*



Nguyên bản của
Bengt Jangfeldt



Joseph Brodsky: Người hùng Virgil: Đi để mà đừng bao giờ trở về.
[A Virgilian Hero, Doomed Never to Return Home].

Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky. 

Nhà thơ nổi loạn 

Không thể nói về văn học Nga mà bỏ qua xã hội Nga, từ trong đó nó được viết ra. Điều này lại càng đúng, với thế kỷ 20, khi năm nhà văn Nga đã được trao giải Nobel văn chương.
Khi  nhà văn di dân Ivan Bunin được Nobel vào năm 1933, Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã bị chê trách là tại sao không trao cho nhà văn ủng hộ Xô Viết, là Maxim Gorki; khi Pasternak được vào năm 1958, nhà cầm quyền Xô Viết coi đây là một hành động chính trị, chống lại Xô Viết. Nhưng khi trao cho Mikhail Sholokhov, bẩy năm sau đó, họ lại coi đây là muốn hòa giải với chế độ Xô Viết; và Aleksandr Solzhenitsyn được vào năm 1970, thì lại giống trường hợp Pasternak.
Brodsky được Nobel năm 1987, khi đó, thời thế đã thay đổi. Liên Bang Xô Viết cởi mở hơn so với trước, nhưng nhà cầm quyền vẫn chưa chịu nổi, và đã trì hoãn rất lâu mới cho loan tin.
Iosif Brodskiy sinh tại Leningrad năm 1940 và mất ở New York năm 1996 với cái tên Joseph Brodsky. Giữa hai cách viết đó, là một số phận thê lương của một con người và của thơ Nga thế kỷ 20 - một sứ xở vốn giàu có về bi kịch.
Iosif Brodskiy lớn lên tại Liên Bang Xô Viết, trước là trong thời kỳ Stalin, rồi trong một không khí chính trị dễ thở hơn thời kỳ Khrushchev và Brezhnev. Ông khởi sự làm thơ cuối thập niên 1950, nhưng như bất cứ một ai từng từ chối những chuẩn mức mỹ học Xô Viết, ông gặp nhiều khó khăn và chỉ có thể in dăm bài thơ. Brodskiy cách mạng thơ Nga, bằng cách đưa vào những đề tài cấm kỵ đối với Liên Bang Xô Viết, trước tiên là những đề tài siêu hình và kinh thánh. Và ông làm điều này qua những câu thơ tân kỳ, và thay đổi một cách thật là đặc biệt. Ảnh hưởng những nhà thơ Nga đi trước của thế kỷ 18 (trước tiên là Derzhavin), cũng như bởi những nhà thơ Ba Lan (Galczynski, Norwid) và những nhà thơ siêu hình Anh (Donne, Herbert, Marvell), Brodskiy làm giầu thơ văn học Nga bằng một cảm tính hài hước mới. Việc sử dụng rất dễ nhận ra những hồi tưởng và những dẫn dụ văn học có thể coi như là hậu quả của việc, nhà thơ trưởng thành trong một môi trường hoàn toàn cô độc về văn hóa, và chính vì vậy mà mọi tiếng nói khác, từ đâu tới đều được hăm hở đón nhận. Trong Liên Bang Xô Viết những điều như trên là phải bị trừng phạt. Nhà thơ trẻ bị coi như một tên nổi loạn, một kẻ ăn bám; ông bị bắt và sau một vụ án giống như trò hề, vào năm 1964, ông bị đầy đi vùng phía bắc nước Nga, để học tập tốt, lao động tốt. Ông làm được điều này, nhưng không đúng như nhà nước suy nghĩ và mong muốn. Ở nơi lưu đầy, ông đã phát triển kỹ thuật thơ của mình, và trở nên chín mùi, như là một thi sĩ. Và nhờ phản ứng từ những nhà trí thức Xô Viết và Tây Phương, ông được trả tự do vào năm 1965, trước khi mãn án tù. Ông trở lại thành phố quê hương, Leningrad, và ở đây tới khi bị đầy đi lưu vong ở nước ngoài, vào năm 1972 - lần cuối cùng này không cần án tòa.
Ông định cư tại Mỹ, ông trở thành Joseph Brodsky, một công dân Mỹ, và mất tại đây hai mươi bốn năm sau.Tại Mỹ, Brodsky tiếp tục làm thơ bằng tiếng Nga, và dịch rất nhiều thơ của ông qua tiếng Anh. Nếu với tiếng Anh, ông không làm sao đạt tới đỉnh thi sơn như với tiếng Nga, thay vì vậy, ông sử dụng nó để viết những bài tiểu luận tuyệt vời. Như vậy, như là một nhà văn, ông có tới hai căn cước, một trong những nhà thơ Nga lớn lao nhất của thế kỷ 20, và một nhà viết tiểu luận số một, viết bằng tiếng Anh, như Hàn Lâm Viện Thụy Điển  đã ca ngợi ông, một tác giả “ôm lấy tất cả, bằng sự trong sáng của tư tưởng và bằng cường độ thi ca” ["all-embracing authorship, imbued with clarity of thought and poetic intensity]”. 

