SN_GCC_2017
@ Taipei Airport, lượt
đi.
Cái kiếng, rớt mất tiêu, liền sau
đó.
Lượt về mất hành lý
Weave
a circle round him thrice
And close your eyes with holy dread,
For he on honey-dew hath fed,
And drunk the milk of Paradise.
"Samuel Taylor Coleridge, "Kubla Khan," lines
51-54.
[from "Borges Tám Bó"]
Vẽ 1 cái vòng tròn ba
lần
Rồi nhắm cặp mắt lé của mi lại
Với nỗi sợ thiêng liêng
Bởi là vì mi, đã tới
giờ húp 1 húp cháo lú
Và uống 1 ngụm sữa thiên đường
Nỗi sợ thiêng liêng!
Holy dread!
Chắc là của Coleridge?
Borges: Tôi nghĩ là dịch từ
Latinh, từ những gì mà người La Mã cảm
nhận [felt].
Người La Mã, cũng giống như lũ Bắc
Kít, coi Lăng Bác Hồ là nơi chốn thiêng
liêng. Chúng nói thầm với nhau, có
vị thần nằm ở trong đó, there is a god inside.
TTT 10 years Tribute
Ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi
http://www.tanvien.net/Dich_1/burn_out_case.html
Câu thơ trên, của Nguyễn Du, trong truyện Kiều,
tả cảnh Kiều ở trung tâm một trận bão, lụt, làm
Gấu nhớ tới cái truyện ngắn chỉ có được mỗi cái tên
truyện của Gấu: Mắt Bão.
Nhớ, cả cái bữa ngồi Quán Chùa, khoe cái
tít với ông anh, ông biểu, còn nhiều từ như
thế lắm, ở trong môn học địa lý.
Nhưng, "ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi", còn
là cái dáng ngồi như ông Bụt của Marlow, khi
anh kể lại câu chuyện của Kurtz, trong Trái Tim Của Bóng
Đen.
Và đúng là cái tâm trạng của
NHT, kẻ "chẳng bao giờ đi xa và cứ ở mãi đây", ở cái
xứ Bắc Kít. Ở trung tâm của Bóng Đen.
Virtue, after all, is far from being synonymous
with survival; duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
Đạo hạnh thật khó mà coi là đồng nghĩa
với sống sót. Nhập nhằng, OK!
It belongs to a nobleman to weep in an hour of disaster
Euripides, 412 BC
It would be impossible to live for a year without disaster unless
one practiced character-reading
Virginia Woolf, 1927
Sao Gấu cay đắng hoài như thế?
Sến Cô Nương
Thật vô phương sống nổi 1 năm không tai ương, ngoại
trừ đọc trang TV!
Càng nhìn sao trời - như MT đã từng nhìn,
Thì càng hiểu ra, con người sống thời gian vay
mượn, đếch phải của nó
The more we learn about asteroid impacts, the clearer it becomes
that human race has been living on borrowed time
Brian May, 2014
Brodsky cũng có ba búa
TGK, như TTT, khi truyền lại cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh ông.
Con người sở dĩ sống sót được, là nhờ truyền thống, thông
qua đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất mẹ cái
đuôi, và để bù lại, Thượng Đế ban cho nó
hồi ức.
Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng sống
sót, không phải là nhờ đạo hạnh mà nhờ bửn
quá, do óc bị thiến mất 1 mẩu, trong mẩu này có
cái gọi là lương tri của con người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật trịa tứ lung
tung, một phần là do đang bấn xúc xích bởi 1 đề
tài, tại sao Mít không thể tưởng niệm, nhân
đọc Sebald viết về văn học Đức sau chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu,
và, tại làm sao lũ Bắc Kít cứ cực kỳ thông
minh, là óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có 1 bài
viết, Gấu ngộ ra được điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông bố
quá khôn, bỏ chạy kịp trước khi Cựu Lục Địa vào
tay Nazi, nhờ vậy gia đình ông sống sót Lò Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót, là
do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong chuyện
dưới đây, cho thấy, là do chúng ngửi ra trước tai
họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1 Steiner,
là do hồi ức: Ông sống sót để kể câu chuyện
về Lò Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần đạo
hạnh rất dễ bị thương tổn, và cái đuôi của bạn ló
ra, thay cho hồi ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là
thứ văn chương tiên tri và văn chương hồi ức, như thế,
là đều liên quan tới cái đuôi của con người đã
bị mất đi theo đà tiến hóa của nó.
C.200: Rome
The Departed
When a house is on the verge of ruin the mice in it, and the
martens also, forestall its collapse and emigrate. This, you know, is
what they say happened at Helike, for when the people of Helike treated
so impiously the Ionians who had come to them, and murdered them at
their altar, then it was (in the words of Homer) that "the gods showed
forth wonders among them. “For five days before Helike disappeared all
the mice and martens and snakes and centipedes and beetles and every other
creature of that kind in the town left in a body by the road that leads
to Keryneia. And the people of Helike seeing this happening were filled
with amazement but were unable to guess the reason. But after the aforesaid
creatures had departed, an earthquake occurred in the night; the town collapsed;
an immense wave poured over it; and Helike disappeared, while ten Lacedaemonian
vessels that happened to be at anchor close by were destroyed together with
the city I speak of.
Aelian, from On the Nature of Animals. A teacher of rhetoric,
Aelian earned the nickname Meliglottos, meaning "honey-tongued," based
on his fluency with Greek. In addition to his seventeen-volume work on
animals, Aelian published Indictment of the Effeminate, a posthumous
attack on the emperor Marcus Aurelius Antoninus, and a collection of
fictional letters about Attic country life. Elsewhere in Animals, he
describes the tradition of tuna fishermen to pray to Poseidon, whom
they called "Averter of Disaster," asking for neither swordfish nor dolphin
to destroy their nets.
