nqt
 
Album

 Thơ Mỗi Ngày

Translations of
Akhmatova and Tsvetaeva
by Paul Schmidt
Why is this age worse than all the others? Perhaps
in this: it has touched the point of putrefaction, ...

See More
Image may contain: text
















Berlin có 1 thời là người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova, thi sĩ, nhà tiên tri", có nhắc tới mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người khách từ tương lai”, "Guest from the future", trong “Bài thơ không nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo cáo cho Xì, và Xì phán, như vậy là nữ tu của chúng ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This mean our nun is now receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến tranh lạnh. Và thật là tuyệt vời.

Vào ngày Jan 5, 1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó là Thư ký thứ nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow], Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”, làm giữa Nov 26, 1945 và Jan 11, 1946. Những bài thơ tình đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20 Tháng Chạp, Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi ta như là những cầu vồng đan vô nhau:

Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all time,
There are only two voices: yours and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake Ladoga,
That late-night dialogue turned into
The delicate shimmer of interlaced rainbows.

(II, p. 237)

Tiếng buồn nhạt nhòa vào hư vô
Và bóng tối lướt lên cõi chạng vạng
Trong một thế giới trở thành câm nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng, của anh và của em
Và cái âm thanh giống như tiếng chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga vô hình
Cuộc lèm bèm muộn trong đêm – hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo ảo, lung la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít - cuộn  vào nhau.

The last poem of the cycle, written on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:

We hadn't breathed the poppies' somnolence,
And we ourselves don't know our sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before dawn?

Bài thơ chót trong chuỗi thơ, hoá ra còn tiên tri hơn nhiều, so với dự đoán của Anna Akhmatova:

Chúng ta không thở cái mơ mơ màng của 1 tên phi xì ke
Và chúng ta, chính chúng ta, chẳng biết tội lỗi của mình
Điềm triệu nào, ở những vì sao của chúng ta
Phán, đây là nỗi u sầu phiền muộn của tụi mi?
Thứ men bia quỉ quái nào
Bóng tối tháng giêng mang tới cho chúng ta?
Nhiệt tình vô hình nào
Kéo chúng ta ra khỏi thần trí, trước rạng đông?

(II, p. 239)

In 1956, something unexpected happened: the man who was to become "Guest from the Future" in her great work Poem Without a Hero-Isaiah suddenly returned to Russia. This was the famous "meeting that never took place”. In her poem, "A Dream" (August 14, 1956), Akhmatova writes:

This dream was prophetic or not prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of your arrival.
It was in everything ... in the Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed in vain,
And in the ringing of the village bells
Over the blackness of ploughed fields.
And in the autumn, which came close
And suddenly, reconsidering, concealed itself.
Oh my August, how could you give me such news
As a terrible anniversary?

(II, p. 247)

Another poem, "In a Broken Mirror" (1956), has the poet compare Petersburg to Troy at the moment when Berlin came before, because the gift of companionship that he brought her turned out to poison her subsequent fate:

The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In may enigmatic fate.
And it was the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner is
The meeting that never took place.

(II, p. 251)

*

Sir Isaiah Berlin. Cuộc thăm viếng Anna Akhmatova của ông liền sau Đệ Nhị Thế Chiến, là một trong những lý do khiến bà bị tống ra khỏi Hội Nhà Văn .

ở nơi. đó

mùa thu về. chậm hơn. giọt nước rơi
ngôì. tô màu. trên từng chiếc lá
chiếc xe. quẹo vào hẽm. vắng
cứ ngỡ. người về
áo dày. khăn quấn. mũ dạ
cùng phố. mêng mông lá
giữ lại màu. lá cũ
quán. lặng lẽ một ghế. trống
phóng xe. như bay
những con đường. ngắn lại
những xa lộ. ngắn lại
rồi những. tiếng động. thân quen
bàn tay nào? bấu. víu
bọt. thời gian
đường phố nào? hoài cơn say. không dứt
đợi. một tiếng gõ. cửa
tờ lịch. cũ
in bóng. một lần

Đài Sử

OU YANG HSIU
1007-1072
 
There's a considerable number of Chinese poems in this book, for a simple reason: the pictorial qualities of that poetry, expressed in close cooperation with a calligrapher and an artist. "Fisherman" is really like a painting. And in fact the poem has been "translated" into an image by the brush of a painter, many times imitated and often reproduced in books on Chinese art. Drizzle and mist form an obstacle to seeing clearly, and this reminds us that a seeing person-an observer-exists.
Milosz

Có khá nhiều thơ Tầu trong cuốn sách này, vì 1 lý do giản dị: những phẩm chất tranh của thơ Tầu. "Ngư Phủ" quả đúng là 1 bức họa. Thực sự, bài thơ đã được chuyển dịch thành hình ảnh, bằng nhát cọ của họa sĩ. Mưa phùn và sương mù tạo thành 1 chướng ngại, làm cảnh vật trở nên mờ ảo, và điều này nhắc nhở chúng ta, một người nhìn-một quan sát viên - hiện hữu

FISHERMAN
The wind blows the line out from his fishing pole.
In a straw hat and grass cape the fisherman
Is invisible in the long reeds.
In the fine spring rain it is impossible to see very far
And the mist rising from the water has hidden the hills.

Translated from tile Chinese by Kenneth Rexroth
Ngư phủ
Gió thổi sợi dây ra khỏi cần
Trong nón rơm, áo lá,
Ngư phủn biến thành tàng hình theo lớp sậy dài
Mưa xuân, dù mịn màng, đủ để ngăn tầm nhìn
Và sương mù dâng lên từ mặt nước
Bèn giấu biến mấy ngọn đồi

CAUTE

He'll leave behind dozens of books, a couple of
engravings, a green coat, one quilt, seven
shirts, and a few other objects.

-Leszek Kolakowski

You open your hand cautiously, it's
blind and dumb. Shameless, stripped bare. Stamped,
entered in the records. Spinoza's friends
are gone now, so are those who denied him,
and the inquisitors of his time,
and the clouds crossing the borders of his time,
and the reasons for his demise likewise no longer obtain;
his coat, quilt, and shirts now
cover no one, new books
are in new bookstores,
exiles in exile, papillary lines
in folders, barbed wire on borders, occupants in apartments,
jurors in boxes, manuscripts in desk drawers, smiles
on lips, blood in veins, workers in workplaces, soldiers
in uniforms, potatoes in stomachs, citizens
in country, documents in pockets, country
inside, foreignness outside, tongue behind teeth, prisoners
in prisons, teeth on concrete, earth in universe
(which either contracts or expands), temperature
in degrees, each in his place, heart
in throat, any questions,

thank you, I see none

-Ryszard Krynicki

(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

NYRB Nov 23, 2017



Sách & Báo Mới

Donald Rayfield

Witness to a Century
Miłosz: A Biography
By Andrzej Franaszek (Edited & translated by Aleksandra & Michael Parker)...

