhà văn
Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova
bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con
nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này
có thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều
ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức
độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy
tưởng tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha
và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình,
hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị
em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng
như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào
một bản văn thì đã làm méo mó, sai
lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì
không thể chỉ là do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm
duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa
ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày
ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng
một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ”
của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào
người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân,
thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của Nga hiện hữu
“mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài
kiểm duyệt, nhìn chỗ nào cũng thấy có cặp mắt của…cớm,
vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm như thế, nó chửi bố chế độ, nó
mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực tiếp, hoặc
với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính
quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà Thờ, hoặc Mác
Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà Nga có 1 thật câu thật
hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít],
nhà văn nhớn là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ,
đổi chiều”, “the alternative state”. Những cuốn sách của người
đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc
nhất - của sự chống đối chính trị.
Trong trò chơi mèo chuột khó hiểu
như thế đó, và nó gần như không thay đổi,
kể từ thế kỷ 18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và
có khi còn cho phát hành, quảng bá
những tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính
nổi loạn, phản động.
Với dòng đời trôi qua, thế hệ này
tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó
- của Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng
là những cái van an toàn chuyển vào miền
tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới chính
trị, mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng,
săn đuổi những nhà văn-từng người, tống vào tù, cấm
đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa
đôi bên.
Một kẻ ở bên ngoài, không phải Nga,
chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào
nỗi đau khổ của Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù
của Dostoevsky ở Siberia, cuộc chiến đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt
của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục lục dài những
kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái
biên nhận về sự thành tựu văn học Nga thế kỷ 20, và
anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo, dính
líu vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân
Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta dí mũi
vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và
dễ dãi của đồng nghiệp Tây phương. Thường xuyên, trọn
ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta.
Và để đổi lại, là mạng sống của anh ta, nói cách
khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời mình, suốt
địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự
cũng không nói trọn sự thực, nó vẫn giấu đi ở trong
chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác,
nó thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ
sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga là một lịch sử
của đau khổ và nhục nhã gần như không làm
sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì
đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi
dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái
gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết
sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào
một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó,
là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa
thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có
1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên
của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay,
nó cũng có thể được hoá thân vào trong
chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là
Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần
Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm
tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo,
về một rạng đông thiên niên kỷ của
một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên,
tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn
lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung
của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức
của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có
một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người
đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của
nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa
quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa
bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó
gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng
chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có
thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong
giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một
hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là
tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì
quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ
không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng
trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều
ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân
ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không
phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự
kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan
Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận
thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa
chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại,
riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén
được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng
1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi. Những
đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu
gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái
lương tâm ù lì của Tây Phương, thì
rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng
họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một
thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì
chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo
kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri.
Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh
miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã
anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên
hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó
là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu
ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm
hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan
niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác
định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng
nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó
giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số
mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì
không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết,
nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u
minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được
sự sống sót.
"Seldom can a year have been blackened before its
time as effectively as George Orwell did to 1984."
Họa hoằn lắm mới có 1 năm, bị bôi đen
ngòm, trước thời gian của nó, hiệu quả, như Orwell
làm, với cái năm 1984.
Ui chao, Steiner đếch biết, TTT cũng đã làm
y chang, với Bếp Lửa 1954!
Le premier, Bêp lua (Foyer
du feu, 1954) décrit l'ambiance de Hanoi avant 1954, où
ceux qui partent comme ceux qui restent sont contraints à des
choix forcés, la séparation ou la mort. La réaction
de la critique des écrivains révolutionnaires fut immédiate.
Dans un compte rendu de Van Nghê (Littérature et Art),
un critique m'a demandé : « Pendant que le peuple du nord
du pays est en train de livrer toutes ses forces pour construire
le socialisme, où va le personnage du Foyer de feu ? » J'ai
répondu : « II va vers la destruction de l'histoire »,
chaque écrivain est un survivant.
Le Huu Khoa dịch sang tiếng Tây, trong Mảng Lưu Vong
Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không
khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là
những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập
tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà
phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân
miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa,
nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh
ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một
kẻ sống sót.
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù (1)
Lần Sến cô nương lôi bài viết
‘sao dám ghét ta la bà’ về Chợ Cá, và
‘bạn hàng’ chê ỏng chê eo, Gấu bèn đi
một đường ‘tự sướng’:
Phải đọc Tin Văn trong tinh thần chờ đợi, tự mình
khám phá ra, một định luật văn học, định luật này
chẳng thua gì định luật “vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý
học, của Newton!
Ấy là Gấu mô phỏng Koestler, khi ông
coi Newton như là một ông nhạc trưởng của một dàn
nhạc đại hoà tấu. Theo nghĩa:
Những hiện tượng vật lý, thí dụ như
thuỷ triều, làm sao anh qua nổi con trăng này?, trái
sầu riêng rớt trúng đầu… chúng có vẻ như
chẳng ăn nhập gì với nhau, cho đến khi Newton xuất hiện, và
giơ cao cây đũa thần, thế là mọi thứ y khuôn một
phép, ai vào vị trí đó, cùng tấu
bản đại hoà tấu “vạn vật hấp dẫn”!
Những trang Tin Văn tản mạn, không đầu không
đuôi, làm xàm, bá láp…
cũng đang chờ một độc giả xuất hiện, và giơ cao cây
đũa thần, và thế là bản “Diệt Cái Ác
Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa vừa thôi cha nội!
Sắp chết - chết đến đít rồi, sắp gì
nữa - hiền đi là vừa rồi!
*
Nếu vậy, thì lấy câu dưới đây,
làm "blast" cho Tin Văn:
"These fragments I have shored against my ruins”
[Những mảnh miểng này, tôi vun vén
nhằm chống lại nỗi điêu tàn của tôi:
Ôi, ôm Em trong tay mà đã
nhớ Em những ngày sắp tới].
Đây là câu thơ – These fragments…
- kết thúc Hoang Địa, The Waste Land, của Eliot.
Câu thơ đưa chúng ta trở về với Xuân
Sách, khi ông hỏi Chế Lan Viên:
Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có Điêu Tàn? (1)
Nhân nhắc tới Xuân Sách. Theo GCC, sở
dĩ những bức chân dung nhà văn của XS, “cực” ăn khách,
đến nỗi có những vị thèm được ông chiếu cố, để mắt
tới, là do tính “tiên tri” của chúng.
Thí dụ như “điêu tàn ư, đâu chỉ
điêu tàn”, tiên tri ở chỗ, “đâu chỉ điêu
tàn?”.
XS nhìn quá chân dung, tới cái
bóng của chúng, và trong đó, có,
của chế độ, được phóng chiếu lớn ra, rõ ra.
Sự kiện, NL chê đám trong nước không biết
gì đến Steiner, theo GCC, đáng chê trách
hơn nhiều, ở cái khiá cạnh này: S. là chuyên
gia về văn học Nga. Lũ phê bình gia ở trong nước như Vương
Đại Gia, tự hào, chúng rành văn học Nga. Chúng
chẳng biết gì về văn học Nga, như những Steiner, hay Remnick, hay
Wilson... Trong cuốn “Steiner ở tờ the New Yorker, S. at the New Yorker”
có hai bài về Liên Xô, đúng hơn, về
Solz, quá tuyệt. Do Cô Út làm từ thiện, Gấu
đành phải order, mua lần thứ nhì, và sẽ giới thiệu
mấy bài viết mà GCC quá mê, ở trong đó,
thí dụ, bài tưởng niệm Koestler, bài viết về BB [Bertold
Brecht]….
Steiner có hai bài viết
trên tờ The New Yorker,
[sau in lại trong Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt.
Một, “De Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những
nhà văn Nga khác: Dưới cái nhìn Ðông
phương, Under Eastern Eyes.
Steiner viết, những đòi hỏi
của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông [bao
nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương,
thì thật là dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết,
và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người đọc Tây
Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant
suffering, của họ. Ông rành chúng ta, hơn là
chúng ta rành ông. Và như thế, ông là
một tác giả hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn
ăn tìm sự yếu ớt về thể xác của con người. Và, vẫn
như thế, ông là 1 tác giả gây bực.
Every time a human being is flogged,
starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in the fabric
of life. It is an additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket
the irreparable fact of individual agony with anonymous categories of statistical
analysis, historical theory, or sociological model-building. Consciously
or not, anyone who offers a diagnostic explanation, however pious, or even
condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness
of the death by torture of this man or that woman, of the death by hunger
of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular.
As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He
knows that if we are to pray for the tortured dead, we must commit to memory
and utter their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
Mỗi một sự sỉ nhục, mỗi một
sự tra tấn giáng lên một con người là một trường
hợp riêng lẻ không thể giản đơn và không thể
đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh đập, bị bỏ đói,
bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm
lại mở toạc ra trên tấm dệt đời. Đây là một sự bẩn
thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn
có tính cá biệt, và phủ lên sự vô
phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá nhân, bằng đủ
thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê,
về lý thuyết lịch sử, hay xây dựng mẫu mã xã
hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm
cách đưa ra một lời giải thích chẩn đoán, dù
có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ
trích đi nữa, cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến
gần như quên béng đi tính cách cụ thể không
thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này,
bà kia, hoặc cái chết vì đói khát
của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của
khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy ra với Dante,
và Tolstoy, tên riêng của con người trào ra
như thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết,
nếu chúng ta cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn,
chúng ta phải nhập tâm và thốt lên tên của
họ, trong dòng kinh cầu hồn không ngừng, từng tên một,
hàng triệu tên.
DE PROFUNDIS
THE EXACTIONS ALEXANDER Solzhenitsyn makes of his
clandestine readers in the Soviet Union
(how many are there?) and of his vast Western public have a shrewd ferocity.
He knows and despises the readiness of sympathetic response in his
Western audience, the vaguely prurient appetite for distant suffering.
It is not so much we who read Solzhenitsyn as it is he who reads us.
As Tolstoy was during his later years, so Solzhenitsyn is a searcher-out,
a harrier of men's debilities, and an embarrassment to the world.
Solzhenitsyn,
a theocratic anarchist, has little esteem for reason, particularly
when it stems from the "intellectual," from the man who makes his more
or less mundane living by dispassion. In the presence of the inhuman,
reason is often a small-indeed, a laughable-agent. It can also be subtly
self-flattering, and Solzhenitsyn plays harshly on the facile "objectivity"
of those who would argue with him, who would try to be "reasonable" without
having been exposed to even a millimeter of the archipelago of pain. What
has historical analysis to say in the presence of Solzhenitsyn's own sufferings
and the cry he has sent through modern history? Each indignity visited
upon a human being, each torture, is irreducibly singular and inexpiable.
Every time a human being is flogged, starved, deprived of self-respect,
a specific black hole opens in the fabric of life. It is an additional
obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable fact
of individual agony with anonymous categories of statistical analysis,
historical theory, or sociological model-building. Consciously or not,
anyone who offers a diagnostic explanation, however pious, or even condemnatory,
erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the
death by torture of this man or that woman, of the death by hunger of this
child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular.
As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen.
He knows that if we are to pray for the tortured dead, we must commit to
memory and utter their names, by the million, in an incessant requiem of
nomination.
But
the mortal mind is so constructed that it cannot contain, in genuine individuation,
more than a thimbleful of known presences. At least twenty million
men, women, and children were done to death in the Stalinist purges.
If we possess a vivid inward perception, we can visualize, we can number,
and, in some measure, we can identify with fifty persons, perhaps a
hundred. Beyond that stretches the comfortable limbo of abstraction.
So if we are to understand at all we must try to analyze, to classify,
to put forward those reveries of reason which are called theories.
It is
a platitude older than Thucydides that in the exercise of political
power the human species can and will turn to bestiality. Massacres
have punctuated the millennia with strident monotony. The routine treatment
of slaves, of familial dependents, of the crippled or the crazed in
epochs and societies we now look back to as of eminent artistic, intellectual,
or civic splendor is such as to numb the imagination. Oases of compassion
were few and far between. (Hence the Christian promise of a compensating
Heaven.) No one really knows whether or not grass did grow again where
Genghis Khan had passed; there was no one left to look. Throughout large
stretches of Central Europe
during the Thirty Years War, there were only wolves left to devour the wind.
But
there was an Indian summer, a relative armistice with history, in the luckier
parts of Western Europe and the United States during much of
the eighteenth century, and again between the close of the Napoleonic
wars and 1914. The constant of savagery lay in the hands of specialized
professional armies and had been exported to the frontier or the colonies.
Voltaire was not a naive Utopian when he foresaw the disappearance of
torture and mass reprisal from political life. The signs were positive.
General Sherman's Hunnish tactics looked like an isolated, embarrassing
atavism.
It is
the Armenian massacres of 1915-16 that are at once pivotal and problematic.
Were they, as some have argued, a nightmarish epilogue to a long history
of "barbarian" invasion and ravage, a throwback to the world of Attila?
Or were they, as others contend, the opening of the age of holocaust
and genocide? And what, if any, are the psychological and technical
links between the deliberate murder of one million Armenians by the
Turks and the exactly contemporary hecatombs on the Western front? Whatever
the diagnosis, the overwhelming fact was that political, nationalist
man, equipped with unprecedented weapons, had remembered or rediscovered
the logic of annihilation.
It is
according to this logic that we have conducted our affairs since.
The logic has entailed the insanity of mass homicide from 1914 to 1918
(almost three-quarters of a million at Verdun alone), the eradication of civilian
sites and peoples, the planned poisoning of the natural environment,
the wanton killing of animal species, and the Nazi murder of Jews and
Gypsies. Today, this same logic entails the cold-blooded eradication of
native tribes throughout Amazonia, the ubiquity in Uruguay and Argentina
of a degree of torture and terror which matches anything known of
Stalin's thugs and the Gestapo. Today, at this minute, it is a logic
that underwrites the suicidal bloodletting in Cambodia.
The Gulag has no real borders.
This
is not to diminish by one jot the specificity of Solzhenitsyn’s reports
from Hell. But it is to ask in what ways the Soviet edifice of servitude
and degradation is or is not a segment of a more general catastrophe.
Solzhenitsyn himself is not clear on this issue. The first two volumes
of the Gulag chronicle contained crassly peremptory asides on the distinctions
to be drawn between Nazi and Stalinist practices. Solzhenitsyn made
much of the (undoubted) truth that Stalin had slaughtered many millions
more than had Hitler. (At full tide, as Robert Conquest has shown in
his classic studies, the Soviet camps comprised some eight million inmates.)
Solzhenitsyn even advanced the supposition that the Gestapo tortured to
elicit the "facts," whereas the Russian secret police tortured to produce
false witness. No such vulgarities mar this third volume, The Gulag Archipelago
Three (Harper & Row), but Solzhenitsyn remains undecided as to where
and how the Gulag fits into the texture of Russian history and of the Russian
temper. At some points, he voices the belief that oppression from above
and obeisance to brute authority by the great mass of the population characterize
the Russian spirit. But at other points he hammers at the specifically
Bolshevik nature of the regime of terror, a regime initiated by Lenin,
brought to lunatic efficacy by Stalin, and continuing in madness today
on a less apocalyptic scale. Solzhenitsyn frequently and sarcastically
contrasts the relatively benign deviltries of the czarist punitive apparatus
(as reported by Chekhov or Dostoevsky) with the consuming bestiality of
the Soviet solution.
If Solzhenitsyn
were to be asked whether the reversion of modern political man to
mass torture, incarceration, and murder represents some general phenomenon,
or whether each instance is an appalling singularity, he would, I imagine,
say something like this: When mankind rejected the true meaning and
urgency of Christ's example, when it turned to secular ideals and material
hopes, it severed its history and political institutions from compassion,
from the imperative of grace. A politics or a social bureaucracy divorced
from theological sanction has within it, ineluctably, the mechanics of
nihilism, of self-destructive wantonness. The Gulag-planet, the ubiquity
of torture and homicide in our public existence, is only the most dramatic,
the most shameless manifestation of a pervasive inhumanity.
It is
this theological-penitential reading of man's condition which underwrites
the most eccentric but also the most deeply felt of Solzhenitsyn's
dogmas: his detestation of secular liberalism as it flows from the
French Revolution; his distaste for the Jews, in whom he sees not merely
the initial refuses of Christ but the radical libertarians whose restlessness
culminates in Marxism and utopian socialism; his contempt for the "degenerate
hedonism" and conspicuous consumption in Western societies; his undisguised
nostalgia for the theocratic aura of Orthodox-almost of Byzantine- Russia.
This
is an isolating, often maddening set of theses. It has against it
an alliance, at once ludicrous and, to Solzhenitsyn, entirely natural,
of the K.G.B., Mrs. Jimmy Carter (vide her attempt to rebut Solzhenitsyn's
tirade at the Harvard commencement), and the Swiss tax authorities seeking
to take their tithe of the royalties of their recent guest. Conjoined,
these beliefs of Solzhenitsyn make for a "mystical" explanation of modern
barbarism. It is an explanation that is, by its very nature, impossible
to prove or to deny. But is there a better one?
Many
have tried to find one. The late Hannah Arendt strove to locate the
roots of modern totalitarianism in certain definite aspects of the evolution
of the encompassing nation-state, and of the quality of economic and
psychological collectivism after the Enlightenment. Others have seen
in the concentration and death camps a final enactment, at once logical
and parodist, of the industrial processes of assembly lines and standardization.
I have put forward the "working metaphor" whereby the erosion of God's
presentences from daily life and from the legitimacy of political power
generated the need to institute a surrogate damnation on earth (a Hell
above ground), this surrogate being the Nazi, the Soviet, the Chilean,
and the Cambodian Gulags. But none of these hypotheses are really explanatory.
What we are left with is the central fact: In a way and on a scale inconceivable
to educated Western man from, say, Erasmus to Woodrow Wilson, we have reverted
to or contrived a politics of torment and massacre. From this fact cries
out the only question that matters: Can the infernal cycle be stopped?