Thời Gian Lớn Hơn Không Gian.

Tập tiểu luận thứ nhất của ông, Less Than One [Không Bằng Một], xuất bản năm 1986, trong đó, một số bài tuyệt vời nhất, là về những tiền thân lớn lao của ông trong thơ Nga - Osip Mandelstam, Anna Akhmatova, and Marina Tsvetayeva. Trong tiểu luận về Tsvetayeva, ông đưa ra quan niệm của ông về một thi sĩ, như là một “kết hợp của một dụng cụ và một con người vào một cá nhân [combination of an instrument and a human being in one person], và phần dụng cụ ngày càng lấn lướt phần con người ở trong cá nhân đó.”
Nhà thơ, dần đần trở thành dụng cụ, nhờ tài thơ của mình, người đó chẳng thể nào có một chọn lựa khác, và một khi ngộ ra điều này, nhà thơ nhìn ra con đường đi của mình. Bằng cách hằng hằng nghe theo tiếng nói của riêng mình, hằng hằng phát triển cái ngôn ngữ của mình, hằng hằng bước thêm những bước mới mẻ về văn phong, và như thế nhà thơ trở nên ngày càng cô độc.
Những lời của Brodsky về Tsvetayeva cũng là những lời ông nói về chính ông. Do ngôn ngữ, chính nó, mà Brosky nhà thơ ngày càng xa dần dòng văn học chính. Và Brodsky người đàn ông, trưởng thành trong một xã hội không sao hòa giải chính ông với những giá trị của nó, cái xã hội đó cũng từ chối chấp nhận ông, và, như Tsvetayeva and Mandelstam, ông bắt buộc phải chúi sâu vào một cõi phóng thể, vong thân.
[“Nếu chúng chiếm được cuộc đời, tôi trở thành hư vô”. Thanh Tâm Tuyền: Cát Lầy]:  Cuộc lưu đầy nơi mạn bắc, và cuộc từ giã xứ sở của ông tám năm sau đó, chỉ là những xác nhận bên ngoài của một tiến trình nội tại, mà, nếu ở những xứ sở khác, vẫn có thể xẩy ra, nhưng không đến nỗi thê lương như vậy.
Trong bài thơ, Khúc Ru Mỏm Cá Thu, “Lullaby of Cape Cod" (1975)  Brodsky miêu tả cuộc “dời” [his “move”] đi Mẽo của ông, như là “thay đổi Đế quốc”. Cho dù ra đi, rời đổi, là mất mát, là gì gì đi chăng nữa, với ông, về bản chất, chẳng có gì là đổi thay, nghĩa là ông vẫn vậy. Nếu không chi ly từng chi tiết - nghĩa là, lẽ đương nhiên, một đế quốc này có thể tởm hơn đế quốc kia - đế quốc luôn luôn hiện hữu, và ‘mắm sốt’ [même chose] như nhau [empires have always existed and resemble one another], mặc dù thi sĩ bị đế quốc Xô Viết làm tình làm tội, nhưng ông không tin rằng, có một hệ chính trị đem đến cho con người một xã hội hoàn toàn. Kẻ Thù Lớn không phải là Không Gian, nhưng mà là Thời Gian.
