nqt
  


Album
PB Summer [Al, trang trong]

 


http://www.tanvien.net/Viet/TTT_by_NAK.html

*

Tình Một Thuở, TTT dịch, sách xon.

Cuốn của Sebald, cũng sách xon, mới tuyệt vời làm sao!

No automatic alt text available.



Sebald

http://www.tanvien.net/Tribute_1/Walser_by_Sebald.html

*

Robert Walser, Berlin, cc 1907

Image may contain: text and outdoor


Gunter Grass

Image may contain: text



Đọc mệt nghỉ!

Đọc loáng thoáng – Grass thú nhận, không có thói quen viết Nhật Ký, do bất khả kháng, đành phải chơi cú này – có vẻ như ông quá cay đắng về cú nước Đức thống nhất, và 1 phần, là do Auschwitz. Ngay trang 3, ông viết, Auschwitz có vẻ đem đến cơ hội chót để nghĩ về nước Đức:

It began to rain again. The gas heater lit upstairs, I sat down to work on 'Writing after Auschwitz' I think I picked this subject, which is bound to defeat me, to force myself to take a position; a suspicious number of my fellow writers who used to be able to rattle off their newfound anti-fascist credo as fluently as Schiller's poem 'The Bell' are now brimming with nationalist sentiment to the point of idiocy. To me, however, robbed of many prized German possessions over the years - with the exception of the language - Auschwitz seems to offer one last chance to think about Germany. (In the Frankfurt speech I want to try to demonstrate how the alleged right to German unity, in the form of a reunited state, is refuted by Auschwitz.) Write slowly!

Nhân Philip Roth mới ngỏm, vớ được đoạn này:

Vale das Eiras, 4 January 1990

From year's end until the day before yesterday I was reading Philip Roth's The Counterlife, a book that invites contradiction and is constantly undercutting itself, belaboring Jewishness and anti-Semitism to come up with an answer to a fairly banal question: Is it permissible for a writer to exploit himself and his family as material? The answer Roth clearly had in mind all along is yes. Perhaps I find the book off-putting because I don't really care for writers who constantly make themselves the subjects of their books. Even when the author invests his fictitious narrator with dazzlingly telling arguments, it seems hardly worth the effort; no wonder 'Judea', the chapter on Israel, is colorless compared to Amos Ozs collected interviews, In the Land of Israel. I wonder why Jurek Becker recommended this book to me the evening before the SPD party convention in Berlin. I'll have to ask him.

Dịch thoáng, đại khái, Grass chê cái trò khai thác chính mình và gia đình của mình, như là chất liệu của tiểu thuyết. Grass đếch khoái trò này


Quoc Tru Nguyen updated his cover photo.
No automatic alt text available.

*

Vila-Matas @ ML

Carnet de lecture
par Enrique Vila-Matas
LE RÊVE AMÉRICAIN
l'enfance est un rêve qui s'ignore

Giấc Mơ BHD

Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.

Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm. 

Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.

Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ  có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.

Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.

Theo Enrique Vila-Matas

Trước cuộc truy hoan 

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_truoc_cuoc_truy_hoan.html

Bóng đá, môn chơi của sức mạnh, "thuộc về đàn ông", nhưng đàn ông tới cỡ nào, có lẽ chỉ mấy ông tiểu thuyết gia, tức chuyên viên về một "hình thức sung mãn nam tính" (G. Lukacs), mới tưởng tượng nổi.

John Fowles, trong The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... nhân mùa World Cup 1966, đã đưa ra nhận xét: "Bóng đá gồm 22 cây gậy [của tên ăn mày, như các cụ thường nói], đuổi theo một cái âm hộ; cái chày của môn chơi golf là một dương vật cán bằng thép; vua và hoàng hậu trong môn cờ là Laius và Jocasta, mọi chiến thắng đều là một dạng, hoặc bài tiết hoặc xuất tinh." Có thể nói, văn chương nghệ thuật Tây phương bắt đầu, bằng cuộc tranh giành một nàng Hélène de Troie.

[Laius là cha, Jocasta là mẹ mà Oedipus bị lời nguyền của con nhân sư, phải giết đi và lấy làm vợ. Jocasta sau treo cổ tự tử, Oedipus tự chọc mắt, làm người mù chống gậy đi lang thang giữa sa mạc].

Ở giữa, (thí dụ như, giữa hai nền văn hóa, hai miền đất, hai nơi chốn: trong và ngoài...), có nghĩa là chẳng ở đâu. Đối với bóng đá, người ta càng không thể ở giữa. Khi cuộc chơi bắt đầu, lập tức chúng ta chọn bên, chọn người, giữa 11/ 11, và 1/ 11, để có được cây gậy số một. Ông vua Cúp thế giới kết thúc thiên kỷ, mở đầu thiên kỷ thứ ba của nhân loại, vị thần trên sân cỏ Stade de France - Sân vận động của thiên kỷ thứ ba - phải chăng sẽ là Ronaldo, 21 tuổi, thuộc đội bóng Brésil, như anh xuất hiện trong dáng dấp của một vị thần La mã, trên bìa một số báo Paris Match?

Chào mừng bạn tới trái tim hành tinh "planète foot" : Stade de France, chiếc dĩa bay khổng lồ trên nền trời Plaine-Saint-Denis, là niềm tự hào của kỹ thuật, với 6 ấn bản khác nhau: là sân cỏ 80 ngàn chỗ ngồi, hoặc sân vận động thể dục điền kinh (75 ngàn), thính đường nhạc hòa tấu (75 ngàn), vận động trường thể thao, như đua xe super-motorcross (30 ngàn), sân khấu cổ điển ( théâtre antique): 18 ngàn chỗ. Với cái bụng lớn gấp ruỡi chiều cao Khải Hoàn Môn, nó thể chứa thoải mái tháp Eiffel trong lòng dĩa. Mái hình ellipse, là một siêu phẩm kiến trúc, diện tích 60 ngàn mét vuông, nặng 9100 tấn thép, kể cả phụ tùng là 17 ngàn tấn, lơ lửng cách mặt đất 42 mét, hoàn thành trong chưa đầy 9 tháng! Trên ngọn 18 cây cột của nó là những thiết bị khí tượng thật tinh nhậy. Nhà hàng toàn cảnh (panoramique) gồm hai từng, chứa 300 bàn ăn. Thực đơn thứ nhất: 180 francs. Với rất nhiều lối ra, 80 ngàn khán giả chỉ mất chưa đầy 15 phút. Riêng thảm cỏ 900 mét vuông, trị giá 10 triệu francs, trong tổng số 2, 6 tỉ trị giá kỳ quan của thế kỷ.

Chỉ mới cách đây vài năm, một trong những ngôi sao chiếu sáng những ngày cuối cùng của thế kỷ, soi đường cho nhân loại bước vào thế kỷ tới, Ronaldo Luis Nazario de Liam, sống với cha mẹ trong một khu xập xệ ở Rio. Học dở, anh kiếm sống bằng cách bán trái cây chui. Như mọi chuyện thần tiên về bóng đá, trong khi chơi với bạn bè cùng tuổi trên đường phố, anh đã lọt mắt một chuyên viên săn lùng tài năng. Ronaldo vẫn còn nhớ, anh đã khóc ròng, khi đội banh Pháp của Platini loại Brésil khỏi Cúp Thế Giới 1986. Tất cả mọi người đều khóc, bữa đó, ở Brésil, anh kể lại. Đó là một trong những Cúp Bóng Đá đẹp nhất trong lịch sử bóng đá. Nhưng Trời ơi! Sao nó buồn đến như vậy!

Francis Huster, trong lá thư ngỏ gửi cho Fernand Sastre và Michel Platini, viết, đại khái: Hãy cứ coi đây là nụ cười thiên lương (bonté), của thế kỷ 20, vào những giờ phút hấp hối của nó. Hãy cứ coi đây như là một lễ hội. Như tất cả đều được quên lãng. Như hai cuốn phim vĩ đại nhất Cuốn Theo Chiều Gió, Titanic đã từng làm người ta (tạm) quên đi những thiên tai, nhân tai của thế kỷ: một phim cháy sáng trong nỗi đau đớn, những trò độc ác của cuộc nội chiến Nam Bắc, bắt nguồn từ kỳ thị chủng tộc, vốn chẳng tàn lụi đi mà cứ được nhân lên mãi. Một biến mất vào lòng đại dương, như một biểu tượng cho sự tan biến của chủ nghĩa CS, bách chiến bách thắng như một con tầu không thể nào chìm... Trên sân cỏ, cũng như trong cuộc sống, không phải cứ giỏi giang là hơn hết. Nhưng đôi khi, như trong cuộc sống, kẻ nào năng động, tích cực, kẻ ấy thắng. Xin cám ơn cả hai vị, Fernand Sastre và Michel Platini về điều các vị đã toan tính, trông mong, kỳ vọng: lại đem đến cho toàn thế giới phẩm giá của nó. Hãy tái chinh phục tâm hồn trẻ thơ. Hãy quên đi sự khinh khi, và hãy chìa tay ra, hỡi những Croatie và Yougoslavie, Hoa-kỳ và Iran...