Solzhenitsyn,
who has survived not only the Gulag but the cancer ward, is animated
by a raging will. More, perhaps, than anyone since Nietzsche and Tolstoy,
he is mesmerized by and master of the boundless resilience of the human
spirit. His answer would be: Yes, it is possible to stop the juggernaut;
it is possible to repudiate the banality of evil and to say no to those
who would reduce one to a worker in the slaughterhouse. He would say-or
should do so in the blaze of his own vision-that the United States could halt the genocide in
Amazonia, the sadistic circus in Argentina,
the degradations in Chile by withdrawing from
these grotesque regimes the investments, the corporate interests,
on whose largesse they operate. Solzhenitsyn can and must proclaim
that the automatism of oppression can be arrested, because he has seen
it arrested or, at least, ground to temporary impotence in the pits of
Hell itself.
This
is the testimony of the final volume of the trilogy, with its enthralling
record of camp uprisings, of escapes, of defiance by individuals
and groups of victims. Solzhenitsyn records the forty magnificent days
and nights of the revolt of May and June, 1954, in the Kengir camp.
He tells the tale-it is a classic narrative-of Georgi P. Tenno, virtuoso
escaper. In poignant closing chapters, he recalls his own resurrection
from the house of the dead, his own reentry, at once agonizing and joyous,
into the habitual daylight of more or less normal, licensed existence.
Yet
this colossus of a man, so markedly a stranger to common humanity, does
not end his epic in consolation. After nine years of clandestine writing,
Solzhenitsyn closes his trilogy on the grim notice that a century has passed
since the invention of barbed wire. And he, who has seen, lived, recounted
the utmost of resistance, of hope against Hell, implies that it is this
invention that will continue to determine the history of modern man. There
is in the blackness of this great fresco no touch more desperate.
Steiner:
September 4, 1978
[G. Steiner @ The New Yorker]
Phải là 1 tên Nam Kít,
như HTT, thì mới có được giấc mơ Phật trở lại xứ Mít,
và phải 1 nước Nga với 1 niềm tin tôn giáo của họ,
mới có 1 giấc mơ Chúa sẽ trở lại thế gian này:
Hope again Hell.
Bắc Kít quá khốn nạn:
Chúng không có niềm tin tôn giáo. Đây
cũng là điều Ha Jin chửi xứ Tẫu của ông, khi viết về Solz
(1)
Cioran cũng tin rằng,
chính cái sự huỷ diệt Ông Trời của CS là
nguồn cơn của...vô cảm.
Một khi thần thánh
hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ
thành công, là làm cho Thượng Đế trở nên
xa lạ, và trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer
Dieu, le marxisme n'a réussi qu'à rendre
Dieu plus étrange et obsédant. Cioran: Nga xô và
con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la liberté,
trong Lịch sử và Không tưởng, Histoire et Utopie
Người dân Miền Bắc ngày
xưa tin vào Trời Phật. Họ tin có đời sau, tin làm
điều lành thì có lợi cho đời sau, cho con cái,
"đời cha ăn mặn đời con khát nước", thí dụ. Khi CS thắng
thế, họ làm thịt Trời Phật, thay thế vào đó, là
Ðảng. Một khi Ðảng làm bậy, thì hết thuốc chữa.
Tôi [Ha Jin] luôn bị xúc
động bởi sự can đảm của Solz, và sự chấp nhận đơn độc như là
điều kiện làm việc của ông. “Cả đời tôi chỉ xoáy
vào 1 chuyện – làm việc”, ông có lần nói.
Cái làng Cavendish vào lúc đó không
có bác sĩ, theo người viết tiểu sử của ông, D. M.
Thomas, và do đau thần kinh tọa, nhà văn Solz có
tuổi phải đứng ở 1 cái bục để viết. Ðiều làm ông
kiên trì đến như thế thì không chỉ là
do ông dâng hiến mình vào việc viết, nhưng mà
còn là do niềm tin Ky Tô giáo của ông,
chính niềm tin này tạo ở nơi ông một sự kế tục quá
khỏi cuộc đời này
Niềm tin vào đời sau có thể khiến cho 1 con người
sống cuộc đời này không sợ hãi. Trong một cuộc
phỏng vấn trước khi rời Nga, được hỏi, có sợ chết, Solz trả lời
với nụ cười trên mặt: "Tuyệt nhiên không! Chỉ là
1 sự chuyển đổi nhẹ nhàng, bình an. Như 1 tín hữu
Ky Tô, tôi tin rằng có cuộc đời sau cái chết,
và vì thế tôi không tin chết là chấm
dứt cuộc đời. Linh hồn có 1 sự tiếp tục, vẫn sống tiếp. Chết chỉ
là 1 giai đoạn, có người còn nói, một giải
thoát. Trong bất cứ trường hợp, tôi đếch sợ chết.” Trong 1 đoạn
khác, ông nói, “Mục đích của Con Người không
phải là hạnh phúc mà là sự tăng trưởng, nẩy nở
tinh thần”. Ðiều này cho thấy sức mạnh tinh thần mà với
nó, ông hoàn tất tác phẩm của ông khi lưu
vong.
Lời nói của ông làm tôi nhớ đến 1
cuộc gặp gỡ của tôi với một nhóm nhà thơ Tầu ở River
Falls, Wisconsin, vào mùa hạ, 2001. Một trong số họ là
1 bạn học cũ của tôi. Anh rất thích thành phố nhỏ Midwestern,
vì khí hậu và cảnh sắc của nó làm
anh nhớ tới vùng Ðông Bắc Tầu, nơi cả hai chúng
tôi đều từ đó tới. Tôi hỏi anh ta: "Nếu có
thể, ông có tính ở lại thành phố đó
một mình để chú tâm vào việc làm thơ?”
Anh trả lời: “Tôi cần ít nhất 1 người bạn”.
Ðúng là 1 câu trả lời rất Tầu. Ðúng
kiểu Tầu. Tâm hồn người Tầu không trông mong vào
một quyền lực vượt quá con người, như là 1 nguồn nuôi
dưỡng tinh thần. Ðiều này giải thích tại sao rất ít
người Trung Hoa lưu vong ở Bắc Mỹ sống tách biệt, riêng
lẻ, và tại sao hầu hết họ cư ngụ tại những thành phố. Tính
bầy đàn chỉ là mặt nổi của vấn đề, ở dưới sâu là
sự thiếu vắng một niềm tin tôn giáo, chính nó
tạo ra 1 cái nhìn khác biệt về cuộc đời.
Nóng
hổi, 2009: Steiner ở Người Nữu Ước
CONTENTS
Introduction by Robert Boyers
I. HISTORY & POLITICS
"The Cleric of Treason" (on Anthony Blunt)
"Wien, Wien, Nur du Allein" (on Webern & Vienna)
"De Profundis" (on Solzhenitsyn's Gulag)
"God's Spies" (on Graham Greene)
"From The House of the Dead" (on Albert Speer)
"De Mortuis" (on Aries & New French History)
II. WRITERS AND WRITING
"One Thousand Years of Solitude" (on Salvatore Satta)
"Killing Time" (on George Orwell's 1984)
"Black Danube" (on Karl Kraus & Thomas Bernhard)
"B. B." (on Bertolt Brecht)
"Uneasy Rider" (on Robert M. Pirsig)
"Rare Bird" (on Guy Davenport)
"Dead letters" (on John Barth)
"Tigers in the Mirror" (on Jorge Luis Borges)
"Of Nuance and Scruple" (on Samuel Beckett)
"Under Eastern Eyes" (on Alexander Solzhenitsyn &
Other Russians)
"Cat Man" (on Louis-Ferdinand Celine)
III. THINKERS
"The Friend of a Friend" (on Walter Benjamin &
Gershom Scholem)
"Bad Friday" (on Simone Weil)
"The lost Garden" (on Claude Levi-Strauss)
"Short Shrift" (on E.M. Cioran)
"Ancient Glittering Eyes" (on Bertrand Russell)
"A Tale of Three Cities" (on Elias Canetti)
"La Morte D'Arthur" (on Arthur Koestler)
"The Tongues of Man" (on Noam Chomsky)
IV. LIFE STUDIES
"A Death of Kings" (on Chess)
"Give The Word" (on James Murray & The OED)
"An Examined life" (on Robert Hutchins & The University
of Chicago)
Appendix: All Steiner's Essays in The New Yorker
Re: Steiner vs Mít
Độc giả Mít đầu tiên,
có lẽ là Nguyễn Tiến Văn. Anh đọc Ngôn Ngữ và
Câm Lặng từ khi còn Sai Gòn của lũ Ngụy, 1960s.
Anh cũng là người giúp GCC trong cái vụ dịch Steiner,
và khi thấy GCC "mặc khải", đây là Thầy của mình,
anh nhận xét, tôi đọc ông ta và không
“chấn động” gì hết, như vậy ông phải có 1 cái
gì đó, của Steiner, ở trong ông....
Về già, Gấu ngộ ra, cái mà Gấu có,
mà nhờ đọc Steiner, nhận ra, là Cái Ác
Bắc Kít, đúng hơn, nỗi đau Lò Thiêu, Lò
Cải Tạo.
Sư phụ Steiner, ở đây, là 1 vì thầy thuốc,
trong khi ông nhún nhường coi ông chỉ là
1 tên phu trạm, facteur, hoặc, chỉ là bọ chét, trong
bộ lông sư tử.
Trong cuốn trên, còn 1 bài viết cũng thật
tuyệt, về Elias Canetti, nhà văn Đức, Nobel văn chương.
Bài về Weil, 1 vị bằng hữu dịch giùm TV
Simone
de Beauvoir, Mémoires d’une
fille rangée, 1958. S. de Beauvoir nhớ đã từng
nhìn thấy Weil, "Bà khiến tôi tò mò,
do lời đồn, cực kỳ thông minh, và ăn mặc không giống
ai; bà tản bộ trong sân trường Sorbonne, đằng sau là
một đám học trò cũ của Alain, túi áo thủ một
số Libres Propos, túi kia,
một số báo CS. Một trận đói lớn xẩy ra ở TQ, và
người ta kể cho tôi nghe, là nghe tin, bà khóc
ròng. Những giọt nước mắt của bà khiến tôi kính
trọng, hơn, so với tài triết của bà."
Anh Đặng Xuân Diệu vừa trình
bày xong những vi phạm nhân quyền của cộng sản VN
trước hội nghị thượng đỉnh về nhân quyền và tự do dân
chủ tại Geneva, tôi xin trích lại mấy vấn đề anh Diệu
đã trình bày:
- Anh đã cho tất cả những tham dự viên
biết về thời gian anh trong chốn lao tù, anh bị kết 13 năm
tù giam theo điều 79 BLHS chỉ vì đấu tranh muốn thay
đổi xã hội bằng phương pháp viết blog, phát áo
in Hoàng Sa, Trường Sa trên tinh thần ôn hoà,
bất bạo động.
- Anh nhấn mạnh sự tàn bạo trong cung cách
đối xử của cán bộ trại giam với phạm nhân, họ dùng
vũ lực và đối xử với phạm nhân trong điều kiện tồi tệ
nhất. Họ đã suýt lấy mạng anh Diệu trong tù
vì anh cương quyết không nhận tội và mặc áo
tù, với bao lần bị biệt giam, cùm chân, cắt nước,..v/v..
Cụ thể anh bị điều chuyển tới 6 trại giam, mỗi nơi có một cách
đối xử tàn bạo khác nhau, điều này gây khó
dễ và tốn kém cho gia đinhg khi thăm nuôi, anh
tuyệt thực 100 ngày và chỉ ăn 1 bữa trong 300 ngày
suốt hơn 6 năm biệt giam trước khi bị đẩy qua Pháp. Anh kể thêm
việc hành hạ bản thân anh khi không cho gặp người
thân suốt những năm giam tù, họ đối xử phi tự do tôn
giáo trong trại giam, phải tuyệt thực hàng chục ngày
để có một cuốn kinh thánh.
- Anh cám ơn những cơ quan, hội nhóm
quốc tế, nếu không có sự lên tiếng của họ anh
đã chết, và hôm nay anh có mặt tại đây
là minh chứng cho điều đó. Anh đề nghị các cơ
quan, hội nhóm quốc tế quan tâm đến Việt Nam hơn nữa để
tình trạng vi phạm nhân quyền và áp bức
bị xoá bỏ.
- Sau cùng anh có nhắc đến vụ bà
con đi khiếu kiện Formosa và bị công an đàn áp
đổ máu ngày 14/2/2017, họ đánh cả linh mục
và giáo dân.
Tôi chỉ nhớ được nhiêu đó, còn
thiếu một vài chi tiết nữa, ai muốn rõ hơn xin xem
video, tôi sẽ bỏ link bên dưới phần comment.
Chiều ngồi quán Chùa
(La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm
thơ thì phải có "một chút Paris, hay
nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa ơi!
Note: Tên này, bửn
thực!
NQT
Hắn ta có thể chê thơ
TTT, hơn thế nữa, khi ông còn sống, nhóm
Sáng Tạo còn, vì hắn sống cùng
thời với họ.
Bài viết của hắn, đúng
là thứ “ai điếu” mà Brodsky chửi, (1) 1 thứ
thuốc thử đạo hạnh của những tên còn sống, khi
viết về những người đã chết.
Cũng thế, là những gì mà
tên Lang Băm viết về Gấu, khi núp váy 1
người đàn bà, viết cực kỳ nhơ bửn về TTT, về NXH.
Bởi thế mà GCC mới dám phán,
lũ Mít viết văn làm thơ, cả từ Bắc cho tới Nam,
thiếu hẳn “cái gọi là” đạo hạnh. Một tên
thi sĩ như tên “TMBLCP”, thì chôm thơ Joseph
trên trang Tin Văn, rồi phán, đọc đâu đó
trên Thời Tập, trong khi hắn đã từng được TTT coi
là bạn, và đã từng được ông làm
thơ tặng nữa, tếu thế!
Như một đề
tài, cái chết là một thứ thuốc thử mầu tốt
để xét nghiệm đạo hạnh của một nhà thơ. Thể loại
‘ai điếu’ thì thường được sử dụng để rèn luyện trò
thương thân, hay dành cho những chuyến đi siêu
hình nhằm thể hiện tính cao ngạo ngầm của kẻ sống
sót đối với nạn nhân, của đa số (những kẻ còn
sống) đối với thiểu số (những người đã chết). Anna Akhmatova
không mắc mớ gì đến chuyện này. Bà chăm chút
đến cái tư riêng của những người đã nằm xuống,
thay vì biến họ trở thành những trường hợp chung, kể
từ khi bà chỉ viết về 1 thiểu số, và như vậy, thật dễ dàng
cho bà, khi phải nhận dạng trong bất cứ trường hợp. Bà
giản dị viết về họ, coi họ như là những cá nhân
mà bà đã từng quen biết, và là người
mà bà cảm thấy sẽ không bị sử dụng như là điểm
khởi đầu cho bất cứ một hướng đi nào, cho dù đặc biệt ra
sao. Lẽ đương nhiên,
những bài thơ như thế không thể được in ra, ngay
cả chuyện viết ra mặt giấy, hay là chép lại, thì
cũng không. Chúng chỉ có thể được ghi vào
trí nhớ, bởi nhà thơ, hay cùng lắm, bởi dăm
ba bạn thân, kể từ khi mà bà không thể nào
tin tưởng được cái trí nhớ của riêng bà.
Đôi khi, gặp 1 người bạn thân như vậy, tại 1 nơi chốn
riêng tư, bà sẽ nói, này, này, đọc
lại một cách lặng lẽ bài này, hay bài
kia, hay cái sự chọn lọc đó, như là 1 cách
thức để sắp xếp cái ngăn kéo của hồi nhớ, dành
riêng cho thơ. Đừng bao giờ nghĩ, đây là 1 thứ
trò chơi quá trớn, hay cường điệu, hay thái quá:
con người ở đây có thể bị biến mất, biệt tăm biệt tích,
mãi mãi, chỉ vì những điều còn nhỏ nhặt
hơn là 1 mảnh giấy với vài hàng chữ trên
đó. Ngoài ra, bà không sợ, quá nhiều,
cho riêng bà, hay cho cậu con trai đang ở tù, mà
bà quá tuyệt vọng dõng dã 17 năm trời, chờ
mong ngày nhận được giấy phép ra trại. Một mẩu giấy với
vài hàng chữ trên đó gây mất mát,
tổn hại rất nhiều, đối với người chủ của nó, hơn là đối
với bà, một người chỉ còn có thể mất hy vọng, hay
là mất luôn cái đầu, nghĩa là, trở thành
điên loạn. Hỡi ơi, những
ngày của cả hai, - mất hy vọng và điên cái
đầu - sẽ đếm được, khi nhà cầm quyền kiếm thấy “Kinh Cầu”,
một vòng những bài thơ diễn tả tình cảnh, sự
thử thách, của 1 người đàn bà, con trai bị bắt,
và đứng đợi dưới chân những bức tường nhà tù
với gói đồ thăm nuôi, hay chạy hối hả từ những nha
sở này, tới nha sở khác để có được tin tức
về số phận của con. Bây giờ, thời gian chung quanh bà,
thì mang tính tự thuật, đúng như thế, tuy nhiên,
sức mạnh, quyền uy, của “Kinh Cầu” thì hệ tại ở điều, là,
1 tự sự, 1 tự thuật, một nói về mình, như của Akhmatova,
là của chung, ai ai thì cũng xêm xêm như
vậy, [chồng con cải tạo, mẹ hay vợ đi thăm nuôi…, cả Miền Nam
là như thế, và đó là tự thuật]. “Kinh
Cầu” cầu nguyện cho những người cầu nguyện, khóc than cho những
người khóc than: mẹ mất con, vợ biến thành góa phụ,
đôi khi thành cả hai, như trường hợp của tác giả.
Đó là bi kịch khi bản đồng ca cứ thế tàn tạ, cứ
thế lịm đi trước nhân vật. Joseph Brodsky
Note: Cái thuật ngữ "bi khúc",
"elegy", nó có cái gọi là "kinh
cầu", "requiem", của bài thơ thần sầu của Akhmatova, khi
khóc xứ Nga Xô của bà, sau khi lọt vào
tay cái Ác Đỏ.
Đọc Hà Sĩ Phu trả lời
Lý Kiến Trúc, báo Văn Hóa, Cali, trên blog
Sến Cô Nương, Gấu bỗng dưng nhớ tới
ông cụ Gấu, chán thế!
