SN_GCC_2017
@ Taipei Airport, lượt đi.
Cái kiếng, rớt mất tiêu, liền sau đó.
Lượt về mất hành lý
Weave a circle round him thrice
And close your eyes with holy dread,
For he on honey-dew hath fed,
And drunk the milk of Paradise.
"Samuel Taylor Coleridge, "Kubla Khan," lines 51-54.
[from "Borges Tám Bó"]
Vẽ 1 cái vòng tròn ba lần
Rồi nhắm cặp mắt lé của mi lại
Với nỗi sợ thiêng liêng
Bởi là vì mi, đã tới giờ húp
1 húp cháo lú
Và uống 1 ngụm sữa thiên đường
Nỗi sợ thiêng liêng!
Holy dread!
Chắc là của Coleridge?
Borges: Tôi nghĩ là dịch từ Latinh, từ những
gì mà người La Mã cảm nhận [felt].
Người La Mã, cũng giống như lũ Bắc Kít, coi
Lăng Bác Hồ là nơi chốn thiêng liêng. Chúng
nói thầm với nhau, có vị thần nằm ở trong đó,
there is a god inside.
May 29 at 10:32 PM
những dẫn nhập không số
tháng 6. hè. chưa một tiếng ve.
những nụ hoa vừa hé. rưng rưng trong mưa. tháng
6 dầm dề. ở những con đường lạ hoắc tên. man mác vị
thân quen. một trang web dừng lại. một hụt hẫng chưa kịp quen.
thời gian dừng lại ở đó. người đi qua thời gian? đã
tìm được câu trả lời cho một lần đã hỏi?
80 năm như một chớp mắt? hay 80 năm như một đằng
đẵng?
tại sao lại có những giới hạn trong cuộc
sống như vậy? một dừng lại. và là một dừng lại
vĩnh viễn. chỉ còn lại những con chữ đứng chờ. chờ người
tìm đến đọc lại nó. trong một bối cảnh khác?
Và ngòai trời lại mưa. mưa chậm. chầm chậm. một màn
trăng trắng giăng phủ. và nhìn ra những hình
bóng.
rời bỏ cuộc sống thật này rồi sẽ đến đâu?
về đâu?
tựa lưng vào quá khứ. những lập
luận. kết nối uyên bác. một cái nhìn
khác. một cách nhận khác. được mở ra cho
những đọc. và còn gì nữa? trong cái
viết liên hoàn. trong chắp nối đông tây.
chắn sẽ còn nhiều nữa. tùy cái công
lực của người đọc nó.
vậy là chỉ còn một tháng.
cho tròn cái 80.
không đề
người về. bên ấy cuộc vui
có. người ở lại. ui ui. gàn gàn
đi xa. để cuộc vui. tàn
đi gần. ngẫm lại. một hàng lệ. xa
ừ thôi. thì có. phôi
pha
sao không. giữ lại phong ba. một thời
sao không. để lại lời. mời
DS
Tks
http://www.tanvien.net/Viet/Bolano_Trong_ngoac.html
BORGES AND THE RAVENS
I'm in Geneva and I'm looking
for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning,
although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer
the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting
across from the grave of some government minister. It's really more like
a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended.
When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground,
nods, and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way to
get lost. From what he says it's clear that visitors always coming and
going. But this morning the cemetery is literally empty. And when I finally
reach Borges's grave there’s no one nearby. I think about Calderon,
I think about the English and German Romantics, I think how strange life
is or, rather: I don't think anything at all. I just look at the grave
the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges, the date of his
birth, the date of his death, and a line of Old English verse. And then
I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a croak,
a few steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in
a poem by Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens,
enormous black ravens that hop up on the gravestones or the branches of
the old trees or run through the clipped grass of the Plainpalais. And
then I feel like walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky I'll
find Calvin's, and that's what I do, growing more and more uneasy, with
the ravens following me, always keeping within the bounds of the cemetery,
although I suppose that one occasionally flies off and goes to stand on the
banks of the Rhone or the shores of the lake to watch the swans and ducks,
somewhat disdainfully, of course.
Roberto Bolano:
Between parentheses
Note: Tay Bolano này,
đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu
thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là
đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung,
thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc
Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi,
có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết
về… BHD, hà hà!
Borges và những con quạ
Tôi ở Geneva và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ.
Đó là một buổi sáng mùa thu, trời lạnh,
mặc dù phía đông thấy có tí mặt trời,
và một vài tia nắng làm cư dân Geneva, một
giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng
điên lên.