 ****

 Bài viết trên đây, được viết trước khi Pháp đoạt Cúp Vô Địch. Những nhận xét của Fowles, là trước khi có những đội nữ.

 Mới đây, đọc Mario Vargas Llosa, nhà văn Peru, bài viết World Cup, Spain 1982 (trong Making Waves, Penguin Books), ông có nhắc tới nhà văn người Pháp Albert Camus, theo đó, những bài học đạo hạnh đẹp nhất mà Camus học được, không phải ở trong những căn phòng đại học, nhưng mà là ở trên sân cỏ.

 Mở ra bằng một nhận định đẹp như thế, tuy nhiên bài viết lại có cái nhan đề thật đúng ý Fowles, nhà văn gốc Hồng Mao, nơi phát sinh ra môn bóng đá: Trước cuộc truy hoan (Before the orgy). Trong bài viết, tác giả cũng đưa ra một vài ẩn dụ rất ư là bực mình, và cũng thật đáng quan ngại, về bóng đá, mà ông bảo là, của một người bạn của ông: Khung thành là một cái âm hộ qua đó, một cầu thủ, một đội banh, một sân đất, một xứ sở, cả nhân loại, "bất thình lình xả hết sinh lực tạo giống của ‘chúng mình’ vào đó."

 Như trên đã viết, bạn không thể và không muốn ở giữa. Khi trái banh vừa mới lăn, là bạn đã chọn bên. Và khi nghe ông Huyền Vũ, chuyên viên bình luận bóng đá trên đài phát thanh Sài Gòn ngày nào reo như muốn vỡ cái la dô: Màng trinh đội bạn đã bị thủng!, thì bất cứ một ai trong chúng ta đều cảm thấy, một cách hãnh diện, và cũng thật đầy nam tính (hay Việt tính?): Chính tớ đã làm cú đó đó!

Bởi vì theo Vargas Llosa, mọi xứ sở đều chơi bóng đá, đúng cái kiểu mà họ làm tình. Những mánh lới, kỹ thuật này nọ của những cầu thủ, nơi sân banh, đâu có khác chi một sự chuyển dịch (translation) vào trong môn chơi bóng đá, những trò yêu đương quái dị, khác thường, khác các giống dân khác, và những tập tục ân ái từ thuở "Hùng Vương lập nước"- thì cứ thí dụ vậy - lưu truyền từ đời này qua đời khác tới tận chúng ta bi giờ! Ông đưa ra thí dụ: Những cầu thủ Brazil mân mê trái banh thay vì đá nó. Anh ta không muốn rời nó ra, và thay vì đá trái banh vào khung thành – tức cái âm hộ - anh ta lao cả người vô theo, cùng với trái banh. Ngược hẳn với cầu thủ người Nga, buồn bã, u sầu, và hung bạo, hứa hẹn những pha bộc phát không thể nào tiên đoán được và cũng thật là đầy chất tranh luận! Mối liên hệ giữa anh ta và trái banh làm chúng ta liên tưởng tới những anh chàng yêu đương dòng Slav, với những cô bạn gái của họ: đầy thơ ca và nước mắt, và tận cùng bằng những pha bắn súng.
 Và để kết luận ông trở lại với Camus: Khi tôi chào từ biệt ông bạn Andrés, cuối cùng tôi hiểu ra tại sao Camus lại nói như vậy, về bóng đá, và tôi quá nôn nao vẽ ra ở trong đầu mình những cuộc truy hoan khác thường đang chờ đợi chúng ta, ở Cúp Thế Giới...
NQT


Rade Drainac: Leaf ( Lá )

Drainac was a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the city, often playing the violin. He served in the Serbian army in the First World War. His first book, Purple Laughter, was published in 1920. He wrote three more collections of poetry, plus a novel and a war diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He died of consumption.

LEAF


I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good Sign.
The first autumn leaf falls on my hat.

Charles Simic: The Horse has six legs
Serbian Poetry ed by Simic


Tôi đổi ga, mùa thu ở lại cùng hành lý
Bầu trời hồ nghi như lời dối trá vụng về
Trong quán hầm thứ nhất tôi sẽ cần quên đi
Lá thư buồn đánh thức tôi khỏi giấc ngủ
Lừ đừ xuống phố, qua những văn phòng
Chim sẻ bay đi, cái máy chữ ở lại
Ở nơi chân trời 1 cột khói khổng lồ giống như cái kèn đồng
Một cái máy bay vừa được phát minh, nhỏ như 1 con bướm
Bravo! Một dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên rớt xuống nón tôi.

Poems June 22, 2015 Issue

Nguyễn Quốc Trụ dịch

Quả có cái air Apollinaire, sư phụ của nhà thơ bô hê miêng, nổi tiếng, trải đời mình trong những quán hầm với cây vĩ cầm.
Đã từng là sĩ quan Ngụy trong Đệ Nhị Chiến!

Image may contain: 1 person, sitting, hat and indoor


La Tâche d’Espérance 

C'est l’aube. Et cette lampe a-t-elle donc fini
Ainsi sa tâche d’esperance, main posée
Dans le miroir embué sur la fièvre
De celui qui veillait, ne sachant pas mourir?
Mais il est vrai qu’il ne l’a pas éteinte,
Elle brule pour lui, malgré le ciel.
Des mouettes crient leur âme à tes vitres givrées,
Ô dormeur des matins, barque d'un autre fleuve

The Task of Hop

It is dawn. Has this lamp, then, finished
Its task of hope, hand placed
In the clouded mirror, on the fever
Of the one who kept watch, not knowing how to die?
But it is true that he has not put it out,
It still burns for him, in spite of the sky.
The seagulls screech their soul at your frost -covered
Window, morning sleeper, boat from another river.



Image may contain: cloud and text


 


* *

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Yes_Bonnefoy.html

Yves Bonnefoy
1923-2016

Chẳng nghi ngờ chi,
Vưỡn còn cái ao dầu
Ở cuối con phố dài thòng
Tớ đã từng lang thang khi còn là Anh Cu Gấu
Cái hồ hình chữ nhật
Của cái chết dầy, dưới bầu trời tối

Kể từ đó, thơ bèn chia nước của nó ra khỏi những nước khác
Không cái đẹp nào, không mầu sắc nào có thể giữ được
Nó đành đoạn, thống khổ về sắt và đêm

Nó nuôi dưỡng
Nỗi ước ao dài,
Một bờ sông chết,
Một cây cầu sắt
Bắc qua một bờ sông khác
Vô một đêm đen hơn:
Hồi ức độc nhất của nó
Tình yêu độc nhất của nó

Image may contain: text
 

Aux arbres

YVES BONNEFOY

Vous qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.

Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.

J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.

Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.

Với cây rừng.

Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không

Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh


Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù

Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.
TTT dịch

http://www.tanvien.net/tribute/TTT_dich_tho.html

Saturday, April 3, 2010 7:40 PM
From:
To:
Chào Ông !
Biết Ông yêu mến anh TÂM, tôi gởi hai bài thơ dịch của anh TÂM sau năm 1975. Có thể ông chưa được xem.
Tôi chỉ quen biết anh TÂM sau khi ở tù CS qua anh TÔ THÙY YÊN (vì có ở tù chung).
Hai bài thơ dịch này chỉ truyền tay trong vòng thân hữu, nay ông đọc xem như là tưởng nhớ anh TÂM sau 5 năm anh mất.
Cám ơn ông.

Phúc đáp:
Cám ơn bạn rất nhiều
Đúng là món quà hiếm quí
Tôi mạn phép bạn, post lên, vì biết có rất nhiều người quí mến nhà thơ TTT.



Dòng sông trong tất cả những tình trạng của nó

Của nước và gió

Tôi từ giã căn nhà cũ đúng mùa nước rong. Chị tôi nói, may, nếu còn ở lại lội nước mệt xỉu. Con sông sau nhà bắt đầu đầy khi gió chướng gió Nam hui hút giành ngọn. Sóng vỗ ì oạp vào sàn nhà mỗi khi có chiếc tàu nhỏ chạy qua. Một bữa ngồi viết ba cái lăng nhăng, thòng chân xuống định đứng lên vặn vẹo người cho đỡ mỏi thì chủm, chân dầm trong nước. Sông đã lặng lẽ dời bờ vô hơn nửa… nhà. Mắc cười, tôi nhắn tin cho người bạn ở xa, “nước sông dâng tới chỗ tui ngồi viết”. Không hiểu sao tôi nghĩ tin nhắn của mình sẽ làm anh bạn chạy tới tủ sách lôi những cuốn của nhà văn Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng… ra đọc lại, cho đỡ thèm, đỡ nhớ phương Nam.

Tôi không nhớ trong những cuốn sách đó có bao nhiêu trang, bao nhiêu câu chuyện liên quan đến con nước rong. Dường như là không có câu văn nào về dòng sông sau nhà tôi. Chảy qua thành phố với cái tên xa lạ, dòng sông nhỏ bị che khuất bởi những dãy nhà ken dày hai bên bờ, và cứ vậy, nó chảy thầm suốt một mùa mưa. Người ta sống trên nó, rửa chân và vất rác lên nó nhưng quên lãng nó. Và một buổi sáng mở cửa sau, sông bỗng tràn đầy trong mắt.