Ông bố của Gấu không
hề theo Việt Minh, vào cái
giai đoạn cả nước theo Vẹm. Mấy đứa con ở lại Miền
Bắc - ông em trai út & bà chị
gái, nữ anh hùng thồ hàng chiến dịch
DBP của GCC - không
hề được VC công nhận là con liệt sĩ.
Gấu
về lại đất Bắc, một phần là cố tìm cho
ra câu trả lời. Gặp cô con gái của
ông chú, Chú Cầm, vào thời
kỳ đó, là huyện uỷ Hạc Trì[Bạch Hạc và
Việt Trì] sau nghe nói, leo lên
đến 1 chức vị gì cao lắm, cũng bị VNQDD bắt, nhưng
trốn thoát. Bà cho biết, ông bố của
bà, cho bà biết, ông giáo Dương,
tức Nguyễn Tái Dương, bố của Gấu, chỉ được “tổ chức”
coi là cảm tình viên của Việt Minh.
Gấu
cũng được biết, qua cô con gái của Chú
Cầm, ông bố của Gấu, bị tên học trò
giết, là do không chịu đại diện cho VNQDD,
ra tranh cử Quốc Hội Vẹm.
Ông
qua sông đúng 30 Tết, dự tất niên
với băng VNQDD chiếm giữ Việt Trì, là
vì vấn đề Quốc Hội Vẹm, hẳn thế, và khi
ông lắc đầu, đấng học trò bèn làm
thịt Thầy, trước khi bỏ chạy VC qua Tẫu.
Như
thế, ông cũng là cảm tình viên
của VNQDD ?
Gấu
tin là ông cụ Gấu, khi phải chọn giữa
Nguyễn Thái Học vàBác
Hồ, đã chọn Nguyễn Thái Học!
Trong bài viết về Koestler
[điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell,
The Literary and political
Odyssey of a 20 Century Skeptic, trong
mục Di sản của chủ nghĩa toàn
trị, Athur Koestler: The Zealot
[“cuồng tín” – thay vì “bi quan”, skeptic],
trong cuốn tiểu luận của ông,Arguably, Christopher Hitchens cho biết, Koestler bỏ
đảng CS, liền sau khi thoát ra khỏi Tây Ban
Nha, vì quá tởm những vụ án thanh trừng
“mần tuồng”, the hysterical faking of the Moscow purge trials,
1938 [ông, sau dùng làm đề tài cho
cuốn Đêm Giữa Ban Ngày].
Koestler diễn tả cái
tởm của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher
Hitchens, đến nỗi ông phải bệ nguyên
văn, vô bài viết của mình:
It is a logical contradiction
when with uncanny regularity the leadership
sees itself obliged to undertake more and more
bloody operations within the movement, and in the same
breath insists that the movement is healthy. Such an
accumulation of grave surgical interventions points with
much greater likelihood to the existence of a much more serious
illness.
[Thật
khốn kiếp khi, một mặt, cứ tiếp tục thanh trừng nội
bộ, cùng lúc phán, Đảng ta đả
biến thiên hạ vô địch thủ, mạnh khoẻ lắm]
Trong
cuốn tiểu luận, có bài
Hội Chứng Việt Nam,
The Vietnam Syndrome, viết về vấn đề
chất độc màu da cam, thú.
Thú
hơn nữa, nó làm Gấu nhận ra, trong
cái gọi là “hội chứng Mít”, có...
“hội chứng Tẫu”!
Christopher
Hitchens giải thích, bằng tiếng La Tinh:
Mutato nomine de
te fabula narratur: with the name changed, the
story applies to you.
Cứ thay
cái tên đi, là nó áp
dụng vô ngay tim, ngay hồn lũ Mít. Đâu
có phải là chúng không
biết thằng Tẫu khốn kiếp đâu. Suốt chiều dài lịch
sử, một mặt chống Tẫu, một mặt mở nước về phía Nam,
làm cỏ mọi giống dân yếu hơn, ít người
hơn, vậy mà đùng 1 phát, rước chúng
vô nhà, vô giường, để ăn cướp cho bằng
được Miền Nam. Gấu thêm vô,
còn "hội chứng nhân quả" nữa, ở đây.
Trong Quần đảo Gulag, Solz dành một chương
viết về những quốc gia lưu vong, Tin Văn sẽ scan ấn bản rút gọn. So sánh với
Mít, quả là toàn thể một miền đất
- Miền Nam – sau 1975, xứng đáng được gọi là "quốc
gia lưu vong". Những cú như 10 ngày cải tạo,
kinh tế mới.. như được lấy ra từ sách lược của Người [Stalin]
Với mọi quốc gia toàn thể
tự nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết ra một
ngày nào đó - về cái sự nó
bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái
sự nó bị huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia
như thế, chính chúng, mới có quyền cất lên
tiếng nói của chúng, để nói về tất cả những
gì chúng trải qua: Chúng ta không
có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Solzhenitsyn comes back to this
theme at several points. "The imagination of writers
is poverty-stricken in regard to the native life and customs
of the Archipelago," he writes. How could a Western writer, in
particular, describe the perturbation of a human soul placed in
a cell filled to twenty times its capacity and with no latrine bucket,
where prisoners are taken out to the toilet only once a day! Of course,
much of the texture of this life is bound to be unknown to Western
writers; they wouldn't realize that in this situation one solution
was to urinate in your canvas hood, nor would they at all understand
one prisoner's advice to another to urinate in his boot!
It takes a writer such as Shalamov
to convey something, a tiny human fragment, of the reality
of Kolyma. It takes Primo Levi to describe Auschwitz.
Applebaum: Gulag a history
Phải có nhà văn
như Shalamov để viết về tí người còn sót trong
trại tù Kolyma. Primo Levi để miêu tả Lò Thiêu.
Nhân
vật Lara, một cách nào đó, là bản
gốc, “đẻ” ra những nhân vật như Phương, trong Nỗi Buồn
Chiến Tranh, của Bảo Ninh; Hà, trong Sau Cơn Mưa của Lý
Hoàng Phong; Thanh trong Bếp Lửa, của TTT.
Nếu không có bàn tay lông
lá của Xịa, Pạt chưa chắc đã được Nobel, và
cuốn tiểu thuyết của Pạt có thể cũng không nổi đình
nổi đám đến như thế, đúng như tờ báo Tẩy
phán, XỊA là “agent littéraire” của Pạt.
Bắc
Kít không có thứ "traitre" như Pạt:
Cái sự quảng bá cuốn sách,
ký bản án tử, cho Pạt, tên phản bội, sự
ô nhục của Niên Xô chúng ta. Nhưng chính
Xịa làm cho nó trở thành bất tử.
Và ở trung tâm của nó là
Mắt Bão, của trận bão có tên là
Chiến Tranh Lạnh.
Cái
thứ văn học, tác phẩm VC được quảng bá ở Mẽo,
do ổ VC ở Mẽo xb, những gì gì, Nếu Đi Hết Biển, thí
dụ, chỉ là kít. Ngay cả những cuốn sách
được lũ lâu la, bộ lạc Cờ Lăng, xb thì cũng là
kít.
Phải có 1 cái gì như Xịa
trong vụ này, mới được, và đấy là “khía
cạnh mới mẻ nhất" của cuốn sách ["Bác sĩ Zhivago"],
trong lịch sử tình báo.... như tờ báo Tẩy
viết.
[việc Steiner
thiếu vắng trong sự dịch thuật ở Việt Nam càng cho
thấy thêm trí thức Việt Nam không đủ sức
bao quát các giá trị của tư tưởng thế
giới - bởi vì, một phần lớn, họ chỉ chăm chăm thể hiện
mình rất giỏi, mình công chính,
đồng thời chăm chăm nói xấu người khác, và
trong tập đoàn ấy có vô số giáo sư]
Blog NL
Theo GCC, không hẳn như thế.
Steiner, ít
được cả thế giới quan tâm, không chỉ riêng
với Việt Nam, sở dĩ như thế, là do ông ta
quá quan tâm tới, chỉ 1 vấn đề, Lò Thiêu,
và chính vì quan tâm đến Lò
Thiêu, cho nên, quan tâm độc nhất của ông
ta, là về Thượng Đế, như chính ông ta
thú nhận, khi trả lời tờ The Paris Review:
Những người
buộc tội tôi "tản mạn" (scattering), là họ phỉnh
nịnh tôi đấy. Thị kiến của riêng tôi,
hầu như chỉ xoáy về một điểm. Khi còn là
một gã quá trẻ, tôi cho xuất bản
cuốn Tolstoy hay là Dostoevsky, trong đó, tôi
nhắc đi nhắc lại mãi, rằng điều phân biệt hai
nhà văn này với một Flaubert hay một Balzac,
đó cũng là điều làm họ giống Melville,
và đó là chiều thần học (theological dimension),
tức là câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế. Cuốn
sách nói về điều mà Những Hiện Diện Thực
mở rộng ba mươi lăm năm sau đó. Tôi tin tưởng rằng
có một số chiều nào đó, trong văn chương,
nghệ thuật, âm nhạc, và cả trong triết học: chúng
sẽ không thể nắm bắt được, nếu câu hỏi, có hay
không một đấng Thượng Đế, bị coi là vô nghĩa.
Steiner là
Thầy của GCC, có thể nói như thế. Kỷ niệm
gặp Thầy của GCC, y chang lần gặp TTT, khi được bạn Chất,
đưa đến nhà bạn, và thấy TTT ngồi ở cái
bàn ở góc nhà, hai chân cho
cả lên ghế, theo cái kiểu ngồi chổm hỗm, viết,
chẳng để ý gì đến gì khác. Với TTT,
Gấu ngộ ra cuộc đời của Gấu, sau đó, cái hình
ảnh của ông đó, sẽ là của Gấu sau này.
Với Steiner, có
thể nói, ông trao cho Gấu gánh
nặng Lò Thiêu, và, 1 phần nào
đó, Gấu đã giải ra được, cũng, “một phần
nào” đó.
Sở dĩ những
nhà thơ Mẽo, như Robert Hass, hay như Auden, Anh, không
đọc được những nhà thơ như Osip Mandelstam, là
do họ không làm sao chọc thủng được Cái
Độc, Cái Ác Á Châu.
Đây là
cái ý mà Gấu ngộ ra, khi đọc
Tolstaya, như đã từng lèm bèm nhiều
lần.
Trong bài
Tựa cho cuốn thơ của Osip Mandelstam, mà GCC mới
bê về, dịch giả phán, y chang:
Sở dĩ thơ Osip Mandelstam
không đọc được, vì nó quá
phi nhân, quá lạnh lùng, theo cái
nghĩa, thánh nhân bất nhân, coi
thiên hạ như… kít (sô cẩu):
Thiên
địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu ﹔thánh nhân
bất nhân, dĩ bách tính vi sô
cẩu. Thiên địa chi gian, kì do thác
thược hồ ? Hư nhi bất khuất, động nhi dũ xuất. Đa ngôn
sác (sổ) cùng, bất như thủ trung.
DỊCH NGHĨA
Trời đất bất nhân,
coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân
bất nhân, coi trăm họ như chó rơm.
Khoảng giữa trời
đất như ống bễ, hư không mà không
kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra.
Càng nói nhiều lại càng khốn cùng,
không bằng giữ sự hư tĩnh.
Trong Những bài
học của Sư Phụ, của Steiner, theo GCC, bài "Đừng
thành công" là tuyệt vời nhất!
Alain dậy học trò Simone
Weil, đừng thành công. Weil, trong đời
rất quan tâm đến xứ Đông Dương, và đến
cuộc Cách Mạng Yên Bái của Nguyễn Thái
Học.
Nguyễn Thái Học, khi
thất bại, bị Tây giết, phán, không
thành công thì thành nhân!
Chúng ta cảm thấy, có
1 sợi dây “tâm linh”, liên
quan tới "ne pas réussir", nối kết Alain, Weil,
Nguyễn Thái Học.
Trong Những bài học của
những vị Thầy, Lessons of the Masters,
chương 4, Steiner để nguyên tiếng Tẩy, “Maitres à
penser”, những ông thầy tư tưởng, và giải
thích, cụm từ này không làm sao
dịch qua tiếng Anh được:
Cái cụm từ cực cụm từ,
the very phase, "Maitres à penser” nhốt [confine]
chúng ta vào trong cái mà
Henry James gọi là “cái lồng vàng
của sự không thể dịch được, “the golden cage of the
untranslatable”. Trong tiếng Anh, “Master of thought” nghe "quê
1 cục" [pompous and vacuous]. Ngay cả từ “thinker”, cũng đáng
ngờ, suspect. Dịch qua tiếng Mít, Sư Phụ, nghe thật sướng
lỗ tai, đúng ý Tẩy: Thầy là số 1, ở đâu
cũng có, ngành nào cũng có, Maitre
is ubiquitous. Cái sự thịnh hành nhiều nếp, the manifold
currency, của từ “Sư Phụ” còn vươn tới những liên
hệ giữa “những vì bác sĩ của niềm tin”, "doctors of faith",
y chang Mít: Sư phụ mà phán, là hết
xẩy con cào cào!
Trong chương này, Steiner
viết về “Maitre” Alain, và pupil, học trò
Simone Weil: Khi trò sắn tay áo lo cho những
người thất nghiệp, thầy gật gù hài lòng[When Simone Weil undertook
the direct actions on behalf of the unemployed, her Master noted
his pleasure]. Và dạy, đối với Alain, có nghĩa là
nhắm mức quá tầm với của học trò, khiến
học trò phải cố mà làm cho được [Teaching
should focus just above the pupil's reach, rousing in him or
her effort and will]. Mô phỏng Descartes, Thầy phán,
"I want, therefore, I am", “Tôi muốn, là tôi
hiện hữu, có tôi]. Ở đây "to want" tiếng
Anh, có cả hai nghĩa “to desire” [ao ước] và “to lack”
[thiếu], thực hơn, truer, theo Alain, so với tiếng Tẩy, “Je veux".
Và với Alain, luật đạo đức tối thuợng, the supreme moral
rule, là, "đừng thành công", "ne pas réussir":
Cố nín, cố kiêng khem thành công trong
1 thế giới mà thành công có nghĩa là
phải "compromise", thỏa hiệp.
Cũng trong chương này,
Steiner kể 1 số giai thoại trong khi dạy học của Alain,
thật tuyệt. Thí dụ, vào năm 1928, chừng
90 học trò và thính giả trong 1 lớp
học, nín lặng, fell silent, khi Thầy bước vô lớp,
và tiến tới bảng đen, đi 1 dòng: "Hạnh Phúc
là Bổn Phận", "Happiness is a duty". Hay:
Luật đẹp nhất của giống người
là cái gì không được chiêm
ngưỡng thì mai một:
"It is the most beautiful
law of our species that that which is not admired
is forgotten"
[To U, Sad Seagull]
“We must prefer real hell to
an imaginary paradise”
Simone Weil
(Phải chọn địa ngục thực,
thay vì một thiên đường dởm).
“Không thành công
cũng thành nhân”
Nguyễn Thái Học
Câu của Simone Weil, áp
dụng 1 cách thông minh và thiên
tài vô xứ Mít, đúng cả đôi
đường. Địa ngục thực cũng Mít, mà thiên
đường dởm cũng Mít.
Khỏi cần chọn!
Hai kỷ niệm tuyệt vời nhất của
Gấu, về nghe nhạc Phạm Duy khi ở tù VC, là
lần một bạn tù chơi đàn Tây Ban Cầm
bản Thuyền Viễn Xứ, và
lần 1 anh bạn tù khác, hát lên bản
Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.
Đó cũng là lần
thứ nhất GCC được nghe bản nhạc.
Nhưng để mà được nghe
như thế, thì phải được Ông Trời “chi
ly đến tận chi tiết”, để “hoàn thiện” hai cái
buổi nghe nhạc đó. Bởi vì thiếu, chỉ 1 chi
tiết, là “ọc dzơ”!
Có lần GCC có kể
1 giai thoại về Leibnitz, khi ông giải được 1 bài toán,
tất cả là ảo số, nhưng đáp số thì
lại là 1 số thực [thứ này, sau chúng
ta gặp đầy, trong toán về suite, về série,
nhưng đó là thời kỳ hậu-Leibnitz. Bản thân
Gấu cũng đã từng giải 1 bài toán như
thế, về chuỗi số ảo, như khi nó đến ‘limite’, thì
lại là 1 số thực. Áp dụng vào lý
thuyết Mác Xịt, vào cái cú 30 Tháng
Tư 1975, thì nó như vầy: Trước 1975, là ảo
số, là lý tưởng, là ảo tưởng, là không
tưởng - chủ nghĩa Mác và căn nhà thống nhất Mít
-, nhưng 30 Tháng Tư, là số thực, là cái
thực, là địa ngục Mít, là anus mundi…].
Lần đó, Leibnitz ngửa
mặt trên Trời la lên, không có
Ông là không thể có cái
đẹp như thế này!
Với GCC lần đó, thì
cũng vậy, phải có Ông Trời, thì
mới có cái đẹp tuyệt vời như thế: được
nghe hai bản nhạc của PD, như là số thực - hạnh phúc-
limite, của cả một chuỗi đau khổ [ảo số].
Sướng đến nỗi GCC phải la lên
Ngài Phạm Duy đã sáng tác
hai bản nhạc, chỉ để cho Gấu, nghe, trong 1 dịp trọng đại
như thế.
Thiên hạ, người khác,
nhân loại, thì chỉ nghe… ké, hưởng
ké!
Note: Bài viết này,
GCC viết, khi “hero” của GCC và của cả xứ Mít,
còn lang thang ở hải ngoại, và còn
nghĩ là ông sẽ được an táng ở Bắc Cực.
[Văn Cao có cái
vinh cái nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế.
Văn Cao được chết ở đất quê. Chứ còn tôi,
nay mai chết sẽ được chôn ở Bắc cực chăng? (cười)...]
Nhưng hóa ra rằng thì
là, ngay từ khi đó, vào lúc
GCC hớn hở vì chạy thoát quê hương,
1997, [Gấu tái định cử Canada 1994, sau 3- 4 năm ở Trại
Tị Nạn], thì “hero” của Gấu đã tính đường
chuồn về, và đang tìm cách thổi VC, nào
là 10 năm “đoàn kết tới chỉ” [chỉ có làm
thịt sạch một dúm đảng phái không phải VC].