Continue Reading


B
ài này, cho đọc free. Tin Văn sẽ có bản tiếng Việt, cùng với bài của Simic, trên NYRB

http://www.nybooks.com/articles/2017/11/23/czeslaw-milosz-poems-abyss/

Charles Simic đọc cuốn tiểu sử của Milosz: Thơ từ Hố Thẳm.
Trên Tin Văn đã giới thiệu bài điểm cuốn này, của tờ Điểm Sách Hồng Mao, theo GCC, rất OK. Từ từ làm thịt cả hai.


Czeslaw Milosz
(1911-2004)

A witness or a prophet? Czeslaw Milosz saw himself as a poet who only happened to wander in long corridors of history; poetry came first and went last-he was among the most remarkable poets still creative in old age. And yet he witnessed more of the dark side of history than did the majority of his contemporaries. Born as the son of an engineer who worked for the Russian government, Milosz was a student and a young poet in between-the-wars Poland, a Resistance member (though never a combatant) under the Nazi occupation, a middle-rank diplomat in the postwar People's Republic administration, an exile in Paris, a U.S. university professor and citizen, and finally a world-famous poet who returned to Poland (Krakow) during his final years.
    Poetry was for Milosz the highest vocation-and he never separated it from thought and philosophy. He was a religious person, a thinker with a great gift for putting words together. A long series of his books of poetry was accompanied by a long series of his collections of essays: what couldn't become a poem was turned into an essay. His writing was an endless meditation on the meaning of life, the quest for God, the place of justice in human society. He gave himself the right-something only great poets can afford-to attack the most central themes.
    Milosz was passionately interested in other literatures and cultures; he translated poetry from several languages. Because he lived and taught in the United States for many decades-though he never tried to write poetry in English-he was regarded by many as an American poet and man of letters.
He was a teacher and a friend to many of his younger acquaintances. Milosz was of those few writers who not only outlived the monsters of the twentieth century, but also succeeded in defeating them and in keeping the serenity of great mind.

AZ: Polish Writers on Writing

Czeslaw Milosz
(1911-2004)

Một chứng nhân hay một nhà tiên tri? Milosz coi chính mình như là 1 nhà thơ mà sự tình chỉ xẩy ra, là, rong chơi ở những hành lang dài của lịch sử; thơ tới trước, và đi sau chót – ông là ở trong số những nhà thơ đáng kể nhất vẫn còn sáng tác trong tuổi già. Tuy nhiên ông chứng kiến nhiều cái phần u tối của lịch sử hơn đa số những nhà thơ cùng thời của ông. Là con 1 vì kỹ sư làm việc cho nhà nước Nga, Milosz là sinh viên và nhà thơ trẻ ở giữa những cuộc chiến ở Ba Lan, một thành viên Kháng Chiến (tuy nhiên chưa từng bắn 1 phát súng nào, như cas TTT), dưới thời bị Nazi đô hộ, một nhà ngoại giao trung cấp trong nhà nước thời hậu chiến, một kẻ lưu vong ở Paris, một giáo sư Đại Học, và là công dân Mỹ, và sau cùng một nhà thơ nổi tiếng thế giới trở về Krakow (Ba Lan) trong những năm cuối đời của ông.
Thơ là một thiên hướng cao nhất đối với Milosz, và ông chưa từng chia cắt nó, làm tách rời nó, ra khỏi tư tưởng và triết học. Ông là 1 con người tôn giáo, một nhà suy tưởng, với 1 thiên bẩm lớn trong việc sử dụng từ ngữ, đan xen chúng với nhau, thí dụ vậy. Những cuốn - xuất hiện như những chuỗi - thơ của ông thì được đi kèm với những chuỗi tiểu luận: Cái mà không thể trở thành 1 bài thơ thì bèn biến thành 1 tiểu luận. Cái viết của ông mà một trầm tư bất tận về ý nghĩa của cuộc đời, sự tìm kiếm Thượng Đế, chỗ của công lý trong xã hội con người. Ông ban cho chính ông, cái quyền - một điều gì mà chỉ những đấng đại thi sĩ như ông mới dám đương đầu – tấn công vào đúng những tử huyệt, đúng tim đen, những đề tài rốt ráo nhất.
Milosz thực là say mê hết mình, quan tâm tới chỉ, với những nền văn học văn hóa khác; ông dịch thơ từ vài ngôn ngữ. Bởi là vì ông sống và dạy học trong nhiều thập kỷ ở Mẽo – ông chẳng bao giờ thử làm thơ bằng tiếng Anh – nên ông bị coi như là một nhà thơ Mẽo, và là 1 văn nhân, bởi rất nhiều người.
Ông là 1 vị thầy dạy học, và 1 người bạn, đối với những mối quen viết trẻ tuổi hơn. Milosz  là 1 trong 1 số ít, những nhà văn sống dai hơn những con quỉ của thế kỷ 20, không chỉ thế, mà còn đánh bại chúng và vưỡn luôn luôn ở mãi với đời, với cái thanh cao, thanh thản, tao nhã của một tâm hồn lớn.

Note: Ôi chao, đúng là thi sĩ viết về thi sĩ. Quá đỗi thần sầu.
Thơ Milosz quả đúng là thứ thơ trí tuệ, 1 ngọn đỉnh trời!
Có mấy cõi mà Gấu nghĩ là mình không thể nhập vô được, tới chỉ, là thơ Brodsky, Milosz, và những bài viết của Simone Weil, do thiếu cái linh tính, mẫn cảm, trực giác - chẳng biết gọi là gì -.... mà chỉ những tín hữu Ky Tô mới có được.
Murakami, khi mặc khải ra mình sẽ là nhà văn, trong khi coi 1 trận dã cầu Mẽo, sau đó, vẫn ngạc nhiên, dân Nhật không tin vào mặc khải, tại sao lại lòi ra mình.
Gấu không có cái may này, khi đụng vô Ky Tô giáo!

ARS POETICA?

BERKELEY, 1968
I have always aspired to a more spacious form
that would be free from the claims of poetry or prose
and would let us understand each other without exposing
the author or reader to sublime agonies.

In the very essence of poetry there is something indecent:
a thing is brought forth which we didn't know we had in us,
so we blink our eyes, as if a tiger had sprung out
and stood in the light, lashing his tail.

That's why poetry is rightly said to be dictated by a daimonion,
though it's an exaggeration to maintain that he must be an angel.
It's hard to guess where that pride of poets comes from,
when so often they're put to shame by the disclosure of their frailty.

What reasonable man would like to be a city of demons,
who behave as if they were at home, speak in many tongues,
and who, not satisfied with stealing his lips or hand,
work at changing his destiny for their convenience?

It's true that what is morbid is highly valued today,
and so you may think that I am only joking
or that I've devised just one more means
of praising Art with the help of irony.

There was a time when only wise books were read,
helping us to bear our pain and misery.
This, after all, is not quite the same
as leafing through a thousand works fresh from psychiatric clinics.

And yet the world is different from what it seems to be
and we are other than how we see ourselves in our ravings.
People therefore preserve silent integrity,
thus earning the respect of their relatives and neighbors.

The purpose of poetry is to remind us
how difficult it is to remain just one person,
for our house is open, there are no keys in the doors,
and invisible guests come in and out at will.