Sự trở lại lẫm liệt và rực rở tới mức người ta phải kêu lên, trời đất ơi, nước rong. Nước tràn trên những con đường trong thành phố. Tôi lâu không ngước nhìn trăng bỗng gặp trăng sóng sánh dưới chân mình. Chị tôi kê tủ giày, thùng gạo, mấy vật dụng bằng sắt lên cao, sóng đánh vói theo. Hết rằm, con nước tự bò ra khỏi nhà, nhưng vẫn đầy lấp ló. Tôi quét nhà, trong mấy hốc kẹt còn sót lại nhiều rác rưởi, cùng những trái mắm, trái đước lên mầm. Tôi thả chúng vào sông, hơi lo, với mớ rễ đã khô se, chúng có đủ sức sống để mọc lên ở một bãi bùn xa xôi nào. Và trên những con sông gần biển, lũ cá dứa chắc không còn nhiều nữa, nên những trái mắm mới trôi dạt đến nơi này.

Hơn hai phần ba số lượng những con sông của Cà Mau không có lục bình. Chúng chỉ mang những trái mắm, hay đước, vẹt, bẹ dừa nước, lưỡi mèo phèn… trong lòng nước ngầu đục phù sa của mình. Những lúc thôi nhìn chữ nghĩa, ra ngó sông, thấy trái dừa chuột khoét lừng lửng trôi ngang qua, tôi vui như gặp bạn cũ. Nước càng đầy thì cuộc trôi giạt càng đông đúc, là những trái mắm như trái tim sắp vỡ ra từng lớp, là cái bắp chuối đỏ, là những bông tra vàng, trái quao cong... Cái đầu mơ mộng của tôi nghĩ tụi nó đang nói với nhau, nước rong tính ra chợ sống, nhưng kiếm không ra cục sình cắm rễ, thôi về. Chúng không dừng lại. Cuộc diễu hành của sự sống đồng bãi như vô tận, như không bao giờ chấm dứt.

Và không có gì ngăn chặn được những cuộc trôi đi khi mà gió chướng càng thổi sâu vào mùa, nước càng đầy. Sông vào những ngôi nhà ven sông đòi lại đôi bờ đã bị con người xâm chiếm. Rác của con người vất xuống, sông thản nhiên trả lại cho người. Nhưng trong sông vẫn còn sự tử tế, thay vì dâng lên nhà người cái dòng chảy ô nhiễm đen ngòm, sông liếm láp đôi chân tôi bằng thứ nước lợn cợn phù sa.

Nhưng vào cái mùa sông đẹp nhất, tôi chuyển nhà đi. Giờ thì mở cửa sau không còn mênh mông nước, dù tối ra đường vẫn xẻ trăng dưới bánh xe lăn. Tôi nhìn gió. Gió trong suốt vô hình. Nhưng có thể nhìn thấy chúng trên bãi lau sậy bát ngát sau nhà. Sậy đang mùa bạc đầu, tôi vẫn thường cầm trái ổi ngồi nhai chèm chẹp trong khi bông sậy già bị gió thổi bay lả tả chung quanh. Bông sậy li ti, phải nhìn qua tia nắng xiên mới thấy chúng bồng bềnh, nhẹ nhỏm, chênh chao giữa không trung. Ngồi nhìn cái chậu rửa chén váng bông sậy trên mặt, thấy bình an đến nỗi không dám nhúng tay vào.

Chỗ bãi sậy người ta định xây trường mẫu giáo. Nhưng trẻ con chưa thấy đã hoa cỏ mọc đầy. Gió chướng được một chỗ chạy chơi, với tất cả sự hoang dã và mơ mộng của mình. Ở đâu đó, các con sông đang trình diễn cuộc nổi trôi thì gió cũng trình diễn cơn phiêu bạt. Mang trong mình sự cám dỗ mang mùi đất, gió thổi làm bông sậy lay lắt, bông tràm chút bay chút đậu, và những hạt cỏ đã khô se trên ngọn cũng lăn đi. Không biết chúng sẽ theo gió tới tận đâu, tôi bỏ chữ một bên ra nhìn, và lại hỏi thầm.

Nhưng để được trọn vẹn lời đáp những hoa cỏ đã đậu lại ở đâu, đã chết khô hay nảy mầm sống mãnh liệt, chỉ có gió chướng mới biết. Tôi chỉ có một phần của câu trả lời khi mưa xuống trên bãi cỏ hoang. Lau sậy đã loang ra xa. Có vài cây lứt mọc sát bìa rào, và một bữa nào tôi đi công tác về, chợt nhìn giữa xanh cỏ dại là tím biếc của hoa mua.

Nhìn hoa, bỗng nhớ lại mùa trôi giạt trên dòng sông cũ. Những trái mắm héo queo ở góc nhà khi về với đồng bãi, biết đâu đã sống đàng hoàng, xanh lá.

Tôi lại nhắn tin cho người bạn xa mấy câu thơ của nhà thơ Đinh Trầm Ca “Bèo bữa trước vì sông mà trôi giạt. Chợ chở hoa về rợp bóng quê nhà. Thì sá gì cuộc nổi trôi ta”. Bạn nói, bao giờ gió chướng thì cho hay, bạn về.

Thì đây, bây giờ đây. Mùa của cuộc rong chơi. Mùa đi.

Nguyễn Ngọc Tư

sông liếm láp đôi chân
khi mà gió chướng càng thổi sâu vào mùa, nước càng đầy
thấy bình an đến nỗi không dám nhúng tay vào.
Đinh Trầm Ca....

Ở đâu đó, các con sông đang trình diễn cuộc nổi trôi thì gió cũng trình diễn cơn phiêu bạt.

*
GNV lại nhớ tới... Faulkner, và bài viết "Những cuộc đời của Faulkner", của Pierre Assouline, trong đó, ông nhắc tới một câu của Nabokov: Tiểu sử nhà văn là lịch sử văn phong của người đó.

Ở đây, phải đẩy câu phán của Nabokov đến tận cực điểm, và chúng ta thấy, thay vì một văn phong, thì là một "dòng sông, trong tất cả những trạng thái của nó", "mượn" cái tít một bài viết, trong cùng số báo Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Sex, Tháng Chạp 2007, có bài của Pierre Assouline về Faulkner, đã dẫn.

La pluie dans tous ses états

Martin Page, khách mời trong tháng của tờ báo, điểm cuốnTừ điển mưa, của Patrick Boman.

*

Dòng sông trong tất cả những tình trạng của nó
Thì Gấu này chẳng đã từng lèm bèm, văn phong, cách kể chuyện, của Nguyễn Ngọc Tư, là cách chuyển động của những sông rạch của một miền đất.

Note:

Nhân đọc số báo Lapham, về nước, water, kiếm hoài bài viết này, trên Tin Văn, không thấy, may quá, có trên FB. Post lại ở đây, và đi thêm vài đường còm, hoặc trích dịch, từ số báo trên.

Câu sau đây, mà không xứng đáng vinh danh truyện ngắn trên, của NTT, sao ?

Và đâu chỉ NNT?

All water has a perfect memory and is forever trying to get back to where it was.

-Toni Morrison, 1987

Nước nào thì cũng thế, nó có 1 ký ức tuyệt hảo và mãi mãi, hoài hoài cố trở lại nơi nó đã từng.

Uyên đã thực sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển cả, bởi vì mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm thấy được, con đường trở về... 

Tháng 7 năm l995 

Thảo Trần

Human beings were invented by water as a device for transporting itself from one place to another.

-Tom Robbins, 1971

TTT, chẳng đã phải đợi đến khi được “di chuyển”, nhờ biển, từ Hà Nội, vô Sài Gòn, chỉ để lấy hứng, làm câu thơ, “ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông, mà hồn mình phơi trên kè đá” - nhớ đại khái – ư ?

Image may contain: ocean


Watermark
Dấu Nước
JOSEPH BRODSKY

Give me another life, and I'll be singing...


Cái chuyện xứ Mít của Vẹm bị coi là 1 nhà nước của những tên tội phạm, thì rõ như ban ngày, với thế giới, nhưng với dân Mít, sau hơn bốn chục bó, kể từ 1945, thì họ mới bàng hoàng nhận ra, đây là hoàng kim thời đại của Cái Ác Bắc Kít, y chang thời đại hoàng kim của Nazi, với đỉnh cao của nó là Lò Thiêu Auschwitz. Không phải vô tư mà Đức cố kíu mạng 1 tên cũng tội phạm Vẹm, là Trịnh Xuân Thanh: Một cách nào đó, TXT nhắc nhở Đức, chưa từng có 1 tên nào nhỏ lệ, dù chỉ giọt, dù chỉ nước mắt cá sấu, cho chỉ 1 nạn nhân Do Thái, khi họ trần truồng bước vào phòng tắm gaz ở Lò Thiêu!