Man is not merely one who lives,
taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one
who survives".
"Con người đâu chỉ sống,
ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là
tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn
là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
Phạm Duy, như "mọi" tên
Bắc Kít khác, đều thuộc týp đếch
cần tới cái tự hào “sống sót” đó!
Ông không những
sống, mà còn sống nhanh, sống hơn, sống
quá... mọi tên Bắc Kít khác
Chẳng thế mà trong
clip video do tờ Người Việt Cali thực
hiện (?), ông phán, trước khi dinh tê,
tôi thương hại những người chửi tôi, vì
họ không thành công như tôi!
Hà, hà!
Phản ứng của ông ra sao
về việc Grass thú nhận?
Tôi cảm thấy yên
tâm.
Yên tâm khi một
bậc Thánh như thế thú nhận đã từng
nhúng chàm?
Đúng thế. Điều đó
làm cho chúng ta yên tâm về
cuộc đời khốn khổ đáng thương của chúng ta. Và
điều này còn cho thấy, ngay trong văn chương,
cũng đếch có siêu nhân.
Ngoài Văn Cao ra, chưa
1 tên VC nào thú nhận đã
từng giết người.
*
Mấy kỷ niệm ở tù VC nghe
nhạc Phạm Duy, Gấu cứ nấn ná mãi, chưa
chịu viết ra. Bây giờ [Nghìn trùng
xa cách], "Người đã đi rồi", có lẽ
đúng là lúc để đi 1 đường tưởng niệm,
bảnh nhất, không có ai có thể có
được đó.
Có lẽ, chỉ những dòng
sau đây, của Milosz, viết về Mandelstam, là
xứng với những kỷ niệm của Gấu, khi nghe nhạc PD ở nông
trường cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.
In one of his essays Brodsky
calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was himself
a poet of culture, and most likely that is why he created
in harmony with the deepest current of his century, in which
man, threatened with extinction, discovered his past as a
never-ending labyrinth. Penetrating into the bowels of the labyrinth,
we discover that whatever has survived from the past is the
result of the principle of differentiation based on hierarchy.
Mandelstam in the Gulag, insane and looking for food in a garbage
pile, is the reality of tyranny and degradation condemned to extinction.
Mandelstam reciting his poetry to a couple of his fellow prisoners
is a lofty moment, which endures. (1)
Mandelstam, khi ở trong Gulag,
điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn
trong đống rác, là thực tại về bạo tàn, thoái
hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của
mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc
thăng hoa hoài hoài.
Gấu Nhà Văn, vào 1 bữa
chủ nhật, đếch phải đi lao động cải tạo, nghe Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng,
nhạc PD, phổ thơ Lý Thị Ý, với 1 số
bạn tù ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa,
là cái khoảnh khắc thăng hoa hoài
hoài, và nó sẽ theo bước chân người
sáng tạo ra nó, qua tới cả thế giới bên kia.
Thần sầu!
Hà, hà!
Cái khúc
này, “Mandelstam, khi ở trong Gulag, điên
khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống
rác, là thực tại về bạo tàn, thoái
hoá đưa đến huỷ diệt”, cũng đúng với Gấu Nhà
Văn.
Không có khúc
này thì không “hệ luận”, là
khúc sau.
Tất cả liên quan tới
lần Gấu Cái đi thăm nuôi lần đầu, và,
nếu không có lần thăm nuôi này,
thì kể như “hư vô”, chẳng có khúc
nào!
Never explain —
your friends do not need it
and your enemies will not believe you anyway.
—Elbert Hubbard
Đừng bao giờ giải thích.
Bạn chẳng cần, kẻ thù chẳng tin.
Man is not merely one who lives,
taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one
who survives".
Con người đâu chỉ sống,
ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi,
là tỏ ra tự hào, phán, "nó còn
là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
Nhưng cũng vẫn Alain, đã
gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về
Spinoza [Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này,
về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest
good]:
Kinh nghiệm niềm vui của tư
tưởng và tha thứ Lão Tặc Thiên.
[To experience the joy of
thought and to pardon God].
Trời kia mà còn
"tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ! (1)
Với tôi,
Phạm Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc tình.
Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án.
Lần đó,
ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao
giờ anh hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ
được. Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột
nhiên anh thủ thỉ một mình. Những gì
..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau này, mỗi lần nghe
nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng
cuộc chiến còn nguyên đó, đối với riêng
tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang
Trung, lần đầu tiên xa Sài-gòn, xa cô
bạn. Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không
hiểu những ngày ở trong trại cải tạo còn thê
thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...
PD cũng là 1 trong những
đấng cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít. Vào
lúc ông đi xa, Gấu không dám
chỉ ra cái khúc bị thiến ở trong não
của ông, nhưng có lẽ, vị thân hữu K. của
trang TV đã nói giùm rồi: sống "đầy" quá!
Đây cũng là câu
bà cụ Gấu chửi thằng con của cụ những ngày
Gấu làm đệ tử Cô Ba, tội nghiệp mấy đứa
nhỏ, sinh ở đâu, sao nhằm cửa nhà này….
Mi sống lạm sang đời của chúng nó rồi, cái
thằng “chấm chiếu” kia ơi!
*
-Nước mắt cũng có hạn. Nơi
này đổ ra nhiều thì nơi khác
dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng
lạm dụng cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc
động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của
độc giả cũng như của chính mình.
Theo như “huyền thoại”, mỗi
lần Thái Thanh hát Bà
Mẹ Gio Linh, là 1 lần khóc!
Có thể vì lý
do đó mà Cao Hành Kiện rất tởm
thứ văn chương, âm nhạc, nghệ thuật “ăn mày”
nước mắt của đồng loại.
Ông đề nghị thay bằng
“văn chương lạnh”. TV tính giới thiệu bài
phỏng vấn ông trên tờ Văn Học Á Châu v/v
cú lạnh này, mà cứ quên hoài!
V/v vị thân hữu K.
Có lần Gấu đọc Vargas
Llosa, gặp 1 bà y chang, bèn dịch bài
viết, và gửi. (1)
Hai bà, giả và
thật này, tính tình như thế, không
hiểu được PD, cũng 1 đấng cực độc Bắc Kít.
Đâu có thua gì
Vi Bức Vương, mỗi lần giở khinh công tuyệt đỉnh
ra là phải hút máu người.
Khác 1 tí, VBV
không hút máu sống, là lạnh
cứng người mà đi.
Còn PD, không
chết, nhưng nhân loại mất một tuyệt tác!
Cái câu bà
trích, tặng PD, theo Gấu, sai!
PD phán, tôi về
là tôi yêu nước. Ông lấy
lòng VC, và chửi bố đám hải ngoại:
Chúng mày không
yêu nước!
Có lần đám Hậu
Vệ chửi ông, trên chín bó mà
còn đi khách, là vậy.
Nhưng thôi bỏ, không
lại bị chửi, như lần HC vừa nằm xuống, hà,
hà!
Nhưng rõ là PD
không hiểu nổi đám hải ngoại.
Không phải những người
chửi ông, mà là những người không
thể về như ông.
Lần ông bỏ về, trả lời
phỏng vấn của tờ NV, ông phán, tôi
thương hại những người chửi tôi, vì họ không
thành công như tôi.
Cả cuộc đời của PD nằm ở trong
câu này.
Nói rõ hơn,
ông không được học những ông thầy
như Alain, và dù có học thì cũng
không hiểu được điều Thầy dạy.
Không hiểu sống sót
nghĩa là gì, vì có bao giờ
lâm vào tình trạng này?
Cũng Alain, dậy trò,
là “Thánh” Simone Weil, đừng thành
công, ne pas réussir.
PD làm sao ngộ ra chân
lý này?
Sợ cả 1 giống dân có
tên là Bắc Kít cũng không
làm sao hiểu nổi!
Hà, hà!
Trường hợp PD bò về làm
Gấu nhớ tới Steiner. Trong bài viết Một kiểu
sống sót, A kind of
Survivor (1965), với lời đề tặng Elie Wiesel, một kẻ
sống sót thứ thiệt Lò Thiêu, ông
không nghĩ, ông thực sự là một kẻ sống
sót, not literary. Nhờ ông bố Do Thái, khôn
như ma, nên gia đình ông thoát
Lò Thiêu vào giờ chót. Trong bài
trả lời phỏng vấn The Paris Review (1) ông có nhắc tới cú
này, thật là ly kỳ, thú vị.
Nhưng thoát thì
thoát, suốt đời ông đau cái đau
sống sót đó, khi nghĩ ông đúng
ra là phải chết ở Lò Thiêu. Qua Mẽo, viết
lách nổi tiếng, ông được 1 Đại Học cho 1 cái
việc làm thật bảnh, cho nhà, cho đủ thứ, và
ông tính ở luôn, chết ở Mẽo luôn. Và
bèn đi gặp ông bố, thỉnh ý kiến. Ông
bố chửi, mày ở Mẽo, là thằng Hitler nó có
lý rồi.
Thế là ông con
ngộ ra, bèn khăn gói quả mướp về lại Âu
Châu, quanh quẩn bên mớ tro than Lò Thiêu.
Gấu Cà Chớn cũng đã
kể nhiều lần, về lần gặp cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng
của Steinerở
1 thư viện Toronto, vào những ngày mới qua được
Xứ Lạnh, và ngộ ra kiếp “cũng chưa hẳn là 1
kẻ sống sót” của mình.
Nhưng quả là 1 cú
thần sầu, hiểu theo Kafka về đọc sách:
Như bị 1 cái rìu
phá băng bổ trúng đầu!A typist’s life
"Ai điếu" thư ký Trùm Nazi
của tờ Người Kinh Tế!
Đọc 1 phát, THNM, thì bèn
nghĩ tới "Thư Ký của Trùm VC", Bác H!
Bài ai điếu này, hết chôm
được, đành phải mua tờ báo, hà hà!
Đọc Hà Sĩ Phu trả lời
Lý Kiến Trúc, báo Văn Hóa, Cali, trên blog
Sến Cô Nương, Gấu bỗng dưng nhớ tới ông
cụ Gấu, chán thế!
Ông bố của Gấu không
hề theo Việt Minh, vào cái giai đoạn
cả nước theo Vẹm. Mấy đứa con ở lại Miền Bắc - ông
em trai út & bà chị gái, nữ anh hùng
thồ hàng chiến dịch DBP của GCC -
không hề được
VC công nhận là con liệt sĩ.
Gấu về lại đất Bắc, một
phần là cố tìm cho ra câu trả lời.
Gặp cô con gái của ông chú, Chú
Cầm, vào thời kỳ đó, là huyện uỷ Hạc
Trì[Bạch Hạc và
Việt Trì] sau nghe nói, leo lên đến
1 chức vị gì cao lắm, cũng bị VNQDD bắt, nhưng trốn
thoát. Bà cho biết, ông bố của bà, cho
bà biết, ông giáo Dương, tức Nguyễn Tái
Dương, bố của Gấu, chỉ được “tổ chức” coi là cảm tình
viên của Việt Minh.
Gấu cũng được biết, qua
cô con gái của Chú Cầm, ông
bố của Gấu, bị tên học trò giết, là do
không chịu đại diện cho VNQDD, ra tranh cử Quốc Hội Vẹm.
Ông qua sông
đúng 30 Tết, dự tất niên với băng VNQDD
chiếm giữ Việt Trì, là vì vấn đề Quốc
Hội Vẹm, hẳn thế, và khi ông lắc đầu, đấng học
trò bèn làm thịt Thầy, trước khi bỏ chạy
VC qua Tẫu.
Như thế, ông cũng
là cảm tình viên của VNQDD ?
Gấu tin là ông
cụ Gấu, khi phải chọn giữa Nguyễn Thái Học vàBác Hồ, đã chọn Nguyễn Thái
Học!
Trong bài viết về Koestler
[điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell, The Literary and political Odyssey of a 20 Century Skeptic,
trong mục Di sản của chủ nghĩa toàn
trị, Athur Koestler: The Zealot [“cuồng
tín” – thay vì “bi quan”, skeptic], trong cuốn tiểu
luận của ông,Arguably,
Christopher Hitchens cho biết, Koestler bỏ đảng CS, liền sau khi thoát
ra khỏi Tây Ban Nha, vì quá tởm những vụ án
thanh trừng “mần tuồng”, the hysterical faking of the Moscow purge
trials, 1938 [ông, sau dùng làm đề tài
cho cuốn Đêm Giữa Ban Ngày].
Koestler diễn tả cái tởm
của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher
Hitchens, đến nỗi ông phải bệ nguyên văn,
vô bài viết của mình:
It is a logical contradiction
when with uncanny regularity the leadership sees itself
obliged to undertake more and more bloody operations
within the movement, and in the same breath insists that
the movement is healthy. Such an accumulation of grave surgical
interventions points with much greater likelihood to the existence
of a much more serious illness.
[Thật khốn kiếp khi, một
mặt, cứ tiếp tục thanh trừng nội bộ, cùng lúc
phán, Đảng ta đả biến thiên hạ vô địch
thủ, mạnh khoẻ lắm]
Trong cuốn tiểu luận, có
bài Hội
Chứng Việt Nam, The Vietnam Syndrome, viết về
vấn đề chất độc màu da cam, thú.
Thú hơn nữa, nó
làm Gấu nhận ra, trong cái gọi là
“hội chứng Mít”, có... “hội chứng Tẫu”!
Christopher Hitchens giải
thích, bằng tiếng La Tinh: Mutato nomine de te fabula narratur:
with the name changed, the story applies to you.
Cứ thay cái tên
đi, là nó áp dụng vô ngay
tim, ngay hồn lũ Mít. Đâu có phải là
chúng không biết thằng Tẫu khốn kiếp đâu.
Suốt chiều dài lịch sử, một mặt chống Tẫu, một mặt mở
nước về phía Nam, làm cỏ mọi giống dân yếu
hơn, ít người hơn, vậy mà đùng 1 phát,
rước chúng vô nhà, vô giường, để ăn
cướp cho bằng được Miền Nam. Gấu thêm vô,
còn "hội chứng nhân quả" nữa, ở đây.
Trong Quần đảo Gulag, Solz dành một
chương viết về những quốc gia lưu vong, Tin Văn sẽ scan ấn bản rút gọn. So sánh với
Mít, quả là toàn thể một miền đất - Miền
Nam – sau 1975, xứng đáng được gọi là "quốc gia lưu
vong". Những cú như 10 ngày cải tạo, kinh tế mới..
như được lấy ra từ sách lược của Người [Stalin]
Với mọi quốc gia toàn thể tự nguyện
đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết ra một ngày nào
đó - về cái sự nó bị xé ra khỏi đất
mẹ của nó, và cái sự nó bị huỷ diệt tại
miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính chúng,
mới có quyền cất lên tiếng nói của chúng,
để nói về tất cả những gì chúng trải qua: Chúng
ta không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Solzhenitsyn comes back to this
theme at several points. "The imagination of writers is poverty-stricken
in regard to the native life and customs of the Archipelago," he
writes. How could a Western writer, in particular, describe the perturbation
of a human soul placed in a cell filled to twenty times its capacity
and with no latrine bucket, where prisoners are taken out to the toilet
only once a day! Of course, much of the texture of this life is bound to
be unknown to Western writers; they wouldn't realize that in this situation
one solution was to urinate in your canvas hood, nor would they at all
understand one prisoner's advice to another to urinate in his boot!
It takes a writer such as Shalamov to convey something,
a tiny human fragment, of the reality of Kolyma. It takes Primo
Levi to describe Auschwitz.
Applebaum: Gulag a history
Phải có nhà văn
như Shalamov để viết về tí người còn sót trong
trại tù Kolyma. Primo Levi để miêu tả Lò Thiêu.
Theo GCC, để hiểu cái mẩu video "Đường Hầm",
trong phim Dreams, thì có lẽ cần trang bị thêm
1 số dữ kiện, chúng giống như những mồi, đễ dẫn người xem
tới cái ẩn dụ của phim.
*
Một lần, cũng đã lâu, Gấu đi giang
hồ vặt, cùng vài bạn văn, tới thăm một ông
chưa từng quen biết.
Chủ nhân, ông bạn chưa từng quen biết,
là một tay sành rượu. Nhất là rượu bồ đào.
Ông khoe, rượu của ông là từ
bên Pháp gửi qua, thứ quí, hiếm, lâu
đời. Trong khi chén chủ chén khách, ông
cho biết, có một ông bạn [Gấu đoán, chắc là
ông ta], rất khoái những bài Tạp Ghi của Gấu, và
chưa từng bỏ qua một bài nào [thời gian Gấu giữ mục Tạp
Ghi cho báo Văn Học của NMG].
Được khen, khoái quá, mũi phổng quá,
Gấu quên cảnh giác, tố thêm, Gấu này
thường là đoán ra đoạn chót, không
cần phải coi hết một cuốn phim, khi được biết chủ nhân là
một tay mê phim, và mê làm phim.
Ông có vẻ bực, thằng khốn này
huênh hoang quá, nhưng, nói đến phim nào
là nó biết phim đó, hay là thử phim
này...
Ông lôi ra một phim, dựa theo một câu
chuyện Nhật.
Tuyệt, tuyệt. Gấu tỉnh cả rượu, và xin lỗi
chủ nhân, Gấu này chịu thua, không thể nào
đoán ra đoạn kết của phim.
*
Sau này, được coi nguyên tác,
chuyện anh chàng
hôi chi, Gấu mới càng phục tay đạo diễn
phim.
Đoạn cuối của phim khác hẳn nguyên
tác.
Thần kỳ hơn nhiều.
Phim Chàng
Hôi Chi Cụt Tai như trên cho thấy, phần I của nó
có tên Bài Ca Về Trận Đánh Lớn Ở Biển
Cả [Song of the Great Sea Battle]
Bài
Ca đó, trước trận đánh chưa có. Và
như thế, những người đã chết, cũng chưa từng được nghe, hậu
thế kể về họ, ra sao.
Hậu thế kể,
họ đã chiến đấu ra làm sao, chết như thế nào...
Cái
tay đạo diễn người Nhật, Masaki Kobayashi, xoáy, chỉ vào
chi tiết này, để mở ra phần cuối của phim, của riêng
ông ta, không phải của tác giả truyện ngắn chàng
Hôi Chi cụt tai.
