Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975 công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư
năm
1994
Canada
I
1
|
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1
Last Page
QUATRAIN
Others died, but that happened
in the past,
Which is the season (no one doesn't know this)
most
propitious for death.
Is it possible that I, a subject of Yaqub Almansur,
Must die the way the roses and Aristotle had
to die?
From the Diván de Almotásim
el Magrebí (12th
century)
[Alan Dugan]
J.L. Borges: Selected
Poems 1923-1967
QUATRAIN
D'autres moururent, mais cela
arriva dans le passé,
Qui est la saison (personne ne l’ignore) la
plus propice à la mort.
Est-il possible que moi, sujet de Yacoub El-Mansour,
Je meure comme durent mourir les roses et Aristote
?
Dans le Divan d'Almotasim El-Maghrebi
(XII siècle),
J.L.
Borges: Oeuvre poétique
1925-1965 [éd Gallimard]
Tứ Tuyệt
Những người khác chết,
nhưng đó là chuyện xẩy ra trong quá khứ.
Đó là mùa chết: Cuộc chiến
Mít
[Chẳng ai biết/nhớ cả, thế mới tếu!]
Liệu chăng, Gấu… đếch
chết?
Và nếu có chết
Thì cũng theo kiểu của những bông
hồng
Tàn hôn lên môi
Vùi quên trong tay
Hay như Aristotle, đã từng phải chết?
Boundaries
There is a line by Verlaine that
I will not remember again.
There is a street nearby that is off limits to my feet.
There is a mirror that has seen me for the last time.
There is a door I have closed until the end of the world.
Among the books in my library (I'm looking at them now)
are
some I will never open.
This summer I will be fifty years old.
Death is using me up, relentlessly.
-from Inscriptions (Montevideo, 1923) by Julio
Platero Haedo
-K.K.
LIMITES
II y a une ligne de Verlaine don’t
je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une rue toute proche qui est défendue à
mes pas,
II y a un miroir qui m'a vu pour la dernière fois,
II y a une porte que j'ai fermée jusqu'à la fin
du monde.
Parmi les livres de ma bibliothèque (je les ai devant
mes yeux)
II doit y en avoir un que je n'ouvrirai jamais plus.
Cet éte j'aurai cinquante ans ;
La mort me rogne, incessante
JULIO PLATERO HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo, 1923).
Giới hạn
Có 1 dòng thơ của TTT,
Gấu sẽ không nhớ lại nữa
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được
đặt chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước
mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm
ELEGY
Three very ancient faces stay with me:
one is the Ocean, which would talk with Claudius,
another the North, with its unfeeling temper,
savage both at sunrise and at sunset;
the third is Death, that other name we give
to passing time, which wears us all away.
The secular burden of those yesterdays
from history which happened or was dreamed,
oppresses me as personally as guilt.
I think of the proud ship, carrying back
to sea the body of Scyld Sceaving,
who ruled in Denmark underneath the sky;
I think of the great wolf, whose reins were serpents,
who lent the burning boat the purity
and whiteness of the beautiful dead god;
I think of pirates too, whose human flesh
is scattered through the slime beneath the weight
of waters which were ground for their adventures;
I think of mausoleums which the sailors
saw in the course of Northern odysseys.
I think of my own death, my perfect death,
without a funeral urn, without a tear.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of the Night
Tị Nạn: Đừng đẩy họ tới tình
trạng vô phương chống đỡ (1)
Trở thành 1 người tị nạn ở Âu Châu
là trở thành 1 kẻ phải vượt được không biết
bao nhiêu là tình trạng thù nghịch, trắc
trở, nghịch cảnh.
Trước hết, sống sót những hiểm nguy ở nơi
"quê hương mỗi người chỉ có một, nếu đéo có,
là đéo sống nổi thành 1 con người", hà,
hà!
Rồi sống sót cuộc hành trình,
tới được nơi tới. Mới tuần lễ vừa rồi, Unicef cảnh báo,
đàn bà và trẻ em bị hãm hiếp, đánh
đập và bỏ đói tại những trung tâm giam giữ Libyan.
Năm rồi, hơn 5 ngàn người chết khi toan tính
vượt vùng đất Địa Trung Hải, và những xứ sở vùng
Balkan đóng cửa biên giới, đóng lại hy vọng
của những con người mong tới được Âu Châu qua ngõ
này.
Được đoái hoài tới, nhưng được coi
là 1 người tị nạn thì vẫn còn rất căng.