Chính cách tiếp cận thời gian của Brodsky đã xác định cái nhìn thế giới của ông. “Điều làm tôi quan tâm, và luôn luôn quan tâm nhiều nhất, đó là thời gian, và những tác động - những hậu quả - của nó lên con người. Cách chi chi, như thế nào, nó thay đổi, nghiền nát con người…  Về mặt khác, đây chỉ là một ẩn dụ, về điều thời gian làm, đối với không gian và với thế giới. Thời gian là tối thượng - tất cả cái còn lại, nghĩa là không phải là thời gian, thì đều là bị chi phối bởi “quyền lực của thời gian”, “tên cai trị”, “kẻ sở hữu”. Thời gian là kẻ thù của con người, và của tất cả những gì con người sáng tạo ra và trân quí chúng. “Điêu tàn là chiến thắng của khí trời và của thời gian”: "Ruins are the triumph of oxygen and time."
Thời gian, như đỉa đói, bấu chặt lấy con người, và con người vì nó mà già khòm, xấu xí mãi ra, rồi chết, biến thành “bụi” – “thịt của thời gian”, như Brodsky gọi. Những từ chià khóa của thơ ông là: “splinter”, “[cái gai, cái dằm: Gai chích vô thịt thì đau, thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời], “shard” [miểng kính bể], “fragment”[ đoạn, mẩu]. Một trong những cuốn sách của ông có tên là Một Phần Lời. A Part of Speech. Con người – nhà thơ, nói riêng – là một phần của ngôn ngữ, mà ngôn ngữ thì già hơn anh ta, và sẽ còn cứ thế tiếp tục sống, sau khi đã tính sổ với tên hầu của nó, là con người – nhà thơ, nói riêng.
Con ngưòi bị tấn công cả ở hai phía, quá khứ và tương lai. Điều làm chúng ta bực mình, chán ngán trong đời, là tiếng khóc của tương lai đang tìm cách nhẩy bổ vào hiện tại. Chút thời khắc ngắn ngủi hiện tại, mà biểu tượng của nó chính là con người, cái hình hài ấm áp, như tên gác biên cương, cứng đầu cứng cổ, lì lợm ngăn cấm ‘sự rong ruổi của tương lai vào trong quá khứ’, như [Đồng Dao IV: Mùa Đông ] "Eclogue IV: Winter" (1977), diễn tả:
  … What sets them apart is only
    a warm body. Mule-like, stubborn creature,
    it stands firmly between them, rather
    like a border guard: stiffened, sternly
    preventing the wandering of the future
    into the past. …
[Cái tách chúng ra,
chỉ là một thân thể ấm áp. Thứ người chi bướng bỉnh như con lừa,
đứng cứng nhắc, nghiêm nghị, giữa chúng, như tên gác biên phòng,
ngăn tương lai vòng về quá khứ]. 

Ở mức độ cá nhân, cách nhìn đời của nhà thơ là: “đường một chiều”. Một sự trở lại với cái gì đã qua, - một đời sớm sủa trước đó, một người đàn bà – là chuyện không thể. Trong Tháng Chạp ở "December in Florence" (1976), viết về thi sĩ Dante và thành phố quê hương, về nhà thơ và số phận lưu vong của ông, Florence nhập vào với Leningrad, thành phố quê hương của Brodsky [nguyên văn: thành phố Florence bung đôi ra, double-exposed, với một thành phố khác – Leningrad]:
There are, writes Brodsky,
    … cities one won't see again. The sun
    throws its gold at their frozen windows. But all the same
    there is no entry, no proper sum.
    There are always six bridges spanning the sluggish river.
    There are places where lips touched lips for the first time ever,
    or pen pressed paper with real fervor.
    There are arcades, colonnades, iron idols that blur your lens.
    There the streetcar's multitudes, jostling, dense,
    speak in the tongue of a man who's departed thence.
[Có những thành phố mà ta sẽ chẳng nhìn thấy nữa. Mặt trời dát vàng lên những khung cửa sổ gía lạnh. Nhưng cũng vậy thôi,
không lối vào, không có một tổng kết nào thỏa đáng.
Luôn luôn vẫn là sáu cây cầu bắc qua con sông lững lờ.
Có những chốn, nơi môi chạm môi lần đầu trong đời,
hay bút hằn lên giấy.
Có những vòm cung, những hàng cột, những tượng sắt làm mờ kiếng bạn.
Nhộn nhịp, chen chúc, dầy đặc là những chuyến xe điện,
Nói tiếng nói của người sẽ ra đi, từ đấy.

[Từ đấy trong tôi bừng nắng hạ], nhưng thôi, kệ mẹ mọi cái thứ rác rưởi, kệ mẹ cả lò chủ nghĩa Cộng Sản, [In spite of all Communism], St. Petersburg của nhà thơ vẫn luôn luôn là “thành phố đẹp nhất trên thế giới”. Sự trở về, là không thể, trước tiên là vì chế độ chính trị khốn kiếp đó, lẽ tất nhiên, nhưng sâu thẳm hơn, là yếu tố tâm lý này: “Con người chỉ dời đổi theo một chiều. Và chỉ từ. And only from. Từ một nơi chốn, từ một ý nghĩ đã đóng rễ ở trong đầu, từ chính hắn ta hay là y thị… nghĩa là, hoài hoài dời xa cái điều mà con người đã kinh nghiệm, đã từng trải.

Cuộc lữ của con người, như là một cá thể, trong thời gian và không gian, chỉ là để biệt tích, lọt vào cõi không, the non-existence, trong chuyến bay lịch sử. Không hẳn là bởi vì loài người rồi sẽ bị tiêu diệt bởi chiến tranh, bởi bom nguyên tử, nhưng những xã hội, những nền văn minh, như từng cá thể, đều bị chi phối bởi cuộc chiến thời gian, the time war. Với Brodsky, đe dọa lớn do những thay đổi về dân số sẽ là hiểm họa cho văn minh Tây Phương vốn dựa trên cá nhân [individual-based civilization]. Một đề tài cứ trở đi trở lại đối với cả hai nhà thơ Nga,  Brodsky và Osip Mandelstam, là vai trò của một thế giới Ky Tô ngày một giảm dần, nhuờng chỗ cho cảm tính bài-cá nhân của một thế giới ngày một thêm đông người. Bởi vì đối với cả hai, Ky Tô giáo trước tiên, và trên hết, là vấn đề của văn minh, do đó, tương lai của cá nhân nhập với tương lai của thế giới: Cái chết của cá nhân là cái chết của chủ nghĩa cá thể. 

Ngôn Ngữ Lớn Hơn Thời Gian

Chống lại con đỉa đói Thời gian, ngấu nghiến tất cả, dẫn tới sự thiếu vắng của cả hai, cá nhân và thế giới, Brodsky động viên tới Từ (the word). Ít nhà thơ hiện đại nào như ông, nhấn mạnh đến như thế, vào khả năng của từ, nhằm dứt nó ra khỏi con đỉa đói thời gian sẽ ngấu nghiến tất cả (all-devouring Time). Niềm tin tưởng này luôn luôn trở đi trở lại trong thơ ông, nhất là ở những dòng thơ chót:
  I don't know anymore what earth will nurse my carcass.
   Scratch on, my pen: let's mark the white the way it marks us.
    ("The Fifth Anniversary", 1977) 