I am above the weakness of seeking to establish a sequence of
cause and effect between the disaster and the atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một tiếp
nối về nguyên nhân và hậu quả, giữa tai ương và
sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng ở Helike
đối với dân Ionians, đến nỗi những vị thần mà cũng ngạc
nhiên giữa họ, như thế, không mắc mớ gì đến tai ương
động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán, mọi người,
trong thâm sâu của trái tim của họ, đợi tận thế
tới:
Everyone deep in their heats is waiting for the end of the world
to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải sống,
trong khi chờ đợi ngày đó:
We got to live, no matter how many skies have fallen, D.H. Lawrence,
1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài, thì
một xã hội mới, mới sản sinh ra, và làm chúng
ta hãnh diện về nó.
Out of the experience of an extraordinary human disaster that
lasted too long must be born a society of which all humanity will be
proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện, sau tận
thế, chăng?
GCC
Trong cuộc trò chuyện với Volkov, về Maria Tsvetaeva,
Brodsky có nhắc tới Susan Sontag; theo bà này, phản
ứng đầu tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là
hỏi, tôi có làm điều chi lẫm lỗi, và bây
giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng
xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một cách
nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn
lại đứng lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành
một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng,
the phoenix principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với nó.
Mai
Sau Dù Có Bao Giờ
THE THREE AUTUMNS
I don't understand summer smiles
at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without fail
I've noticed every year has three.
And the first one is holiday
disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.
The birches are the first to
join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every transient tear
Onto the neighbor over the fence.
Here's what happens when you
use a story to
break the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
as conscience,
As somber as an air raid siren.
Everyone immediately appears
pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading their gold
-Music floats through the fragrant mist.
And in the waves of frankincense,
cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened up,
and right away
Everyone understood: that's the end of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.
Akhmatova
1943
Ba thu
Tôi đếch làm sao
hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng có tí “đẹp zai” gì
đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và ngộ ra rằng, có tới ba mùa
thu
Mùa đầu tiên thì
là một cú loạng quạng của ngày nghỉ lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu bù mùa hè, của
ngày hôm qua.
Lá cây bay như những trang, những mẩu, từ những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù mới ngọt ngào làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ, long lanh sáng.
Những cây bu lô
gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng được phủ bằng một bức màn
xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù tì mọi giọt lệ thoảng,
qua hàng rào nhà hàng xóm.
Và bây giờ, là
điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu chuyện để phá vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì, bèn tiếp theo liền, và
rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới, ngán như là lương tâm,
Âm u như là tiếng còi báo động máy bay
Mẽo tới vùng trời Bắc Kít
Và mọi tên Bắc Kít,
liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể như không còn, đếch hiện
hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn dòn dã, đường ra
trận mùa này đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là chiến lợi phẩm Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không gian, qua thềm sương mù
thơm ngát.
Và trong những đợt hương
trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt, được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão, mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều hiểu: Cuộc chiến chấm dứt.
Xề gòn bị làm thịt rồi
Và đó, đếch phải mùa thu - một mùa thu năm
qua, cách mạng tiến ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó ra cho lũ Mít cùng
nhìn thấy.
[Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng
cực tới, hà, hà!
To SLN - sáng
nay (ở Hội An), Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch,
cảm động vô cùng -
with
Tks. NQT]
THREE AUTUMNS
The smiles of summer are simply indistinct
And winter is too clear,
But I can unerringly pick out
Three autumns in each year.
The first is a holiday chaos
Spiting the summer of yesterday.
Leaves fly like a schoolboy's notes,
Like incense, the smell of smoke,
Everything moist, motley, gay.
First into the dance are the birches,
They put on their transparent attire
Hastily shaking off their fleeting tears
On to the neighbour next door.
But as it happens, the story's just begun.
A moment, a minute - and here
Comes the second, passionless as conscience,
Sombre as an air raid.
Everything suddenly seems paler, older,
Summer's comfort is plundered,
Through the scented fog float
Far-offmarches played on golden trumpets ...
A flagstone covers the sky vault. Cold waves
Of incense. But the wind's started to blow
Everything clean open, and straightway
It's clear that this is the end of the play,
This is not the third autumn but death.
1943
[in Everyman’s Library]
Aleph
Thơ
Mỗi Ngày
mỗi ngày đọc thế này thôi, đã
tăng thêm vài nơ ron hay tỷ lần cảm xúc khác
Tks. NQT
True Love
True love. Is it normal
is it serious, is it practical?
What does the world get from two people
who exist in a world of their own?
Wislawa Szymborska
Tình Thiệt
Mối tình thiệt. Nó bình
thường
nó trang trọng, hay nó thực tiễn?
Thế gian biết được gì chuyện hai người
chung sống trong thế giới riêng của họ?
Lý Ốc dịch
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcThoTinhTheGioi.htm
Note:
"serious", theo GCC, không thể dịch là
“trang trọng”, solemn, mà là, nghiêm túc,
nghiêm trọng…
Hai người yêu nhau, chàng tính
chuyện lâu dài, bèn đề nghị xin bàn
tay, xỏ cái cà rá, nàng sửng sốt,
nè, thiệt không đấy, đại khái như thế.
Trang trọng, nếu có là lúc
khác, khi cả hai đứng trước bàn thờ, trước hai họ.
Thí dụ vậy.
Thế gian “biết” được gì.
Từ "biết" này, cũng hỏng. Get, là
được. Thiên hạ “được” cái chó gì khi
hai kẻ yêu nhau, chứ “biết” làm khỉ gì!