Image may contain: 2 people, people standing and suit
Thảo An Nguyễn Thị

Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Séc khẳng định Việt Nam là tổ chức tội phạm!
Cập nhật lúc 21-06-2018 17:01:35 (GMT+1


Phiên họp ngày 21 tháng Sáu 2018 của Ủy...

See More

Quoc Tru Nguyen shared a post.
22 hrs

Theo GCC, cái vụ này, không mắc mớ tới tác giả bài thơ, là Nguyễn Duy, mà tới nhà nước, khi họ sử dụng thơ của ND, của 1 thời đã cũ, cho 1 thời hiện tại. Hỏi tác giả như vậy, ông ta làm sao trả lời. Có thể nói, tất cả thơ ca của Miền Bắc, trước 1975, thứ thơ ca chống Mỹ cứu nước, thí dụ, đều lâm vào tình trạng này, đâu chỉ 1 Nguyễn Duy?

Lê Hoàng Tuấn Kiệt

Quả tình tôi chưa đọc nhiều thơ Nguyễn Duy nên chả dám lạm bàn chuyện nọ chuyện kia. Song le, theo những cóp nhặt chủ quan, duy tôi nhận thấy đấy là nhà thi sĩ ...

See More


Trường hợp Nguyễn Duy, theo GCC, một cách nào đó, giải thích hiện tượng không làm sao tưởng niệm những người đã chết vì cuộc chiến Mít, ở phía Miền Bắc. Họ không thể nhỏ nước mắt khóc lũ Ngụy chết trong Trại Tù, cả Miền Nam sống trong tủi nhục vì thất trận, mà luôn của những đấng bộ đội Cụ Hồ, những liệt sĩ của họ. Rõ ràng là như thế, vì chúng chỉ ca ngợi chiến thắng, mà chưa từng 1 lần đau thương vì những người đã nằm xuống vì xẻ dọc Trường Sơn. Tại sao vậy? Tại sao không thể tưởng niệm?
Để giải thích nó, thì có thể dùng hình ảnh “Thiên sứ vs Quỉ đỏ”, “Savior vs Demon”mà D.M. Thomas đã dựa trên đó, để viết cuốn tiểu sử của Solzhenitsyn. Trước 1975, cũng anh bộ đội Cụ Hồ, được nhìn như 1 vì Thiên sứ, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.. Đến 30 Tháng Tư, thì vì Thiên sứ biến thành Quỉ. Quỉ Đỏ.
Hay là dùng hình ảnh “vẫn nó, nhưng không phải nó”. Đây là câu nói của vị tổng giám đốc Bưu Điện, Nguyễn Văn Điều, 1 ông thầy dậy của GCC, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, phán, về vị trưởng đài VTD, sếp trực tiếp của GCC, cùng ăn mìn VC ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, nhưng bị mất khẩu súng ngắn.
Nói rõ hơn, cuộc chiến Mít khủng khiếp quá, nó liếm sạch chất đực của Bắc Kít. Kẻ nào sống sót, thì đều mất khả năng tưởng niệm người chết!
Chứng cớ ư, thì ngó ngay Nguyễn Duy thì rõ. Anh ta rất mừng vì được nhà nước chiếu cố thơ của anh!
Hay là hình ảnh, của Nhị Linh dùng, để chỉ GCC, đối thủ của anh, “kẻ ở giữa”. Kẻ ở đầu, là Viên Linh, kẻ ở lại, là Dương Nghiễm Mậu. Gấu là kẻ ở giữa, theo nghĩa, cái viết của Gấu không dừng lại vào ngày 30 Tháng Tư 1975, mà sau đó, ở hải ngoại
Nếu như thế, thì không thể lấy cái ngày 30 Tháng Tư, để đọc thơ Nguyễn Duy, hay Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Quỳnh –như Edward Hirsch đọc họ, trong Poet’s Choice. Phải lấy cái hiện trạng đất nước hiện nay, là “hiệu quả, hậu quả, hay tiềm lực” cái con mẹ gì đó, của thơ ca miền bắc, trong có những người như Nguyễn Duy.
Một xứ sở mà lịch sử kể từ khi dựng nước, 1945, bị vặn vẹo, bóp méo, và chỉ gồm toàn những vụ sát nhân, thủ tiêu… vậy mà có 1 đấng sử gia vĩ đại như ông vừa mới chết, tếu thế. Chính xừ luỷ, ngoài cái cú Lê Văn Tám, thì chưa 1 lần “phản tỉnh”, sử của chúng ông là sử bịa đặt.

Phải có 1 tên dám nói thật về cuộc chiến.

Tội nghiệp mi quá, cứ mong phép lạ, trong đám cực kỳ tinh anh Bắc Kít, nhưng não bị thiến mất một mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người, 1 vị bằng hữu Tin Văn, thương hại Gấu...

Ẩn dụ Lò Cải Tạo, cái sườn của tất cả những gì được viết ra ở đây.

[Mô phòng: Ẩn dụ Quần Đảo, cái sườn tác phẩm, trở đi trở lại, và là tít của nhiều chương: Những Con Tầu của Quần Đảo, Những Bến Tầu của Quần Đảo, Từ Đảo tới Đảo, Quần Đảo Mọc Lên Từ Biển.
D.M Thomas: Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta].

Hãy cẩn thận, về điều này: Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được nó.
Châm ngôn Nga.

D.M Thomas, sđd

Christ and the Devil have changed places.
Chúa Ky Tô và Quỉ đổi chỗ cho nhau.

D.M. Thomas Tiểu sử Solzhenitsyn, chương 2: Demons

D.M nhắc tới bài thơ “The Twelve” của Blok, 12 tên Vệ Binh Đỏ, Red Guards, trong đêm tối St Petersburg, gặp ai giết người đó, tàn phá, hủy diệt tất cả cái gì vướng chân chúng trên đường đi: They lust to drink, have pleasure, and uphold the Revolution, chúng ăn nhậu, chơi đồ chơi thỏa thích, dâng cao ngọn cờ Cách Mạng. Đằng sau chúng, là 1 con chó đói – cái thế giới cũ, the old world, chúng tính đâm cho con chó 1 một mũi bayonet, nhưng quay nhìn về phía xa, về phía trước, một hình ảnh như đang dẫn dắt chúng: Trong tuyết dầy, đặc, là 1 ngọn cờ đỏ, và hình bóng chúa Ky Tô: Bearing the flag, leading the cutthroats, walking lightly above the storm- is Jesus Christ.  

Chúa và Quỉ đổi chỗ cho nhau là vậy.

Cuộc chiến Mít, thay vì Chúa Ky Tô, chính là giấc mơ thoát ra khỏi cái kiếp người thê lương ở nơi “Quê Người”, là xứ Bắc Kít.
Hơn cả hình bóng Chúa Giê Su cầm cờ dẫn đường bọn giết người Vệ Binh Đỏ, trong bài thơ của Blok - là hình ảnh về một thiên đàng ở bên ngoài, ở quá lũy tre làng, ở đâu đó ở một Đàng Trong...

Chính Cái Ác Bắc Kít, nằm nơi trái tim mọi tên Bắc Kít, đã đổi giấc mơ của giống Mít – Chúa cho chúng làm người để thực hiện giấc mơ đó - thành đại ác mộng, là một nước Mít như hiện nay.

*

Note: Đây cũng là 1 cuốn sách gối đầu của GCC Đọc đến quăn tít mấy góc sách. Có những chương thật thần sầu. D.M. Thomas là 1 nhà văn, thứ bảnh nhất, tôi là tiểu thuyết gia, thi sĩ, không phải nhà viết tiểu sử. Ông nhận viết tiểu sử Solz, như là 1 thách đố, với chính mình. Tin Văn sẽ giới thiệu 1, 2 chương, thí dụ, chương III: Quỉ [Demons]; chương về Pasternak, cái chết của 1 thi sĩ.

Bởi vì Demon, và Savior, chỉ là một. Trước 1975, là Savior. Sau 1975, biến thành Demon. Vẫn chỉ là một thứ.
Nên nhớ, không phải Dos là người đầu tiên nhắc tới Demon, Quỉ. Quỉ của Pushkin - viết năm 1830, một trăm năm trước cơn phẫn nộ của Stalin, giáng xuống đầu nông dân Nga - mô tả một chiếc xe ngựa bị bão tuyết làm mất phương hướng, mấy con ngựa kéo xe bị quỉ xúi giục và cứ thế lao vào địa ngục. Tới thời Dos, Những Con Quỉ [thường được dịch là Lũ Người Quỉ Ám, 1871], Quỉ biến thành Kẻ Cứu Rỗi, Vị Cứu Tinh. Hãy tưởng tượng, 1921, ông Hồ đói rét, run lẩy bẩy ở Paris, đọc Lênin, và sảng khoái la lên, cứu tinh đây rồi, đây là tri âm tri kỷ, kẻ đồng điệu, người đồng hành...
Bởi vì tầng lớp trí thức miền bắc đã đón nhận quỉ sứ như kẻ cứu rỗi, như thế đó. Họ thực sự tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ là cơ may, cơ hội đổi đời. Chính niềm tin này là nền tảng của, thí dụ, "Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm", của những cảnh tượng thật bi hùng, bi tráng, bi thương, trai tráng làng, người người trích máu tay, làm đơn tình nguyện xin đi chiến trường miền nam.
Nhưng 1975, tất cả đều chưng hửng. Đều vỡ mộng. Hãy tưởng tượng tâm trạng của DTH lúc đó.
Như một nhà tiên tri, Kafka đã nhìn ra từ bao lâu cảnh này, trong Y sĩ đồng quê. Độc giả Việt, đọc ông, mà cứ nghe ra giọng của DHT, vào đúng cái ngày cay đắng nhục nhã đó:
"Ta đã bị bội phản! Bội phản!"