[Tôi không còn biết nữa, mảnh đất nào sẽ bú mớm cho cái thân xác này.
Cây viết của tôi ơi: Hãy tiếp tục vạch lên nền trắng, cách mà nó vạch nên chúng ta]
[“Kỷ niệm năm thứ năm xa quê hương”, 1977]

    That's the birth of an eclogue. Instead of the shepherd's signal,
    A lamp's flaring up. Cyrillic, while running witless
    on the pad as though to escape the captor,
    knows more of the future than the famous sibyl:
    of how to darken against the whiteness,
    as long as the whiteness lasts. And after
    ("Eclogue IV: Winter")
[Đó là sự ra đời của một khúc đồng dao. Thay vì tên chăn cừu dơ tay, hay phất cờ [ Hãy tiến lên vì sự nghiệp cách mạng của chúng ta, thì],
Một ngọn đèn sáng lên. Văn tự Nga, chạy mù, trốn tên bắt giữ nó,
Biết về tương lai, nhiều hơn là tên tiên tri nổi tiếng kia,
Về cách bôi đen lên nền trắng,
Chừng nào nền trắng còn. Và sau đó.

Niềm tin của Brodsky vào quyền năng của từ phải được hiểu theo quan điểm chống thời gian và không gian của ông. Văn chương hơn [superior) xã hội – và hơn nhà văn, chính hắn.  Ý tưởng không phải ngôn ngữ, nhưng chính nhà văn, là dụng cụ, ý tưởng này là cốt lõi thơ Brodsky. Ngôn ngữ già hơn xã hội, và lẽ dĩ nhiên, già hơn nhà thơ, và chính ngôn ngữ sẽ nối kết những quốc gia, một khi mà trung tâm không còn giữ nổi, “the centre cannot hold” (chữ của Yeats). 

Con người chết, nhà văn, không. Cùng phát biểu như vậy, là nhà thơ Anh, W.H. Auden, trong bài thơ tưởng niệm nhà thơ W.B. Yeats, “In Memory of W.B. Yeats (1939). Chính đoạn thứ ba và cũng là đoạn chót của bài tưởng niệm đã gây ấn tượng mạnh ở nơi Brodsky, như ông kể lại trong Less Than One, khi ông đọc bài thơ lần đầu, trong khi lưu đầy nơi mạn bắc nước Nga:
    Time that is intolerant
    Of the brave and innocent,
    And indifferent in a week
    To a beautiful physique,
    Worships language and forgives
    Everyone by whom it lives … 

[Thời gian không khoan dung
những kẻ can đảm và ngây thơ
Và dửng dưng trong một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp
Thờ phượng ngôn ngữ và tha thứ
Tất cả ai kia, nhờ họ mà nó sống 

 Nói một cách khác, ngôn ngữ hơn, không chỉ xã hội và nhà thơ, mà còn hơn cả thời gian, chính nó. Thời gian “thờ phụng ngôn ngữ”, và như thế “không bằng, kém, thua” ngôn ngữ. Có một nét bi thương, lãng mạn, như là định mệnh của ngôn ngữ, qua một khẳng định như thế, nhưng ở Nga xô, nơi con người, như Puskhin diễn tả, thường “câm” [mute],  và nhà văn có một vị thế độc nhất. Sự nhấn mạnh vào tính trấn ngự của ngôn ngữ do đó, không phải là một biểu hiện của chủ nghĩa mỹ học; trong một xã hội, nơi ngôn ngữ được quốc gia hóa, nơi ngôn ngữ mang mùi chính trị ngay cả khi không nói chính trị, trong một xã hội như thế, từ ngữ có một sức mạnh bộc phá lớn lao, khủng khiếp. 