Theo Gấu,
tác giả truyện ngắn, do không phải là người
Đông Phương, nên không thể nghĩ ra một cái
kết cấu thần kỳ như vậy.
Đây
là điều Murakami, đã từng giải thích, trong
một bài phỏng vấn, qua đó, ông cho rằng Tây
Phương quá rạch ròi giữa cõi sống và
cõi chết, đối với họ, chết là hết, trong khi Đông
Phương, coi, hai thế giới này vẫn có những giao tiếp.
"Tôi
cho rằng, chúng ta sống trong một thế giới, cái thế
giới “này” (“ce” monde), trong khi còn có
những thế giới khác cận kề ngay bên cái thế giới
“này” đó. Nếu bạn thực tình mong muốn, bạn có
thể chui qua tường, nhập vào một vũ trụ khác. Một cách
nào đó, có thể vượt cái thực, cõi
thực này. Đó là điều tôi cố gắng làm,
ở trong những cuốn sách của tôi. Đây là một
quan niệm rất Đông phương, rất Á châu, theo như tôi
hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc, người ta coi như có hai thế
giới song song, và có những chiếc cầu nhỏ cho phép,
không khó khăn là mấy, qua lại giữa hai bên.
Ở Tây Phương, làm gì có một quan niệm như vậy,
thế giới-này là thế giới-này, thế giới-kia là
thế giới-kia. Sự cách biệt thật là quyết liệt, thật là
khắt khe, tôi muốn nói giữa “này” với “kia” đó.
Bức tường quá cao, làm sao vượt, làm sao trèo
qua? Nhưng trong văn hóa Á Châu, khác
hẳn. Và“mono no aware” diễn tả,
theo như tôi cảm nhận được, tình huống này. Trong
Bài ca của sự bất khả, có sáu nhân vật.
Ba sống sót, ba biến mất và qua thế giới bên kia
- họ tự tử. Ba kẻ còn lại trong thế giới này, sau cùng
biết, hiểu ra là, cũng nhấp nha nhấp nhổm (instable), vô
thường, tạm bợ mà thôi. Đó là một hình
thức của “mono no aware”. Điều lạ, là, khi tôi bắt đầu
viết Bài ca của sự bất khả, tôi có ý tưởng
theo đó, ba trong sáu nhân vật sẽ biến mất, nhưng
không biết là ai. Trong khi viết tôi tự hỏi chính
mình, ai sống, ai chết."
Nói
rõ hơn, phải là người Đông Phương mới phịa
ra đoạn cuối của phim Hoichi, The Earless.
*
Gấu cứ ngần
ngừ mãi, không dám nói ra cái
đoạn chót của phim. Nhưng phim này, bây giờ
thuộc loại phim hiếm, quí, ít ai có được, mà
muốn có, phải mua giá mắc lắm.
Vả chăng,
cái kết cấu của phim, thật là tuyệt vời đó,
lại càng rất tuyệt vời, với những độc giả, khán giả
người Việt.
Những hồn
ma trở về, để nghe người còn sống kể, họ đã chiến
đấu, và chết như thế nào.
*
Truyện chàng
Hôichi cụt tai
Nguyên
tác :Hirai Teiichi dịch Lafcadio Hearn (từ
Anh ra Nhật)
Người dịch:Nguyễn Nam Trân
(từ tiếng Nhật)
Lời người
dịch:
Gió
luồn qua ngàn liễu bến Matsue (Tùng Giang), thành
phố nhỏ nhìn ra biển Nhật Bản bốn mùa phong vũ.
Đến nay, liễu vẫn thắm xanh trên bến như cái thuở con
người phiêu bạt Lafcadio Hearn (1850-1904) đến định cư để tìm
hiểu một nền văn hóa xa lạ đối với ông. Hearn (người
Nhật đọc là Haan hay Herun) sinh năm 1850 ở quần đảo Ionia,
Hy Lạp. Cha Ái Nhĩ Lan, mẹ Hy Lạp. Từ khi cha mẹ ly hôn,
ông rày đây mai đó cho đến năm 1890, ngày
đặt chân lên đất Phù Tang. Lấy tên Koizumi
Yakumo (Tiểu Tuyền Bát Vân), ông viết nhiều tùy
bút, biên khảo về đất nước và con người Nhật Bản.
Hearn lớn lên ở Pháp, chu du Mỹ, Canada,
Martiniques... trước khi sự tình cờ đưa ông cập bến
Yokohama năm đã 40 tuổi. Yêu mến phong cảnh hữu tình
đất Matsue, ông sống một chuỗi ngày thật hạnh phúc
ở đây, sau vì bệnh hoạn phải xuống Kumamota rồi lên
Tokyo dạy Anh ngữ ở những đại học nỗi tiếng như Waseda, Tokyo, trước
khi qua đời năm 1904 vì nghẽn mạch tim.
Viết văn, ông chịu ảnh hưởng Robert Stevenson,
Gustave Flaubert, Guy de Maupassant, những nhà kể truyện
nổi tiếng. Ông muốn từ bỏ thế giới Tây Phương để mạo hiểm
đến những miền đất lạ như nhiều nghệ sĩ cùng thời, trong đó
có Paul Gauguin và Pierre Loti.
Hearn đặc biệt yêu thích những truyện
kinh dị không cứ gì của Nhật mà của quần đảo
Antilles, của cả Trung Quốc. Lúc mới đến Nhật, chưa rành
mặt chữ, phu nhân Setsuko đọc truyện ma quái Nhật cho
ông nghe. Ông soạn lại bằng tiếng Anh, sau mới được dịch
ra Nhật ngữ. Người ta biết Hearn nhiều qua tập Kaidan (Quái Đàm)
mà "Truyện Chàng Hôichi Cụt Tai" (Miminashi Hôichi
no Hanashi) này là một .... Nguyên tác (chỉ
dài có một phần ba bản văn) vốn mang tên "Tì
Bà Bí Khúc Khấp U Linh" lấy từ tác phẩm cổ
điển "Ngọa Du Kỳ Đàm" do một ẩn sĩ tên Nhất Tịch Tản Nhân
soạn, bản cổ nhất còn lưu lại in năm 1782
*
Tờ mờ đất,
hòa thượng mới khăn gói về chùa. Đến nơi, cụ
đã tức tốc chạy xuống phía hiên hậu liêu.
Bỗng sư cụ dẫm lên cái gì nhờm nhớp, trượt chân
suýt ngã. Rồi cụ bỗng hoảng hốt vì dưới ánh
sáng ngọn đèn lồng, đó là một vũng máu.
Nhìn ra thì trên hàng hiên, Hôichi
vẫn ngồi chính tọa trong tư thế nhập định, từ vết thương, máu
nhỏ xuống nhuộm đỏ cả người.
- Hôichi đó hả ! Sư cụ ngạc nhiên
kêu "Trời Phật ơi, làm sao đến nỗi bị thương thế này
? "
Nghe tiếng hòa thượng, Hôichi biết
nguy hiểm đã qua, bật lên khóc rồi bù
lu bù loa kể sự thể những gì xảy ra đêm qua.
- Tội nghiệp ơi là tội nghiệp !
Hòa thượng không cầm được tiếng than.
"Trăm sự cũng tại ta bất cẩn. Viết kinh lên khắp người của
ngươi mà lại không viết lên tai. Thấy chỗ tai
hẹp, khó viết ta mới cậy thủ kho viết giùm, mà
chính ta cũng chẳng chịu kiểm xem hắn có viết cho chưa.
Để đến nỗi này là do ta sơ ý... Nhưng có
hối cũng đã muộn, điều gấp rút bây giờ là
trị liệu cho ngươi chóng bình phục. Hôichi, chớ có
buồn nữa, phải vui lên vì kể từ nay, tai qua nạn khỏi rồi.
Chắc chắn ma quỉ chẳng còn đến đây hạch sách quấy
nhiễu ngươi nữa đâu ."
Nhờ lương y tận tâm, chẳng bao lâu,
vết thương của Hôichi đã lành lặn. Câu
chuyện kinh dị xảy đến cho chàng mù được đồn đãi
nhanh chóng, danh tiếng chàng nổi lên như cồn.
Bao nhiêu nhà giàu có cao quí đua
nhau tới vùng Akamagaseki để thưởng thức ngón đàn
của chàng, thi nhau cho vàng tặng lụa. Chẳng mấy lúc
Hôichi trở thành giàu có. Thế nhưng vì
câu chuyện quái dị kể trên mà Hôichi
mang cái hỗn danh là "chàng Hôichi cụt tai".
*
Truyện chấm
dứt như trên, và phim mở ra từ chỗ chấm dứt đó.
*
Ngay ngày
hôm sau, ngay giữa ban ngày ban mặt, những hồn ma
tham dự trận hải chiến lớn, quân ngũ chỉ chỉnh tề, hàng
hàng lớp lớp, theo lệnh trên, tới trình diện
anh Hôi Chi cụt tai, rồi ai nấy ngồi im lặng nghe anh tấu đàn
tì bà, Bài Ca Về Trận Hải Chiến Lớn.
Đâu
có khác chi Kinh Chiêu Hồn của Nguyễn Du?
Bạn coi "Đường
Hầm", và tưởng tượng ra 1 vị đại uý Ngụy, như Vũ
Huy Quang, có lẽ Thảo Trường thì bảnh hơn nữa, hay
đại uý Dzư Văn Tâm, chưa từng bắn 1 phát súng,
về lại xứ Mít, và gặp lại những hồn ma xưa, là
những binh sĩ Ngụy dưới quyền ông, và chúng ta
thấy hiển hiện ra trước mặt/mắt lời sám hối của những tên
Ngụy như ông, may mắn sống sót cuộc chiến.
Nguyên tác : Hirai Teiichi dịch Lafcadio
Hearn (từ Anh ra Nhật) Người
dịch : Nguyễn Nam Trân (từ tiếng Nhật)
V/v “mono no aware”
MY GIFT TO YOU
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano The Paris
Review Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The
Paris Review có bài thơ tuyệt
vời của Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái
cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và
“kín đáo” nói cho biết, tại làm sao Em
vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa.
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ là
1 vực thẳm, em nói Nhưng nó "tế vi"
đến nỗi mi không thể nào nhận ra Chỉ sau thật nhiều năm,
có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi, Và cả hai đều chạy
ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít
rồi Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi Khi mà mi cực cần
đến nó Và chắc chắn không
phải là một kết thúc hạnh phúc Nhưng sẽ là một thoáng
chốc của sự trống rỗng và niềm vui. Và có thể,
chỉ lúc đó mi mới nhớ ta, Và mới hiểu cái
gọi là "mono no aware",
“Nỗi
buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời
của mi". Nhưng cũng chỉ được 1 tí
tí.
Thực sự mà nói,
Gấu không khoái Murakami. Không hiểu sao trong
nước, và luôn cả thế giới mê ông này
quá.
Một phần không ưa, là
do không khoái những màn tả sex. NTV có
lần nhận xét, không hề có tí hôn hít
gì trong truyện của ông. Gấu bèn "phản biện",
có cái xen cô học trò đang ăn, môi
bóng nhẫy, Gấu thèm quá, hỏi xin, cô láu
lỉnh trả lời:
Trời đánh còn tránh bữa ăn! Bụi
Gấu tò mò đọc ông,
chỉ vì cái câu, mà sau này biết, em Minh
Tran Huy cũng rất mê, và viết cuốn tiểu thuyết đầu tay để vinh
danh:
Nói rộng hơn, quyển tiểu
thuyết là để vinh danh Murakami, và
nhất là, những gì người Nhật gọi là "mono no
aware", “nỗi buồn cháy da, cháy thịt của những sự vật”;
(1) đó là cảm nhận xâm chiếm tâm hồn khi
nhìn lá thu rơi, hay khi người thân đi tới một
chỗ quẹo rồi biến mất. Tôi muốn câu chuyện «Cô
Công Chúa và chàng chèo thuyền»
gợi lên một cảm nhận buồn man mác của những gì đã
có và bây giờ không còn.
Tôi cho rằng, chúng ta
sống trong một thế giới, cái thế giới “này” (“ce” monde), trong
khi còn có những thế giới khác cận kề ngay bên
cái thế giới “này” đó. Nếu bạn thực tình
mong muốn, bạn có thể chui qua tường, nhập vào một vũ
trụ khác. Một cách nào đó, có thể
vượt cái thực, cõi thực này. Đó là
điều tôi cố gắng làm, ở trong những cuốn sách của
tôi. Đây là một quan niệm rất Đông phương,
rất Á châu, theo như tôi hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung
Quốc, người ta coi như có hai thế giới song song, và có
những chiếc cầu nhỏ cho phép, không khó khăn là
mấy, qua lại giữa hai bên. Ở Tây Phương, làm gì
có một quan niệm như vậy, thế giới-này là thế giới-này,
thế giới-kia là thế giới-kia. Sự cách biệt thật là
quyết liệt, thật là khắt khe, tôi muốn nói giữa “này”
với “kia” đó. Bức tường quá cao, làm sao vượt,
làm sao trèo qua? Nhưng trong văn hóa Á
Châu, khác hẳn. Và “mono no aware” diễn tả, theo
như tôi cảm nhận được, tình huống này. Trong Bài ca của sự bất khả, có
sáu nhân vật. Ba sống sót, ba biến mất và
qua thế giới bên kia - họ tự tử. (1)
Ba kẻ còn lại trong thế giới này, sau cùng
biết, hiểu ra là, cũng nhấp nha nhấp nhổm (instable), vô
thường, tạm bợ mà thôi. Đó là một hình
thức của “mono no aware”. Điều lạ, là, khi tôi bắt đầu
viết Bài ca
của sự bất khả, tôi có ý tưởng theo đó,
ba trong sáu nhân vật sẽ biến mất, nhưng không biết
là ai. Trong khi viết tôi tự hỏi chính mình,
ai sống, ai chết.
Murakami trả lời Le Magazine Littéraire
(1) Thanh Tâm Tuyền, chắc chắn
chẳng hề biết, và, chưa từng đọc Murakami, khi viết Một Chủ Nhật Khác, nhưng đã
để nhân vật Kiệt của ông, đưa tiễn người tình,
Hiền, tới "chỗ đó", rồi lại trở về. Độc giả Một Chủ Nhật Khác, dù tò
mò cách mấy, cũng không hiểu được, và
đều như Duy, bạn của Kiệt, đều muốn hỏi Kiệt, Hìền đâu
rồi.
*
Sau này Duy hiểu buổi tối ấy đang hồi nguy kịch
của đôi tình nhân. Họ quyết định chia tay vĩnh
viễn. Họ đã không thể bình thường từ biệt nhau.
Cũng không ai đủ can đảm rời bỏ trước. Mọi quyết định đều gian
nan. Duy giúp họ lìa tách làm hai. Để họ
một mình với quyết định đau đớn chưa rõ những ngày
cuối của cuộc tình ấy như thế nào. Họ có thể liều
lĩnh nhắm mắt lao tới như kẻ ngu ngốc, nhưng họ cũng có thể tháo
lui vội vã như kẻ tội lỗi. Cả hai đường đều tồi tệ, phủ nhận những
ngày họ đã sống, phủ nhận điều mà họ đã tin
là tình yêu của họ qua bao năm tháng. Duy nghĩ
thế...
Em là đàn bà,
em hãy tưởng tượng về một người đàn bà… Nàng
đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ,
thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ
anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh
trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một mình…
Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em,
trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu…. Một Chủ Nhật Khác
Lạ, là, sau khi BHD đi
rồi, thì Gấu mới biết ra được, cái nỗi buồn cháy
da cháy thịt, khi mất em.
Vào lúc mất em, thì chỉ tính
bợp cho em vài cái, rồi bỏ đi.
Cái lần gặp sau cùng
ở cổng trường Ðại Học Khoa Học, Sài Gòn.
Gấu phát hiện Murakami,
là do đọc 1 bài viết về ông, trên tờ Người Nữu Ước, nhân lần bản tiếng
Anh Ký Sự Chim Vặn Cót
ra mắt độc giả. Khi đó, trong nước, và thế giới chưa
mê ông như bây giờ.
Oe lúc đầu cũng chê Murakami, mãi
sau này, mới chịu nổi, khi Murakami viết về những vấn đề xã
hội Nhựt thực sự đang phải đương đầu.
[việc Steiner thiếu vắng trong
sự dịch thuật ở Việt Nam càng cho thấy thêm trí
thức Việt Nam không đủ sức bao quát các giá
trị của tư tưởng thế giới - bởi vì, một phần lớn, họ chỉ
chăm chăm thể hiện mình rất giỏi, mình công chính,
đồng thời chăm chăm nói xấu người khác, và trong
tập đoàn ấy có vô số giáo sư]
Blog NL
Theo GCC, không hẳn như thế.
Steiner, ít được cả thế
giới quan tâm, không chỉ riêng với Việt Nam,
sở dĩ như thế, là do ông ta quá quan tâm
tới, chỉ 1 vấn đề, Lò Thiêu, và chính
vì quan tâm đến Lò Thiêu, cho nên,
quan tâm độc nhất của ông ta, là về Thượng Đế, như
chính ông ta thú nhận, khi trả lời tờ The Paris
Review:
Những người buộc tội tôi
"tản mạn" (scattering), là họ phỉnh nịnh tôi đấy.
Thị kiến của riêng tôi, hầu như chỉ xoáy về
một điểm. Khi còn là một gã quá trẻ, tôi
cho xuất bản cuốn Tolstoy hay là Dostoevsky, trong đó,
tôi nhắc đi nhắc lại mãi, rằng điều phân biệt
hai nhà văn này với một Flaubert hay một Balzac, đó
cũng là điều làm họ giống Melville, và đó
là chiều thần học (theological dimension), tức là câu
hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế. Cuốn sách nói về điều
mà Những Hiện Diện Thực mở rộng ba mươi lăm năm sau đó.
Tôi tin tưởng rằng có một số chiều nào đó,
trong văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, và cả trong triết
học: chúng sẽ không thể nắm bắt được, nếu câu hỏi,
có hay không một đấng Thượng Đế, bị coi là vô
nghĩa.