THE SONG OF THE FINAL MEETING

My breast was bound with a cold band,
And still my steps were light.
The glove intended for my left hand,
I put upon my right.

At the thought of the stairs, I grew faint-hearted,
But I knew, there were only three!
An autumnal whisper in the maples started
Begging: "Die with me!

"Fate cheated me-fate, so abysmal,
So moody and full of spite . . ."
I answered: "My dear! I too am dismal.
I'll die with you tonight ... "

The final meeting: I stood on the road.
The house was as dark as shame.
Only, in the bedroom, candles showed
An indifferent yellow flame.

1911
Anna Akhmatova

Trans. by Lyn Coffin

Bài ca về lần gặp cuối

Tim tôi lạnh như băng
Chân vưỡn nhẹ
Tất, tay trái
Xỏ mẹ tay phải

Nghĩ đến mấy bực thang
Tim oải ra
May quá chỉ ba bực
Tiếng thì thầm, thu thật thu
Trong lá thông
Nài nỉ:
“Hãy chết cùng anh, em nhé!”

“Số mệnh đánh lừa tôi - số mệnh, sâu hoắm,
Ủ ê, tràn đầy giận dữ….”
Tôi bèn trả lời: “Anh yêu, em cũng quá chán đời,
Em sẽ chết cùng với anh đêm nay”

Cuộc gặp gỡ lần chót: Tôi đứng trên lộ
Căn nhà tối thui, như tủi hổ
Chỉ ở nơi phòng ngủ
Đèn cầy le lói
Một ánh lửa màu vàng,
Dửng dưng.



Note: Bài thơ của AA, post trên FB, được 1 vị bằng hữu cám ơn và gửi tặng bài thơ dưới đây. GCC cực mê thơ AA. Sang trọng, đài các, lạnh như băng. “Bài ca lần gặp chót” này, Edward Hirsch, nhà thơ Mẽo, cũng cực mê. Trong cuốn Làm sao đọc 1 bài, và tương tư thơ, ông có đi 1 đường thần sầu về nó.
Riêng GCC cũng thu hoạch được bài ba bản tiếng Anh của bài thơ, mỗi bản mỗi có nét hay riêng của nó. Trong cuốn tuyển tập thơ AA, bản tiếng Anh, nhà xb Everyman’s do D.M. Thomas dịch và biên tập, cũng có bài thơ này:
   
SONG OF THE LAST MEETING
My breast grew cold and numb,
But my feet were light.
On to my right hand I fumbled
The glove to my left hand.

It seemed that there were many steps
- I knew there were only three.
An autumn whisper between the maples
Kept urging: 'Die with me.

Change has made me weary,
Fate has cheated me of everything.'
I answered: 'My dear, my dear!
I'll die with you. I too am suffering.'

It was a song of the last meeting.
Only bedroom-candles burnt
When I looked into the dark house,
And they were yellow and indifferent.

1911. Tsarkoye Selo

Image may contain: text



You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.

That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
1961-63

Trans. by D.M. Thomas

Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã từng, vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng

Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.

Anna Akhmatova (1889–1966) had a life that spanned prerevolution Russia, Bolshevism, and Stalinism. Throughout it all, she maintained a restrained, graceful, yet muscular style that could grab a reader by the throat, or the heart, at a moment’s notice. Her themes include romantic yearning and frustration, the pull of the sensory, the emotional power of the mundane, and her belief that a Russian poet could only produce poetry in Russia. By reputation, both Akhmatova’s poems and the poet herself are defined by tragedy and beauty in equal measure, and she is for many the quintessential twentieth-century Russian poet.

You Will Hear Thunder spans Akhmatova’s very early career into the early 1960s. These poems were written through her bohemian prerevolution days, her many marriages, the terror and privation of life under Stalin, and her later years, during which she saw her work once again recognized by the Soviet state. Intricately observed and unwavering in their emotional immediacy, these strikingly modern poems represent one of the twentieth century’s most powerful voices.
 


Nhân Ngày Của Bố

ANNA SWIR
1909-1984

Anna Swir is the author of a moving cycle of poems about her father and mother, of whom she speaks with attachment and gratitude, which seems to me striking in view of a common tendency, particularly among young poets today, toward just the opposite. It is not without importance to know her biography. She was the only daughter of a painter who was abysmally poor. She grew up in his atelier in Warsaw.

I WASH THE SHIRT

For the last time I wash the shirt
of my father who died.
The shirt smells of sweat. I remember
that sweat from my childhood,
so many years
I washed his shirts and underwear, I dried them
at an iron stove in the workshop,
he would put them on unironed.

From among all bodies in the world,
animal, human,
only one exuded that sweat.
I breathe it in
for the last time.
Washing this shirt I destroy it
forever.
Now
only paintings survive him
which smell of oils.

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Nathan

Anna Swir có 1 vòng thơ thật cảm động về bố và mẹ, và bà nói về họ với sự quấn quýt và lòng biết ơn. Bà là cô con gái độc nhất của họ, và ông bố là một họa sĩ nghèo thê nghèo thảm. Bà lớn lên trong xưởng vẽ của ông bố tại Warsaw

Tôi giặt chiếc áo sơ mi

Đây là lần chót tôi giặt chiếc áo sơ mi
của ông già tôi, người đã mất.
Chiếc áo ngửi có mùi mồ hôi.
Tôi nhớ mùi mồ hôi này từ còn là một đứa con nít
Bao nhiêu năm rồi
Tôi giặt chiếc áo sơ mi và quần áo lót của ông già tôi
Tôi phơi khô nhờ cái lò sắt ở xưởng vẽ
Và ông già tôi sẽ mặc mà chẳng cần ủi

Từ tất cả những thân xác trên thế giới
vật, người
chỉ có một, toát ra mùi mồ hôi đó
Tôi hít nó lần chót.
Giặt áo lần cuối
Là tôi tiêu huỷ nó, đời đời
Bây giờ chỉ còn những bức tranh sống sót ông già tôi
Vì ngửi chúng có mùi dầu.


Bài thơ duới đây, nói về ông bố đã mất, và ông bố thứ nhì, của 1 cô đầm nhưng, THNM, Gấu bèn nghĩ dến 1 xứ Bắc Kít quên mất cầu nguyện. Gấu cũng có 1 ông bố, bị chết vì tai họa đảng phái hồi 1945, và cũng như cô gái, chỉ sợ mẹ bỏ đi lấy chồng, lại thêm bà nội Gấu “chúc dữ”, con mẹ mày thế nào cũng bỏ lũ mày đi theo thằng khác, thế là đâm thù ghét mẹ!
    Chỉ đến khi ra được nước ngoài, mẹ thì đã chết, lần hồi mãi, mới biết thương mẹ…

HAVE YOU PRAYED ?

Li-Young Lee (1957-)
When the wind
turns and asks, in my father's voice,
Have you prayed?

I know three things. One:
I'm never finished answering to the dead.

Two: A man is four winds and three fires.
And the four winds are his father's voice,
his mother's voice ...

Or maybe he's seven winds and ten fires.
And the fires are seeing, hearing, touching,
dreaming, thinking ...
Or is he the breath of God?

When the wind turns traveler
and asks, in my father's voice, Have you prayed?
I remember three things.
One: A father's love

is milk and sugar,
two-thirds worry, two-thirds grief, and what's left over

is trimmed and leavened to make the bread
the dead and the living share.

And patience? That's to endure
the terrible leavening and kneading.

And wisdom? That's my father's face in sleep.

When the wind
asks, Have you prayed?
I know it's only me

reminding myself
a flower is one station between
earth's wish and earth's rapture, and blood

was fire, salt, and breath long before
it quickened any wand or branch, any limb
that woke speaking. It's just me
in the gowns of the wind,
or my father through me, asking,
Have you found your refuge yet?
asking, Are you happy?

Strange. A troubled father. A happy son.
The wind with a voice. And me talking to no one.