Cái từ serious này, GCC có
1 kỷ niệm thật là tuyệt vời về nó, khi ở Trại Tị
Nạn Thái Lan. Thời gian đó, thanh lọc xong rồi,
đậu rồi, bèn được chuyển từ Trại Cấm Skiew lên Trại Chuyển
Tiếp, Transit, Panat Nikhom, gặp phái đoàn Canada, nhận
rồi, bèn được ra ngoài đời, là Khu Y Tế Của Cao
Uỷ, khám sức khoẻ, để lấy chuyến bay. Cái tay bác
sĩ trưởng, người Ý, tên là Panza, hình như
vậy, đã từng gây lộn với an ninh Thái, về thái
độ của họ, đối với người tị nạn, Gấu Cái có mấy cái
truyện ngắn về ông này, chưa sửa sang lại, để đem in.
Gấu nhắc tới chuyện đó với ông
ta, theo kiểu làm quà, và, khi biết Gấu là
nhà văn Mít, ông mừng quá, nói,
tôi đương cần 1 tên như ông, hà, hà!
Gấu trợn mắt lé, ngạc nhiên. Ông
giải thích, Y Tế Cao Uỷ, tức ông ta, đang cần 1
người dịch qua tiếng Mít, 1 bản văn bằng tiếng Anh, để sử
dụng cho 1 cái video phòng ngừa AIDS.
Thế là ông trao cho Gấu bản tiếng
Anh. Trong có 1 câu, đại khái, AIDS là
1 vấn đề rất serious.
Gấu bèn nói, serious, không
được, mà phải là, dangerous.
Như Danger De Mort, trong trường hợp điện cao
thế.
Ông đọc đi đọc lại bản văn, nghĩ 1 hồi,
bèn gật gù, đúng như thế.
Phải là nguy hiểm chết người.
Bà nữ thi sĩ Balan, nếu còn sống,
và, nếu đọc được những dòng này, chắc cũng
sửa lại câu thơ:
Lấy nhau ư, nguy hiểm chết người đấy!
Hoặc, lắc đầu bỏ đi, mi làm phiền ta
quá, kiếp trước mi đúng là con đỉa.
Hoặc, bây giờ ta hết lãng mạn rồi.
Hoặc...
Bản tiếng Việt, theo GCC, cẩu thả quá. Những từ “serious, get…”
biết tí tiếng Anh, là biết nghĩa, nhưng phải thật giỏi tiếng
Mít, và thật mê thơ, nói chung, và mê
thơ Szymborska, mới kiếm ra từ đắc địa/đắc ý
Note: Trường hợp của vị thuộc băng Hậu Vệ, cũng y chang. Tiếng Việt
quá dở, sử dụng quá dư thừa. Thơ, như Brodsky phán,
là nghệ thuật của sự tiết kiệm. Prospero khen nhà thơ Nobel
Transtromer, là "nhà thơ kinh tế". Văn của Coetzee cũng Nobel,
được “khen” là hà tiện đến chảy máu mắt.
Một nhà văn, nói về GCC, được ông ta chê,
thâu hoạch được nhiều hơn, so với khen!
[Tks. Take Care. Happy Birthday. TT/NQT]
Gấu đọc, rồi bỏ qua, chỉ đến khi thấy mấy vị bằng hữu FB cũng xúm
lại khen lấy khen để, đành vì họ mà lên tiếng,
khen như thế, không chỉ làm hư 1 cây viết, mà
còn đánh lừa người đọc! (1)
(1)
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/34.html
Trên net, tờ Người Kinh Tế có bài viết
về Nobel văn chương năm nay của Prospero.
GCC mê tay này lắm. Phê
bình gia, điểm sách gia số 1!
Cái chi tiết thần kỳ
mà Prospero khui ra từ thơ của Tomas Transtromer, [the Swedish Academy
has praised an oeuvre that is “characterised by economy”], làm
GCC nhớ tới Brodsky, qua đoạn viết sau đây:
Bài
thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó
bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá:
chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi,
hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những
giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết.
Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai
đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn
là một hành vi ý thức, không phải sự phô
diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó
chính là thực tại.
Cho dù
tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ
thuộc của chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn.
Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ
Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra,
những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những
bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng
có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có
thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của
một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý
do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn
thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện
dồn nén và súc tích. Trong thơ, đó
là ngôn ngữ, tự thân nó, là một
bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm
lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu
một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này
có nghĩa là một thực tại quan sát chính
lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này có
nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên
nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài
thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế,
bởi nó chính là chân dung tự hoạ của
tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên
tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được
nhiều về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào
về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn
chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm
nhìn thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ
có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên
ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ
và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực
tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.
Soure
Nobel prize for literature
The Swedish poet you will soon be reading
Oct 6th 2011, 18:43
AMID the flurry of last-minute
bets for Bob Dylan (once rated by bookies at 100/1), a relatively
unknown Swedish poet, Tomas Tranströmer, has won the Nobel
prize for literature. “He is a poet but has never really been a
full-time writer,” explained Peter Englund, the permanent secretary
of the Swedish Academy, which decides the award. Though Mr Tranströmer
has not written much lately, since suffering from a stroke in 1990
that left him partly paralysed, he is beloved in Sweden, where his
name has been mentioned for the Nobel for years. One newspaper photographer
has been standing outside his door on the day of the announcement for
the last decade, anticipating this moment.