Steiner là Thầy của GCC,
có thể nói như thế. Kỷ niệm gặp Thầy của GCC, y
chang lần gặp TTT, khi được bạn Chất, đưa đến nhà bạn, và
thấy TTT ngồi ở cái bàn ở góc nhà, hai
chân cho cả lên ghế, theo cái kiểu ngồi chổm hỗm,
viết, chẳng để ý gì đến gì khác. Với TTT,
Gấu ngộ ra cuộc đời của Gấu, sau đó, cái hình
ảnh của ông đó, sẽ là của Gấu sau này.
Với Steiner, có thể nói, ông
trao cho Gấu gánh nặng Lò Thiêu, và,
1 phần nào đó, Gấu đã giải ra được, cũng,
“một phần nào” đó.
Sở dĩ những nhà thơ Mẽo,
như Robert Hass, hay như Auden, Anh, không đọc được những
nhà thơ như Osip Mandelstam, là do họ không
làm sao chọc thủng được Cái Độc, Cái Ác
Á Châu.
Đây là cái ý mà
Gấu ngộ ra, khi đọc Tolstaya, như đã từng lèm bèm
nhiều lần.
Trong bài Tựa cho cuốn
thơ của Osip Mandelstam, mà GCC mới bê về, dịch giả phán,
y chang:
Sở dĩ thơ Osip Mandelstam không đọc được,
vì nó quá phi nhân, quá lạnh
lùng, theo cái nghĩa, thánh nhân bất
nhân, coi thiên hạ như… kít (sô cẩu):
Thiên địa bất nhân,
dĩ vạn vật vi sô cẩu ﹔thánh nhân bất nhân,
dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi
gian, kì do thác thược hồ ? Hư nhi bất khuất, động
nhi dũ xuất. Đa ngôn sác (sổ) cùng, bất như thủ
trung.
DỊCH NGHĨA
Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó
rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó
rơm.
Khoảng giữa trời đất như ống bễ, hư không
mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng
ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng,
không bằng giữ sự hư tĩnh.
Brodskiy's study photographed
on June 4, 1972, the same day he was exiled from the Soviet
Union. Photo:
Courtesy of Mikhail Miltchik
Bao thơ tôi, ít nhiều
chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời
gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about
the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.
AND LOZINSKY'S2 DEATH SOMEHOW broke the
thread of my reminiscences. I no longer dare to recall things
that he cannot corroborate (about the Poets' Guild, Acmeism,
the journal The Hyperborean, and so forth).
In recent years we rarely saw each other because of his illness and
I didn't get a chance to have a real talk with him about some important
matters or to read him my poems from the 1930s (Requiem). Probably
that accounts for the fact that he continued to think of me to some
degree as the same poet he had known long ago in Tsarskoe Selo. This
became clear when we were both reading the proofs of my collection From
Six Books in 1940.
* * *
Something similar
happened with Mandelstam, who of course knew all my poems, but
in a different way. He did not know how to reminisce rather it
was a different sort of process for him that I don't have a name for
now, but something doubtless akin to creativity. (For example,
Petersburg in The Noise of Time seen through
the bright eyes of a five-year-old boy.) Mandelstam was one of the
most brilliant conversationalists. He didn't just listen to himself
and answer himself, which is what almost everyone does nowadays. In
conversation he was polite, quick to react, and always original. I
never heard him repeat himself or "play the same old record”. He learned
foreign language with unusual ease
Đọc Hà Sĩ Phu trả lời
Lý Kiến Trúc, báo Văn Hóa, Cali, trên blog
Sến Cô Nương, Gấu bỗng dưng nhớ tới ông cụ Gấu, chán
thế!
Ông bố của Gấu không
hề theo Việt Minh, vào cái giai đoạn cả nước theo
Vẹm. Mấy đứa con ở lại Miền Bắc - ông em trai út &
bà chị gái, nữ anh hùng thồ hàng chiến
dịch DBP của GCC - không
hề được VC công nhận là con liệt sĩ.
Gấu về lại đất Bắc, một phần là cố tìm
cho ra câu trả lời. Gặp cô con gái của ông
chú, Chú Cầm, vào thời kỳ đó, là
huyện uỷ Hạc Trì[Bạch Hạc và
Việt Trì] sau nghe nói, leo lên đến 1 chức
vị gì cao lắm, cũng bị VNQDD bắt, nhưng trốn thoát.
Bà cho biết, ông bố của bà, cho bà biết,
ông giáo Dương, tức Nguyễn Tái Dương, bố của Gấu,
chỉ được “tổ chức” coi là cảm tình viên của Việt
Minh.
Gấu cũng được biết, qua cô con gái của
Chú Cầm, ông bố của Gấu, bị tên học trò
giết, là do không chịu đại diện cho VNQDD, ra tranh
cử Quốc Hội Vẹm.
Ông qua sông đúng 30 Tết, dự tất
niên với băng VNQDD chiếm giữ Việt Trì, là vì
vấn đề Quốc Hội Vẹm, hẳn thế, và khi ông lắc đầu, đấng
học trò bèn làm thịt Thầy, trước khi bỏ chạy VC
qua Tẫu.
Như thế, ông cũng là cảm tình viên
của VNQDD ?
Gấu tin là ông cụ Gấu, khi phải chọn giữa
Nguyễn Thái Học vàBác
Hồ, đã chọn Nguyễn Thái Học!
Trong bài viết về Koestler
[điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell, The
Literary and political Odyssey of a 20 Century Skeptic, trong
mục Di sản của chủ nghĩa toàn trị, Athur
Koestler: The Zealot [“cuồng tín” – thay vì “bi
quan”, skeptic], trong cuốn tiểu luận của ông,Arguably, Christopher Hitchens cho biết,
Koestler bỏ đảng CS, liền sau khi thoát ra khỏi Tây
Ban Nha, vì quá tởm những vụ án thanh trừng “mần
tuồng”, the hysterical faking of the Moscow purge trials, 1938 [ông,
sau dùng làm đề tài cho cuốn Đêm
Giữa Ban Ngày].
Koestler diễn tả cái tởm
của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher
Hitchens, đến nỗi ông phải bệ nguyên văn, vô bài
viết của mình:
It is a logical contradiction
when with uncanny regularity the leadership sees itself obliged
to undertake more and more bloody operations within the movement,
and in the same breath insists that the movement is healthy. Such an
accumulation of grave surgical interventions points with much greater
likelihood to the existence of a much more serious illness.
[Thật khốn kiếp khi, một mặt, cứ tiếp tục thanh trừng
nội bộ, cùng lúc phán, Đảng ta đả biến thiên
hạ vô địch thủ, mạnh khoẻ lắm]
Trong cuốn tiểu luận, có bài Hội Chứng Việt Nam, The Vietnam Syndrome,
viết về vấn đề chất độc màu da cam, thú.
Thú hơn nữa, nó làm Gấu nhận ra,
trong cái gọi là “hội chứng Mít”, có...
“hội chứng Tẫu”!
Christopher Hitchens giải thích, bằng tiếng
La Tinh: Mutato nomine
de te fabula narratur: with the name changed, the story applies
to you.
Cứ thay cái tên đi, là nó
áp dụng vô ngay tim, ngay hồn lũ Mít. Đâu
có phải là chúng không biết thằng Tẫu
khốn kiếp đâu. Suốt chiều dài lịch sử, một mặt chống
Tẫu, một mặt mở nước về phía Nam, làm cỏ mọi giống dân
yếu hơn, ít người hơn, vậy mà đùng 1 phát,
rước chúng vô nhà, vô giường, để ăn cướp cho
bằng được Miền Nam. Gấu thêm vô,
còn "hội chứng nhân quả" nữa, ở đây.
Some of the most important
kinds of travel writing now are stories of flight,
written by people who belong to the millions of asylum seekers
in the world. These are stories that are almost too hard to tell,
but which, once read, will never be forgotten. Some of these
stories had to be smuggled out of detention centres, or were caught
covertly on smuggled mobiles in snatches of calls on weak connections
from remote and distant prisons. Why is this writing important?
Behrouz Boochani, a Kurdish journalist and human rights campaigner
who has been detained on Manus Island for over three years with
no hope for release yet in sight, puts it plainly in a message to the
world in the anthology Behind the Wire.
It is, he wrote, 'because we need to change our imagination' .•
HOA NGUYEN
As a child growing up
in the seventies in the United States, I learned
about European exploration, the 'discovery' of the 'New
World' and circumnavigation of the globe. The thrill of treasure,
whole parts of the Earth you could claim for yourself, fabled
streets of gold and fountains of youth - these were fantastic
myths unfolding in my imagination. What I didn't know in
fourth grade (when I wrote, directed and starred in a recreation
of Columbus 'discovering' the 'New World') was that these were
stories of untold violence: murder, rape, enslavement, thievery
and the enactment of racist ideologies for the exploitation of
black and brown people that continues today.
By
the age of two, I had circumnavigated half the globe.
I left with my newly married parents aboard a plane from
Saigon. Our first stop was the once Kingdom of Hawaii. I didn't
know about any of that then either. My 'discovery' was the
hotel ice-cube maker and the joy of chewing ice. If it were
possible, at age two, I could have written about my discovery
of the Hawaiian Islands and their magic machines that made mounds
of square frozen water. We
were refugees and yet we were not refugees. My
(European American) father worked for the US Department of State;
we made our home in the DC area where I learned the Pledge
of Allegiance, lived in a brick 'rambler' built for returning
World War II vets in the late forties, and learned never
to speak Vietnamese. Vietnamese were 'dirty kneed', enemies,
a source of guilt or sin. My
Vietnamese mother was born in the Year of the Snake.
She left her skin behind and never returned to Vietnam. Like
many immigrants, we melted our identities, and yet did
not.
*
Growing up, I watched the
ease of my white friends, seeing how they could take on the costumes
of any era and place: 1950s poodle skirts, elegant saris, beaded 'Indian'
tassel-fringed leather outfits, antebellum petticoats.
I didn't have the language for why I could not be a tourist
in the same way as my white counterparts. I could dress myself
as a boy before I could wear period European apparel or the traditional
clothing of another nation. And even then it invoked a sense
of repulsion and disgust.
Likewise,
I'm led to wonder, given the history of 'discovery',
if we need more accounts of people of European descent'
discovering' places like my mother's country, my place of
birth from which I have felt forever exiled through rupture
and circumstance? Do we need more Westerners consuming their
way across Vietnam, commenting on local dress, smiles, food
and sharing tips on where to get the best deal on bespoke silk
skirts?
What
is the tourist trade really funding? Is it adult
Disneyland, plastic trinkets with little automatons singing
'It's a Small World After All'?
Instead
of finding a Western angle of experience in countries
like Vietnam - motorbiking from Hanoi to Saigon, boating
in the southern delta, snapping up fabric arts from the Hmong,
eating their way down the Mekong, seeking redemption from war
experiences or war protests, romanticizing French colonialism,
or tracing the ghost of writer Marguerite Duras - maybe writers
should stick closer to home. What would it look like to travel
to a mall, a local wood, a suburban tract - to deeply study and
visit one's own locale? As a poet interested in the local, I think it
vital to understand what is right before one.
Instead
of more consumerism - the buying of experiences, the
accumulation of things, of eating the 'other' - perhaps
writers should name their own environment. What is the shape
of your watershed? How is your electricity produced? Where
is your water treated? Where is your food produced and by whom
and how does it travel to your local market? What are the names
of the rocks under your feet and around you? What formed those geological
features? Who were the first humans here? What flora and fauna
live upon it and what are their habits and interfaces? What stars
whirl above you and what names have they been given, what lore?
How can one trace the relations, find the slippages between histories,
the linkages, to find the complexities in naming and of the named?
Travel as one's carbon footprint; travel as a footstep, travel
as a naming in a landscape in all its complexity. Homing as a way
to place oneself in a constellation of process and being. _
Hoa Nguyen was born
in the Mekong Delta and raised in the Washington DC
area. Her poetry collections include As Long
As Trees Last, Red Juice
and Violet Energy Ingots. She lives
in Toronto.
Note: Granta,
số mới nhất, viết về "đi", và về "đi để viết".
Tin Văn post hai mẩu,
có mắc mớ xứ Mít.
Mua, và mua số
báo The New Yorker có bài điểm
sách của VTN, của Oates. Tay này, thú
thực Gấu không mặn, có thể do GCC quá
hoài vọng về xừ luỷ, lúc mới xuất hiện.
Chỉ nội một mẩu trên,
của Hoa Nguyên là đã thấy ăn
đứt VTN rồi!
My Vietnamese mother was born
in the Year of the Snake. She left her skin behind and
never returned to Vietnam. Like many immigrants, we melted
our identities, and yet did not.
Má tôi sinh năm Rắn.
Bà để lại da, ở xứ Mít, và không
bao giờ trở về.
Câu phán
đó làm nhớ tới Sebald, mà như
VTN thú nhận, là "hero" của anh ta.
Sebald đúng là
"để da lại nước Đức", tuy viết bằng tiếng Đức, nhưng
khó mà có thể nói,
ông
thuộc dòng chính của Đức.
Bức hình
Thích Quảng Đức, mang đi từ Chùa Long Vân,
ở Parksé, qua Thái Lan, vô Trại Tị Nạn, qua
Canada… Chùa mới làm thêm, kế bên chùa
cũ.....
Mé sau Chùa Long
Vân, Parksé.
Chùa cũ. Bạn thấy đấy, con sông sắp
liếm Chùa. Gấu
nằm ngủ trưa dưới tượng Quan Công. Dậy,
xuống mé sông Mekong, tắm một phát, cho
tỉnh!
Hình chụp trong 1 trong
những chuyến trở về thăm chùa, lập lại chuyến đi tìm
đường vượt sông Mekong qua trại tị nạn Thái Lan.
Lạ, lần đầu trở lại, hỏi thăm, chẳng ai biết ngôi
chùa, y hệt lần trở lại Bangkok, tìm nhà
thờ St-Francis Church.
Mất cả 1 buổi sáng, trong khi lần đầu,
vừa nói tên nhà thờ, tên ngôi
chùa, là tắc xi, là “xảm lò” [một
thứ xe chở khách, giống như xe lam ở xứ Mít] đưa
thẳng tới nơi.
Có vẻ như Chúa, Phật đều bực bội
vì bị quấy rầy!
Tao đâu có mong, có cần, có
cầu tụi mày nhớ ơn!
Ông cha Pháp, Brisson còn
kể lại, lần đó, không hiểu sao, tao không làm
sao ngủ trưa được, cứ loay hoay ở văn phòng, như.. chờ vợ
chồng tụi mày!
Ui chao, sao mà Ông Giời chu đáo
với gia đình thằng cha Gấu tới như thế!
Thần sầu nhất, là cái
bữa đại tiệc thịt chuột, ở nông trường Cải Tạo Đỗ Hòa,
Nhà Bè.
Mãi về già, về mãi già,
thật già, GCC vẫn còn lẩm bẩm, làm sao "Lão
Tặc Thiên" [từ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn] lại chu đáo
đến như thế, gần như không quên 1 chi tiết!
Đúng cái ý, chi tiết là
Thượng Đế trong …bữa đại tiệc thịt chuột!
“on peut
aimer passionnément la littérature, sans pour autant croire
qu'hors des livres il n'y a point de salut”
Bác
Gúc dịch:
One can passionately love literature, without
believing that outside of books there is no salvation
Nôm na, mình yêu sách
nhưng đừng nghĩ chỉ có sách mới cứu!
Saved by the Book
The literate Wu, of Ch'iang Ling
on a certain occasion insulted the magician. Expecting the
latter to try some trick on him, Wu sat up the following night
with his lamp alight and the I Ching before him. Suddenly a wind
was heard, rushing round the outside of his house; and a man-at-arms
came in at the door, brandishing a spear and threatening to strike
him. Wu knocked him down with the book. When he stooped to look at
him, he saw that he was merely a doll cut out in paper. He slipped the
paper figure between the leaves of the sacred classic. Presently entered
two little Kuei with black faces, armed with axes. These, when knocked
down with the book, turned out to be paper figures also, and were slipped
between the leaves. In the middle of the night, a woman, weeping and wailing,
came knocking at the door. 'I am the wife of Chang the magician,' she said.
'My husband and sons came to attack you, and you have imprisoned them in
your book. I beg you to set them free.' 'I have neither your husband nor
your sons in my book,' replied Wu. 'I have only these little paper figures.'
'Their souls are in those figures,' said the woman. 'Unless they return
by the morning, their bodies, lying at home, will not revive. ‘Cursed
magicians!' cried Wu. 'What can you justly expect, after what you have
done to other people? I shall certainly not set them free. Out of compassion,
I will let you have one of your sons back, but do not ask more.' Whereupon
he handed her one of the little paper Kuei. The next day he had enquiries
made at Chang's house and learned that he and his elder son had died in
the night, leaving a widow and a younger son.
-G. WILLOUGHBY-MEADE
THE BOOK OF FANTASY
Thầy đồ Wu một bữa chọc quê một nhà
huyền thuật. Nghi là sẽ bị ông ta trả thù,
đêm đó, Wu bèn thức, với cây đèn cầy, và
cuốn Kinh Dịch để trước mặt. Bất thình lình,
nghe tiếng gió quanh nhà, và 1 kẻ lạ xuất hiện.
Wu quất sụm bằng cuốn Kinh Dịch, và nhận ra, chỉ là
1 hình nhân bằng giấy, bèn kẹp giữa những
trang sách. Lại thêm hai kẻ lạ xuất hiện, Wu cũng
dùng cuốn sách quất sụm và cũng nhét
vô trong cuốn sách.
Tới nửa đêm, 1 người đàn bà
tới gõ cửa. Tôi là vợ Chang, nhà
huyền thuật, bà ta nói. Chồng và hai con
tôi tới sinh sự với ông, và ông nhốt họ
trong cuốn sách của ông. Tôi xin ông thả
họ ra. Wu nói, làm gì có ai, mà
chỉ là mấy hình nhân bằng giấy. Bà vợ nói,
linh hồn của họ ở trong đó. Nếu những linh hồn này không
trở về nhập xác trước sáng, họ sẽ không thể sống
lại.
Đúng là trò huyền thuật
mị người. Ta chỉ có thể tha, 1 trong 3.
Ngày hôm sau, Wu sai người làm
đi dò la, và biết, Chang và người con
trai lớn chết trong đêm, chỉ còn lại thằng con
trai thứ.
Vô tiệm sách cũ,
vớ được cuốn lạ, Borges biên tập. GCC chưa từng nghe
tới cuốn này! Kafka đóng góp hai truyện,
Josephine và Trước Pháp Luật. Trang Tử, Bướm mơ
người hay người mơ bướm.
Một truyện trong cuốn sách:
The Shadow
of the Players
In one of the tales which make
up the series of the Mabinogion,
two enemy kings play chess while in a nearby valley their
respective armies battle and destroy each other. Messengers arrive
with reports of the battle; the kings do not seem to hear them
and, bent over the silver chessboard, they move the gold pieces. Gradually
it becomes apparent that the vicissitudes of the battle follow the
vicissitudes of the game. Toward dusk, one of the kings overturns
the board because he has been checkmated, and presently a blood-spattered
horseman comes to tell him: 'Your army is in flight. You have lost the
kingdom.'
- EDWIN MORGAN
Bóng
Kỳ Thủ
Một trong những truyện của chuỗi
truyện Mabinogion, hai ông vua kẻ thù
ngồi chơi cờ, trong lúc trong thung lũng kế đó,
hai đạo binh của họ quần thảo, làm thịt lẫn nhau.
Giao liên, thiên sứ… liên
tiếp mang tin về, họ đếch thèm nghe, chúi mũi
vô mấy con cờ bằng vàng. Rõ ràng là
tuồng ảo hoá bày ra ở thung lũng nhập thành
một với tuồng cờ tướng. Sau cùng, vào lúc
chập tối, 1 ông vua xô đổ bàn cờ, khi
bị chiếu bí, đúng lúc đó, tên
kỵ sĩ từ chiến trường lao về, thưa hoàng thượng, VC lấy
mẹ mất Xề Gòn rồi!
"He with whom I ran hand in hand
kicking the leathery leaves down Oak
Hill Path
thirty years ago
appeared before me with anxious face,
pale,
almost unrecognized, hesitant,
lame.
He whom I cannot remember hearing
laugh out loud
but see in mind's eye smiling, self-approving,
wept on my shoulder.
He who seemed always
to take and not give, who took me
so long to forget,
remembered everything I had so long forgotten."
Cái cảnh gặp lại người
cũ, nhìn từ phía “không phải Mai Thảo”,
thì là như sau đây:
Một người đàn bà gặp lại người yêu
cũ
Với ông ta tôi đã
từng tay trong tay,
Xuống Đồi Thông Hai Mộ
Đuổi lá vàng xào
xạc dưới chân Ba chục năm trước
Úi giời ơi là
giời
Thằng chả bi giờ mới bi thương thiểu
não làm sao
Mặt mày xanh rờn như mới từ xứ
Mít được con cái bảo lãnh qua Mẽo
Tôi gần như không nhận ra
thằng chả!
Ông ta, chính là
chàng ngày nào!
Đúng là ông ta ư,
chàng ngày nào, cười, không chỉ
bằng tiếng cười sang sảng,
mà còn bằng cặp mắt, rất
ư biết mình có hạng,
Vậy mà khóc mùi
mẫn trên vai tôi.
Chàng, đúng là
chàng, tên ích kỷ có hạng, chỉ
biết lấy mà chẳng biết cho ai bất cứ cái gì
[Đúng Bắc Kít, vùng
nước mặn, chắc cùng quê hương với Cao Bồi?]
Vậy mà không biết là
bao nhiêu năm tháng qua đi,
Bao nhiêu nước chảy qua cầu,
Linh hồn tôi mới phai mờ hình
bóng chàng
Nhìn 1 phát, là
bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện về, như những bóng
ma khủng khiếp!
Note: Bài này dịch
loạn, nhưng đúng là cái cảnh Gấu tưởng tượng ra, khi
gặp lại BHD!
And cherish
In a matchbox,
Even pricking his finger
From time to time
To feed it
Drops of blood.
Charles Simic
Rận Tình
Hắn chôm con rận
Từ bướm của nàng
Giấu trong bao quẹt
Lâu lâu nựng 1 phát
Và chích máu đầu ngón
tay
Như 1 anh Bắc Kít,
Không phải để viết đơn tình
nguyện
Xẻ dọc Trường Sơn Kíu Nước
Mà để nuôi
Rận tình!
Relaxing in a Madhouse
They had already attached
the evening's tears to the
windowpanes.
The general was busy
with the ant farm in his head.
The holy saints in their
tombs were resting, all except
one who was a prisoner of a dark-haired
movie star.
Moses wore a false beard
and so did Lincoln.
X reproduced the Socratic
method of interrogation by demonstrating the ceiling's ignorance.
"They stole the secret of the musical matchbook
from me",
confided Adam.
"The world's biggest
rooster was going to make me famous,”
said Eve.
Oh to run naked over
the darkening meadow after the cold
shower!
In the white pavilion
the nurse was turning water into wine.
Hurry home, dark cloud.
Charles Simic: New and Selected Poems
Thư giãn nơi Nhà Khùng
Chúng đã buộc nước mắt buổi
chiều vào cửa sổ
Võ tướng quân thì đang
bận rộn với cả một nông trại kiến ở trong đầu
Những vì thánh trong những
nấm mồ thì đang nghỉ ngơi, tất cả,
trừ 1 vì đang là tù
nhân của một ngôi sao màn bạc tóc
đen
Moses mang râu giả và Lincoln
cũng vậy.
X chôm phương pháp tra hỏi
của Socrate bằng cách chứng minh sự vô tri của
cái trần nhà
Chúng chôm mẹ mất sự bí
mật của vỉ nhạc của tôi, Adam lầu bầu
Con gà trống bự nhất thế giới sẽ
làm tôi nổi tiếng, Eva phán.
Ui, khoả thân, chạy suốt cánh
đồng sẩm tối sau khi làm 1 cú tắm nước lạnh mới
đã làm sao!
Ở khu lều trắng y tá đang biến nước
thành rượu chát
Về nhà lẹ lên, mây đen
kia!
-You! the last Polish poet!-drunk,
he embraced me,
My friend from the Avant-Garde, in
a long military coat,
Who had lived through the war in
Russia and, there, understood.
He could not have learned those things
from Apollinaire,
Or Cubist manifestos, or the festivals
of Paris streets.
The best cure for illusions is hunger,
patience, and obedience.
In their fine capitals they still
liked to talk.
Yet the twentieth century went on.
It was not they
Who would decide what words were
going to mean.
On the steppe, as he was binding
his bleeding feet with a rag
He grasped the futile pride of those
lofty generations.
As far as he could see, a flat, unredeemed
earth.
Gray silence settled over every tribe
and people.
After the bells of baroque churches,
after a hand on a saber,
After disputes over free will, and
arguments of diets.
I blinked, ridiculous and rebellious,
Alone with my Jesus Mary against
irrefutable power,
A descendant of ardent prayers, of
gilded sculptures and miracles.
And I knew I would speak in the language
of the vanquished
No more durable than old customs,
family rituals,
Christmas tinsel, and once a year
the hilarity of carols.
Ông đấy ư? Nhà thơ Ba Lan cuối
cùng!
Say, sỉn, anh ta ôm tôi
Bạn quí từ thời Tiền Phong
Trong chiếc áo khoác nhà
binh
Đã từng kinh qua cuộc chiến Nga, và
ở đó, đã thấu hiểu
Anh có thể không biết chi nhiều,
từ những điều đó, từ Apollinaire
Hay những tuyên ngôn của nhóm
Lập Thể
Hay những buổi hội hè trên đường
phố Paris
Thứ thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa những ảo
tưởng, là,
Đói khát, kiên nhẫn, và
phục tùng.
Trong những thủ đô đẹp đẽ của họ, họ
vẫn thích nói.
Tuy nhiên thế kỷ 20 tiếp tục trôi
chảy.
Đâu phải họ là những người quyết
định, những từ ngữ có nghĩa là gì.
Trên lối đi, khi chùi chân
chảy máu với miếng giẻ
Anh nắm bắt sự kiêu ngạo vô ích
của những thế hệ cao ngất
Xa xa, như anh có thể nhìn,
là mặt đất lè tè, chẳng hy vọng gì
lại được chúc phúc.
Im lặng xám ngự trị mọi bộ lạc, mọi
nhân dân
Sau những tiếng chuông nhà
thờ baroque, sau bàn tay trên cây kiếm
Sau những cãi lộn về free will, và
những tranh luận về diets.
Tôi chớp mắt, thấy kỳ cục, thấy nổi
giận
Một mình với Jesus Mary của tôi
Chống lại thứ quyền lực không làm
sao bài bác lại được
Dòng dõi những người cầu nguyện
sôi nổi
Những điêu khắc bằng vàng, những
phép lạ.
Và tôi biết
Tôi có thể nói
Bằng thứ ngôn ngữ của những người bị
đánh bại
Không trường tồn bằng,
So với những cổ tục, những nghi lễ gia đình
Kim tuyến Giáng Sinh, và đến
hẹn lại tới,
Sự vui nhộn của những bài hát
mừng.
CHARM SCHOOL
Madame Gabrielle, were you really French?
And what were those heavy books
You made them balance on top of their heads,
Young women with secret aspirations
We saw strolling past the row of windows
In the large room above Guido's barbershop?
On the same floor was the office of an obscure
Weekly preaching bloody revolution.
Men with raised collars and roving eyes
Wandered in and out. When they conspired
They spat and pulled down the yellow shades,
Not to raise them or open the windows again
Until the summer heat came and your students
Wore dresses with their shoulders bared
As they promenaded with books on their heads,
And the bald customer in the barbershop
Sat sweating while overseeing in the mirror
His three remaining hairs being carefully
combed.
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Trường Khả Ái
Bà Gabrielle, Bà có
phải thực Đầm không,
Hay, Đầm Rau Muống?
Và những cuốn sách
nặng
Bà bắt họ đong đưa ở trên đầu
Là những cuốn gì vậy?
Những thiếu phụ trẻ với những hoài vọng bí
ẩn
Chúng tôi thấy họ lướt qua
những hàng cửa sổ
Trong căn phòng rộng
Ở bên trên cửa tiệm cắt tóc
Guido
Cũng trong tầng lầu đó
Còn có văn phòng
Của 1 hội kín
Hàng tuần rao giảng 1 thứ cách
mệnh
Vừa “tắm tôi”, vừa “mé mau”
có tên là…. Vẹm
Những tên đờn ông Bắc Kít
Cổ áo kéo cao
Mắt đảo xuôi, đảo ngược
Thậm thụt “vô và ra” [“đi và
vào” mới đúng]
Khi âm mưu làm thịt phe Kuốc
Gia
Những Khái Hưng, Hoàng Đạo,
thí dụ…
Chúng ngồi thành 1 cục, nhổ
nước bọt, đờm, nước rãi… văng tùm lum
Kéo những cái bóng
màu vàng của chúng xuống
Và đóng mẹ mấy cái
cửa sổ lại!
Cho tới khi cái nóng khủng
khiếp của mùa hè của xứ Bắc Kít, tới
Những sinh viên của Bà
Bèn mặc áo vai trần
Rong ruổi với những cuốn sách
ở trên đầu
Và cái tay khách hàng đầu hói ở tiệm cắt tóc
Ngồi đổ mồ hôi
Nhìn cái đầu bóng lưỡng của mình trong gương
Còn đúng ba sợi tóc,
Được chải chuốt rất ư là tới chỉ!
Le Livre des rêves (1)
(1975)
Dans un essai du Spectator (septembre
1712) repris dans cet ouvrage, Joseph Addison observait que l'âme
humaine, quand elle rêve, débarrassée du corps,
est à la fois le théâtre, les acteurs et le
public. On pourrait ajouter qu'elle est aussi l'auteur de la fable
à laquelle elle assiste. Il y a des passages qui développent
la même idée chez Petrone et chez Góngora.
Une lecture littérale
de la métaphore d' Addison pourrait nous mener à
la thèse, dangereusement séduisante, que les rêves
constituent le plus ancien et cependant le plus complexe des genres
littéraires. Cette thèse curieuse, que nous approuvons
volontiers car elle ne gêne en rien la composition de cette
préface ni la lecture des textes qui suivent, pourrait justifier
une histoire générale des rêves et de leur influence
sur les lettres. Le présent ouvrage, composé d'un mélange de textes choisis
pour le délassement du lecteur curieux, pourrait fournir
certains matériaux. Cette histoire hypothétique
explorerait l'évolution et la ramification de ce genre si
ancien, depuis les songes prophétiques de l'Orient jusqu'à
ceux, allégoriques et satirique, du Moyen Age et jusqu'aux
pures inventions de Lewis Carroll et de Franz Kafka. On y etablirait,
bien entendu, une distinction entre les rêves és par
le sommeil et les rêves inventés par la veille.
Ce livre de rêves,
que les lecteurs rêveront à leur tour, englobe
des rêves nocturnes - ceux que je signe, par exemple -,
des rêves diurnes, qui sont un exercice volontaire de notre
imagination, et d'autres d'origine oubliée: disons par exemple
le rêve anglo-saxon de la Croix.
Le sixième livre de
L'Enéide reprend une tradition de
L'Odyssée et déclare qu'il
y a deux portes divines par lesquelles nous arrivent les songes
: celle d'ivoire, qui est celle des rêves fallacieux, et celle
de corne, qui est celle des rêves prophétiques. Etant
donné les matériaux choisis, il semblerait que le poète
ait senti d'une manière obscure que les rêves qui anticipent
l'avenir sont moins riches que les rêves fallacieux qui sont
une invention spontanée de l'homme qui dort.
II y a un type de rêve
qui mérite particulièrement de retenir notre
attention. Je veux parler du cauchemar, qui se dit en anglais
nightmare ou jument de la nuit,
mot qui suggera it Victor Hugo la métaphore de « cheval
noir de la nuit » mais qui, selon les étymologistes,
veut dire fiction ou fable de la nuit. Alp, son
nom allemand, évoque l'elfe ou l'incube qui opprime le dormeur
et qui lui impose d'horribles images. Ephialtes,
qui est le terme grec, precede d'une superstition analogue.
Coleridge écrivit
que les images de la veille suscitent des sentiments, tandis
que dans le sommeil les sentiments suscitent des images. (Quel
fut le sentiment mysterieux et complexe qui lui aura dicte le Kubla
Khan, qui fut le don d'un rêve ?) Si un tigre entrait dans
notre chambre, nous aurions peur; si nous avons peur en rêve,
nous engendrons un tigre. Telle serait l'explication des visions
qui nous alarment. J'ai dit un tigre mais étant donne que l'effroi
précede l'apparition improvisée nous pouvons, pour
le comprendre, projeter notre terreur sur une figure quelconque qui,
dans la veille, n'est pas nécessairement terrifiante. Un buste
de marbre, une cave, l'envers d'une monnaie, un miroir. Il n'y a pas
dans l'univers une seule forme qui ne puisse se revetir d'horreur. D'où,
peut-être, la saveur particulière du cauchemar qui est
très differente de l'épouvante ou des épouvantes
que la réalité est capable de nous infliger. Les peuples
germaniques semblent avoir été plus sensibles à
cette menace imprécise du mal que les peuples de filiation
latine; rappelons-nous les mots intraduisibles
eery, weird, uncanrry, unheimlich. Chaque langue
produit ce dont elle a besoin.
L'art de la nuit a envahi
peu a peu l'art du jour. Cette invasion a duré des siècles
; le royaume dolent de la Divine Comédie
n'est pas un cauchemar, sauf peut-être dans le Chant IV,
qui donne une impression de malaise contenu; c'est un lieu où
il se passe des choses atroces. La lecon de la nuit n'a pas été
facile. Les songes de l'Ecriture n'ont pas le style des rêves
; ce sont des prophéties qui mettent en oeuvre d'une facon trop
cohérente un mécanisme de métaphores. Les rêves
de Quevedo semblent être l'oeuvre d'un homme qui n'a jamais rêvé,
comme ce peuple cimmerien mentionné par Pline. D'autres suivront.
L'influence de la nuit et celle du jour seront réciproques
; Beckford et De Quincey, Henry James et Poe ont leurs racines dans
le cauchemar et troublent souvent nos nuits. II n'est pas improbable
que les mythologies et les religions aient une origine analogue.
Je tiens à dire ici
ma gratitude envers Roy Bartholomew, sans la studieuse ferveur
de qui il m'eut été impossible de faire ce livre.
Buenos Aires, 27 octobre 1975.
(1) Anthologie de textes oniriques
rassemblés par J. L. Borges.
Some of the most important kinds of travel writing
now are stories of flight, written by people who belong to the
millions of asylum seekers in the world. These are stories that
are almost too hard to tell, but which, once read, will never be forgotten.
Some of these stories had to be smuggled out of detention centres, or
were caught covertly on smuggled mobiles in snatches of calls on weak
connections from remote and distant prisons. Why is this writing important?
Behrouz Boochani, a Kurdish journalist and human rights campaigner
who has been detained on Manus Island for over three years with no hope
for release yet in sight, puts it plainly in a message to the world in
the anthology Behind the Wire. It is, he wrote,
'because we need to change our imagination' .•
HOA NGUYEN
As a child growing up in the seventies in the
United States, I learned about European exploration, the 'discovery'
of the 'New World' and circumnavigation of the globe. The thrill
of treasure, whole parts of the Earth you could claim for yourself,
fabled streets of gold and fountains of youth - these were fantastic
myths unfolding in my imagination. What I didn't know in fourth grade
(when I wrote, directed and starred in a recreation of Columbus 'discovering'
the 'New World') was that these were stories of untold violence:
murder, rape, enslavement, thievery and the enactment of racist ideologies
for the exploitation of black and brown people that continues today.
By the age of two, I had circumnavigated
half the globe. I left with my newly married parents aboard
a plane from Saigon. Our first stop was the once Kingdom of Hawaii.
I didn't know about any of that then either. My 'discovery' was
the hotel ice-cube maker and the joy of chewing ice. If it were possible,
at age two, I could have written about my discovery of the Hawaiian
Islands and their magic machines that made mounds of square frozen
water. We were refugees and yet
we were not refugees. My (European American) father worked
for the US Department of State; we made our home in the DC area where
I learned the Pledge of Allegiance, lived in a brick 'rambler'
built for returning World War II vets in the late forties, and
learned never to speak Vietnamese. Vietnamese were 'dirty kneed',
enemies, a source of guilt or sin. My Vietnamese mother was
born in the Year of the Snake. She left her skin behind and never
returned to Vietnam. Like many immigrants, we melted our identities,
and yet did not.