Plainpalais, nghĩa địa Borges nằm nghỉ dài hạn, thực
đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó
làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn
(1), nơi, cứ xế trưa là người ta bèn tới đó, kiếm
1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất
nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là
một nghĩa địa, một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một
mẩu đất cũng được chăm sóc. Khi tôi hỏi người coi coi
giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó
xuống đất, gật gật cái đầu và chỉ dẫn, không một
lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách
thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó, quái
làm sao, trần mình tôi. Và khi tôi
tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai lảng vảng
quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về
những người Romantics Hồng Mao và Đức. Tôi bèn nghĩ
rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn:
Tôi đếch nghĩ cái mẹ gì hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn
cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng
thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái băng ghế đối diện
ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì
đó, bằng thứ ngôn ngữ quoạc quoạc của nó, cách
tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì ở Geneva, thì tôi
ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận ra, nghĩa địa
đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò giữa những
ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên
những thảm cỏ. Và tôi cảm thấy mình như đang lang
thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và,
nếu may mắn, tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và
đúng là điều tôi đang làm, mỗi lúc một
thêm bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn
giữ giới hạn, như trong nghĩa địa, và, như tôi giả dụ, thi
thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm
1 chuyến bay tới đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên
nga, vịt, với cái vẻ dè bỉu, khinh khi, tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây
nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng
đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành
người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
Không phải “vô tư” mà Bolano vinh danh
Borges, qua hình ảnh những con quạ.
Borges thú nhận, lần đầu đọc Poe, bài thơ con
quạ, ông không mê, nhưng sau đó, đọc 1 tay
viết về bài thơ này - Rossetti, ông choáng
người, và ngộ ra 1 điều về cái từ Everness. Thần sầu. Bảnh
hơn nhiều, nếu phải so với từ “vĩnh cửu”, eternity. Bảnh hơn nũa, ông
cũng tiện thể, nhớ BHD, giùm GCC, qua những dòng thơ sau
đây
As to the verses of Edgar Allan Poe, I know some of them by
heart, and I think them lovely, and others are not so good. For example,
I will begin by verses I learned:
Was it not Fate that, on this July midnight-
Was it not Fate (whose name is also Sorrow)
That bade me pause before the garden-gate,
To breathe the incense of those slumbering roses?
( Ah, bear in mind this garden was enchanted! ) *
Số phận chăng cái nửa đêm tháng Bảy
Định mệnh chăng ( Sầu Rầu thì cũng nó)
Nó biểu tôi, nè, hãy dừng chân,
trước cổng vườn
Để mà hít hà hương thơm của những bông
hồng đang thiu thiu ngủ
(Nè, hãy nhớ hoài điều này, đây
là khu vườn thần tiên)
And also this very strange line from his first book,
Al
Aaraaf. I am not sure. My erudition is but dim:
The eternal voice of God is passing by
And the red winds are withering in the sky! +
Và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng
đâu đây
Và gót hài của nàng thì
vưỡn còn in trên lớp bụi ngày nào
[Lần trở lại Quán Xưa]
And at the same time, when I think of the raven, I think of
it as a stuffed raven. I cannot take it seriously! When the raven speaks,
"Quoth the Raven 'Nevermore,' " that seems to me to be ineffective.
Rossetti, who had read "The Raven" of course, did it better. He was inspired
by Poe, but he wrote thus:
Look in my face; my name is Might-have-been;
I am also called No-More, Too-late, Farewell .... **
Hãy nhìn vào mặt ta.
Tên ta là GCC
Còn là Might-have-been
Còn là Hết rồi còn chi đâu Em ơi!
Quá Muộn!
Vĩnh Biệt BHD!
Hà, hà!
There is also that wonderful word invented by Bishop Wilkins
in the seventeenth century, a word so fine that no poet has ever dared
to use it. He invented two words. One, everness, and I was bold enough
to use that as the title for a sonnet of mine, "Everness." Because everness
is better than eternity. It goes with the German Ewigkeit. Then another
word like doom, a word far better than that line I like so much in Dante:
Lasciate ogni speranza voi cb'entrate "Abandon all hope you who enter
here." That single word invented, given to the English language by Bishop
Wilkins and never used because all those poets have stood in fear of
it, that terrible, that beautiful, word is neverness. That could be done
into German perhaps as Nimmerkeit. It can't be done into Spanish, I know.
You see, everness is a fine word and neverness is a desperate word.
Edgar Allan Poe wrote many verses and I don't think much of them,
but there is one story of his that stands out, and that story is "The
Narrative of Arthur Gordon Pym." You have Arthur and Edgar, both Saxon
names, then Gordon and Allan, both Scottish. Then Pym goes for Poe. Now the
first chapters of that long tale are not too memorable, I should say. But
the last chapters are a nightmare. And they are, strangely enough, a nightmare
of whiteness, of white being thought of as being terrible. Of course Herman
Melville had read "The Narrative of Arthur Gordon Pym," and he wrote Moby
Dick, or the White Whale. There he used the same idea, the idea of white,
not scarlet or black, as being the most terrible of colors. You find that
both books, Moby Dick and "The Narrative of Arthur Gordon Pym," are a nightmare
of whiteness.
*To Helen," lines 21-24, 30. This poem was written for Mrs. Sarah
Helen Whitman.
+Lines 131-32.
**Sonnet 97, "A Superscription," from The House of Life
Jorge Luis Borges: "Everness"
Everness
One thing does not exist: Oblivion.
God saves
the metal and he saves the dross,
And his prophetic
memory guards from loss
The moons
to come, and those of evenings gone.
Everything is:
the shadows in the glass
Which, in
between the day’s two twilights, you
Have scattered
by the thousands, or shall strew
Henceforward
in the mirrors that you pass.
And everything
is part of that diverse
Crystalline
memory, the universe;
Whoever through
its endless mazes wanders
Hears door
on door click shut behind his stride,
And only
from the sunset’s farther side
Shall view
at last the Archetypes and the Splendors.
Translated from Spanish by Richard Wilbur
[net]
Everness
One thing alone does not exist-oblivion.
God, who saves the metal, saves the dross
and stores in his prophetic memory
moons that have still to come, moons that have shone.
Everything is there. The thousands of reflections
which between the dawn and the twilight
your face has left behind in many mirrors
and those faces it will go on leaving yet.
And everything is part of that diverse
and mirroring memory, the universe;
there is no end to its exigent corridors
and the doors that close behind you as you go;
only the far side of the sunset's glow
will show you at last the Archetypes and Splendors.
-A.R.
Note: Bài thơ này, Tin Văn đã giới thiệu,
và có bản tiếng Mít, để kiếm sau.
Nhớ, là có chôm Nguyễn Du, "Mai sau dù
có bao giờ", để dịch cái từ thần sầu Everness, của Borges...
Đành dịch lại, theo hai bản tiếng Anh, trên đây.
Mai sau dù có bao
giờ
Một điều, mình nó không thôi, thì
không hiện hữu - Sự Lãng Quên
Ông Trời, Người kíu kim loại, kíu kít kim
loại – còn gọi là gỉ sét -
Và trữ, chứa trong hồi ức tiên tri của Xừ Luỷ,
Những con trăng sẽ tới
Những con trăng những đêm nào đã qua đi
Mọi thứ
thì, rằng thì là, cứ thế bày
ra đó
Ngàn ngàn những phản chiếu
Giữa rạng đông và hoàng hôn
Trong rất nhiều tấm gương
Là khuôn mặt Em để lại
[Cái gì gì, đập cổ kính ra tìm lại
bóng]
Hay, sẽ để lại, trước khi soi bóng
Và mọi điều thì là phần của cái hồi nhớ
tản mạn, long lanh, vũ trụ;
Làm gì có tận cùng cho những hành
lang khẩn cấp của nó
Những cánh cửa đóng lại sau khi Em đi
Chỉ ở mãi phía xa kia, trong rực rỡ dương quang
Sẽ chỉ cho Em thấy, sau cùng, những Nguyên Mẫu và
những Huy Hoàng
MY GIFT TO YOU
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The Paris Review
Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The Paris
Review có bài thơ tuyệt vời của
Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh
tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và
“kín đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ
Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa. (1)
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ
là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi"
đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật nhiều năm,
có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy
ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít
rồi
Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực cần
đến nó
Và chắc chắn không
phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là một thoáng
chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể,
chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái
gọi là "mono no aware",
“Nỗi
buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của
mi".
Nhưng cũng chỉ được 1 tí
tí.
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.
J.L. Borges
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
Hồi ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và tầu thuyền
Và bụi của những đế quốc
Và tiếng ì ầm sóng vỗ chung quanh chỗ ngồi
Của những vần thơ ở đâu xa
Và những chú chiến mã hùng vĩ
Và những tiếng la thét và Shakespeare.
Gấu chỉ muốn nhớ nụ hôn của BHD
Bữa bãi khoá, biểu tình
Nơi nghĩa trang Bắc Việt
Lần
Cuối Sài Gòn
1965. Những ngày
viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian xa cách
làm những giọt nước chín mùi, biến thành những
chữ. Cô bé đã lớn, đã bước vào những
năm cuối cùng của bậc Trung Học. Đã có lần tham gia
biểu tình, bãi khóa. Đã có người yêu
đón đưa những lần tới lớp, những giờ tan trường. Đã bị bà
Giám Hiệu ra thông báo cấm những trò có
hại cho thanh danh nhà trường như vậy. Đã bãi học
không phải để tham gia biểu tình, nhưng để đi chơi với người
yêu. Lợi dụng thành phố đang trong cơn nhốn nháo, cả
hai theo chiếc xe lên nghĩa trang Bắc Việt để thì thầm những
lời yêu đương giữa những nấm mồ và lắng nghe những người đã
chết kể về từng gốc cây ngọn cỏ.
IN THE SNOW
Tracks of someone lost,
Bleakly preoccupied,
Meandering blindly
In these here woods,
Licking his wounds
And crunching the snow
As he trudges on,
Bereft and baffled,
In mounting terror
With no way out,
Jinxed at every turn,
A mystery to himself.
-Charles Simic
NYRB June 8 2017
Trong tuyết
Dấu vết kẻ nào đó thất lạc,
Hoang mang chộn rộn
Mù lòa dọ dẫm
Trong rừng này.
Liếm, láp vết thương
Nhai, gậm tuyết
Hắn lê lết
Như mất trí, lầm lạc
Và thế là nỗi ghê rợn tăng lên
Không lối thoát
Vận rủi ở từng lối ngoặt, ngã rẽ,
Một bí ẩn với chính hắn.
Nếu
Một Mai
http://www.tanvien.net/Doc_gia_Tac_gia/neu_mot_mai.html
Mai mốt nếu em quên
Anh nhớ nhắc dùm em nhé
Hãy chỉ lên bầu trời có mây bay nhè nhẹ
Rắc vài giọt nước làm mưa
Để em nhớ ngày xưa
Có ngày mình đi với nhau suốt buổi
Hãy tặng cho em một đóa hồng phơi phới
Thơm thật là thơm
Em sẽ bâng khuâng tự hỏi làn hương
Đến từ một vườn hồng nào xưa cũ
Hãy chỉ cho em con đường mòn quanh co lòng phố
Hãy gọi cho em những món ăn que
Dắt em đến ngồi ở quán ven đường
Nơi mình đã nhâm nhi bình trà thơm mùi
sen mới
Hãy đọc em nghe lời thơ tình vời vợi
Anh thường viết cho em
Hay cho những người anh quen
Không cần đề tặng
Em sẽ không hỏi vì đâu mà nguồn thơ lai láng
Trong thế giới già nua nhớ nhớ quên quên
Chỉ nhớ rằng đã có một thời lòng thật dịu êm
Khi nghe đọc những bài thơ rất lạ
Nếu mai mốt em nằm , mắt sâu hồn úa
Anh đừng cho xem hình chúng ta từ thuở còn xuân
Em sẽ không nhìn ra em , ra anh
Em sẽ khóc vì trong tận cùng tri giác
Em biết em và anh , đã khác
DLK
Note: Tình cờ,
đúng vào những ngày này, Mít, thương
tiếc, tưởng niệm sự ra đi của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh, cùng
nhâm nhi bài thơ "Kiếp nào có thương nhau", thì
FB của GCC post bài thơ trên đây, từ Tin Văn của 1 vị
bằng hữu, và cũng được một số thân hữu trầm trồ, và
share…
Do K không enjoy FB, nên post lại ở đây, như 1 thông
báo & chia vui & san sẻ & take care….
Kiếp Nào Có Yêu
Nhau
Tác giả: Minh Đức Hoài
Trinh
Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi
Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ
Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi
Câu thơ của MDHT, “tình xanh không
lo sợ”, được PD chuyển thành, “tình xanh khi chưa lo sợ”, quá
tuyệt vời, và lạ làm sao, cả bài thơ của vị bằng hữu
là 1 “ứng tác, hoành dương…”, thứ tình yêu
này, và ôi chao, THNM, làm nhớ tới câu văn
ngày nào của GCC:
“Anh không sợ chúng ta không thương yêu nhau mà
chỉ sợ chúng ta yêu nhau nhiều quá!”
Chả là BHD quá sợ, quá thù, quá chán
ông bố khốn kiếp của em. Cô sinh ra đời này, để thù
ông bố của mình.
Cô lấy chồng để trả ơn ông bố sinh ra cô... Mi không
biết vác gạo cho bố ta, làm sao ta lấy mi...?
Cứ mỗi lần có dịp đi chơi, là phải kêu 1 cái
tắc xi qua Chợ Lớn, và những giây phút bên nhau,
em mới hạnh phúc làm sao….
GCC thì tất nhiên, nhưng em hạnh phúc mới thê
lương làm sao, khi về nhà nhớ lại…..
Chỉ có tình là tuyệt vời thôi, như K phán.
Tks
NQT
http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/diana.html
Diana: Une légende
Thông Báo:
Nestcape Composer không accept new images updated
nữa. Copy & paste từ 1 trang net khác, thì lại
OK!
Xin coi hình ảnh mới post, về trận
đánh An Lộc [April 13 - June 18], 1972, ngày nào
trên FB, địa chỉ ở đầu trang TV
Binh sĩ VNCH, lần đầu tiên 1972, được nhìn
thấy T54 của Bắc Việt
Hình ảnh lấy từ FB. Tin Văn
sẽ lai rai ba sợi về nội dung của mấy số báo mới mua.