Thơ Lớn Hơn Văn 

Theo bảng xếp loại của Brodsky, thơ đứng đầu. “Đồng đều là không thể, theo bản chất của nghệ thuật, và suy nghĩ của bất cứ nhà thơ, nhà văn nào cũng theo kiểu đẳng cấp như thế. Trong bảng xếp loại, thơ có vị trí cao hơn văn xuôi….”. Như vậy không có nghĩa, rằng thơ bảnh [better] hơn văn xuôi, nhưng đây là một kết luận mang tính lô gíc của Brodsky, từ quan điểm của ông về đẳng cấp Ngôn ngữ - Thời gian – Không gian ở trên. Thời hơn Không, Ngôn hơn Thời. Viết, như thế có nghĩa là, chiếm lại [regain], chặn đứng [hold back] thời gian, và với một mục tiêu như thế đó, khi nhà thơ thoải mái thì cũng là lúc nhà văn thiếu thốn, tù túng, chật hẹp: meter and caesuras, syntactic pauses, stressed and unstressed syllables [Vận luật, ngắt câu, ngưng nghỉ của cú pháp, vần bằng trắc]. Một trong những phương tiện chặn đứng thời gian là rhyme, nhịp điệu, nó qui chiếu ngược lại nhưng còn sáng tạo ra ước mong - nghĩa là tương lai. [Nó hoài vọng, như người Việt mình nói].

“Nói cho cùng, bài hát là thời gian được tái cấu trúc”, "Song is, after all, restructured time", như Brodsky viết, trong  bài về nhà thơ Osip Mandelstam. Hay giản dị hơn, khi nói về nhà thơ Anh, Auden, “cái kho thời gian”, “a repository of time”. Và nếu ngôn ngữ sống nhờ nhà thơ, vậy thì liệu, “thời gian” sống, nhờ thi sĩ, trong thơ của người đó?
Theo cách đó, để xứng đôi vừa lứa với thời gian, thơ nên cố bắt chước cho được giọng đều đều cùa thời gian. Cố làm sao giống như tiếng đồng hồ. Tiếng nói “rất, rất” Brodsky, do đó, hầu như không nghe được, inaudible:
    I am speaking to you, and it's not my fault
    if you don't hear. The sum of days, by slugging
    on, blisters eyeballs; the same goes for vocal cords.
    My voice may be muffled but, I should hope, not nagging.
    All the better to hear the crowing of a cockerel, the tick-tocks
    in the heart of a record, its needle's patter;
    all the better for you not to notice when my talk stops,
    as Little Red Riding Hood didn't mutter to her gray partner.
    ("Afterword", 1986). 

Tôi đang nói với anh, nhưng không phải lỗi tôi,
nếu anh không nghe được. Những tháng ngày vật vã làm sưng phồng mắt bạn,
thì cũng như thế,
là những thanh âm.
Tiếng nói của tôi có thể được tiết giảm,
Nhưng tôi hy vọng,
Nó không trở thành lầu bầu.
Còn hay hơn, là nghe con gà sống gáy [Đường ra trận mùa này đẹp lắm!],
tiếng tích tắc của trái tim cái dĩa, tiếng lải nhải của cây kim hát. [Mặt trời chân lý chói qua tim!].
Còn hay hơn cho anh, chẳng thèm để ý, tôi ngưng từ lúc nào.
Như Cô Bé Quàng Khăn Đỏ không thèm thầm thì với đồng chí chó sói xám.

Tiếng nói của thi sĩ, cho dù đã tiết giảm, nghe thoang thoảng, nhẹ hơn cả tiếng chim hót, nhưng “ầm ầm” [sonorous] hơn tiếng kèn đồng của tên xung phong, như được diễn tả chi li trong bài thơ “Comments from a Fern” (1989).

“Ầm ầm sóng vỗ chung quanh chỗ ngồi” [Nguyễn Du]: Những tiếng sóng ngầm này xóa sự khác biệt giữa âm thanh và im lặng, tới thật gần với nhịp thời gian, và nhà thơ có thể làm được điều này, với sự trợ giúp của vận luật [meter]. Khi Brodsky nhấn mạnh sự quan trọng của những thể thơ cổ điển, ông không chỉ là một người bảo thủ, nhưng ông làm điều này với niềm tin vào chức năng kép của chúng: như là phần tử cấu tạo và như là một tên gìn giữ văn minh. Khẳng định giá trị tuyệt đối về thể văn thể thi, điều này chủ yếu không phải là một vấn đề liên quan tới thể thơ, nhưng đây là phần quan trọng của điều mà Brodsky gọi là triết học của văn hóa.

 Nghĩ theo dòng 

Joseph Brodsky làm thơ ở quãng đời đẹp nhất của ông, và lịch sử việc in thơ ông phản ánh hệ thống chính trị mà ông trưởng thành từ đó. Những cuốn thơ đầu của ông, do bạn bè hoặc những người yêu thơ ông ở Tây Phương, tuyển chọn và xuất bản. Chúng đều bị cấm đọc tại quê hương ông. Tại Liên Bang Xô Viết, tập thơ đầu của ông chỉ được xuất bản sau khi ông được Nobel. Sau khi chế độ độc tài Cộng Sản sụp đổ vào năm 1991, thơ ông mới được xuất bản đầy đủ [in full scale].
Một trong những hậu quả của tư tưởng của ông, rằng, một con người chỉ có đi, khởi từ đầu một con đường một chiều, là, ông chẳng bao giờ trở về quê hương. Cách ông suy nghĩ, và hành động, là trực tuyến, thẳng một lèo, như người Việt mình nói. Từ tuổi ba mươi hai, ông đã là một “nomad” [một tên lang thang, một kẻ du mục] - một người hùng của Virgil, bị số phận trù ẻo: Đi mà đừng bao giờ mong, có một ngày trở về.
Khi được hỏi tại sao không trở về, ông nói, ông không muốn thăm quê hương như một khách du lịch. Hay là, ông không muốn về thăm quê hương mà lại phải xin xỏ cái đám khốn kiếp đó. Cho dù là đám khốn kiếp đó ngỏ lời mời.
Luận cứ sau cùng của ông là:
Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó. Rồi: Thơ Của Tôi.

NQT dịch,

Từ bài viết của Bengt Jangfeldt, trên trang e_Nobel của Viện Hàn Lâm Thụy Điển. Ông là một giáo sư chuyên về văn học Nga trong 30 năm nay. Luận án tiến sĩ của ông (1976), là về liên hệ giữa Nhà nước Xô viết và nền văn học tiền phong những năm cách mạng, 1917-1921. 

[Bengt Jangfeldt has been specializing in Russian literature for 30 years. His doctoral thesis (1976) treated the relationship between the Soviet State and the literary avant-garde during the years of the revolution, 1917-1921. This work was later supplemented by a series of archival editions.

Professor Jangfeldt has collected and published the correspondence between Vladimir Mayakovsky and Lili Brik (in Russian in 1982 and 1991, in English in 1986: "Love is the Heart of Everything") as well as the literary legacy of the great Russian linguist, Roman Jakobson (Russian edition 1992, English edition 1997: "My Futurist Years"). During the last ten years he has been focusing on the historical ties between Sweden and the St. Petersburg region. This work has resulted in several books, including Svenska vägar till S:t Petersburg which in 1998 was awarded the August Prize (the Swedish equivalent of the Booker Prize). His last books include an authorised biography of the Swedish author and doctor Axel Munthe (En osalig ande, 2003).

Bengt Jangfeldt has translated many of Joseph Brodsky's works into Swedish, the poetry from Russian and the prose from English. In 1988, he was awarded the Letterstedt Prize for Translation by the Royal Swedish Academy of Sciences for rendering into Swedish Brodsky's book of essays, "Less Than One".]