What I'm saying here is not, I agree, poetry,
as poems should be written rarely and reluctantly,
under unbearable duress and only with the hope
that good spirits, not evil ones, choose us for their instrument.

Translated by Czeslaw Milosz and Lillian Vallee
ARS POETICA?

Tôi luôn thèm, một thể dạng, rộng rãi hơn
Nó sẽ thấy nó thoải mái hơn, nếu nói về những đòi hỏi của thơ ca hay văn xuôi
Và cho phép chúng ra hiểu nhau hơn,
Không cần phải bày ra những nỗi thống khổ, tới chỉ, giữa,
Một bên là tác giả, một bên là độc giả, thì cứ phán đại như vậy.

Trong cái rất ư là yếu tính của thơ, có điều gì khiếm nhã, tục tĩu, dơ dơ…
Một điều gì mà Mít thường nói, anh đưa cái của anh ra, chị bèn đáp ứng bằng cái của chị
Không phải theo nghĩa nhơ bẩn,
Một điều gì mà chúng ta không biết có, ở trong chúng ta
Thế là chúng ta bèn nháy mắt
Như thể một con hổ phóng ra - chị chìa của nọ - và đứng sững trong ánh sáng, quất cái đuôi 1 phát 

Chính vì thế mà thơ, đúng là được phán, bởi quỉ thần
Nói thần thơ, bà chúa thơ, cái con mẹ gì đó, là nói quá.
Thật khó mà hãnh diện tao là thi sĩ, nhớ chưa, nhớ chưa!
Bởi là vì thật khó mà biết cái hãnh diện đó tới từ đâu
Trong khi thường ra là, làm thơ chỉ là để tán gái,
Nghĩa là, nó đẩy con người làm thơ phải bày ra cái sự nhục nhã, tủi hổ, cái bạc nhược là thi sỡi, của họ.

Một người biết phải trái, sẽ thích gì, khi ở trong 1 thành phố của quỉ
Chúng sử sự, như thể đây là nhà của chúng,
Nói bằng nhiều thứ tiếng
Và, không hài lòng với sự chôm chĩa môi và tay của mình,
Anh ta bèn hành động, bằng cách thay đổi số mệnh của mình, vì sự tiện lợi của chúng?

Đúng là như thế, cái khốn kiếp, ghê tởm thì được coi là có giá, số 1, vào những ngày này
Và như vậy, bạn có thể nghĩ, tôi chỉ nói dỡn chơi
Hay tôi lại phịa ra, thêm 1 một phương thức mới
Để vinh danh Nghệ Thuật, với sự trợ giúp của hài hước.

Có 1 thời, chỉ những cuốn sách dạy khôn ngoan, minh triết, được viết ra
Chúng giúp chúng ta chịu được đau khổ và bần cùng
Điều này, nói cho cùng, thì không hẳn là cũng vậy.
Chẳng khác gì, lật giở hàng ngàn những tác phẩm mới tinh, còn cáu cạnh, từ những bịnh viện tâm thần, nhà thương điên.

Tuy nhiên, thế giới, thì khác so với vẻ bề ngoài của nó
Và chúng ta cũng khác, cái thứ chúng ta nhìn chúng ta, từ những đam mê, đắm đuối của mình.
Con người, do đó, bèn gìn giữ cái trọn vẹn câm lặng
Để được hàng xóm, họ hàng, bà con kính nể.

Mục đích của thơ ca là để nhắc nhở chúng ta
Rằng, thật khó mà cứ trọn 1 cục, trọn 1 người, toàn vẹn, không sứt mẻ.
Bởi là vì nhà của chúng ta thì cửa mở toang hoác, lại không có gắn khoá cửa,
Và những vị khách vô hình thì cứ vô tư, thoải mái ra vô.

Điều mà tôi phán ở đây, không phải là thơ ca, OK.
Khi mà những bài thơ nên được viết, một cách hiếm hoi, ngần ngại
Với 1 sự cứng rắn không làm sao chịu đựng nổi, và chỉ với hy vọng
Rằng những tinh anh tốt, cái tâm linh thiện, không phải cái quỉ ma, hay "cái ác bắc kít", chọn chúng ta, như là đồ nghề của chúng.

Note: Ui chao, bài thơ quá thần sầu, thảo nào AZ đưa vô tuyển tập của ông.
Bản dịch, dởm, nhưng chí ít, nó cũng lộ ra được, phần nào, "Ars Poetica" là gì, vào lúc này, với lũ Mít!
Image may contain: text


Quoc Tru Nguyen published a note.
Gấu đọc Sa mạc Tác Ta [Tartar là một giống dân], bản tiếng Pháp, và không hiểu làm sao, bị nó ám ảnh hoài, câu chuyện một anh sĩ quan, ra trường, được phái tới một đồn biên xa lắc, phòng ngừa sự tấn công của dân Tác Ta từ phía sa mạc phía trước. Chờ hoài chờ huỷ, tới khi già khụ, ốm yếu, hom hem, sắp đi, thì nghe tin cuộc tấn công sắp sửa xẩy ra....
Đúng cái air Kafka!

Đợi Bắc Kít giải phóng Miền Nam

CONSTANTINE CAVAFY
1863-1933

...Continue Reading
Image may contain: 1 person, text


Tribute to Dinh Cuong


Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.
Ai cho phép mi là thi sĩ?

Đà Lạt


8

Volkov: Viết về Stravinsky, Auden cho rằng chính cái gọi là tiến hoá tách biệt một nghệ sĩ bậc thầy với thứ cà mèng. Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng, bạn không thể nào nhận ra, bài nào viết trước, bài nào sau. Nói như vậy có nghĩa, khi tới một độ chín nào đó, nhà thơ cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế dậm chân tại chỗ. Còn thứ nghệ sĩ lớn lao đếch bao giờ hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo lên đỉnh trời cao hơn...
Brodsky: Trời hỡi, bạn nói đúng quá đi mất. Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ trong tiến trình sáng tạo. Khi một nghệ sĩ đạt đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn phong, thay cả tên của mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng ba chục thời kỳ khác nhau.

Bạn nhìn ra một vô cùng cách biệt giữa Thơ Ở Đâu Xa và những tập thơ trước đó của TTT.
Điều này dễ hiểu, một trước, một sau, Trại Tù.
Nhưng lạ nhất, là sự vô cùng cách biệt, giữa Một Chủ Nhật Khác và những tác phẩm trước đó.
Có lần, một anh bạn cho biết, anh không thích Một Chủ Nhật Khác bằng Bếp Lửa.
Và anh giải thích: không có đám mình trong đó.
Cái anh chàng Kiệt bỏ chạy, rồi vội vàng bò về, vừa kịp để... chết, làm sao lại là một trong đám mình được?
*

Ở đầu truyện có cảnh Kiệt, đang học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày phép cuối tuần, thay vì như mọi người, về hú hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô, ra bến xe đi một lèo xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm khách sạn ngủ, đêm thèm chết quá, bèn cứa mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi về nhà, bị vợ tra vấn quá, phịa chuyện gặp người tình cũ, cả hai đồng ý cùng chết, nhằm trốn tránh ba cuộc: Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối chuyện, cảnh này mới thực sự xẩy ra, như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi: Khi tác giả viết đoạn đầu, liệu ông đã nhìn ra đoạn sau?

Lạ, cảnh trên Hai Lúa cũng đã từng trải qua. Ấy là cái chuyện một ngày cuối tuần về Mỹ Tho, Cai Lậy, để kiếm một cô gái, chỉ mới nghe được tên.
Những ngày đó, Sài Gòn chưa hế biết đến chiến tranh.

Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự Truyện

Joseph Brodsky lại đưa ra một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu vắng cái gọi là "cảm xúc nói ra lời hung bạo" (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent expression of emotion), trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng, như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy.
"Không có biểu hiện hung bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên cõi đó."
-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn nhắm tới một thứ thơ "trung tính", vượt lên trên mọi cảm xúc?"
Nhà thơ trả lời, đây là vấn đề thời gian. "Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời gian. Bạn chắc còn nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời gian được sắp xếp lại?… "Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những giọng điệu thay đổi. Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"
Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó.
Mát

Điều này giải thích những dòng thơ "thiền" trong Thơ Ở Đâu Xa với những dòng thơ trước đó của Thanh Tâm Tuyền

Note: Loạt bài này, viết song song, hay, bên lề, Một Chủ Nhật Khác của TTT, cũng như loạt bài về Hà Nội, viết "theo" - nối đuôi - Bếp Lửa.
Một vị bằng hữu FB cho rằng GCC bị ám ảnh bởi MCNK.
Không hẳn như vậy.
GCC không làm sao giải thích được cái vụ Kiệt, 1 tên tinh anh Miền Nam, có dịp chạy thoát cuộc chiến, lại vội vàng bò về, để kịp chết vì nó.

Hành động "ngoạn mục" đó, bằng cách nào, TTT phịa ra được?
Bản thân Gấu, có không ít cơ hội để chuồn, nhưng không làm sao làm được việc này. Có nhiều lý do, không thể bỏ mẹ và em, thí dụ, nhưng rõ ràng là, như về già nhớ lại, Gấu chưa từng có ý nghĩ bỏ nước ra đi, mà bẩn hơn nữa, bỏ chạy cuộc chiến.
Tính đi, 1 phát, là thằng trời già bèn phá ngang rồi!
Mi phải ở lại, để sống trọn nó, sau đó, nếu mi qua được, ta có tí việc/món quà… dành cho mi:
Bản hoà tấu khúc Diệt Cái Ác Bắc Kít, như Luật Vạn Vật Hấp Dẫn của Newton!
Ui chao, vừa thôi cha nội!
Koestler đã coi Luật Vạn Vật Hấp Dẫn của Newton, là bản Đại Hoà Tấu, theo nghĩa, trước ông, những hiện tượng thuỷ triều, trái táo rớt vô đầu… là những hiện tượng riêng lẻ.. Phải đến khi Newton xuất hiện, thì chúng ta mới vỡ ra được.

Cái gì sẽ làm chúng ta vỡ ra được, trước hiện tượng, Kiệt bò về để chết?

Image may contain: text






*

Love Poem

Feather duster.
Birdcage made of whispers.
Tail of a black cat.

I'm a child running
With open scissors.
My eyes are bandaged.

You are a heart pounding
In a dark forest.
The shriek from the Ferris wheel.

That's it, bruja
With arms akimbo
Stamping your foot.

Night at the fair.
Woodwind band.
Two blind pickpockets in the crowd.

Charles Simic: Jackstraws

Thơ Tình
Chổi lông gà quét bụi
Lồng chim làm bằng những lời thì thầm
Đuôi mèo đen

Gấu là đứa trẻ chạy
Với cây kéo mở
Mắt dán băng

Em của Gấu ư?
Trái tim nện thình thịch
Trong khu rừng âm u
Tiếng rít từ bánh xe Ferris

Vậy đó, bruja
Tay chống háng
Dậm chân

Đêm hội
Băng Woodwind
Hai tên móc túi mù
Trong đám đông.


My shadow and your shadow on the wall
Caught with arms raised
In display of exaggerated alarm,
Now that even a whisper, even a breath
Will upset the remaining straws
Still standing on the table

In the circle of yellow lamplight,
These few roof-beams and columns
Of what could be a Mogul Emperor's palace.
The Prince chews his long nails,
The Princess lowers her green eyelids.
They both smoke too much,
Never go to bed before daybreak.

Charles Simic: Jackstraws

Rút cọng rơm

Bóng của GNV và của BHD thì ở trên tường
Xoắn vào nhau, bốn cánh tay dâng cao
Trong cái thế báo động hơi bị thái quá,
Và bây giờ, chỉ cần một lời thì thầm,
Có khi chỉ một hơi thở thật nhẹ
Cũng đủ làm bực mình cả đám còn lại
Vẫn đứng trên mặt bàn .

Trong cái vòng tròn ánh sáng đèn màu vàng
Vài cây xà, cây cột
Của cái có thể là Cung Ðiện của Hoàng Ðế Mogul.
GNV cắn móng tay dài thòng,
BHD rủ cặp mí mắt xanh.
Cả hai đều hút thuốc lá nhiều quá,
Chẳng bao giờ chịu đi ngủ trước khi đêm qua.
Beauty Parlor
School of the deaf with a playground
In a tangle of dead weeds and trash
On a street of torched cars and vans,
Here then is the white and red banner,
Grime-streaked and wind-torn,
Still inviting us to the GRAND OPENING.

The one with a flamethrower hairdo
Who set all our hearts on fire,
Where is she today? I inquired
Of a ragged little tree in front,
While its branches took swipes at my head
As if to knock some sense into me.

Charles Simic: Jackstraws

Tiệm Làm Đẹp
Trường của những người điếc với một cái sân chơi
Hầm bà làng những cỏ khô và rác rến
Trên một con phố với những xe như những ngọn đuốc
Chỗ này, chỗ kia, là những băng vải, trắng và đỏ
Bụi bặm, rách bươm vì gió
Nhưng vưỡn mời chúng ta vào Ngày Hội Lớn

Cái em kỳ nữ gì gì đó
Với cái băng đô đỏ rực
Làm tim chúng ta cũng rực đỏ theo màu cờ
Em đó bi giờ đâu nhỉ? Gấu bèn hỏi
Cái cây nhỏ, tả tơi, trước mặt,
Cành của nó lòa xòa xoa đầu Gấu
Như muốn gõ bật ra một ý nghĩa nào đó.


Viết mỗi ngày

http://www.nybooks.com/issues/2017/11/23/

http://www.nybooks.com/articles/2017/11/23/czeslaw-milosz-poems-abyss/

Charles Simic đọc cuốn tiểu sử của Milosz: Thơ từ Hố Thẳm.
Trên Tin Văn đã giới thiệu bài điểm cuốn này, của tờ Điểm Sách Hồng Mao, theo GCC, rất OK. Từ từ làm thịt cả hai.

One of the finest poems by Czesław Miłosz is the four-part sequence A Treatise on Poetry, a kind of elegy for pre-war Poland, which he wrote in France in the mid-1950s. Its first part, “Beautiful Times,” describes the glamorous society life in Kraków before World War I, and concludes with these lines: “The laughter in cafes/Echoes about a hero’s grave”; its second part, “The Capital,” ends with this little scene in Warsaw the night before the German invasion on September 1, 1939:

On Tamka Street a girl’s heels click.
She calls in a half whisper. They go together
To an empty lot overgrown with weeds.
A watchman on duty, hidden in the shadows,
Hears their soft voices in the bedding dark.
I do not know how to bear my pity….
Later I would ask myself more than once
What became of them in the coming years and ages. 

Miłosz, the Polish poet, writer, diplomat, exile, and Nobel laureate, was a figure whose own life seemed to embody the turmoil of the twentieth century. He lived through both world wars and the Russian Revolution, experienced fascism, communism, and democracy, lived in Eastern and Western Europe and, later, the United States, and he returned again and again to these events in his writing. “To me Miłosz is one of those authors whose personal life dictates his work…. Except for his poems, all of his writing is tied to his…personal history or to the history of his times,” Witold Gombrowicz, the other great Polish writer in exile, said of him. I agree, but would not exclude Miłosz’s poems and don’t believe he would either, since he regarded his highest achievement as a poet to be his ability to fuse history and his personal experience.
When asked about his home, Miłosz said that he came from another planet, another time, another epoch. He was born in 1911 in Lithuania—then part of the Russian Empire—in one of those regions of Eastern Europe of which even Western Europeans have only a vague idea, where millions of people were killed and displaced by both world wars and where the ones who survived almost without exception had an astonishing life story to tell

A SONG ON THE END
OF THE WORLD

On the day the world ends
A bee circles a clover,
A fisherman mends a glimmering
net.
Happy porpoises jump in the sea,
By the rainspout young sparrows
are playing .
And the snake is gold-skinned as
it should always be. 

On the day the world ends
Women walk through the fields
under their umbrellas,
A drunkard grows sleepy at the
edge of a lawn,
Vegetable peddlers shout in the
street
And a yellow-sailed boat comes
nearer the island,
The voice of a violin lasts in the
air
And leads into a starry night. 

And those who expected lightning
and thunder
Are disappointed.
And those who expected signs and
archangels' trumps
Do not believe it is happening
now.
As long as the sun and the moon
are above,
As long as the bumblebee visits a
rose,
As long as rosy infants are born
No one believes it is happening
now. 

Only a white-haired old man, who
would be a prophet
Yet is not a prophet, for he's much
too busy,
Repeats while he binds his
tomatoes:
There will be no other end of the
world,
There will be no other end of the
world.

Simic cho biết, bài thơ trên nằm trong 1 chùm thơ "Tiếng nói của Người Nghèo", viết năm 1944, khi thơ Milosz chưa được dịch qua tiếng Anh, và nó làm ông sững sờ, vì cũng có cùng kinh nghiệm như Milosz, khi trải qua chiến tranh trong 1 thành phố bị chiếm đóng, và ăn bom, ở Âu Châu.
Simic coi đây là những bài thơ "ngây thơ", naive, của Milosz, trước khi vào trận, với cuộc cãi vã với hiện đại tính, his quarrel with modernism, và ông nhớ tới câu phán của Milosz: 

Thực tại đưa văn chương lên bàn mổ, sớm hay muộn: Reality puts literature to the test sooner or later.

Tin Văn sẽ đi bài này, trong khi chờ Noel.

Và nghe Kenny G

Somebody gave me the love
That somebody was you

https://www.youtube.com/watch?v=uiWAVmqI-mQ

"That Somebody Was You"

There's been so many times
My heart has been broken into
I kept them waiting in line
Coz nobody's heart was true
For every time I gave into love
I would always end up blue
And just when I was about to give up
I found myself an angel call to you

I've been waiting a lifetime for
Somebody to love me like you do
(oh yeah,oh yeah)
I was thinking that I'd always
Be lonely but God came up
With someone like you
Just to think I had made
Up my mind love was over
Somebody gave me the love
That somebody was you

I told you night after night
I prayed for someone like you
But no one ever was right
They could not compare to you

I wasn't sure if I could endure
If things just stay the same
I didn't know if God had in store
A day without you loving my way

I've been waiting a lifetime for
Somebody to love me like you do
Oh yeah (oh yeah)
I was thinking that I'd always be
Lonely but God came up
With someone like you
Just to think I had made up my mind
Love was over
Somebody gave me the love
That somebody was you

I've been waiting a lifetime for
Somebody to love me like you do
(baby)
Oh yeah (oh yeah)
I was thinking that I'd always be
Lonely but God came up
With someone like you
Just to think I had made up my mind
Love was over
Somebody gave me the love
(somebody gave me the love)
Somebody gave me the love
(opened my heart and gave me love)
Somebody gave me the love
(somebody gave me the love)
That somebody was you....


Ba cung nức nở
(A lament in three voices) 
http://www.nybooks.com/articles/2001/05/31/a-lament-in-three-voices/

Helen Vendler, trên tờ Điểm sách New York, số đề ngày 31 tháng Năm, 2001, qua bài viết "Nức nở bằng ba giọng" (A lament in three voices) cho rằng, đôi khi, một bài thơ mãnh liệt đến nỗi phá bung mọi câu thúc về ngôn ngữ, địa lý, và thời đại. Và theo tác giả, đó là trường hợp bài thơ Hoang Địa (The Waste Land) của Eliot.

Đôi khi: Hoang Địa được viết năm 1922.

Bây giờ, theo Helen Vendler, lại có một bài thơ mãnh liệt chẳng kém. Đó là Luận về thơ (Treatise on Poetry), của Milosz (sinh năm 1911, Nobel văn chương 1980). Nguyên bản tiếng Ba Lan, bản dịch tiếng Anh do nhà thơ Robert Haas và chính tác giả (nhà xb Ecco, 2001). 

Đôi khi: Treatise được viết thời gian 1955-1956. 

***

 Những độc giả tiếng Anh của Milosz đã từng sửng sốt, vào năm 1988, khi một đoạn chừng năm trang của bài thơ trên xuất hiện trong Tuyển tập Thơ của ông. Họ nhận ra rằng, ở một nơi chốn nào đó tại Ba Lan có cất giấu một cõi thơ, được ấp ủ bởi một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Cõi thơ đó nói gì về thời trai trẻ của người coi vườn, tức thời kỳ trước chiến tranh? Về thơ Ba Lan? Về thế giới? Về chiến tranh mà Milosz chứng kiến tận mắt tại Ba Lan bị Đức chiếm đóng? Về nghệ thuật, nói chung? Về những rằng buộc của người nghệ sĩ? Về mối liên hệ giữa chất (matter) chính trị và dạng (form) mỹ học?

 Đó là những đề tài mà Milosz quan tâm, ai đọc thơ ông đều nhận ra, nhưng chưa có một bài thơ nào mãnh liệt ôm lấy tất cả những đề tài trên, và cùng lúc muốn bung ra, như là Treatise on Poetry.

 Khi viết Treatise, Milosz ở giữa cuộc đời (44 tuổi), một quãng đời cực kỳ bất trắc, cực kỳ khốn đốn về tiền bạc, và cảm xúc cực kỳ căng thẳng. Ông đã đốt bỏ mọi cây cầu nối liền với nơi chốn ông ra đời, bốn năm trước đó, khi xin tị nạn tại Pháp trong khi là Bí thư thứ nhất của Toà Đại sứ Ba Lan ở Paris. Đây là một hành động thật thê lương bi đát đối với một nhà thơ, bởi vì như người ta được biết, thi sĩ thật khó mà đoạn tuyệt với ngôn ngữ của mình; và Milosz thật khó mà được cái xã hội di dân quốc gia Ba Lan ở Paris chấp nhận: họ nghi ngờ ông, một cựu viên chức ngoại giao của chế độ Cộng sản Ba Lan. Chính vào thời điểm căng thẳng, rã rời, chán ngán đó, nhà thơ xoáy sâu vào mình, những câu hỏi về chính quá khứ của riêng ông, và của văn chương Ba Lan; và từ đó bật ra Treatise, như là đỉnh cao cõi thơ ông, với tất cả quyền năng của nó.

 Phần đầu, ‘Những Đoạn Đời Tuyệt Vời’ (Beautiful Times) mô tả Krakow và văn hóa Ba Lan ở vào khúc quanh của thế kỷ 19 (tiểu đề của Milosz: ‘Krakow, 1900-1914’). Phần hai, ‘Thủ Đô’ (‘The Capital’) miêu tả Warsaw (1918-1939), và đưa ra một thẩm định – giữa thi sĩ với thi sĩ - về thi ca Ba Lan trong ba hoặc bốn thập niên đầu thế kỷ, đặc biệt là sự thất bại của nó, khi không đếm xỉa tới thực tại tràn ngập phố phường (its failure to account the reality that overwhelmed that city). Phần thứ ba,‘Tinh thần của Lịch sử’ (‘The Spirit of History’), về những năm chiến tranh (1939-1945), là một suy tưởng về bản chất lịch sử, về ngôn ngữ, và về sức mạnh thô sơ… Phần thứ tư, ‘Natura’ (1948-1949), là một bước nhẩy vọt ngỡ ngàng. Chiến tranh kết thúc. Người kể chuyện ngồi trên thuyền, trên mặt hồ ở phía bắc Pennsylvania, đợi một viễn ảnh từ những cuốn sách đọc thời thơ ấu. Đây là một suy tưởng về thiên nhiên, về Âu Châu và Mỹ Châu và về vai trò của nhà thơ trong một thế giới hậu chiến.

 Nhà thơ và đồng thời dịch giả Robert Haas, qua tóm tắt một nửa thế kỷ như trên – Krakow thời hoàng kim; khí hậu văn chương Warsaw những năm trước chiến tranh; Warsaw bị Nazi chiếm đóng trong thời chiến; thiên nhiên trong Thế Giới Mới hậu chiến – cho thấy ‘sự kiện’ (matter), chứ không phải ‘thái độ’ (manner) – khổ hạnh, trăn trở, bức xức – của bài thơ, theo nhận định của tác giả bài viết "Ba cung nức nở". Nhưng chia bài thơ thành những phần như trên đã giúp chúng ta nhận ra "thái độ" của Milosz qua những chọn lựa của ông. Thí dụ như bài thơ sau đây, thời hoàng kim của Krakow [một thành phố ở Ba Lan], vào năm 1900 – những công trình tưởng niệm, những thi sĩ, những nhật báo-treo-trên gậy ở quán cà phê, những người bồi bàn của nó:

"Cabbies were dozing by St. Mary’s tower.
Krakow was tiny as a painted egg
Just taken from a pot of dye on the Easter.
In their black capes poets strolled the streets.
Nobody remembers their names to-day,
And yet their hands were real once,
And their cufflinks gleamed above a table.
An Ober brings the paper on a stick
And coffee, then passes away like them
Without a name."

(Tạm dịch:

"Những ông tài tắc xi ngủ gà bên tháp nhà thờ St. Mary.
Krakow nhỏ xíu như trái trứng mầu
Vừa lấy ra từ lọ nhuộm vào dịp lễ Phục Sinh
Trong chiếc áo choàng đen, những nhà thơ dạo phố.
Bây giờ chẳng ai nhớ tên họ,
Mặc dù đã có lần những bàn tay của họ có thực,
Và những tay áo của họ đã ánh lên trên mặt bàn.
Một Ober mang tờ báo-trên cây gậy tới
Và cà-phê, rồi bỏ đi, giống như họ
Không một cái tên").

Bài thơ cho thấy những nét đặc biệt của Milosz khi mô tả bước đi của lịch sử bằng những hình ảnh của nó: thu nhỏ thành phố vào một trái trứng, nỗi u hoài muốn thời gian đừng trôi, đời vẫn đẹp như thuở nào (‘chẳng ai còn nhớ…’), sức nóng bỏng của chi tiết (‘những tay áo ánh lên’), bước chuyển từ quá khứ vào hiện tại gần như chẳng ai có thể nhận ra (những bàn tay của họ ‘đã’ có lần có thực, những tay áo ‘đã’ ánh lên), một Ober mang tờ báo…/rồi bỏ đi giống như họ/Không một cái tên…. Giữa những chi tiết hình ảnh nhìn/đã nhìn đó, là nỗi bức xức của nhà thơ thời kỳ 1900-1955.

Phần hai: Thủ Đô Warsaw, 1918-1939, cho thấy nhiệm vụ của nhà thơ [Milosz] khi làm công việc ghi nhận theo kiểu biên niên, nỗ lực của văn chương, từ chủ nghĩa quốc gia Ba Lan thế kỷ 19 nhập vào dòng văn chương hiện đại thế giới. Ông nói: Ở Ba Lan, thi sĩ là một phong vũ biểu. Ông chỉ ra từng trường hợp thất bại của những thi sĩ Ba Lan, ngay cả những người mà ông mến mộ, khi họ đụng đầu với thực tại Ba Lan sau Đệ Nhất Thế Chiến:

"Chẳng thể nào có được một Nhị Thập Bát Tú!
Tuy nhiên trong những lời nói của họ có một điều gì nứt rạn
Một nứt rạn của sự hài hòa, như là ở những sư phụ của họ.
Bản đồng ca đã được thi vị hoá
Chẳng khác gì lắm, so với sự hỗn độn của đời thường."

Sau đây là một số nhà thơ đã từng toan tính vượt thực tại thời của họ, và thất bại, được Milosz mô tả bằng những mẩu, đoạn thơ. Nhà thơ đầu tiên, Jan Lechon, tác giả bài thơ viết năm 1918, ‘Herostrates’ (từ tên một kẻ đốt dền thờ Artemis), đã quyết định từ bỏ lịch sử và chọn lựa thiên nhiên để rồi ngậm ngùi trong hoài nhớ (nostalgia); nhà thơ thứ nhì, Antoni Slonimski, dâng hiến đời mình cho chủ nghĩa duy lý thời kỳ Soi Sáng, mà theo nhà thơ, đã được bạo lực làm cho sống động, tràn trề sinh lực. Thứ ba là Julian Tuwim một nhà thơ viễn tưởng khổ vì những viễn tưởng của chính mình, cuối cùng trở thành láp nháp (rơi vào những suy tư ước lệ của chính mình). Cả ba nhà thơ đều bị vướng bẫy và rớt vào những tuyệt lộ cho chính họ tạo ra:

Lechon-Herostrates mắc bẫy quá khứ
Ông muốn nhìn mùa xuân
Chứ không phải Ba Lan.Thế là cứ trầm ngâm cả đời về chiếc áo dài của một Ba Lan Cổ
Và những thói xưa…
Buồn, và cao cả phong nhã,
Slonimski thì sao?
Kẻ nghĩ rằng thời của lẽ phải đã điểm
Tự hiến mình cho tương lai
Xưng tựng nó
Theo kiểu của Well,
Hoặc một kiểu nào khác.
Khi bầu trời của Lý Trí đỏ như máu,
Ông ta đem những năm tháng xanh xao của mình
Cho Aeschylus…
[Tuwim] mơ những trường ca,
Nhưng tư tưởng của ông ta thì ước lệ, cũ mòn
"Vô tư" như âm điệu thơ ông.
[Bằng những thứ đó, ông muốn] choàng lên những viễn mộng của mình,
Những viễn mộng mà ông ngày càng cảm thấy hổ thẹn.

Từ những nhà thơ đặc biệt, Milosz trở qua những nhóm thơ. Nhóm tiền phong bị phế bỏ vì bị coi là thoái hoá, cuối cùng ôm lấy bóng trăng "nghệ thuật vị nghệ thuật", cộng thêm ý thức quốc gia hư ruỗng. Rồi tới nhóm những nhà thơ hò theo Stalin, dửng dưng trước những tội ác của ông trùm đỏ, tiêu biểu là nhà thơ Lucjan Szenwald, ‘một trung uý Hồng quân’, mặc dù niềm tin bị xúc phạm, vẫn viết ra những vần thơ ‘tốt’:

"Thi ca chẳng mắc mớ gì tới đạo đức,
Như Szenwald, một trung uý Hồng quân đã chứng tỏ.
Vào lúc ở những trại tù gulags nơi miền bắc,
Những thân xác của một trăm dân tộc trở thành trắng hếu,
Nhà thơ ngồi viết khúc ca dâng Mẹ Hiền Siberia,
Một trong những bài thơ tuyệt vời bằng ngôn ngữ Ba Lan."

Trong khi làm công việc của một người biên niên, ghi lại tinh thần, ở trong nó, là một chủ nghĩa hiện đại bị ức chế cố tìm cách thể hiện, và rồi nhận ra, chỉ là manh mún, hoặc chẳng là gì - Milosz cho thấy sự bối rối của chính mình, như một người đàn ông trẻ tuổi, trong khi tìm kiếm những thể loại mỹ học có tính thuyết phục, chỉ thấy những kiểu mẫu bất toàn không làm sao thỏa mãn những ham muốn của mình. Rồi thì chiến tranh bùng nổ tại Âu Châu, cuộc đời, và cùng với nó, nghệ thuật của ông, vĩnh viễn thay đổi.

 (còn tiếp)

Chú thích: The Waste Land (Hoang Địa): Tập thơ của T(homas) S(tearns) Eliot (1888-1965) ra đời vào năm 1922, nói về cảm thức bàng hoàng của trí thức phương Tây tỉnh mộng sau Đại Chiến 1914-18. Ảnh hưởng khắp thế giới, nhất là những vùng thuộc địa cũ của Âu Châu, vì giấc mộng tiến bộ khoa học và ngày mai tươi sáng bị ngay chính giới ưu tú của "mẫu quốc" chối bỏ. Người ta có thể lấy năm tác phẩm này được dịch ra các ngôn ngữ khác, để đánh dấu sự bước vào đương đại (tức hậu hiện đại) của các dòng văn học địa phương - chẳng khác nào lấy dịch bản của tác phẩm Tractatus Logico-Philosophicus (1921), Luận Lý Triết Học Luận, của Ludwig Wittgenstein (1889-1951), triết gia người Áo, để đánh dấu dòng triết học mới của thế kỷ thoát khỏi những lộng ngôn duy tâm và siêu hình vô căn cứ.

 Bách Khoa từ điển Encarta coi Hoang Địa là một bản phân tích tan hoang (devastating analysis) cái xã hội thời Eliot.


http://www.nybooks.com/articles/2017/11/23/john-le-carre-back-from-cold/

https://www.newyorker.com/magazine/2017/11/20/joseph-conrads-journey

Joseph Conrad’s Journey

Was the novelist right to think everyone was getting him wrong?

Conrad mined his life for material, but chafed at being called a “writer of the sea":
Chàng rất bực khi bị coi là "nhà văn của biển cả"

Nhưng Vila-Matas đã nhận ra điều này, "đi rất xa nhưng vẫn lần quần đâu đây":
GCC chôm liền ý này, và áp dụng liền vào NHT: Một Kurtz của Trái Tim Của Bóng Đen.

Nguyễn Huy Thiệp vs Kurtz

Liệu có thể coi NHT, một hình tượng nổi tiếng, một Kurtz của Conrad, trong Trái Tim của Bóng Đen?
Bài viết này, trên số báo đặc biệt về sự độc ác, Le Magazine Littéraire, Tháng Bẩy & Tám 2009, làm nhớ tới một lời tự thú của một nhà văn ra đi từ Miền Bắc: Tôi lụy NHT!
Câu nói đó, phải đọc Trái Tim của Bóng Đen thì mới ngộ ra được: Tôi luỵ Cái Ác Bắc Kít, mà nhân vật của NHT làm bật ra.
Liệu có thể gọi những truyện ngắn của NHT, như là bài tập về cái ác, l'exercice du mal?
Le «cœur des ténèbres», Heart of Darkness, n'est donc pas seulement le fin fond du continent africain. C'est en Kurtz lui-même qu'il y a des ténèbres. L'expression anglaise est d'ailleurs ambiguë: on peut y comprendre aussi « cœur ténébreux », « cœur de ténèbres », comme on dit« un cœur de pierre ». Kurtz prétendait apporter la lumière de la civilisation dans des contrées obscures, et c'est lui qui se révèle profondément noir et sauvage.
Kurtz a aboli la différence entre haut et bas, noble et vil, bien et mal. Marlow, en face de lui, en ressent l'effet: il ne parvient pas à formuler un jugement à son sujet. Seul Kurtz peut prononcer un verdict sur sa propre existence. Il semble en être ainsi dans ses ultimes paroles: «L'horreur! l'horreur! »
Kurtz a percé le mystère de la vie, il a soulevé le voile, et il a vu l'horreur. Marlow, sans aller aussi loin, entrevoit ce qu'il expérimente: l'état inouï que l'on atteint dans l'effacement des limites, c'est dire dans l'exercice du mal, apparaît à ses yeux comme l'objet d'une connaissance nouvelle, qui contribue à la méditation bouddhique que son visage exprime. Il est difficile, par conséquent, d'appliquer aux rapports de Marlow et de Kurtz le schème narratif qui oppose un « bon» à un « méchant ».
Trái Tim của Bóng Đen, sau cùng là... Hà Nội, qua NHT! 

Gấu đã ngộ ra điều này, khi đọc Conrad, nhưng bài viết chỉ ra một điều tuyệt vời:
Phải là Conrad, một anh thuỷ thủ, người của biển cả, mới nhìn ra một cõi thối rữa, là đất liền, là nh
ững đại lục, nhất là Cựu Đại Lục!

« Les affaires terrestres sont un pot-pourri d'événements, de désirs contradictoires, de motifs inavouables, d'idées fausses, et de croyances illusoires. La mer représente un domaine réglé par des devoirs simples, une hiérarchie de valeurs clairement définies, la camaraderie et le goût du travail bien fait.” »
*
«L'horreur! l'horreur! »
Ghê rợn! Ghê rợn!
Ta là hiện thân của Cái Ác Bắc Kít!
Ta là... Kít!
*

Kurtz trong Trái Tim của Bóng Đen là một hình tượng về cái ác trong văn chương. Anh thì quá nổi tiếng, nhưng cũng gây phiền. Nguyên do của nỗi phiền muộn này rõ ràng là sự lấp lửng của hai cách nhìn, qua đó, anh lần lượt xuất hiện, khi thì là hiện thân của cái ác tuyệt đối, một vết chàm biểu tượng, từ đó bật ra cái tít cuốn truyện, khi thì là một cá nhân con người vượt lên trên cả tốt lẫn xấu, thiện lẫn ác.
Nhân viên của một công ty thương mại thuộc địa ở mãi nơi thượng nguồn con sông Congo, anh thu thập ngà voi cho công ty giữa đám thổ dân và tỏ ra hết sức cần mẫn, rất ư là hiệu quả.
Người kể chuyện của cuốn truyện phải lái một con thuyền đi tìm gặp Kurtz này, vì đã lâu, biệt tin từ anh ta, và nghe nói, anh ta đang bịnh nặng.
Hai tính chất ở ngay trung tâm nghiên cứu chữa trị lâm sàng, dành cho những vấn đề đạo đức trong tất cả những tác phẩm của Conrad, ùa ra cùng với sự xuất hiện của Kurtz, cùng với chúng là những phẩm chất bẩm sinh, do là dân Bắc Kít thì là có, qua những biểu hiện thật là quái đản của anh ta.
Thứ nhất: thiếu vắng kiềm chế. Kurtz có những giấc mộng về vinh quang, về Hà Nội ta ngẩng đầu hiên ngang ba ngàn năm lịch sử, và về sở hữu toàn thể, cái gì của ai là của ta. Những giấc mộng như thế thật dễ dàng biến thành thực tại một khi một mình giữa rừng thẳm.
Thứ nhì: một sự trống rỗng ở phía bên trong: Kurtz thì rỗng, rỗng một cách thê thảm [hollow at the core, ui chao, cụm từ này sử dụng để chỉ cái sự ngu si dốt nát nhưng coi trời bằng vung của những đấng Yankee mũi tẹt thì thật tuyệt!].
Rỗng đến nỗi, cái thiên nhiên man rợ vây bủa chung quanh anh ta bèn chiếm lấy anh ta một cách dễ dàng, đúng vào lúc anh ta tưởng là làm chủ được nó, tất cả thuộc về anh ta.
Nói tóm gọn anh ta không thể tự ngăn cấm mình, giới hạn mình, và cũng không thể tự chống đỡ, bảo vệ mình.
 

Sutpen vs Kurtz:
The Decomposing Archetypes of Thomas Sutpen and Mr. Kurtz in the Motley Flag of Modernism

Sartre, khen nắc nỏm Âm thanh và Cuồng nộ, nhưng chê hết lời Sartoris, coi đây là thứ nghệ thuật đánh lừa con mắt.
Lạ, là Borges lại coi đây, thứ nghệ thuật mà con mắt của Faulkner, là thứ thượng thừa, khi viện dẫn một câu của Boileau, để minh chứng: ”Cái thực đôi khi có thể chẳng có vẻ thực: Le vrai peut quelquefois n’être pas vraisemblable.”
Trong Borges a Reader, có ba bài điểm, review, thật ngắn, của Borges, về ba tác phẩm của Faulkner: The Unvanquished, Absalom, Ansalom!, The Wild Palms.

Three Reviews

Gấu nhà văn

Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen]

Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.

Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người, đất người thành bãi đánh hàng:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long

 *

Cầu Việt Trì, trên sông Hồng, nơi ông cụ Gấu, vào năm 1946, được một đấng học trò làm thịt, xong, thẩy xuống sông, kèm cục đá tổ bố, để cho khỏi nổi lên.

Kurtz, như thế, họ hàng với Colonel Sutpen, trong Absalom, Absalom!
Cũng dòng Yankee mũi tẹt, gốc gác Hải Dương [cùng quê PXA], hay Sơn Tây [cùng quê Tướng Râu Kẽm]?
Gấu bảnh hơn cả PXA & Râu Kẽm: Sinh Hải Dương, nhưng gốc dân Sơn Tây!
Gấu về Bắc lần đầu, năm 2000, là để tìm hỏi coi ông bố mình mất ngày nào, và đến chỗ ông mất, trên, ngày xưa chỉ là một bãi sông, thắp nén hương cho bố, rồi đi.
Mấy ông bạn văn VC nói, đi làm cái quái gì nữa, anh mua cái nhà, khu Thanh Xuân chẳng hạn, vừa gần Tướng Về Hưu vừa gần tụi này!
Đi rất xa, chỉ để ở lại đây!
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm!

http://www.tanvien.net/Dich_1/mystique_horreur.html

NHT cũng một thứ Kurtz, nhưng chẳng bao giờ rời xứ Bắc Kít!
Bảnh nhất trong những Trái Tim của Bóng Đen!
Ông Trùm.
Chẳng cần đi rất xa, và cứ ở mãi đây!
*

Ông hẳn là... Mr Thiệp?


https://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/phi-cong-nguyen-thanh-trung-gap-nan-hy-sinh-khi-tham-gia-huan-luyen-bay-tai-vuong-quoc-anh-n20171119211826298.htm

Xừ này, ném bom Dinh Độc Lập ngày nào.

Nhờ lúy Gấu có 1 kỷ niệm rất tuyệt vời về Dinh Gia Long, thời gian Diệm di cư qua đó, chờ sửa chữa Dinh Độc Lập, khi là chuyên viên VTD của Bưu Điện, được phái tới Dinh Gia Long, sửa máy phát tín SSB, sử dụng để liên lạc với Cậu Cẩn!
Liệu cái chết tai nạn của NTT, là "quả", của cái "nhân" ngày nào?
À, không nghe nói gì về đao phủ Mậu Thân HPNT cả?
Hay lẳng lặng mà đi?

*

Saigon Feb 1967 - Chợ hoa Tết Đinh Mùi - Tòa nhà góc Nguyễn Huệ-Ngô Đức Kế - Vélo Solex















Trang NQT

art2all.net

Istanbul


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây