*

TẠP GHI



Triết gia Kim Định từ trần

 

Linh mục Lương Kim Định đã từ trần hôm thứ Ba 25 Tháng Ba vừa qua (1997) tại dưỡng đường Dòng Công, Missouri, Hoa Kỳ. Ông sinh ngày 15.6.1915 tại Nam Định, thụ phong linh mục năm 1943. Sau khi tốt nghiệp tại Giáo Hoàng Chủng Viện Saint Albert Le Grand, linh mục dậy triết tại Đại Chủng Viện Bùi Chu  từ 1943-46. Sau đó, ông qua Pháp du học 10 năm nghiên cứu văn chương Pháp, xã hội học, triết học, và Nho học tại Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Trung Hoa. Trở về nước năm 1957, dậy Triết Đông tại trường Lê Bảo Tịnh, rồi Đại Học Văn Khoa Sài Gòn từ 1960, Đại Học Vạn Hạnh từ 1967. Trong các bài giảng cũng như trong các sách xb sau đó, tư tưởng chủ yếu của Linh mục là Nho giáo, trước tiên, [theo Linh mục], là của Việt Nam, sau đó, Trung Hoa tiếp thu hệ thống tư tưởng Nho học này và hoàn bị nó. Linh mục Kim Định sang Mỹ năm 1975, lúc đầu định cư tại San Jose, Bắc California, tại đây ông đã thành lập Hội An Việt. Năm 1991, linh mục bị bán thân bất toại do đứt mạch máu não, và được dưỡng bệnh tại dưỡng đường Đồng Công, ở Missouri.  Trước 1975, một số tác phẩm của Linh mục đã ảnh hưởng lớn đến giới sinh viên trí thức, như Cửa Khổng, Triết Lý Cái Đình, Chữ Thời, Sứ Điệp Trống Đồng, Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên, Nhân Bản, Định Hướng Văn Học, Tâm Tư, Việt Lý Tố Nguyên, Hiến Chương Giáo Dục… Tại Mỹ, các tổ chức An Việt và Thanh Niên Quốc Gia  đã tái bản hầu hết các sách của Linh mục, và ảnh hưởng của ông thật lớn lao đối với rất nhiều hội đoàn hoạt động chính trị lấy niềm tin tự hào dân tộc làm vũ khí đấu tranh.
*
Đoạn trên của toà soạn báo Văn Học, số 133, Tháng 5, 1997, là phần tài liệu bổ túc cho bài tưởng niệm thầy Kim Định, một trong những ông thầy dậy chứng chỉ Dự Bị Triết tại Văn Khoa, Sài Gòn. Nay, 2007, post lại trên Tin Văn, như một tưởng nhớ Linh Mục, nhân tình cờ đọc lại bài trên, và nhân đọc bài phỏng vấn vị con trai của Nguyễn Đình Thi, cũng một ông thầy của Gấu, vào thời kỳ mới lớn đó, trên talawas.
Ông con trai NĐT không coi ông thân sinh, một triết gia, và chỉ coi những tác phẩm triết học của bố như một thứ tài liệu dậy học. Dẫn lời bố, Việt Nam không có trí thức lớn, trí thức Việt Nam như những con tầu đi theo đường ray… ông cho biết thêm, NĐT không đam mê triết học.
Nếu như thế, liệu có thể coi Kim Định, và “tiện thể”, NĐT, những triết gia, những nhà trí thức lớn, của Việt Nam?
*
Năm 1958, khi học Đệ Nhất, ban B [Toán] tại trường Chu Văn An, tôi được học với thầy Vũ Khắc Khoan, môn Sử. Một tuần một giờ. Cả thầy lẫn trò đều biết, sử là môn phụ, chỉ thoáng qua ở kỳ vấn đáp. Thầy họa hoằn ghé lớp. Và bởi vì lớp B8 của chúng tôi ở ngay cổng trường, có khi thầy chỉ đảo một vòng chiếc solex qua cửa lớp, nói vội một câu, hômnay nghỉ, rồi tà tà theo cây vợt cầm sẵn trên tay. Những giờ học thật họa hoằn thì cũng không phải để học, để bàn, về sử, mà về kịch, hoặc về một câu mà thầy đang tâm đắc, thí dụ “Chúng ta đã xuống thuyền” [Pascal, hình như vậy].
Rồi thi đậu, ghi danh học Đại Học Khoa Học. Đói, bỏ ngang, thi vô trường Quốc Gia Bưu Điện vừa mới được thành lập. Ra trường. Làm công chức Bưu Điện. “Đành” ghi danh học Văn Khoa, theo kiểu hàm thụ, chứng chỉ Dự Bị Triết, với những ông thầy như Kim Định, Lê Tôn Nghiêm… Nhờ bạn bè lấy bài học [cours] giùm. Chẳng bao giờ tới lớp. Cho đến bây giờ tôi không hề biết mặt thầy Kim Định. Và như thế, sẽ chẳng bao giờ biết mặt thầy, có chăng chỉ là tình cờ, trên mặt sách báo. Những môn đệ như tôi, chắc là cũng nhiều. Cũng nhiều, là những độc giả của ông. Đủ mọi tầng lớp, tuổi tác. Còn cả, những hội đoàn chính trị nữa, coi Việt học như là một vũ khí văn hóa chống chủ nghĩa Cộng Sản.
Riêng với lớp học trò như chúng tôi, Thầy đúng là ý thức đạo đức của một thời,  “thời của chúng tôi”, những đứa trẻ hai mươi tuổi vào những năm 1960, 1970.
*
(1) Claude-Lévi Strauss phân chia lịch sử ra những thời kỳ nóng, thời kỳ lạnh. Vào những thời kỳ lạnh, có khi kéo dài nhiều thế kỷ, nó chẳng đẻ ra được một ý thức, một tư tưởng, một ý thức hệ, một triết lý lớn lao nào.