Jill Bialosky trích dẫn trong "Thơ kíu đời", “Poetry will save your life”

Li-Young Lee was born in Indonesia to Chinese exiles. In reading his call-to-prayer-like poem, I remember the nights I lay in bed reciting "Now I Lay Me Down to Sleep," a classic children's bedtime prayer from the eighteenth century. Prayer offers a door to a place where we surrender our literal and rational minds and embrace faith. In "Have You Prayed?" Li- Young Lee equates prayer and the spiritual world with his father and his ancestors before him. Though written across cultures and time, both prayer-poems invite us to abandon ourselves to the unknown and the dead.
In reading "Have You Prayed?" I don't attempt to parse it literally. Instead I allow its seductive voice to take me to the enchantments of the unknown world where father, legacy, and prayer are all intertwined. Surely this is one of the reasons poetry enriches us. A poem links us to a universe' at once intimate and communal. Poets and artists work in solitude and by intuition. They have the same mission: to capture and fathom the reality beyond appearances, the world invisible to the eye.

   
HAVE YOU PRAYED?
Li-Young Lee

I am young when my mother begins to date, and I worry about her. It seems as if every man who comes in sight of her wants her. And why shouldn't they? She's beautiful, with her long dark hair and curvy body. Even when we are at the grocery store, I see the way the men behind the meat counter stare at her, or the way the repairmen who come to fix our furnace or leaking pipes stay a little too long after they've finished to speak to her. What if something should happen to her and suddenly she was gone, like my father? I am plagued by the idea that I am doomed to become an orphan.
I've come to think of it as an art, the way she carefully applies her makeup, pulls up her stockings that make her long legs look smooth and silky, puts her hair in big rollers so that once it's dry it falls in a luxurious flip against her shoulders. Once she leaves, her arm hooked in the arm of her date, I sit by my bedroom window and wait for her to get home. My heart leaps at any car that comes down our street and sinks when it passes by our house. As the minutes turn to hours, I become more anxious convinced my mother has gotten into a car accident. Sometimes my imagination brings me to tears. It is no wonder that I identify with David Copperfield, Jane Eyre, Pippi Longstocking, and other orphaned children in literature. All children do. My favorite babysitter senses my unease. Before she tucks us into bed, she takes our hands and we all form a circle on the shag carpet of my bedroom floor. She teaches us the words to "Now I Lay Me Down to Sleep."

Now I lay me down to sleep,
I pray the Lord my soul to keep.
If I should die before I wake
I pray the Lord my soul to take.

At the end of the prayer we say aloud the names of everyone we know and care about-our mother, our father in heaven, our aunts, uncles, and cousins-and every time we think we have exhausted the list, one of us suddenly blurts out a name we have forgotten, and slowly, aware I am not alone, my fear subsides.
    In bed, after our babysitter closes the door and sister number three has fallen asleep in the bed across from mine; I silently continue to recite the prayer whose origins come directly from the Bible. Before I understand what is real, what is not real, and what I only wish for, I believe that the soul of my own father is with the Lord watching over my family, and I can feel the essence of my father in the musty air of our small bedroom. I pray he will look after my mother and return her safely home.

Jill Bialosky: “Poetry will save your life”


Poet's Choice       
39·

YEHUDA AMICHAI

Once you were my guardian,
Now I am your guard.


AFTER MY father died, one of the first poems I wanted to reread was Yehua  Amichai's "Letter of Recommendation." I first read this lyric in the Israeli poet's book Amen in 1977, and it has remained with me ever since as a model of sacred passion, of unabashed feeling and precise tenderness.

LETTER OF RECOMMENDATION

On summer nights I sleep naked
in Jerusalem on my bed,
which stands on the brink
of a deep valley
without rolling down into it.
During the day I walk about,

the Ten Commandments on my lips
like an old song someone is humming to himself

Oh, touch me, touch me, you good woman!
This is not a scar you feel under my shirt.
It's a letter of recommendation, folded,
from my father:
"He is still a good boy and full of love."

I remember my father waking me up
for early prayers. He did it caressing
my forehead, not tearing the blanket away.

Since then I love him even more.
And because of this
let him be woken up
gently and with love
on the Day of Resurrection.

(TRANSLATED BY YEHUDA AMICHAI AND TED HUGHES)

    Amichai's poems keep what he calls "the route to childhood open." They speak with warmth, nostalgia, and reverence for his dead father. Playful wit doesn't work against the feeling in this poetry, but in tandem with it. Unlike many contemporary poets here and abroad, Amichai doesn't fear showing too much emotion in his work, and he often lets his love songs ("Oh, touch me, touch me, you good woman!") turn into memorial poems and prayers for the dead.
I love the human scale-the vulnerable presence-in Amichai's poetry, and I can't help feeling that the example of a sweet, gentle, and religious Jewish father stands as an implicit challenge to other more traditional hyper-aggressive societal models of fatherhood and masculinity.
    Do we become like parents to the dead? In "My Father's Memorial Day," Amichai visits not just his father's graveside but all those buried with him in a single row, a group of people yoked together by death, "his life's graduation class." I'm struck by the complete confidence he has in the mutual, ongoing love that persists between his father and him ("My father still loves me, and I / Love him always, so I don't weep") and the way the poem then opens out into a lyric that tries to do justice to the genuine human sadness of the cemetery it-self Amichai's feeling extends to embrace the suffering of others ("I have lit a weeping in my eyes"). He concludes with a kind of ritual mourning-a parental feeling-for someone else's child:

MY FATHER'S MEMORIAL DAY

On my father's memorial day
I went out to see his mates-
All those buried with him in one row,
His life's graduation class.

I already remember most of their names,
Like a parent collecting his little son
From school, all of his friends.

My father still loves me, and I
Love him always, so I don't weep.
But in order to do justice to this place
I have lit a weeping in my eyes
With the help of a nearby grave-
A child's. "Our little Yossy, who was
Four when he died."

(TRANSLATED BY YEHUDA AMICHAI AND TED HUGHES)


D. H. LAWRENCE
1885-1930

D. H. Lawrence in his "Maximus" returns to the polytheistic world, and the poem is so effective that we feel a shock of recognition, as if we ourselves were visited by the god Hermes. Maximus is the name of a philosopher who was a teacher of the emperor Julian, called the Apostate because he tried to restore paganism. Epiphany may also mean a privileged moment in our life among the things of this world, in which they suddenly reveal something we have not noticed until now; and that something is like an intimation of their mysterious, hidden side. In a way, poetry is an attempt to break through the density of reality into a zone where the simplest things are again as fresh as if they were being seen by a child.
This anthology is full of epiphanies. I decided to place some of them in a separate first chapter to highlight this aspect of poetry. These particular poems are a distillation of my major theme.
Czeslaw Milosz

Trong Maximus, D.H. Lawrence trở về với thế giới đa thần, và bài thơ, hiệu quả đến nỗi chúng ta cảm thấy 1 cú sốc, thì cứ gọi đại là "ngộ, mặc khải", như thể chính chúng ta, đượcThần Hermes ghé thăm. Maximus là triết gia, thầy dạy của Hoàng Đế Julian, được gọi là Apostate vì ông cố tái lập tà giáo. Epiphany có thể còn có nghĩa 1 khoảnh khắc đặc dị, đặc quyền trong cuộc đời của chúng ta, giữa những sự vật trong thế giới, trong khoảng khắc đó, chúng bất thình lình vén lộ ra 1 điều mà cho tới lúc đó, chúng ta không để ý, cái điều này, thì giống như 1 gợi báo cái phía ẩn giấu, bí mật của chúng.
Trong 1 đường hướng, thơ là cái toan tính thần sầu này!

MAXIMUS 

God is older than the sun and moon
and the eye cannot behold him
nor voice describe him.

But a naked man, a stranger, leaned on the gate
with his cloak over his arm, waiting to be asked in.
So I called him: Come in, if you will!-
He came in slowly, and sat down by the hearth.
I said to him: And what is your name?-
He looked at me without answer, but such a loveliness
entered me, I smiled to myself, saying: He is God!
So he said: Hermes!

God is older than the sun and moon
and the eye cannot behold him
nor the voice describe him:
and still, this is the God Hermes, sitting by my hearth.

Note: Bài thơ trên, mở ra tuyển tập thơ, và được để trong chương/mục Epiphany. Milosz đi 1 đường về từ này:

Epiphany is an unveiling of reality. What in Greek was called epiphaneia meant the appearance, the arrival, of a divinity among mortals or its recognition under a familiar shape of man or woman. Epiphany thus interrupts the everyday flow of time and enters as one privileged moment when we intuitively grasp a deeper, more essential reality hidden in things or persons. A poem-epiphany tells about one moment-event and this imposes a certain form.
A polytheistic antiquity saw epiphanies at every step, for streams and woods were inhabited by dryads and nymphs, while the commanding gods looked and behaved like humans, were endowed with speech, could, though with difficulty, be distinguished from mortals, and often walked the earth. Not rarely, they would visit households and were recognized by hosts. The Book of Genesis tells about a visit paid by God to Abraham, in the guise of three travellers. Later on, the epiphany as appearance, the arrival of Christ, occupies an important place in the New Testament

No automatic alt text available.







http://www.nybooks.com/daily/2018/…/20/tales-from-the-gulag/


Kolyma Stories is a collection of short stories inspired by the fifteen years that Varlam Shalamov (1907–1982) spent as a prisoner in the Soviet Gulag. Shalamov did six years of slave labor in the gold mines of Kolyma before gaining a more tolerable position as a paramedic in the prison camps. He began writing his account of life in Kolyma after Stalin’s death in 1953.