Born in 1931, Mr Tranströmer began publishing
poems when he was in his early 20s. He has been translated into
60 different languages since then. But his output is notably sparse—you
“could fit it into a not too-large pocket-book, all of it,” Mr
Englund says. Mr Tranströmer wrote poetry while working
full-time, first as a psychologist and then at the Labour Market
Institute in Västerås. Any fame he has enjoyed has been
of the quiet, understated sort. In announcing Mr Tranströmer’s
victory, the Swedish Academy has praised an oeuvre that is “characterised
by economy” and that grants “fresh access to reality”. He is the
first poet to win the award since Wislawa Szymborska in 1996.
Mr Englund has had to defend giving the literature
award once more to a European (seven of the last ten have gone
to the continent), and also to a Swede. In doing so, Mr Englund has
perhaps had to deflect attention from the more pressing question
of why Mr Tranströmer won in the first place. Perhaps that is a
question that only Mr Tranströmer can answer, in work that will
finally be more widely read.
Thơ ông là những thám
dò vào thế giới nội tại và những tương
quan của thế giới đó với phong cảnh của quê hương Thụy
Điển.
TQ dịch,
Da Màu
Nguyên tác tiếng
Anh:
Tranströmer's
surreal
explorations of the inner world and
its relation to the jagged landscape
of his native country have been translated into over 50 languages.
GCC dịch:
Những thám
hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội
tại, và sự tương quan của nó [số ít, không
phải những tương quan] với
những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê
hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.
Mấy từ quan trọng,
TQ đều bỏ, chán thế.
Chỉ nội 1 từ “lởm chởm” bỏ đi,
là mất mẹ 1 nửa cõi thơ của ông này
rồi.
Chứng cớ:
The landscape of Tranströmer's
poetry has remained constant during his 50-year career: the
jagged coastland of his native Sweden, with its dark spruce
and pine forests, sudden light and sudden storm, restless seas
and endless winters, is mirrored by his direct, plain-speaking style
and arresting, unforgettable images. Sometimes referred to as a
"buzzard poet", Tranströmer seems to hang over this landscape
with a gimlet eye that sees the world with an almost mystical precision.
A view that first appeared open and featureless now holds an anxiety
of detail; the voice that first sounded spare and simple now seems subtle,
shrewd and thrillingly intimate.
[Phong cảnh thơ TT thì
thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển
lởm chởm của quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây
thông, vân sam u tối, chớp bão bất thần, biển
không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài
lê thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh đó
được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong
thẳng tuột và những hình ảnh lôi cuốn, không
thể nào quên được. Thường được nhắc tới qua cái
nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo
lơ lửng bên trên phong cảnh đó với con mắt gimlet
[dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự chính
xác hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn
thoạt đầu có vẻ phơi mở, không nét đặc biệt,
và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến
chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có vẻ thanh đạm,
sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc sảo,
và rất ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng,
đến sững sờ, đến nghẹt thở.]
Source
Chỉ đến khi ngộ ra cõi
thơ, thì Gấu mới hiểu ra là, 1 Nobel văn chương về
tay 1 nhà thơ là 1 cơ hội tuyệt vời nhất trong đời
một người… mê thơ.
Người ta thường nói,
thời của anh mà không đọc Dos, đọc Kafka… thí
dụ, là vứt đi, nhưng không được nhìn thấy 1 nhà
thơ được vinh danh Nobel thì quả là 1 đại bất hạnh!
Hà, hà!
Tập thơ Transtromer mà Gấu mới tậu -
tậu, vì mới ra lò, bản bìa cứng - người
dịch giới thiệu ông, như là nhà thơ của cõi
ngưỡng cửa, tạm dịch cái từ “liminality”, như cái tít
bài giới thiệu cho thấy, Chào Buổi Tối, Sâu
Đẹp Làm Sao, "Good Evening, Beautiful Deep". Những
bài thơ trong tuyển tập, đa số có người dịch rồi, và
được dịch lại.
Wait for me with dust
Where Is Poetry Going?
Thơ đi đâu?
Charles Simic
Không phải là Gấu
cường điệu khi phán, dịch thơ thì cũng giống như khám
phá ra Lò Thiêu!
Ấy là bởi vì, đúng
như cái bà Nobel Jelinek phán, sau Lò Thiêu
mà còn làm thơ, thì phải có Lò
Thiêu ở trong thơ: Trong thơ của thế giới qua 1 số tác giả trên
TV giới thiệu, như Charles Simic, Czeslaw Milosz,
Adam Zagajewski, Wislawa Szymborka,
có nỗi đau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo, Lò Lưu
Vong, Lò Gulag… đủ thứ Lò của thế kỷ ở trong
đó.
Trong khi Mít, ngay cả
1 nhà văn lưu vong, sợ rằng cũng chưa từng có, nói gì
nhà thơ!
Có lẽ phải nói,
đúng hơn, Mít có những nhà văn đã từng
tự xưng là lưu vong, khi bỏ chạy VC, bị hải tặc hãm hại, và
sau đó, khi đã cơm no ấm cật tại xứ người, thì lại mò
về, và coi mình bây giờ là nhà văn di
dân, chứ không còn lưu vong nữa!
Ngay cả những nhà thơ
ở, không về, trong thơ họ có tí mùi Lò
nào đâu.
Nếu có, thì là mùi Lờ!
Đọc thơ của họ, chỉ thấy rặt 1 trò chơi chữ, gọt chữ, chơi 36
kiểu, nào tân hình thức, nào vác cầy qua
núi… chỉ thấy nhục cho chữ Mít, dân Mít, đó
là sự thực.
Gấu này đâu có
thù hằn, khi viết, khi đụng tới họ? DTL, ngoài đời, là
1 bạn thân, nhưng khi Gấu viết về anh, rất nặng nề, thí dụ,
có dịp gặp nhau thì lại mừng mừng rỡ rỡ. Cứ áo thụng
vái nhau, thì biết bao giờ thơ Mít mới có mùi
thơ thế giới?