“Thời của chúng tôi” nóng. Nóng lắm. Bên trời Tây, đó là lúc cơ cấu luận đang ở đỉnh cao, với rất nhiều triết gia, nhiều tác phẩm: Viết của Lacan, Chữ và Vật, của Michel Foucault, Phê Bình và Chân Lý của Roland Barthes, Lý thuyết Văn chương, của Todorov… cùng xuất hiện vào năm 1966. Năm sau 1967, là những cuốn tiếp theo của bộ Huyền Thoại Học của Claude-Lévi Strauss: Từ mật ong tới tàn thuốc, Nguồn gốc của những trò lẩm cẩm muỗng nĩa, dao kéo.. ở  bàn ăn [L’origine des manières de table],1968, Con người trần trụi, L’Homme nu, 1971.
Nhưng Ấu châu có ở trong đó ? Chính họ tự hỏi. Và tuổi trẻ của Tây trả lời, bằng biến cố Tháng Năm 1968: Hãy mạnh dạn đòi hỏi những điều không thể được, không thể đòi hỏi. Càng làm tình bao nhiêu, càng cách mạng bấy nhiêu.
Octavio Paz, Nobel văn chương, có lần đưa ra một nhận xét thật độc đáo, về biến cố Tháng Năm 1968: Văn minh Tây Phương độc đáo ở chỗ, đã biến dục tình thành một vũ khí chính trị.
Nhưng 1968 cũng là năm pháo đài bay B.52 vào trận tại cuộc chiến Việt Nam. Cùng với 276 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ.
1965: Cuộc Đổ Bộ Normandie Á Châu, tại bãi biển Đà Nẵng.
1968: Cú Mậu Thân. Mồ Chôn Tập Thể Huế.

Cần phải xác định thời của chúng tôi, Chữ Thời, bằng những sự kiện như thế, mới nhận ra vóc dáng khổng lồ của những bậc thầy tư tưởng Đông Phương như Kim Định, khi họ cố tìm cho ra một giải pháp, và cùng với nó, một thực hành, thí dụ như Cú Tháng Nnăm 1968, như của nước Pháp, cho một “thời khốn khổ của chúng tôi”.

Và nếu đúng như Claude –Lévi Strauss khẳng định, tất cả văn hóa đều có thể coi như là một bộ của những hệ thống biểu tượng, thầy Lê Tôn Nghiêm, thầy Kim Định, cho thấy, chúng ta cũng có riêng những bộ hệ thống biểu tượng. Thầy Lê Tôn Nghiêm đã tìm thấy một “logos của phương Đông” trong khi đào bới những di chỉ của Khổng giáo. Thầy Kim Định, trong Việt Lý Tố Nguyên, Triết Lý Cái Đình.

Tất cả những ông thầy tư tưởng, Đông hay Tây, đều tìm một thứ đức hạnh mới. Với Lacan, là một “đức hạnh của ước muốn” [éthique du désir], với Foucault: “đức hạnh của sự giải phóng”, với Kinh Định, đó là một đạo hạnh trong sự cố gắng tìm kiếm và bảo tồn những di chỉ của một nền văn minh Việt Nam, mà những đệ tử của ông coi đây là hang rào cuối cùng chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Thầy Kim Định, chúng con xin vĩnh biệt Thầy. NQT
*

Về tính triết gia, tính sáng tạo của những trí thức lớn như Kim Định, Nguyễn Đình Thi, Trần Đức Thảo, hai ông sau, ông con của NĐT đã có lời phán, nghe cũng hữu lý. Riêng với Kim Định, và nền triết học Việt Học, xin nêu ở đây, ý kiến của Tạ Chí Đại Trường, trong bài viết “Đọc muộn: The Birth of Vietnam”, của Keith Weller Taylor, đăng trên báo Văn Học, Cali, số tháng 11 năm 1997.
[Đọc muộn, và đứng ngoài lề học giới nghiêm túc một chút cũng có lợi, TCĐT viết. Đọc muộn là đọc lệch, cái lệch về thời gian khoả lấp được cái lệch về kiến thức, thông tin.]
TCĐT phê bình trường phái Việt nho: người ta [Kim Định] mập mờ dựa vào “huyền sử” để chiếm đoạt các thành quả văn hóa Trung Hoa đổ về cho dân Việt, một thứ Việt (Nam) chưa được chính danh, cũng mập mờ, huyền sử không kém. Với các đồng chí, hay đệ tử của ông, do phong trào di tản sau 1975, có dịp tiếp xúc với thế giới to rộng, thì nền văn hiến Việt của chúng ta của những người này, không chỉ lấn lướt Trung Hoa mà còn muốn chiếm đoạt cả thế giới trong một mớ ngôn từ uyên áo quá đà tới mức muốn nói gì thì nói, lần này, có các giảng đường đại học, ngôn ngữ ngoại quốc, các hội nghị quốc tế đẩy mạnh thêm uy thế. Có điều, ta không biết sự khoa đại ấy có thực sự được trình ra với người nước ngoài, như đã xuất hiện trong ngôn ngữ dân tộc, dành cho đám di tản hay không?
*
Như thế, với triết gia Kim Định, và Việt học của ông, là một khoa trương quá mức, thì, với, Nguyễn Đình Thi, qua ông con của ông, có một sự khiêm nhường quá mức: Bởi vì, chỉ với cuốn Triết Học Nhập Môn của ông thôi, cũng đủ để coi ông, là một “triết gia” Mác xít theo nghĩa, một người quá thấu đáo duy vật biện chứng pháp, và duy vật lịch sử, và đã diễn giải nó, bằng một tinh thần Đông Phương, qua ý niệm tĩnh động, một thứ ‘dịch cân kinh”, [đọc ‘trại’, đọc lệch, từ ngữ Kinh Dịch], của riêng NĐT, nhằm giải thích tiến trình lịch sử của con người. Chính từ ý niệm này, ông là một người Mác xít, tin tưởng vào chủ nghĩa đó, và tin tưởng chủ nghĩa Mác xít sẽ làm được điều phi thường: xóa sạch vong thân, “làm ra” [create], con người hoàn toàn, l’homme total, theo quan niệm của Marx Trong mớ sách Miền Nam bị phần thư, và đang được thu vén tro than, và giải mã, bắt buộc phải có cuốn Triết Học Nhập Môn của ông.
Cuốn này, đối với riêng Gấu tui, nó còn có giá trị của một thứ thuốc giảm đau, do hai trái mìn clay more của mấy ông biệt động thành ban cho, trong vụ nổ Mỹ Cảnh. Gấu đã kể ra vụ này, lai rai vài lần rồi, trong những bài tạp ghi. Nếu Henri Lefèbvre được coi là một ông tổ sư của môn phái Mác Xít, thì NĐT thật xứng đáng được coi là một Mác Học, có phần thực tập kèm theo, không chỉ lý thuiyết xuông.
Gấu, trong những ngày nằm bệnh viện Grall, sau vụ nổ, đã say sưa đọc, cùng lúc, ba tác giả, Kim Dung, Henri Lefèbvre, và Nguyễn Đình Thi, để cho quên cái đau, và để chờ tới giờ BHĐ đến thăm, và, khi em xuất hiện, là quẳng cả ba ông, giả đò nhăn nhó, đi bên em giữa những luống hoa trong khuôn viên nhà thương.
Cái ông bác sĩ Daney, người sau đó thực hiện ca mổ, đã hơi sững người, khi nhìn thấy cuốn của Henri Lefèbvre. Ông cầm lên, đọc vài hàng rồi bỏ xuống, ngó thằng Gấu, tò mò thì nhiều, và tự hỏi, tại sao.

Tại sao đọc nó? Vào lúc này? Chắc vậy.