*
Growing up, I watched the
ease of my white friends, seeing how they could take on the costumes
of any era and place: 1950s poodle skirts, elegant saris, beaded 'Indian'
tassel-fringed leather outfits, antebellum petticoats. I didn't
have the language for why I could not be a tourist in the same way
as my white counterparts. I could dress myself as a boy before I could
wear period European apparel or the traditional clothing of another
nation. And even then it invoked a sense of repulsion and disgust.
Likewise, I'm led to wonder,
given the history of 'discovery', if we need more accounts of
people of European descent' discovering' places like my mother's
country, my place of birth from which I have felt forever exiled
through rupture and circumstance? Do we need more Westerners consuming
their way across Vietnam, commenting on local dress, smiles, food
and sharing tips on where to get the best deal on bespoke silk skirts?
What is the tourist trade really
funding? Is it adult Disneyland, plastic trinkets with little
automatons singing 'It's a Small World After All'?
Instead of finding a Western
angle of experience in countries like Vietnam - motorbiking from
Hanoi to Saigon, boating in the southern delta, snapping up fabric
arts from the Hmong, eating their way down the Mekong, seeking redemption
from war experiences or war protests, romanticizing French colonialism,
or tracing the ghost of writer Marguerite Duras - maybe writers should
stick closer to home. What would it look like to travel to a mall,
a local wood, a suburban tract - to deeply study and visit one's own locale?
As a poet interested in the local, I think it vital to understand what
is right before one.
Instead of more consumerism
- the buying of experiences, the accumulation of things, of eating
the 'other' - perhaps writers should name their own environment.
What is the shape of your watershed? How is your electricity produced?
Where is your water treated? Where is your food produced and by whom
and how does it travel to your local market? What are the names of
the rocks under your feet and around you? What formed those geological
features? Who were the first humans here? What flora and fauna live
upon it and what are their habits and interfaces? What stars whirl above
you and what names have they been given, what lore? How can one trace
the relations, find the slippages between histories, the linkages, to
find the complexities in naming and of the named? Travel as one's carbon
footprint; travel as a footstep, travel as a naming in a landscape in
all its complexity. Homing as a way to place oneself in a constellation
of process and being. _
Hoa Nguyen was born in the Mekong Delta and raised
in the Washington DC area. Her poetry collections include As
Long As Trees Last, Red Juice and Violet
Energy Ingots. She lives in Toronto.
Note:
Granta, số mới nhất, viết về "đi", và
về "đi để viết".
Tin Văn post hai mẩu, có mắc mớ xứ Mít.
Mua, và mua số báo The New Yorker
có bài điểm sách của VTN, của Oates. Tay
này, thú thực Gấu không mặn, có thể
do GCC quá hoài vọng về xừ luỷ, lúc mới xuất
hiện.
Chỉ nội một mẩu trên, của Hoa Nguyên
là đã thấy ăn đứt VTN rồi!
My Vietnamese mother was born
in the Year of the Snake. She left her skin behind and never returned
to Vietnam. Like many immigrants, we melted our identities, and
yet did not.
Má tôi sinh năm Rắn.
Bà để lại da, ở xứ Mít, và không bao
giờ trở về.
Câu phán đó làm nhớ tới
Sebald, mà như VTN thú nhận, là "hero" của
anh ta.
Sebald đúng là "để da lại nước Đức",
tuy viết bằng tiếng Đức, nhưng khó mà có thể
nói, ông thuộc dòng chính
của Đức.
Có
thuyền viễn xứ đà giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa…
…
Câu chuyện đã dừng hơn nửa
thế kỷ
Phạm duy phổ thơ của rất nhiều nhà
thơ.ai đã có tên tuổi thì cùng
ca khúc, bài thơ thành bất hủ. ai chưa tên
tuổi sẽ thành tên tuổi....
Note: Cuốn sách mới nhất
của Barnes, là về cuộc đời nhà soạn nhạc thần sầu Nga,
và cái tít, là để vinh danh nhà thơ
Osip Mandelstam: Tiếng động thời gian. Cuốn này, "thần sầu". Gấu
chơi cả hai bản tiếng Tây, tiếng Anh. Đọc 1 phát là ngứa ngáy,
là thèm viết về Hà Nội, lạ thế. Anna Akhmatova
cũng có vài mẩu viết về Mùa Đông của St
Petersburg của Bà.
Trên tờ Điểm Sách
Nữu Ước, NYRB số đề ngày 10 tháng Sáu, 2004,
Orlando Figes điểm hai cuốn sách mới xuất bản, viết về nhà
soạn nhạc lớn lao của Liên Xô, Shostakovich [một nhân
vật được coi là li khai, chống đối chế độ...], cho biết, Shos.
đã từng ký tên trong danh sách đăng trên
tờ Sự Thật., tố cáo nhà bác học nguyên tử
của Nga, Andrei Sakharov.
"Không ai bắt ông ta phải làm như
vậy." Bạn của Shos, Lev Lebedinsky nhớ lại.Và tác giả bài viết
giải thích: Đây không phải hành động của
một con người phản kháng, như ông đã từng, mà
của một con người sống quá lâu trong nỗi sợ hãi.
Hai mươi năm sau khi Stalin mất, ông ta vẫn
còn sợ Ông Trùm Đỏ! (1)
GCC, điếc đặc nhạc cổ điển,
nhưng cái tên Chostakovitch, lại thêm inédit, chưa từng in ấn, intime, cõi thầm kín….
làm sao bỏ qua!
Quả là không bõ công mua.
Chỉ nội bức thư dưới đây.
GCC nhớ hoài hai giai thoại về ông này.
Một, là thời gian thất sủng, chỉ chờ Cớm VC Niên Xô
[KGB] tới bắt, ông bèn nằm hành lang, nhà
của mình, để cho vợ con không đau lòng vì
cảnh bi thương này!
Tuyệt. Chỉ 1 chi tiết như thế là thấy Bắc Kít
không có tên nào làm được!
Thứ nhì, ông này đếch thèm
ký tên vô danh sách kêu gọi Bắc
Bộ Phủ Cẩm Linh thả Brodsky, sau khi hỏi, tên thi sĩ này
có phải đã từng gặp tụi [ký giả] Tây Phương.
Nghe nói, có, thế là ông ta lắc đầu,
gặp tụi nó là bị mua rồi, hỏng rồi!
[Trong trò chuyện với Brodsky của Volkov có
kể chuyện này]
Số này tuyệt lắm. Nói tới bản nhạc thần
sầu của ông, Symphonie 7, Leningrad.
Tớ rõ ràng là
sống quá dai, quá cả cái thời của tớ!
Shostakovich vào Viện
Âm Nhạc Petrograd năm 1919 khi ông 13 tuổi, và
là một trong những học trò xuất sắc nhất về soạn
nhạc của trường Petersburg. Ông cũng đam mê không
khí văn chương của thành phố. Vở opera đầu tiên
của ông, Cái Mũi, dựa theo một chuyện kể phi lý
của Gogol về cái mũi của một nhân viên, rời chủ
của nó để sống một cuộc sống tự lập, cuối cùng bị cảnh
sát bắt. Vở opera có thể được thưởng thức như là
một câu chuyện châm biếm về quyền lực và nỗi sợ do
nó gây nên. Vào năm 1936, Stalin đi dự
một buổi trình diễn vở opera của ông Phu nhân
Macbeth ở Quận Mtsensk, và tỏ vẻ bực bội, dấu hiệu mở đầu chiến
dịch dữ dội của Đảng nhằm chống lại mọi hình thức nghệ thuật
đi ra ngoài dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa. Leningrad
trở thành mục tiêu đầu tiên của "Đại Khủng Bố". Sau
vụ ám sát Kirov, trùm đảng bộ Leningrad (1934), có
thể là do Stalin, nhằm có cớ cho cuộc thanh trừng những
phần tử đối lập trong thành phố, những cuộc bắt bớ hàng
loạt đã diễn ra. Shostakovich đã khéo léo
lắm mới thoát khỏi, và vẫn giữ được sự trung thực. Trong
một cuộc phỏng vấn, ông tuyên bố Bản Giao Hưởng Thứ Năm,
được trình diễn lần đầu, tháng Mười Một 1937, là
về "một người đàn ông với những cảm nghĩ của anh ta", nhưng
những khán thính giả cắt nghĩa, đây là một
tác phẩm về Khủng Bố. Tất cả đều biết rằng, chỉ lát nữa
sau khi ra khỏi rạp, một vài người trong số họ sẽ bị ném
vào tù, hay bị xử tử. Bản Giao Hưởng Thứ Bẩy, viết để tặng
những người dân thành phố bị quân đội Đức vây
hãm, được trình diễn lần thứ nhất tại đây vào
tháng Tám 1942, trước một đám thính giả, lả
vì đói và lạnh. Được truyền thanh khắp nước Nga
và được Stalin khôn khéo sử dụng, như một bằng chứng
về tinh thần yêu nước của người dân Leningrad, nhưng tác
giả của nó đã tâm sự với một số bạn thân, bản
giao hưởng không chỉ là một cáo trạng đối với chủ
nghĩa phát xít, mà đối với mọi chủ nghĩa đàn
áp. Âm nhạc của ông đã kết tinh hình ảnh
mới của thành phố, như là một nạn nhân. Đây là
điều Akhmatova đã làm, trong những vần thơ dưới hầm của bà.
RUINED
CHOIRS
How did Shostakovich's music survive Stalin's Russia?
For genuine dissidents,
such as Solzhenitsyn and Brodsky, Shostakovich was part of the
problem. In an interview, ironically, with Solomon Volkov, Brodsky
attacked the effort to locate "nuances of virtue" in the gray expanses
of Shostakovich's later life. Such a career of compromise,
Brodsky said, destroys a man instead of preserving him. "It transforms
the individual into ruins," he said. "The roof is gone, but the chimney,
for example, might still be standing." Cái
trò ‘dạng háng’, ‘biển một bên, tớ một bên’…
huỷ diệt một con người thay vì giữ được nó… Nó
biến con người thành tro than, điêu tàn… Mái
nhà thì mất mẹ nó rồi, nhưng cái ống khói,
có thể vưỡn còn!
Note:
Cái đoạn gạch đít ở trên, áp dụng vào
đám tinh anh Bắc Hà [HC, LD... trừ Hữu Loan], thật
hợp!
Late
at night, Ragin broods over his condition: "I am serving a bad
cause, and I receive a salary from people whom I deceive. I am dishonest.
But then I am nothing by myself, I am only a small part of a necessary
social evil. . . . It is the fault of the time I live in." He finds
solace in the thought that suffering is universal and that death
destroys all human aspirations in the end. Immortality, he says, is
a fiction. When he dies, of a sudden stroke, he is mourned by no
one. At that point, the resemblance to Shostakovich breaks down.+ (b)
Ông
ta đúng ra là không nên đứng kế bên
lãnh tụ.
Đang
loay hoay viết về Nguyễn Tuân, được tin Tố Hữu mất, tôi
cứ lẩn thẩn tự hỏi, không hiểu có bức hình nào
chụp tác giả Tàn Đèn Dầu Lạc, tức Nguyễn Tuân,
đứng kế bên Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim,
tức Tố Hữu, trong một dịp đại lễ nào đó?
Hay "tệ" hơn nữa, đứng kế bên ông Hồ?
*
"Ông ta đúng là không nên
đứng kế bên Khrushchev". Câu này của Volkov,
khi phải nhận định về nhà soạn nhạc lừng danh Shostakovich,
trong một lần trò chuyện với nhà thơ Brodsky, xung quanh
đề tài nhà thơ đưa ra: Khi bạn bắt đầu chơi trò
"biên tập" [editing] đạo hạnh, đạo đức của bạn – rằng cái
này được phép, cái kia không được, vào
những ngày như thế đó – như vậy là bạn đã
đánh đu với tinh, đã mấp mé bên bờ thảm họa.
Volkov kể lại, một lần ông cần vài bức
hình nhà soạn nhạc, từ thư khố nhà nước.
Tuy đã phải trả tiền trước, nhưng một "phu nhân sắt"
(an iron lady) vẫn kiểm tra từng tấm, và chừa lại ba, hình
nhà soạn nhạc đứng kế bên Khrushchev. Phu nhân
sắt cũng chẳng thèm mất công giải thích. Tôi
[Volkov] bắt buộc phải hiểu rằng nhà soạn nhạc không
nên đứng kế bên lãnh tụ, vào thời gian mà
ông ta là một người không thể chấp nhận được (persona
non grata). Đọc bài viết của
Trần Dần, về thơ Tố Hữu, (được đăng lại trên talawas.org),
vào đúng thời của ông ta – tức là không
thể chấp nhận được đó – tôi mới thấy thế nào
là hào khí Nhân Văn Giai Phẩm, và
cùng với nó, cái gọi là sĩ khí
Bắc Hà.
Note:
"Ý kiến ngắn", trên, Gấu viết cho ta là
gì nhân nghe tin Tố Hữu ngỏm. Ta là gì cho biết, sẽ đăng.
Khi đăng, Gấu đọc, thấy bị thiến mấy chữ "tệ" hơn nữa.
Cáu quá, meo hỏi. Bà chủ quán
xin lỗi, nói, đệ tử tự ý thiến.
Đúng ra, bà phải đăng trên ta là gì, xin lỗi độc giả
ta là gì.
Gấu đâu cần bà xin lỗi?
Nay, post lại, và xin lỗi độc giả ta là gì, về cái phần sơ sót
của Gấu. NQT
Nhân viết về nhà soạn lừng danh, bèn
đọc lại đoạn trò chuyện giữa Volkov và Brodsky. Nhà
thơ khẳng định, 1 người như Shostakovich không thể đứng kế bên,
bất cứ ai. Kút không, Xì không, và
Lenin, lại càng không!
Brodsky. So you see how it all
works out. Shostakovich and Khrushchev no longer possible, Shostakovich
and Stalin still not possible, Shostakovich and Lenin never possible.
I think that may even be for the better. For Shostakovich, at any
rate.
Volkov. Well, with Shostakovich-it's a complicated
matter.
Brodsky. What's so complicated about it? He could
have done perfectly well without all that, to be blunt.
Volkov: Với Shostakovich, tình hình
có vẻ rắc rối.
Brodsky: Rắc rối cái
con mẹ gì. Ông ta thừa sức làm như thế, cỡ
như ông ta!
GCC chẳng đã từng phán,
1 tên thi sĩ bảnh, cực bảnh như Hoàng Cầm, thí
dụ, thừa sức để lắc đầu với Tố Hữu, tao đếch viết [tự kiểm]. Cái
thế giá của ông ta, cho ông ta, làm được
như thế. Cũng thế với Nobel Toán. Ông ta thừa sức ị
vào mặt nhà nước như DTH, rồi bỏ đi Mẽo dạy học, đứa
nào dám đụng đến ông ta?
Đoạn tiếp theo sau mới thú.
Brodsky được nhà nước Liên Xô o bế, ông
gạt phắt, tao đếch thèm!
Nếu hiểu Shostakovich, theo
như cách giải thích của Brodsky, về thế giá của ông
nhạc sĩ thiên tài như ông ta, thì không
thể có lời than vớ vỉn sống quá cả thời của mình
được:
Thư gửi Isaac Glikman
Moscou, 2 Tháng Hai,
1967
Tôi suy nghĩ hoài
về đời sống, cái chết, và nghề nghiệp/sự nghiệp.
Khi nghĩ tới mấy đấng nổi tiếng, tôi đi đến kết luận, tất cả
đám họ đã không chết đúng lúc. Thí
dụ: Mussorgsky chết sớm/trẻ/yểu. Người ta cũng có thể nói
như thế về Pouchkine, về Lermontov, và vài người khác
nữa. Trong khi đó, Tchaikovsky đúng ra phải chết sớm.
Do chết trễ, cái chết của ông, đúng hơn, những
ngày cuối đời của ông thực là thảm khốc.
The labyrinth has
vanished. Vanished also
those orderly avenues of eucalyptus,
the summer awnings, and the watchful eye
of the ever-seeing mirror, duplicating
every expression on every human face,
everything brief and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle of the honeysuckle,
the garden arbor with its whimsical statues,
the other side of evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy swish of a fountain,
are all things of the past. Things of what past?
If there were no beginning, nor imminent ending,
if lying in store for us is an infinity
of white days alternating with black nights,
we are living now the past we will become.
We are time itself, the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage, we are the perished
walls of the Romans and the vanished park,
the vanished park these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Bi Khúc Công Viên
Mê cung biến mất
Cũng biến mất, là,
Những đại lộ với những hàng me ngay
ngắn
Những mái hiên buổi chiều
Và tấm gương hằng chăm chú theo
dõi
Nhân lên mọi khuôn mặt mỗi
người
Mọi thứ, mọi điều thoáng chốc, trôi
tuột.
Đồng hồ ngừng,
Mớ kim ngân mọc lộn xộn
Công viên Chi Lăng với những hàng
cây, những pho tượng bất thường
Phiá bên kia của buổi chiều, sự
rùng mình của những chú chim
Bao lơn, tiếng lào xào lười biếng
của con suối
Đều là những điều của quá khứ
Những điều của quá khứ nào?
Nếu không có bắt đầu, thì
cũng chẳng hề có tận cùng hiển nhiên sắp
hiển hiện
Nếu nằm ườn trong kho, với chúng ta,
là một vô cùng tận
Của những ngày trắng xen những đêm
đen
Thì
Chúng ta bây giờ đang sống cái
quá khứ chúng ta sẽ trở thành
Chúng ta là thời gian, chính
nó
Là con sông không thể nào
chia cắt ra được
Chúng ta là Sài Gòn,
là Carthage, là Uxmal
Là những bức tường đã thành
bụi
Của những người Sài Gòn ngày
nào, trước 1975
Là công viên Chi Lăng trước
Quán Chùa
Đã biến mất
Công viên biến mất mà,
Những dòng thơ này của GCC
Đang tưởng nhớ, hoài niệm.
SAIGON 1962-65 - Street scenes
Hình trái: Đường Lê
Thánh Tôn, đoạn phía sau chợ Saigon - Photo
by John Hentz
Hình phải: Chợ Cũ, góc Hàm
Nghi - Võ Di Nguy