David Remnick
Donald Trump’s True Allegiances
Who could have predicted the President’s latest outrage? Barack
Obama and anyone, really.
Early last November, just before Election Day, Barack Obama was
driven through the crisp late-night gloom of the outskirts of Charlotte,
as he barnstormed North Carolina on behalf of Hillary Clinton. He was in
no measure serene or confident. The polls, the “analytics,” remained in
Clinton’s favor, yet Obama, with the unique vantage point of being the
first African-American President, had watched as, night after night, immense
crowds cheered and hooted for a demagogue who had launched a business career
with blacks-need-not-apply housing developments in Queens and a political
career with a racist conspiracy theory known as birtherism. During his
speech in Charlotte that night, Obama warned that no one really changes
in the Presidency; rather, the office “magnifies” who you already are.
So if you “accept the support of Klan sympathizers before you’re President,
or you’re kind of slow in disowning it, saying, ‘Well, I don’t know,’ then
that’s how you’ll be as President.”
Donald Trump’s ascent was hardly the first sign that Americans
had not uniformly regarded Obama’s election as an inspiring chapter
in the country’s fitful progress toward equality. Newt Gingrich, the
former Speaker of the House, had branded him the “food-stamp President.”
In the right-wing and white-nationalist media, Obama was, variously,
a socialist, a Muslim, the Antichrist, a “liberal fascist,” who was assembling
his own Hitler Youth. A high-speed train from Las Vegas to Anaheim that
was part of the economic-stimulus package was a secret effort to connect
the brothels of Nevada to the innocents at Disneyland. He was, by nature,
suspect. “You just look at the body language, and there’s something going
on,” Trump said, last summer. In the meantime, beginning on the day of
Obama’s first inaugural, the Secret Service fielded an unprecedented number
of threats against the President’s person.
And so, speeding toward yet another airport last November, Obama
seemed like a weary man who harbored a burning seed of apprehension.
“We’ve seen this coming,” he said. “Donald Trump is not an outlier; he
is a culmination, a logical conclusion of the rhetoric and tactics of
the Republican Party for the past ten, fifteen, twenty years. What surprised
me was the degree to which those tactics and rhetoric completely jumped
the rails.”
For half a century, in fact, the leaders of the G.O.P. have fanned
the lingering embers of racial resentment in the United States. Through
shrewd political calculation and rhetoric, from Richard Nixon’s “Southern
strategy” to the latest charges of voter fraud in majority-African-American
districts, doing so has paid off at the ballot box. “There were no governing
principles,” Obama said. “There was no one to say, ‘No, this is going
too far, this isn’t what we stand for.’ ”
Last week, the world witnessed Obama’s successor in the White House,
unbound and unhinged, acting more or less as Obama had predicted. In
2015, a week after Trump had declared his candidacy, he spoke in favor
of removing the Confederate flag from South Carolina’s capitol: “Put
it in the museum and let it go.” But, last week, abandoning the customary
dog whistle of previous Republican culture warriors, President Trump
made plain his indulgent sympathy for neo-Nazis, Klan members, and unaffiliated
white supremacists, who marched with torches, assault rifles, clubs,
and racist and anti-Semitic slogans through the streets of Charlottesville,
Virginia. One participant even adopted an isis terror tactic, driving
straight into a crowd of people peaceably demonstrating against the racists.
Trump had declared an “America First” culture war in his Inaugural Address,
and now—as his poll numbers dropped, as he lost again and again in the courts
and in Congress, as the Mueller investigation delved into his miserable
business history, as more and more aides leaked their dismay—he had cast
his lot with the basest of his base. There were some “very fine people”
among the white nationalists, he said, and their “culture” should not be
threatened.
Who could have predicted it? Anyone, really. Two years ago, the
Daily Stormer, the foremost neo-Nazi news site in the country, called
on white men to “vote for the first time in our lives for the one man
who actually represents our interests.” Trump never spurned this current
of his support. He invited it, exploited it. With Stephen Bannon, white
nationalism won prime real estate in the West Wing. Bannon wrote much of
the inaugural speech, and was branded “The Great Manipulator” in a Time
cover story that bruised the Presidential ego. But Bannon has been marginalized
for months. Last Friday, in the wake of Charlottesville, Trump finally
pushed him out. He is headed back to Breitbart News. But he was staff;
his departure is hardly decisive. The culture of this White House was, and
remains, Trump’s.
When Trump was elected, there were those who considered his history
and insisted that this was a kind of national emergency, and that to normalize
this Presidency was a dangerous illusion. At the same time, there were
those who, in the spirit of patience and national comity, held that Trump
was “our President,” and that “he must be given a chance.” Has he had enough
of a chance yet? After his press conference in the lobby of Trump Tower
last Tuesday, when he ignored the scripted attempts to regulate his impulses
and revealed his true allegiances, there can be no doubt about who he is.
This is the inescapable fact: on November 9th, the United States elected
a dishonest, inept, unbalanced, and immoral human being as its President and
Commander-in-Chief. Trump has daily proven unyielding to appeals of decency,
unity, moderation, or fact. He is willing to imperil the civil peace and
the social fabric of his country simply to satisfy his narcissism and to excite
the worst inclinations of his core followers.
This latest outrage has disheartened Trump’s circle somewhat; business
executives, generals and security officials, advisers, and even family
members have semaphored their private despair. One of the more lasting
images from Trump’s squalid appearance on Tuesday was that of his chief
of staff, John Kelly, who stood listening to him with a hangdog look of
shame. But Trump still retains the support of roughly a third of the country,
and of the majority of the Republican electorate. The political figure
Obama saw as a “logical conclusion of the rhetoric and tactics of the
Republican Party” has not yet come unmoored from the Party’s base.
The most important resistance to Trump has to come from civil society,
from institutions, and from individuals who, despite their differences,
believe in constitutional norms and have a fundamental respect for the
values of honesty, equality, and justice. The imperative is to find ways
to counteract and diminish his malignant influence not only in the overtly
political realm but also in the social and cultural one. To fail in that
would allow the death rattle of an old racist order to take hold as a deafening
revival. ♦
Tưởng niệm Susan Sontag
Joan Acocella
Lời Bạt
Susan Sontag viết cho báo
này [Người Nữu Ước], tuy không liên tục, nhưng ròng
rã trên ba chục năm. Bà mất bữa Thứ Ba vừa rồi, trước
sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, mặc dù, ai cũng biết
bà bị ung thư, và thuốc thang chữa trị từ hồi thập niên
1970, nhưng chẳng bao giờ bà để tâm đến chuyện này,
cũng như không để cho ai để tâm đến nó, rằng, bịnh
này có thể giết bà. Một ý nghĩ như thế đó,
là một vi phạm, violation, đối với sự cần thiết sâu xa nhất
của bà, the deepest need, the need to live, cần sống và
có được kinh nghiệm mà thế giới đem tới cho bà.
Một lần, viết về tuổi thơ, và
những bữa ăn thịt nướng trong gia đình, bà cho biết, "Tôi
ăn, ăn, và ăn... Tôi luôn luôn đói."
Luôn luôn đói, bà
giữ cho mình suốt đời là như vậy đó. Bà đọc
mọi thứ, và viết đủ thứ: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tiểu luận
văn học, phim ảnh, chính trị. Bà làm phim. Bà
đọc diễn văn. Bà đi Bắc Việt,
Cuba,
và Bosnia,
và từ đó, gửi về những bài tường thuật. Gần như
chẳng có điều gì bà nghĩ, bà không
thể làm được, và chẳng có điều gì bà
không tính làm, và làm thật lẹ, liền
tức thì.
Khi tôi bắt đầu phỏng vấn bà,
vào năm 1999, cho một bài báo thuộc loại chân
dung nhìn nghiêng [profile] của báo này [The
New Yorker], bà vừa trải qua một chuỗi những chữa chạy mới, rất,
rất ư hung bạo [agressive], căn bịnh ung thư, và chúng gây
tổn thương về thần kinh ở nơi bà. Bà phải sử dụng thuốc giảm
đau, đúng ra, tôi muốn nói, lúc đó bà
sống bằng những thuốc giảm đau, the painkillers; bà phải nhìn
xuống chân, mỗi khi bước. Nhưng, nhằm nhò gì ba thứ
lẻ tẻ đó, bà cười, khi tiếp tôi. Bà dang rộng
hai tay, ôm lấy trọn một cuộc đời mới của bà. Trước đó,
bà là một nhà viết tiểu luận. Bây giờ, bà
là một tiểu thuyết gia. Thực ra, bà đã từng viết
tiểu thuyết, hai cuốn, ngay lúc khởi nghiệp, vào thập niên
1960. Bà không thích chúng lắm, vì vậy
mà bà trở thành một nhà phê bình,
đúng ra phải nói, nhà phê bình nổi tiếng
nhất, và nhà phê bình trẻ có ảnh hưởng
nhất, của thập niên 60 và 70, khuôn mặt trung tâm
nổi cộm của một đảo nghịch mỹ học, "the aesthetic bouleversement", của
thời kỳ đó: sự hấp thụ, absorption, văn hóa đại chúng
vào văn hóa cao, huỷ bỏ thể loại cổ điển, để đổi lấy sự đứt
đoạn, nét gẫy, vết rạn hiện đại, làm lễ tấn phong cho ý
thức tan hoang, rã rời, đêm tóc rối, thay cho chủ nghĩa
hiện thực, những nền tảng đạo đức, những lớp lang mở đầu, thân bài,
và kết luận. Nhưng vào năm 1999, tất cả mọi chuyện đó
chấm hết, nếu kể như chúng đã là những quan tâm
của bà trước đó. Bà đã cho xuất bản một cuốn
sách như thế vào năm 1992, "Người Tình Hoả Diệm Sơn",
"The Volcano Lover", viết về cuộc tình đã trở thành
truyền thuyết giữa Lord Byron với người đàn bà có chồng,
là Emma Hamliton. Cuốn sách là một best-seller. Bây
giờ, bà vừa mới kết thúc một tác phẩm mang nhiều tham
vọng hơn, so với cuốn trước, một cuốn tiểu thuyết lịch sử, "Ở Mỹ", "In America",
và bà đang khởi sự một cuốn tiểu thuyết khác, về nước
Nhật hiện đại.
Thật không rõ, trong tương
lai, chuyện gì sẽ xẩy ra, đối với một Susan Sontag với một nghiệp
viết nhiều mặt như thế. Có thể việc viết tiểu thuyết sẽ chỉ được
coi là thứ yếu. "Người Tình Hoả Diệm Sơn" là một đỉnh
cao của chủ nghĩa hiện thực hiện đại mang tính tâm lý,
nhưng rõ ràng là, so với những tiểu thuyết khác
của bà, nó tách biệt hẳn ra, theo nghĩa, không
mặn mà, xứng hợp với những cuốn còn lại. Nếu có một
cái gì khác, ngoài cuốn tiểu thuyết đó
ra, ở trong những thành tựu đỉnh cao của bà, như người ta
thật dễ dàng nhận ra, và sẽ nhớ mãi, thì đó
là những tiểu luận mang tính phê bình, hầu hết
viết về những nhà văn, những nhà làm phim, mà
bà thu gom và cho in trong "Chống Dẫn Giải", "Against Interpretation"
(1966), cuốn sách đã làm
bà nổi tiếng; "Những Phong Cách Về Ý Chí Cấp
Tiến", "Styles of Radical Will" (1969), "Sinh dưới một vì sao xấu
xố", "Under the Sign of Saturne" (1980). Cuốn sách sẽ còn
sống dai khác nữa, là "Về Phim Ảnh", "On Photography" (1977).
Cuốn này, như "Người Tình Hoả Diệm Sơn", là một best-seller,
nhưng, đây là một chuyên khảo về quyền lực xa [the distancing
power] của hình ảnh, nó thực sự không trông mong
có được một thứ vinh quang mang tính bình dân,
hay đại chúng. Trong những bài viết ở trong đó, Susan
Sontag kết hợp một đam mê cho nhiều cách mới mẻ trong cái
nhìn (Godard, Artaud, "ngẫu hứng", "happenings") với sự trung thành
với những giá trị mang tính cổ điển (chân lý,
cái đẹp, sự thanh lịch), và từ đó, xây dựng
một cây cầu cho chúng ta, chỉ cho chúng ta bằng cách
nào, làm sao xâm nhập được Cái Hiện Đại, The
Modern.
Sau đó, khi mà hiện đại
sau cùng đã hất cẳng [supplanted] cổ điển, bà đổ
dồn đóng góp của mình cho sự phát triển này.
Cũng như thế, là với những phát triển mang tính
chính trị. Vốn là một người tả phái dấn thân,
bà đã từng ca ngợi những chế độ ở Cuba, ở Bắc Việt Nam, vào
thập niên 1960, và đã diễn tả "giống trắng", "the
white race", như là "ung thư của lịch sử nhân loại".
Điều này làm bà bị mất cảm tình rất nhiều,
từ hữu phái. Rồi thì, vào năm 1982, bà công
khai tuyên bố "Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa Phát
xít", ngược hẳn những gì bà
ca ngợi và tin tưởng trước đó, điều này càng
làm cho phái hữu có lý do để mất cảm tình
thêm với bà (Thế đấy, bây giờ đã
mở mắt ra chưa!), trong khi cùng lúc, làm tả phái
nghỉ chơi, bỏ chạy bà!
Nhưng, như cách bà nhìn,
bà được sinh ra, là để nói ra những quan điểm mạnh
bạo như thế đó. Và để thay đổi chúng, như là
thế giới thay đổi. Bà trải qua những năm đầu đời ở Paris, thành
thử ở trong bà có điều chi gần gụi với Pháp hơn so
với Hoa Kỳ: một trí thức của đám đông, một con người
với quyền của người đó, có thể nói, với bổn phận của
người đó, là đưa ra, trình tới cho bàn dân
thiên hạ, những tư tưởng, những ý nghĩ, như là sự đóng
góp của mình cho công cuộc bàn luận của xã
hội, về cuộc sống của nó. Bà thì cũng thật là
hăm hở, thật là tình cảm, dễ xúc động. Mắt bà
đẫm lệ, khi nói về những chuyện như là chính quyền
Miến Điện, hay Hilton Kramer, hay "Anh em nhà Karamazov", (tác
phẩm của Dostoevsky). Với bà, đọc và kinh nghiệm không
chỉ là những sự kiện mang tính tâm thần, tâm
linh; bà đón nhận chúng như là đón
nhận những ngọn phi tiêu lửa. Không có bà, thành
phố Nữu Ước như trở nên lạnh lẽo hơn.
Joan Acocella.
[Người Nữu Ước, số đề ngày 10
Tháng Giêng, 2005)
Bữa trước, 1 vị bằng hữu FB phán,
Susan Sontag là tác giả giấc mơ sáng ngủ dậy thấy biến thành Mít,
thứ cực Mít, là Bắc Kít!
Susan Sontag làm sao có được giấc mơ thần kỳ này.
Bà tới Hà Nội hai lần, và rất rành xứ Bắc
Kít, và có đưa ra 1 nhận xét, nhớ đại khái,
cách đọc sử viết sử của Mít, khác của Tây Phương,
cái gì gì đẳng thời, vô thời, anachronic, chronologic,
trên Tin Văn đã từng viết về vụ này, kiếm mãi
không thấy, nhưng đây cũng là nhận xét của Tolstaya,
Á Châu sống bằng lịch sử - anachronism - Âu Châu,
văn minh.
Chính vì sống bằng lịch sử, nên Bác Hồ
lâu lâu vỗ vai…Vua Hùng, toa có công
dựng nước,
moa giữ nước!
Sách
& Báo
Mới
(Trịnh Công Sơn, Ðinh Cường phác họa
ngày 1 tháng 4, 2001)
VHNT, số đặc biệt tưởng niệm TCS, khi ông vừa
mất, 7 April, 2001
In Memory of a Troubadour
http://www.tanvien.net/tribute/PCL.html
V Ă N H Ọ C N G H Ệ T H U Ậ T
P.O. Box 452512
Garland, Texas
75045-2512 USA
PHỤ TRƯƠNG VHNT ÐẶC BIỆT -
April 7, 2001
Những ngày Trịnh Công Sơn
Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi
tiếng, và qua Nguyễn Ðình Toàn, tại một bàn
cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do,
Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với
đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà
cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng
thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi,
nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó,
từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói
chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và
cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai
đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình
nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn,
và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán,
ấy là tôi suy đoán ra như vậy. Thời gian này,
tôi chưa để ý đến nhạc TCS. Nói rõ hơn,
nó chưa thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào
Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm
trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào
đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo
bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng
nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này,
tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên,
như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành
tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới,
vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy
yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ,
và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính
vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái
với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc
cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ,
họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh
Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính
phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến
của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau
vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một
bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân
lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng",
có thời gian TCS bị CS địa phương làm khó dễ, anh
phải vô Sài Gòn, và có than thở với
anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô đây,
gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang TCS không phải chỉ lần
đó. Theo như tôi được biết, những ngày cuộc chiến
dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên
Trung Tâm Ba, TCS may mắn đã được tướng Lưu Kim Cương che
chở. Trong số những quân cảnh tại thành phố, có người
chỉ mong cơ hội "chộp" được TCS! Tướng Lưu Kim Cương tử trận trong biến
cố Mậu Thân, khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn
Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh:
được chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.
Nguyễn Quốc Trụ
-by ianbui
"Living this life
Requires but the heart.
You know for what, my love?
For the wind -- to sweep it away..."
- Trinh Cong Son (1939-2001)
The year was 1974. The war was intensifying even though,
or perhaps because, US troops had all but withdrawn completely from
Vietnam. It was a turbulent time, a crazy time. An increasing number
of refugees had steadily been streaming South from Central Vietnam where
the fighting had escalated in preparation for the final Big Push. Conflicting
news, depressing news was everywhere. Everyone was tense.
I was a student at the Hong-Bang Academy in Saigon. Prepubescent,
preoccupied with more than just schoolwork and friends, and not so
naive anymore after the deaths of my uncle and a cousin (who was barely
seventeen when he marched off to die.) Nevertheless, I was a normal
kid -- a happy kid, all things considered.
One day our school organized a field trip to one of the refugee
camps that had been hastily set up outside Saigon. The weeks prior
we had collected several truckloads of food and supply for the refugees
-- everything from rice and instant noodle to sleeping mats and mosquito
nets. For a young boy who rarely got a chance to get away from the
safety of the capitol, it was an exciting event.
We'd made hospital trips to visit wounded soldiers before,
but seeing civilian sufferings face-to-face made the war seem even closer
and ever more real. For the first time in my life I saw a tent city,
with thousands of people crammed into it. (Little did I know then that
only a few months later I would be living in one myself!) I remember
the haggard look on the faces of the women, the wild staring eyes of the
children, the skinny old men, the bare feet, the mud, the smell, the
dust, the flies...
My classmates and I were considered "kids" and thus were not
given a lot of responsibilities. My job was to pass out drinks to the
11th and 12th graders who ran the operation, and to keep the water coolers
always filled. But I watched the elder students go about their work
-- organizing, worrying, laughing, sweating... -- with total awe and
respect. But the most poignant and memorable moment came during lunch
break, and it came quite unexpectedly.
Sitting atop one of the camions, our student council president,
a senior, took out a guitar and began to sing. We all stopped what
we were doing and started to gather around his truck to listen.
His voice was sweet but full of pain, his playing clear and
warm. Soon the music began to drift above the tent tops like a floating
lullaby.
"A tear for a child aslumber in peace
A tear for a stream that nurtures her weeds
A tear for an earth so barren and scarred
A tear for a race so displaced and scared..."
It was a song by Trinh Cong Son, one that I had heard on the
radio before but didn't pay much attention to. "A Tear For My Homeland"
[*] was its name. And for a small while everything seemed to come to a
standstill; even the dust settled and the flies stopped buzzing.
I still can see the image in my mind as though it was only
yesterday: An eighteen-year old, in his white-and-blue school uniform,
strumming and singing what was at the time considered "anti-war" music.
But no one protested. No one moved.
"A tear for a cloud asleep on the hill
A tear for a tree that silently fell
A tear for a man whose coarse blood's run dry
The tears of our land are coursing inside..."
"Oh, the tears of my heart
They're tearing apart the time of our lives
Oh, the tears in my soul
They beckon me on and on through the night..."
The sun beat down on our humble convoy. The heat rose up to
meet the still, blue sky. The song, cool as a blade, slowly knifed
its way into one's subconscious and then left it quietly bleeding at the
end.
"A tear for the birds who forests have fled
A tear for the night all covered with death
A tear for you, love, your pain to relieve
A tear without name -- this homeland I give."
It was one of Son's many war-time ballads that had made him
both a well-loved public icon and a loathed enemy of the Saigon regime
during those dark and fateful years. No matter. His songs always spoke
directly to the commoners -- and never with even a trace of pretension.
They sometimes were bitter, yes, but always filled with human compassion,
even in the face of utter hopelessness and despair. Those qualities have,
perhaps more subliminally than real, had some influence on my own artistic
and musical style years later -- one never knows for sure. But probably
the greatest debt I owe to this lonely poet/songwriter is not something
of the aesthetic realm, but rather an unconditional love for humanity
and a sense of humility and grace. And for that I feel thankful.
Farewell then, my friend, though we never have met; I hope
there is peace wherever you are. And to him that day on top of the
camion with a guitar (and whose name I didn't even know to forget) I
dedicate this requiem for the finest troubadour Vietnam has ever had.
April 09, 2001
Ephemeral
- Phôi Pha, tưởng niệm TCS
Run away, away to the past -- and from your fears.
In a way, the love that you cast away was
The last defense for your tears
You're away, a song for a while -- farewell, sing I.
In a way, the love that you hide away deep inside
Will conquer the years.
The curse that you wear,
The curtain you tear,
The cross that you bear!
No one dares to answer your prayers
(When no one believes, no one cares)
Come away, my love, come away and face your fears.
In a way, your battle is past --
I'll comfort and cast away all your tears.
4'2001
ianbui
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|