Vì bạn còn phải “thương lượng, đàm
phán” với cả 1 hệ thống rắc rối mà thường thường
là, cái hệ thống này, vờ bạn.
Bởi vậy, qui chế tị nạn là 1 dấu ấn của, không
chỉ khổ đau, mà còn của khả năng, "có cứng
thì mới đứng được ở nơi đầu gió"!
(1)
https://en.wikipedia.org/wiki/Set_up_to_fail
Being set up to fail is
a phrase denoting a no-win situation...
Tôi
ra đi được là một may mắn. Tôi đã ra đi quá
muộn, bởi vì tôi đã bị bầm dập quá lâu.
Điều đó mới là vấn đề, chứ không phải chuyện tôi
ra đi. Ơn trời là còn có một nước khác,
nơi người ta có thể đến và tôi có thể hòa
được cùng ngôn ngữ. May mắn này không phải
người ra đi nào cũng có được.
Muller
Ui chao, đúng là nói giùm Gấu!
Tuyệt thật.
Khi
Gấu mới tới trại tị nạn, gửi thư cầu cứu ma đàm TD, nhờ bà,
và nhiều người khác nữa sau đó, lên tiếng [viết thư cho ông chủ tịch
PEN MIT HAI NGOAI...], Gấu
"đi" được.
Cái thư đầu tiên Gấu nhận từ bà, là,
sao đi muộn thế, hết mùa vượt biển từ lâu rồi.
Nhớ, khi đó, đọc, nản vô cùng, không
lẽ lại quay về? NQT
*
Thời
gian là chiến thắng vượt quá sự thất trận, và chiến
thắng này là một điều mà những kẻ thắng trận không
thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới,
một bãi biển lánh nạn ở bờ bên kia của sự bại trận,
những cái tên trên những nấm mồ chỉ đường, được nâng
niu, gìn giữ không phải bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị
nữ thần chiến tranh với cành cọ vàng và lưỡi gươm,
nhưng mà là bởi một con hầu, một đầy tớ gái, của chính
sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm
ngâm, bất động.
Con người thực ra đâu cần sự thành đạt, cho
lắm. Điều này lại càng đúng, ít ra là,
đối với cả một quốc gia, một dân tộc. Về cái chuyện này,
thất bại có khi lại là một điều tốt, cho nó.
William
Faulkner đọc Con Đường Trở Lại,
The Road Back, của Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn văn, Công
Thư [Public Letters], nhà xb The Modern Library, NY,
ấn bản 2004.
Quãng
đời của Gấu, thời gian sau này, khi đã ra được ngoài
này, quả đúng như sư phụ Faulkner phán ở trên,
một chiến thắng vượt quá sự thất trận, và chiến thắng
này VC không thể tiên đoán được!
Sau hai lần về, thoát nhục, và thoát
chết, Gấu càng ngộ ra điều này.
Thoát nhục, thoát chết, là chuyện có
thiệt.
Thoát nhục, thì như Gấu đã lèm
bèm nhiều lần, nhờ một ông bạn nhà văn VC báo
động.
Thoát chết, như sau này Gấu được biết, qua
lời nhắn của một người bà con, qua một người bà con:
Nói với nó, đừng bao giờ có ý nghĩ trở về
nữa. Hai lần về mà thoát chết, là may lắm rồi. Không
có lần thứ ba đâu.
Đừng có ngu mà len lén về!
Ngủ đi, thung lũng
Ngủ đi, thung lũng
mau lấy mây mù xanh che khung trời
che con mắt bông huệ tây xanh xao
Ngủ đi, thung
lũngmau lấy nhịp chân
mưa đuổi theo ngọn gió
đuổi theo tiếng hót thấp thỏm của chim cu
Ngủ đi, thung lũng
chúng tôi nấp ở đây
cứ như nấp vào giấc mộng ngàn năm
thời gian thôi chẳng còn trượt qua lá
cỏ
đồng hồ mặt trời ngưng sau tầng mây
cũng thôi không lay rụng ráng chiều
với hừng đông
Cây rừng vặn mình
thả rơi vô số quả thông cứng
bảo vệ hai hàng dấu chân
tuổi thơ chúng tôi cùng rảo bước
với mùa màng quanh
co đường nhỏ
phấn hoa dính đầy những bụi tầm gai
Ôi, vắng lặng sao
phiến đá ném đi không vọng tiếng
có lẽ, bạn đang tìm kiếm điều chi
-từ tim đến tim
một cầu vồng lặng lẽ dâng cao
-từ mắt đến mắt
Ngủ đi, thung lũng
gió, ngủ đi
thung lũng ngủ say trong mây mù xanh
gió, trong lòng bàn tay chúng
tôi say ngủ.
Bei Dao: The Rose
of Time, p12
Ps: Bác có thấy
bài thơ này có cái khí hậu Tứ Tấu Khúc của bác không:)
Tks. NQT
SLEEP, VALLEY
Sleep, valley
with blue mist quickly cover the sky
and the wild lilies' pale eyes
Sleep, valley
with rainsteps
quickly chase away the wind
and the anxious cries of the cuckoo
Sleep, valley
here we hide
as if in a thousand-year dream
time no longer glides past blades of grass
stopped behind layers of clouds, the sun's clock
no longer swings down evening glow or dawn
Spinning trees
toss down countless hard pine cones
protecting two lines of footprints
our childhoods walked with the seasons
along this winding path
and pollen drenched the brambles
Ah, it's so quiet and still
the cast stone has no echo
perhaps you are searching for something
-from heart to heart
a rainbow rises in silence
- from eye to eye
Sleep, valley
sleep, wind
valley, asleep in blue mist
wind, asleep in our hands
Bei Dao
Quả đúng là khí
hậu Tứ Tấu Khúc, như K. có lần phán,
dẹp cả cuộc đời qua 1 bên, lấy cả thiên thu cho...
quá khứ!
Hà, hà!
Tks All of U
NQT
Toi dang viet ve bai tho Bien
H.A cho phep dung may cai mail dau
Hw?
Gui kem,
Tks
Wed, 10 Feb 2010 13:05:28 -0800
"Biển" cuả ông đang quạnh
quẽ, buồn thăm thẳm và lạnh băng...
Đẹp như vậy mà sao không để cho nó
được yên hở Gấu Nhà Văn?
H.A
THE GIFT
In a page of Pliny we read
that in all the world no two faces are alike.
A woman gave a blind man
the image of her face,
without a doubt unique.
She chose the photo among many;
rejected all but one and got it right.
The act had meaning for her
as it does for him.
She knew he could not see her gift
and knew it was a present.
An invisible gift is an act of magic.
To give a blind man an image
is to give something so tenuous it can be infinite
something so vague it can be the universe.
The useless hand touches
and does not recognize
the unreachable face.
J. L. Borges: Poems of the Night
Quà
tặng
Trong một trang của Pliny,
chúng ta đọc thấy điều này,
Trong cả 1 lũ người như thế đó, không làm
sao có hai khuôn mặt giống nhau y chang
Một người đàn bà cho 1 anh mù bức
hình khuôn mặt bà.
Bà chọn tấm hình trong rất nhiều;
vứt đi tất cả, chỉ giữ lại một, và chọn đúng
tấm cần chọn.
Cái hành động đó, thì thật
có nghĩa, đối với bà
Và luôn cả với người đàn ông
mù.
Bà biết anh mù không thể nhìn
thấy quà tặng của bà
Và biết, đó là 1 quà tặng
Một món quà vô hình là
1 hành động huyền diệu
Cho 1 người mù một hình ảnh
Thì cũng như cho một điều gì tinh tế, giản
dị, như “cúi xuống là đất”, như Cô Tư phán.
Chính vì thế mà nó trở thành
vô cùng
Một điều gì đó mơ hồ như là vũ trụ
Bàn tay vô dụng, sờ
Và không nhận ra
Khuôn mặt không làm sao với tới được.
BURGIN: I also love that poem
"The Gifts," which takes place in a library.
BORGES: That's a very strange thing-I found out that I
was the third director of the library who was blind. Because first
there was the novelist Jose Marrnol, who was a contemporary of Rosas.
Then there was Groussac who was blind. But when I wrote that, I didn't
know anything about Marrnol, and that made it easier. Because I think
it was better to have only two, no? And then I thought that perhaps Groussac
would have liked it, because I was expressing him also. Of course,
Groussac was a very proud man, a very lonely one too. He was a Frenchman
who was quite famous in the Argentine because he once wrote that "Being
famous in South America does not make one less well-known." I suppose
he must have felt that way. And yet, somehow, I hope he feels, somewhere,
that I was expressing what he must have felt too. Because it's rather
obvious, the irony of having so many books at your beck and call and
being unable to read them, no?
Borges: The Last Interview
Tôi cũng mê bài thơ "Những Quà
Tặng", xẩy ra ở 1 thư viện
Borges: Thật quái. Tôi là tên
giám đốc thư viện thứ ba, mù. Tên mù
đầu tiên là Jose Marrnol, một tiểu thuyết gia. Rồi tới
Groussac. Tay này kiêu ngạo lắm. May là tôi
không biết tới tên mù đầu. Groussac rất nổi tiếng
ở Á Căn Đình, ấy là vì ông ta đã
từng viết, nổi tiếng ở xứ Mít thì có gì
là ghê gớm!
POEM OF THE GIFTS
To Maria Esther
Vazquez
No one should read self-pity
or reproach
Into this statement of the
majesty
Of God; who with such splendid
irony
Granted me books and blindness
at one touch.
Care of this city of books
he handed over
To sightless eyes, which
now can do no more
Than read in libraries of
dream the poor
And senseless paragraphs
that dawns deliver
To wishful scrutiny. In vain
the day
Squanders on these same eyes
its infinite tomes,
As distant as the inaccessible
volumes
Which perished in Alexandria.
From hunger and from thirst
(in the Greek story),
A king lies dying among gardens
and fountains.
Aimlessly, endlessly, I trace
the confines,
High and profound, of this
blind library.
Cultures of East and West,
the entire atlas,
Encyclopedias, centuries,
dynasties,
Symbols, the cosmos, and
cosmogonies
Are offered from the walls,
all to no purpose.
In shadow, with a tentative
stick, I try
The hollow twilight, slow
and imprecise-
I, who had always thought
of Paradise
In form and image as a library.
Something, which certainly
is not defined
By the word fate, arranges
all these things;
Another man was given, on
other evenings
Now gone, these many books.
He too was blind.
Wandering through the gradual
galleries,
I often feel with vague and
holy dread
I am that other dead one,
who attempted
The same uncertain steps
on similar days.
Which of the two is setting
down this poem-
A single sightless self,
a plural I?
What can it matter, then,
the name that names me,
Given our curse is common
and the same?
Groussac or Borges, now I
look upon
This dear world losing shape,
fading away
Into a pale uncertain ashy-gray
That feels like sleep, or
else oblivion.
(Alastair Reid)
J.L. Borges
Paul Groussac (1845-1929),
Argentine critic and man of letters, and a predecessor
of Borges as director of the National Library, also suffered
from the accompanying irony of blindness.
Quà
Đừng tỏ ra thương thân
hay trách phận giùm, khi biết, Chúa ban quà
cho tớ,
Những cuốn sách, và, kèm
theo sách, là sự mù lòa.
Mít, chúng nói, con tạo đành
hanh, cực kỳ tếu táo, là như thế đó!
Mi hãy chăm nom thành phố sách,
với cặp mắt mù tịt của mi,
Vốn chỉ còn đọc được thứ sách ở
trong thư viện của giấc mơ,
Những mẩu đoạn nghèo nàn, vô
nghĩa, mà bình minh đem tới sự săm soi mong ước
Vô phương, vô ích, ngày
hoang phí,
Cũng bằng cặp mắt mù lòa đó,
Những cuốn sách miên man,vô
cùng của nó
Thật xa xưa
Như những cuốn, không thể nào tiếp
cận được
Đã từng tiêu ma ở Alexandria
Trong đói, khát ( trong câu
chuyện Hy Lạp)
Nhà vua nằm chết giữa suối vườn
Vu vơ, hoài hoài, tớ vạch những
thành quách
Cao thăm thẳm
Sâu vời vợi
Vây hãm thư viện mù lòa
này
Văn hóa Đông Tây, trọn bản
đồ,
Bách khoa, thế kỷ, triều đại
biểu tượng, vũ trụ, vũ trụ học
Những bức tường bèn dâng hiến
Tất cả để, chẳng để làm gì.
Trong bóng tối, với cây gậy, tớ lò
mò, dọ dẫm
Hoàng hôn chập choạng, chậm chạp,
bề thế -
Tớ, kẻ hằng phán, Thiên Đàng,
Vóc dáng, hình ảnh của nó
ư?
Một cái thư viện.
Một điều gì đó, hẳn nhiên
không thể nào định nghĩa
Bằng cái từ vớ vẩn, nhảm nhí, “số
mệnh”
Đã sắp xếp mọi điều này
Một tên đàn ông khác,
Đã được ban cho, vào những buổi
chiều khác,
Tên này bây giờ đã đi
xa,
Những cuốn sách nhiều ơi là nhiều
này.
Ông ta thì cũng mù.
Lang thang giữa những hành lang, những
phòng ốc
Tớ thường cảm thấy, một cách mơ hồ, và
sợ, một nỗi sợ hãi thần thánh
Tớ chính là gã đàn
ông đã chết kia
Kẻ đã toan tính y chang tớ vào
lúc này, với những bước chân quờ quạng
Những ngày y như là bi giờ
Trong hai tên mù, tên nào
bày đặt ra những dòng thơ này
Chỉ 1 tên mù, hay nhiều tên
mù, cùng tự nhận
Tao mới đúng là thằng Gấu Cà
Chớn?
[Có mấy NQT?]
Gấu Cà Chớn, hay Hai Lúa, hay Thằng
Củ Xê [cái này của Duyên Anh ban cho]
Vào lúc này
Bèn nhìn về cái thế giới
thân yêu đang mất dần hình bóng của
nó, nhạt nhoà mãi đi
Như chìm vào giấc ngủ, hay quên
lãng.
Valentine's
Day
Elegy
Oh destiny of Borges-
to have traversed the various seas of the world
or the same solitary sea under various names,
to have been part of Edinburgh, Zurich, the two Cordobas,
Colombia, and Texas,
to have gone back across the generations
to the ancient lands of forebears,
to Andalucia, to Portugal, to those shires
where Saxon fought with Dane, mingling bloods,
to have wandered the red and peaceful maze of London,
to have grown old in so many mirrors,
to have tried in vain to catch the marble eyes of statues,
to have studied lithographs, encyclopedias, atlases,
to have witnessed the things that all men witness-
death, the weight of dawn, the endless plain
and the intricacy of the stars,
and to have seen nothing, or almost nothing
but the face of a young girl in Buenos Aires,
a face that does not want to be remembered.
Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.
-A.R.
Bi Khúc
Ôi số mệnh của GCC -
Đã phiêu du nhiều biển trên thế giới,
Hay, vẫn chỉ một biển mang nhiều nick
Đã có phần ở Edinburgh, Zurich, ở Bắc Kít
& Nam Kít, Cordobas, Colombia, và Texas
Đã trở lại, sau nhiều thế hệ,
Những vùng đất xưa của ông cha,
Ở Andalucia, Portugal, những quận huyện,
Nơi đám rợ Saxon choảng nhau với Dane, trộn máu
với nhau.
Đã lang thang những mê cung đỏ, hiền hòa
ở London
Đã trở nên già trong rất nhiều tấm
gương
Đã cực kỳ cố gắng, nhưng vô ích, nắm
bắt ánh mắt cẩm thạch của những pho tượng
Đã nghiên cứu thạch bản, bách khoa
toàn thư, bản đồ
Đã chứng kiến những điều mà tất cả những
người đàn ông chứng kiến –
Cái chết, sức nặng của buổi bình minh, đồng
bằng vô tận, sự phức tạp của những vì sao,
Đã nhìn chẳng cái gì, hầu
như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại
Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được
nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì
nó đâu!
BURGIN: You once wrote the lines, "To have seen nothing
or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires, a face
that does not want you to remember it."
BORGES: I wrote that when I was in Colombia. I remember
a journalist came to see me, and he asked me several questions about
the literary life in Buenos Aires, my own output and so on. Then I said
to him, "Look here, could you give me some five minutes of your time?"
And he said, he was very polite, and he said "Very willingly." And then
I said, "If you could jot down a few lines." And he said. "Oh, of course."
And I dictated those lines to him.
BURGIN: They used it as the epilogue in the Labyrinths
book.
BORGES: Yes.
BURGIN: But the reason I mention that to you, well I don't
want to over-explicate, but it seems to say that love is the only thing
that man can see or know.
BORGES: Yes, it might mean that, but I think it's not fair
to ask that because the way I said it was better, no? But when I was
composing that poem, I wasn't thinking in general terms, I was thinking
of a very concrete girl, who felt a very concrete indifference. And
I felt very unhappy at the time. And, of course, after I wrote it, I felt
a kind of relief. Because once you have written something, you work it
out of your system, no? I mean, when a-writer writes something he's done
what he can. He's made something of his experience.
Ông đã từng viết những dòng,
Đã nhìn chẳng cái
gì, hầu như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại
Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được
nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì
nó đâu!
Tớ viết, lần ở Columbia...
Cái lý do mà tôi nhắc lại những
dòng trên, là, như.... K. nói:
Vừa
xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây
là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại
. Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau mấy năm rồi, cũng
vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết,
vừa chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè
được, hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là
nhiều . Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây
là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ
có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi chưa coi
phim đó.
Tks.
Chỉ có tình
là vĩ đại thôi. Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ
đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN tôi có đọc
một cuốn sách dịch chuyện tình Tầu. Chuyện nào cũng
hay. Có một chuyện, về một anh học trò nhà quê,
lên thành đô học, mê một em trong xóm,
chuộc em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một
anh lái buôn. Anh này thấy cô vợ đẹp quá
bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp, phải
bán vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác,
bèn mở mấy cái rương bạn bè trong xóm tặng ra,
hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ
thả xuống sông, rồi thả mình theo.
Có một lời bàn,
đẹp thế, sao ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà
theo!
Chuyện hơi giống chuyện
nàng Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục.
Nhưng chuyện TK có hậu hơn, anh chồng hối hận, lo nuôi
con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng,
tất nhiên, khuyên theo phò Lê Lợi.
Cái truyện anh học trò, khi kể lại trên
Tin Văn, Gấu bỏ đi 1 phần, bữa nay kể tiếp, và luôn tiện
kể thêm.
Tầu chia ra đủ thứ tình, nào tình hiệp,
nào tình si, nào tình sầu, nào tình
ngu… Tình hiệp, trong Liêu Trai có 1 truyện cũng
thật thần sầu.
Có 1 vị danh sĩ, một lần đi thuyền qua cái bến
có người đẹp trầm mình, bèn cảm khái, bèn
làm 1 bài thơ, thả xuống lòng sông. Đêm
đó, mơ thấy người đẹp về, tặng bức tranh, theo truyền thuyết,
1 trong những thất tuyệt trong chốn giang hồ.
Bức danh họa, là 1 trong số những của cải quí
báu, chìm theo cùng người đẹp.
"Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông,
bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại quán xưa,
tìm gót hài trên lớp bụi, và tiếng cười
của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây"... GCC viết
về những lần trở lại cái quán cà phê hủ tíu
Tầu, nằm trên con đường Trương Công Định, dẫn tới trường Gia
Long, là cũng mong 1 kỳ ngộ như trên.
Truyện sau đây, có trong tập truyện, có
gì giống truyện tặng tranh, hiểu theo 1 cách nào
đó.
Một anh chàng thương gia, trẻ, cưới 1 em tuyệt trần,
rồi sau đó, đi 1 chuyến buôn xa, bèn xây
1 cái nhà lầu, giống như 1 cái tháp, "nhốt"
người đẹp, cùng 1 mụ quản gia, và và em hầu.
Bữa đó, em vén màn cửa sổ ngó
xuống đường, đúng lúc 1 anh chàng thương gia
đang đi trên đường ngó lên, và anh này
bèn trúng cú sét (coup de foudre).
Bèn bỏ tiền ra mua, trước, là mụ quản gia, rồi
tới tất cả lũ con hầu. Rồi 1 đêm, anh chàng giả dạng là
1 con hầu, lọt vô tháp.
Cô vợ trẻ quá mê anh bồ, và khi
nghe tin chồng sắp về, tặng anh bồ chiếc áo lót mình,
cũng 1 thứ "thất truyền" trong chốn giang hồ, có 1 không
có 2.
Số mệnh xui khiến làm sao, tối hôm đó,
1 tên đi, 1 tên về, cùng gặp nhau tại 1 khách
sạn ở ven đường. Bèn thù tạc, và trong khi thù
tạc, anh bồ đem chiếc áo lót ra khoe.
Anh chồng đau quá, thay vì về nhà, đến
khách sạn thuê 1 căn phòng.
Cô vợ, nhà vợ, sau biết ra, bèn xin phép
anh chồng cho vợ tái giá, và được 1 ông
quan, trên đường đi trị nhậm, mua làm vợ bé,
Truyện kể là, cả hai, chồng và vợ đều không
làm sao quên nổi nhau.
Trong 1 lần đi buôn xa, anh chồng bị vu cáo trong
1 vụ làm ăn, bị bỏ tù.
Vị quan xét sử, là ông quan đã
từng mua cô vợ.
Ông quan, không chỉ tha tội, mà còn
trả luôn cô vợ.
Còn anh bồ ngày nào, sau làm ăn
thất bát, chết không có tiền chôn.
Vợ phải bán mình, lấy tiền chôn chồng.
Vẫn số mệnh xui khiến, anh chồng bỏ tiền ra mua.
Thế là áo lót mình trở về cố chủ,
bonus, vợ tên bồ ngày nào!
Osip
Mandelstam
|