—The Editors

TRAMPLING THE SNOW


How do you trample a road through virgin snow? One man walks ahead, sweating and cursing, barely able to put one foot in front of the other, getting stuck every minute in the deep, porous snow. This man goes a long way ahead, leaving a trail of uneven black holes. He gets tired, lies down in the snow, lights a cigarette, and the tobacco smoke forms a blue cloud over the brilliant white snow. Even when he has moved on, the smoke cloud still hovers over his resting place. The air is almost motionless. Roads are always made on calm days, so that human labor is not swept away by wind. A man makes his own landmarks in this unbounded snowy waste: a rock, a tall tree. He steers his body through the snow like a helmsman steering a boat along a river, from one bend to the next.

The narrow, uncertain footprints he leaves are followed by five or six men walking shoulder to shoulder. They step around the footprints, not in them. When they reach a point agreed on in advance, they turn around and walk back so as to trample down this virgin snow where no human foot has trodden. And so a trail is blazed. People, convoys of sleds, tractors can use it. If they had walked in single file, there would have been a barely passable narrow trail, a path, not a road: a series of holes that would be harder to walk over than virgin snow. The first man has the hardest job, and when he is completely exhausted, another man from this pioneer group of five steps forward. Of all the men following the trailblazer, even the smallest, the weakest must not just follow someone else’s footprints but must walk a stretch of virgin snow himself. As for riding tractors or horses, that is the privilege of the bosses, not the underlings.

1956

Gignoux: The Siberian Gulag, 1931

Image may contain: outdoor


Charles Simic

22.6.2017

ROADHOUSE

The news of the world is always old.
Nothing new ever happens,
The innocent get slaughtered
While some guy on TV makes excuses,

And the bartender refills our drinks,
His left hand clasped behind
His arching back, either maimed
By a dog or wielding a blackjack.

Our wars, it seems, are not going well.
A senator got caught soliciting sex
In a public bathroom at an airport,
And rain and snow are on the way.

Đường về xứ Mít

Tin nhà, tức xứ Mít, thì luôn luôn vũ như cẩn
Chẳng hề có gì mới vừa mới xẩy ra
Người dân vô tội thì vưỡn bị tàn sát
Trong khi một gã nào đó trên VTV lắp ba lắp bắp
Tha lỗi cho VC chúng tôi!

Và tên phục vụ ở quầy rượu thì bèn lại châm đầy ly của chúng tôi
Tay trái anh ta
Quặt về phía lưng cong vòng của mình
Hoặc là bị chó đợp
Hoặc là cầm 1 con bài blackjack

Những cuộc chiến của chúng ta
Nào chống Tẩy, thực dân cũ
Hay thực dân mới, hay Yankee mũi lõ
Và bè lũ Ngụy bán nước
Là cả 1 Miền Nam
Coi bộ không được khá
Một tên nghị sĩ Vẹm bị tóm
Khi đang làm thịt 1 em nhí
Ngay tại nhà đái ở phi trường Nội Bài!
Và mưa thì vẫn như trút nước xuống thủ đô Hà Lội của Bắc Kít chúng ta!

[Hà, hà, dịch nhảm quá, thằng cha Gấu Cà Chớn!]


BARE TREES

They are fans of horror film
In the fading light of a November day,
The gray surface of the pond
Is a movie screen they are watching.

The bare branches moving in it,
Are like the fingers of the blind
Reaching to touch the face of someone
Who'd been calling out to them

In the voice of geese flying over,
The shots of a hunting rifle,
And a dog barking outside a trailer
For someone to hurry and let him in.

Cây trụi lá

Họ là fans của phim kinh dị
Trong ánh sáng nhạt dần, của một ngày Tháng Một
Mặt nước xám của cái ao
Là màn hình phim mà họ theo dõi

Những cành cây trụi lá bèn mò vô phim
Như những ngón tay của 1 tên mù
Mò mò, tính rờ mặt một ai đó
Cái kẻ la ỏm tỏi, nè, nè, dzô đi, dzô đi!

Có tiếng đàn vịt trời bay qua
Tiếng súng săn
Và tiếng chó sủa một cái rờ-moọc ở bên ngoài
Nè lẹ lên, cho tớ vô trỏng!

June 21, 2017

THE MESSAGE

Take a message, crow, as the day breaks.
And find the one I hold dear,
Tell her the trees are almost bare
And the nights here are dark and cold.

Learn if she lights the stove already,
Goes to bed naked or fully dressed,
Sips hot tea in the morning, watching
Neighbors' children wait for a school bus.

Tell her nothing fills me with more sorrow,
Than the memory of seeing her
Covering her face with her hands
When she thought she was alone.

Help me, bird, flapping from tree to tree
And calling in a voice full of distress,
To some fond companion of yours
You'd like to see flying by your side.

Thông điệp

Này, quạ, mang giùm Gấu bức thông điệp này
Khi ngày ló dạng
Tới người Gấu thươn ơi là thươn.
Nói với nàng, cây gần như trụi sạch lá
Và đêm ở đây, tối, lạnh làm sao

Coi coi nàng đã đốt lò chưa
Nàng lên giường khỏa thân, hay là với áo ngủ
Buổi sáng, nhâm nhi trà,
Ngắm trẻ hàng xóm lên xe buýt tới trường

Nói với nàng, Gấu buồn ơi là buồn
Vì nhớ
Nàng đã từng lấy tay ôm mặt
Khi nghĩ rằng nàng cô đơn

Hãy giúp ta
Bay, từ cây này qua cây khác
Gọi, thật là thê lương
Một bạn đường
Sóng đôi bay cùng.

BIRDS KNOW

There's a pond, a man said,
Far back in these woods,
Birds and deer know about
And slake their thirst there

In a water so cold and clear,
It's like a brand-new mirror
No one had a chance to look at,
Save, perhaps, that little boy,

Who went missing years ago,
And may've drowned in it,
Or left some trace of himself
Playing along its rocky edges.

I better go and find out,
This very night, I said to myself,
With my mind running wild,
And the moon out there so bright.

Chim biết

Có cái ao, một người đàn ông nói
Ở mãi tít bìa rừng
Chim và hươu nai biết
Và vẫn thường tới đó thoả cơn khát

Nước mới lạnh mới trong làm sao
Giống như là cái gương mới tinh
Chẳng ai có cơ may soi mình
Ngoại trừ chú bé đó

Chú bé mất tích nhiều năm trước đây
Chắc là chết đuối ở trong ao
Hay, để lại vài dấu vết
Khi chơi đùa với mấy bờ đá.

Tớ có lẽ nên đến đó coi sao
Trong cái đêm thật là đêm như đêm nay
Tớ bảo mình như vậy
Với cái đầu hoang dại
Và trăng đêm nay thì mới sáng làm sao


& *

This poetry is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty of an inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense of humor-this is the unfathomable secret of a great artist.

Thơ này là về nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự kiện, cùng lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, hay cái cảm quan cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình –  thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.

Adam Zagajewski: Introduction
(Translated by Bill Johnston) (1)

14. On Zbigniew Herbert 

Zbigniew Herbert lived most of his life (1924-98) under regimes that were inimical to what we can loosely call freedom of expression. His writing bears evidence of his historical situation as a man trying to live out a poetic and intellectual vocation in a hostile environment. The traces can sometimes be overt - for example, in his satiric counter-attacks on the regime -but are more usually concealed by ironic masks or Aesopian language.
Herbert was not a poet-martyr as, say, Osip Mandelstam was. Nevertheless, the record shows a lifetime of principled opposition first to the Nazis, then to the Communists. Until well into his thirties he led a fringe existence, with none of the rewards that someone of his education and talents might have expected. After the 1956 thaw, his growing reputation opened up opportunities for travel outside Poland and eventually led to residencies, fellowships and visiting professorships in the West. But unlike his contemporary Czeslaw Milosz he chose against exile.

J.M. Coetzee: Late Essays 2006-2017
[còn tiếp]

Note: Bài này cũng tuyệt. Khác với AZ, Milosz, Simic… - Coetzee  nhìn Herbert dưới con mắt phê bình, khác, so với thi sĩ.

Nhưng, khi đặt Milosz vs Herbert qua vấn nạn lưu vong, thì phải nhìn ra, Milosz vô phương chọn ở lại. Ông chọn 1 thứ lưu vong chống lại lưu vong, khi bị cả hai, cùng xúm lại quần thảo ông, và chỉ có 1 cá nhân độc nhất giơ tay ra chào đón ông, là Camus.


Yves Bonnefoy
1923-2016

Chẳng nghi ngờ chi,
Vưỡn còn cái ao dầu
Ở cuối con phố dài thòng
Tớ đã từng lang thang khi còn là Anh Cu Gấu
Cái hồ hình chữ nhật
Của cái chết dầy, dưới bầu trời tối

Kể từ đó, thơ bèn chia nước của nó ra khỏi những nước khác
Không cái đẹp nào, không mầu sắc nào có thể giữ được
Nó đành đoạn, thống khổ về sắt và đêm

Nó nuôi dưỡng
Nỗi ước ao dài,
Một bờ sông chết,
Một cây cầu sắt
Bắc qua một bờ sông khác
Vô một đêm đen hơn:
Hồi ức độc nhất của nó
Tình yêu độc nhất của nó

*




La Tâche d’Espérance 

C'est l’aube. Et cette lampe a-t-elle donc fini
Ainsi sa tâche d’esperance, main posée
Dans le miroir embué sur la fièvre
De celui qui veillait, ne sachant pas mourir?
Mais il est vrai qu’il ne l’a pas éteinte,
Elle brule pour lui, malgré le ciel.
Des mouettes crient leur âme à tes vitres givrées,
Ô dormeur des matins, barque d'un autre fleuve

The Task of Hop

It is dawn. Has this lamp, then, finished
Its task of hope, hand placed
In the clouded mirror, on the fever
Of the one who kept watch, not knowing how to die?
But it is true that he has not put it out,
It still burns for him, in spite of the sky.
The seagulls screech their soul at your frost -covered
Window, morning sleeper, boat from another river.

Aux arbres

YVES BONNEFOY

Vous qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.

Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.

J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.

Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.

Với cây rừng.

Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không

Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh


Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù

Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.
TTT dịch
http://www.tanvien.net/tribute/TTT_dich_tho.html

Saturday, April 3, 2010 7:40 PM
From:
To:
Chào Ông !
Biết Ông yêu mến anh TÂM, tôi gởi hai bài thơ dịch của anh TÂM sau năm 1975. Có thể ông chưa được xem.
Tôi chỉ quen biết anh TÂM sau khi ở tù CS qua anh TÔ THÙY YÊN (vì có ở tù chung).
Hai bài thơ dịch này chỉ truyền tay trong vòng thân hữu, nay ông đọc xem như là tưởng nhớ anh TÂM sau 5 năm anh mất.
Cám ơn ông.

Phúc đáp:
Cám ơn bạn rất nhiều
Đúng là món quà hiếm quí
Tôi mạn phép bạn, post lên, vì biết có rất nhiều người quí mến nhà thơ TTT.


Image may contain: cloud and text



Cái vụ này, được Sartre khái quát hóa, bằng câu phán cực kỳ trứ danh, là, “địa ngục là những kẻ khác”, và chứng minh bằng cả 1 chương, trong Hữu Thể và Hư Vô, chính cái nhìn của kẻ khác, biến con người, tha nhân, những người khác, thành đồ vật.
Một khi đã biến thành đồ vật, thì lại ra cái biện chứng chủ tớ, mi là đồ vật, là sở hữu của ta, ta muốn gì là ta làm!

Phải đẩy tới tận cùng, thì mới hiểu được, có thứ tình yêu ‘platonique”, biến người khác thành… thánh nữ.
Mi ra đời, để biết được, có 1 người cũng ra đời, như mi, và khi gặp được người, nhìn 1 phát, là ngộ ra chân lý, đúng rồi, ta được Chúa cho ra đời, là để gặp, “để chiêm ngưỡng và kính trọng”, con bé con 11 tuổi, Bắc Kít này!
Hà, hà!

Lê Minh Hà published a note.
Đọc được một ít về phong trào MeToo khởi từ các siêu sao Hollywood, chắc là chán, thằng bé mười tuổi hùng dũng nhìn thẳng vào mắt mẹ:
„ Người không thể tay không đi vào sa mạc rồi bảo con sư tử là mày không được ăn thịt tao!“
Khái niệm quấy rối, lạm dụng tình dục không phải là cái gì xa lạ với tuổi của nó ở đất này, vì chúng nó được học để nhận biết, phòng tránh. Nói chuyện với con, mẹ già đâm khôn ra nhiều.

Cũng đồ lạc xoong!

Tay này, viết phê bình, cực kỳ hung dữ, the ferociously intelligent, nhưng cũng cực kỳ số 1 – first-rate critic. Bài viết nào, thay vì mở ra bằng 1 câu thật trứ danh, như là vòng hoa Nobel – là cái thông báo báo chí – như cách mà tờ Người Kinh Tế thường dùng, và Gấu thường bắt chước - bạn quí HPA có lần phán bài viết nào của mi cũng… dở, trừ cái câu mi chôm, và lần kể cho Nguyễn Tiến Văn, anh gật gù, khó nhất là kiếm ra được cái câu cần chôm đó… nhưng với Wood, thì lại khác hẳn: ông kể 1 giai thoại, có thực, về, bằng cách nào ông gặp tác giả mà ông viết. Với bài viết về Naipaul, là cái lần đầu gặp. Cái tít bài viết, thật quá bảnh, và quá đúng về Naipaul: Kẻ đánh người đến thành thương tật, wounder, và bị đánh đến biến thành thương tật, wounded, cả hai đều là Naipaul, và quá nữa, 1 tên mũi tẹt lưu vong ở 1 xứ mũi lõ!
Bài này quá tuyệt.
Bài về Sebald, cũng quá tuyệt: Austerlitz và Auschwitz là 1

Praise for James Wood

"Wood has made himself deservedly famous for the intellectual dazzle, literary acuteness and moral seriousness of his essays ... A first-rate critic."
-DANIEL MENDELSOHN, The New York Times Book Review

"It is not enough to have one Wood. What is needed is a thicket-a forest- of Woods ... [He proves] that superior criticism not only unifies and
interprets a literary culture but has the power to imagine it into being."
-CYNTHIA OZICK, Harper's Magazine

"Let's drop the qualifiers and say it loud and clear: [Wood is] the best. This transplanted Englishman is a blessing to the culture ... [His] kind of open-eyed and sympathetic reading is how criticism justifies its existence ... Let's be thankful for [Wood's] enthusiasm, his capacious learning and his keen eye."
-ADAM BEGLEY, The New York Observer

"James Wood, the ferociously intelligent critic ... has single-handedly done a great deal to improve the literary atmosphere in the past few years ... [He] is one of those rare critics whose discernment is so strong that he helps us to become better readers of fiction. More than that: He's one of those rare writers who can enrich one's own engagement with life."
-BRIAN MORTON, The Nation

"Inimitable ... [Wood] has not only a well-tuned ear for prose but a remarkable ability to convey how novelistic language transubstantiates life into literature ... Wood's essays ... vibrate with the difficult, serious pleasure that literature uniquely provides."
-A. O. SCOTT, The New York Times Book

James Wood kể, làn đầu ông tới gặp Naipaul, là để phỏng vấn, cho 1 tờ báo. Naipaul, cũng 1 thứ cực kỳ mất dậy, mục hạ vô nhân, có coi tên ký giả hạng bét, là Wood, là thằng con củ xê nào, còn Wood thì nhận xét, cũng chẳng đẹp đẽ gì, về mụ gái già mang nước trà hay cà phê ra cho khách, mà ông nghĩ, là thư ký riêng của nhà văn nhớn Naipaul.

Hóa ra là…  Gấu Cái.

Nhưng tới khi đọc bài viết trên báo, thì Naipaul mới té ngửa ra 1 phát, vì quá tuyệt!
Thì cũng kiểu nhận xét, kiểu… “Nguyên Sa là nhà văn dễ dãi và hạnh phúc!”
Thế là bèn gọi điện thoại, mời đi ăn trưa… đại khái thế!

Ui chao, nhân nhắc tới NS, thì lại nhớ đến cú chấn động Sài Gòn, sau bài điểm tập truyện ngắn "Mây Bay Đi" của NS, của GCC.
Bây giờ nhớ lại, mới nhận ra 1 điều, là NS rất ư là bảnh. Vẫn lịch sự đi 1 đường phúc đáp, “Thưa Nquyễn quân”…
Cả đến khi GCC đếch thèm trả lời, thì ông mới đi cả 1 loạt bài “Một mình một ngựa” để dạy cho thằng chó này 1 bài học.
Nhưng vẫn bằng 1 giọng thật lịch sự. 

NS quả quá đau vì cú đánh của GCC. Đến già, đến chết, không quên được.
Đây là nhận xét của 1 đấng văn hữu, về bài điểm sách của GCC. Một cách nào đó, bài điểm của Gấu không chỉ nhắm vào NS, mà cả 1 lũ Bắc Kỳ di cư thời gian sau 1954, làm trời ở Sài Gòn, và sau đó, làm trời ở Little Saigon, Cali!

Cả 1 lũ làm giầu nhờ cuộc chiến, như lũ chuột, ngửi ra rất nhanh, chiếc tầu sắp chìm…

No automatic alt text available.




Quoc Tru Nguyen shared a memory.

Dòng sông trong tất cả những tình trạng của nó

Của nước và gió

Tôi từ giã căn nhà cũ đúng mùa nước rong. Chị tôi nói, may, nếu còn ở lại lội nước mệt xỉu. Con...

See More



























Trang NQT

art2all.net

Istanbul


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây