Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư
năm 1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết Mỉm
Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về
phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở
đầu trang
Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại những
trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả
bài
vở trên
Tin
Văn,
ngoại
trừ những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Nếu
Một Mai
http://www.tanvien.net/Doc_gia_Tac_gia/neu_mot_mai.html
Mai mốt nếu em quên
Anh nhớ nhắc dùm em nhé
Hãy chỉ lên bầu trời có mây bay nhè
nhẹ
Rắc vài giọt nước làm mưa
Để em nhớ ngày xưa
Có ngày mình đi với nhau suốt buổi
Hãy tặng cho em một đóa hồng phơi phới
Thơm thật là thơm
Em sẽ bâng khuâng tự hỏi làn hương
Đến từ một vườn hồng nào xưa cũ
Hãy chỉ cho em con đường mòn quanh co lòng
phố
Hãy gọi cho em những món ăn quen
Dắt em đến ngồi ở quán ven đường
Nơi mình đã nhâm nhi bình trà
thơm mùi sen mới
Hãy đọc em nghe lời thơ tình vời vợi
Anh thường viết cho em
Hay cho những người anh quen
Không cần đề tặng
Em sẽ không hỏi vì đâu mà nguồn thơ
lai láng
Trong thế giới già nua nhớ nhớ quên quên
Chỉ nhớ rằng đã có một thời lòng thật dịu
êm
Khi nghe đọc những bài thơ rất lạ
Nếu mai mốt em nằm , mắt sâu hồn úa
Anh đừng cho xem hình chúng ta từ thuở còn
xuân
Em sẽ không nhìn ra em , ra anh
Em sẽ khóc vì trong tận cùng tri giác
Em biết em và anh , đã khác
DLK
Note: Tình
cờ, đúng vào những ngày này, Mít,
thương tiếc, tưởng niệm sự ra đi của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh,
cùng nhâm nhi bài thơ "Kiếp nào có yêu
nhau", thì FB của GCC post bài thơ trên đây,
từ Tin Văn, của 1 vị bằng hữu, và cũng được một số thân hữu
trầm trồ, và share…
Do K không enjoy FB, nên post lại ở đây, như
1 thông báo & chia vui & san sẻ & take care….
Kiếp Nào Có Yêu
Nhau
Tác giả: Minh Đức Hoài
Trinh
Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi
Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ
Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi
[net]
Câu thơ của MDHT, “tình xanh không
lo sợ”, được PD chuyển thành, “tình xanh khi chưa lo sợ”,
quá tuyệt vời, và lạ làm sao, cả bài thơ của
vị bằng hữu là 1 “ứng tác, hoành dương…”, thứ tình
yêu này, và ôi chao, THNM, làm nhớ tới
câu văn ngày nào của GCC:
“Anh không sợ chúng ta không thương yêu
nhau mà chỉ sợ chúng ta thương yêu nhau nhiều quá!”
Chả là BHD quá sợ, quá thù, quá
chán ông bố khốn kiếp của em.
Cô sinh ra đời này, để thù ông bố của mình.
Cô lấy chồng để trả ơn ông bố sinh ra cô...
Cô học y khoa, 1 phần là vì vậy, do hai ông
anh vô dụng của cô không làm được việc này
Mi không biết vác gạo cho bố ta, làm sao ta lấy
mi...?
Cứ mỗi lần có dịp đi chơi, là phải kêu 1 cái
tắc xi qua Chợ Lớn, và những giây phút bên
nhau, em mới hạnh phúc làm sao….
GCC thì tất nhiên, nhưng em hạnh phúc mới thê
lương làm sao, khi về già nhớ lại…..
Chỉ có tình là tuyệt vời thôi, như K
phán. (1)
Tks
NQT
Lạ, là mấy vị bằng hữu, như K, như O, hay như 1 vị mới hân
hạnh quen biết qua FB, đều rất rành về GCC.
Rành cái phần cực là cù lần của GCC.
Chỉ có phần đó của mi là tuyệt vời thôi!
(1) Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu
, vẫn thấy đây là phim Tầu hay nhất, dù không
vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
K
Album
Happy Birthday to U, Grandma
8.4.2017
30.4.2017
Tôi kết luận bằng lời
của Leszek Kolakowski, mà tôi tin tưởng, nó nói
lên quan điểm của Sakharov:
"Không có chiến thắng nào mà không
có thể đảo ngược, không có thất bại nào là
chung quyết.
Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để
cho chúng ta sống, nó".
Sự việc Giáo sư Ngô Bảo Châu đóng blog của
ông có lẽ cũng nằm trong sự đe doạ của Hà Nội liên
quan đến những phát biểu chính trị của ông về Luật sư
Cù Huy Hà Vũ. Vì uy tín quốc tế của giáo
sư mà Hà Nội không thể sách nhiễu hay bắt giam
ông.
Hy vọng Giáo sư Ngô
Bảo Châu chỉ tạm dừng để suy nghĩ một thời gian ngắn rồi sẽ mở lại
cổng thông tin và tiếp tục giao tiếp, chia sẻ những kiến thức
chuyên môn và suy tư về đất nước với những người đã
trân quí ông qua phát biểu đầy dũng khí
của một trí thức: ''Bám theo lề là việc của con cừu,
không phải việc của con người tự do.''
Bùi Văn Phú
Theo GNV, cơ may của thiên
tài Toán NBC, qua rồi.
Trường hợp NBC làm Gấu nhớ đến thiên tài Sakharov,
cha đẻ bom nguyên tử của Nga.
TV tính dịch bài viết ngắn về Sakharov, mà
cứ lu bu đủ thứ chuyện làm xàm hoài.
Nhân đây, dịch, và lèm bèm tiếp,
về NBC và những đấng tinh anh Bắc Kít, những con người suy
nghĩ, chỉ với 1 nửa bộ óc:
Chúng không hề biết đến số phận lũ Ngụy và Miền
Nam trước 1975.
Cái vụ NBC ẵm Nobel Toán
rất giống cú giải phóng Miền Nam!
Miền Bắc giải phóng Miền Nam, là để thống nhất đất
nước, từ đó, xây dựng Cái Nhà Mít bằng
trăm bằng ngàn trước, xóa sạch mọi nhục nhã 1 ngàn
năm nô lệ Tầu Lạ, 1 trăm năm nô lệ Tây Mũi Lõ…
Than ôi, thay vì vậy, thì là đủ thứ tội
ác xẩy ra, và 1 nước Mít băng hoại đến “tận cùng
tận” như hiện nay.
Cứ như thể, Thượng Đế cho giống Mít ra đời để thực hiện cái
cú 30 Tháng Tư, và Xừ Luý không thể ngờ
được cái sự xẩy ra sau đó!
Chính vì thế mà Thượng Đế cho NBC đầu thai,
lấy cái Nobel Toán, để sau đó, đứng giữa Ba Đình,
phán, phải thay đổi chế độ, nhằm sửa chữa mọi tai họa cho dân
Mít.
Than ôi, ông ta lại
quên, không làm như vậy, và thay vì làm
như vậy, thì ông ta lấy cái nhà cho "ba má",
và qua Mẽo dạy học!
Compared to the might of a State,
especially a State as ruthless as the Soviet Union has been for most of
this century, it is easy to think of the individual as a ridiculously weak,
even helpless entity. Even when the individual in question is as distinguished
and influential a scientist as Andrei Sakharov, he can be scooped up out
of his life, the way the KGB seized Sakharov after he criticized the Soviet
invasion of Afghanistan, and hurled on to the garbage heap of history, in
this case the remote town of Gorky.
And yet the
meaning of a life like Sakharov's is that individual weakness can be
turned to strength, if one has the will and moral courage to do so. Now
that the power of Soviet communism is crumbling, while the ideas and principles
to which Sakharov dedicated his days are changing the face of Europe, the
great physicist's endurance and refusal to be broken give his autobiography
the status of an exemplary life.
So với sức mạnh của một quốc
gia, và, hơn thế nữa, một quốc gia độc đảng, độc tài, toàn
trị như Liên Xô thì 1 cá nhân chẳng là
cái chó gì, cho dù cá nhân đó
là 1 khoa học gia, cha đẻ ra bom nguyên tử Nga: Nhà
nước sẽ tóm lấy ông ta, thẩy vào đống rác lịch
sử, với ông ta, là lưu đầy tại 1 thành phố hẻo lánh
xa xôi.
Ấy vậy mà 1 cá nhân nhỏ bé yếu ớt đã
thay đổi hẳn bộ mặt của lịch sử. Sakharov, với ý chí, với
sự can đảm đạo đức, đã dám chống lại cả 1 chế độ.
Khủng hơn nữa, những ý tưởng mà nguyên lý
của ông, không chỉ làm cho đế quốc Đỏ Liên Xô
rung rinh, mà còn làm thay đổi bộ mặt của Âu
Châu....
Salman Rushdie phán, [dịch
đại khái, "thoáng"], khi điểm cuốn tiểu sử của Sakharov...
Ui chao, có đúng
là hoàn cảnh sẽ xẩy ra đối với 1 NBC không, nếu ông
ta đứng giữa Ba Đình, giơ cao cái bửu bối Nobel Toán….
Gọi là cơ may, một hạnh
phúc xẩy ra trong đời bạn, nếu bạn nắm kịp lấy nó, và
sẽ trở thành đại bất hạnh, nếu bạn vờ nó!
Cơ may 1 đời của NBC, là
cái cú đúng ra phải xẩy ra như trên.
Cơ may của cả dân Mít,
[đúng hơn phải nói, lý do hiện hữu, raison d’être,
của giống Mít], là cú 30 Tháng Tư không
có Cái Đại Ác Bắc Kít sau đó.
Cơ may của… Gấu, thí dụ, là may quá, không
bỏ chạy, hà, hà!
Cơ may của nhà thơ mê
gái HC, là tao đếch thèm viết tự kiểm….
Bởi thế mà nước Nga có
những con người mà Bắc Kít đếch có!
David Remnick phán, về
trường hợp Brodsky, trong bài viết Perfect Pitch, TV giới thiệu trong Tôi
hết còn tin ở nơi chốn đó, ông ta chán
chính trị, chán tuẫn nạn, nhưng khi bị số phận lọc ra, thì
ông đóng trọn vai của mình, 1 cách tuyệt hảo,
ở nơi đỉnh cao chót vót [perfect pitch là thế đó]
Đâu có khốn nạn
như đám Bắc Kít, 36 năm sau, đất nước hoàn toàn
mất vào lũ mafia đỏ, mà vẫn có thằng khốn kiếp đòi
hỏi, tại sao chỉ có 1 nhà văn anh hùng?
Giá mà có
hai, thì có lại có thêm một 30 Tháng
Tư, có thêm 6 triệu người uổng tử?
Note: Khi NBC được Nobel Toán,
GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú tương tự như
trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác
H… dõng dạc cảnh cáo:
"Không có chiến thắng nào mà không
có thể đảo ngược, không có thất bại nào là
chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng
để cho chúng ta sống, nó".
Ui chao, mừng hụt! NQT
Andre Gide on Gandhi's assassination:
"It is as if God had been defeated."
Manguel trích dẫn.
Gide phán, về cú
Gandhi bị ám sát: Như thể Thượng Đế bị đánh bại.
Ông Giời mà cũng bị VC Bắc Kít đánh lừa,
với chân lý giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước!
Bài thơ sau đây, là của 1
anh nhà văn anh hùng Chu Cẩm Phong Tẫu, nói với đàn
em, là tên thi sỡi VC.
CCP Tẫu chết đuối,
trong khi cứu pho tượng bằng thạch cao của Bác Mao, anh ruột Bác
H.
Anh được phong liệt
sĩ, kèm mề đay, và được chôn tại chân núi...
Đền Hùng!
Anh hùng CCP Tẫu nói:
Ta chán nằm đây
quá rồi
Sông Hồng, Đền Hùng, Núi Hùng thì
không tệ
Lâu lâu có chú nai vàng ngơ ngác
tới chốn này
Giống như Bộ Đội Cụ Hồ lạc bầy, thành tên cướp rừng!
Ta cảm thấy cô đơn và nhớ nhà
Ở đây lạnh lắm, khi Đông tới.
Ta thấy mi tới
Chẳng khác gì đám mây lang thang trên
bầu trời bên dưới là cánh đồng cỏ
Ta biết đúng là mi
Bởi vì có thằng ngu nào đến thăm ta đâu
dòng dã bao năm trời
Tại sao mi mang ba thứ đồ hàng mã, giấy tiền, cuốc
lủi, thịt heo?
Ta đã nói với mi nhiều lần rồi
Ta không mê tín, dị đoan
Mi có mang Thánh Kinh Đỏ của Bác H cho ta không?
Ta thuộc lòng từ lâu rồi, nhưng ít lâu
nay, nhẩm lại,
hoá ra cũng quên mất vài dòng.
Mi lại bỏ quên ở nhà
rồi.
Còn bức tượng mà ta đã cứu được
Vẫn ở trong Viện Bảo Tàng?
Bác H vưỡn mạnh khoẻ?
Cầu Bác sống ngàn năm.
Tuần rồi ta mơ gặp mẹ ta
Đang khoe cái mề đay của ta cho một người khách lạ
Bà vẫn tự hào về đứa con trai
Và đầu ngẩng cao mỗi khi đi ra đồng.
Trông bà già hơn năm ngoái
Mớ tóc bạc của bà làm ta đau lòng
Tao không thấy đứa em gái
Chắc là làm dâu xứ Hàn rồi?
Tại sao mi khóc?
Nói điều gì cho ta nghe coi.
Mi nghĩ ta không thể nghe được mi nói
Những năm đầu mi đến thăm ta
Mi quì trước mồ
Cầu khấn sẽ noi gương ta làm anh hùng
Những năm gần đây
Chỉ thấy mi khóc.
Thằng khốn kiếp
Tại sao không mở miệng?
Chuyện gì xẩy ra? Chắc chắn phải có!
Cái gì? Tại sao mi không nói ta ta biết!
Ha Jin
The Dead Soldier's Talk
In October 1969, in a shipwreck accident on the
Tumen River, a young Chinese soldier was drowned saving a plaster statue of
Chairman Mao. He was awarded Merit Citation 2, and was buried at a mountain
foot in Hunchun County, Jilin.
I'm tired of lying here.
The mountain and the river are not bad.
Sometimes a bear, a boar, or a deer
comes to this place
As if we are a group of outcast comrades.
I feel lonely and I miss home.
It is very cold when winter comes.
I saw you coming just now
Like a little cloud wandering over grassland.
I knew it must have been you,
For no other had come for six years.
Why have you brought me wine and meat and paper-money again?
I have told you year after year
That I am not superstitious.
Have you the red treasure book with you?
I have forgotten some quotations.
You know I don't have a good
memory.
Again, you left it home.
How about the statue I saved?
Is it still in the museum?
Is our Great Leader in good health?
I wish He live ten thousand years!
Last week I dreamed of our mother
Showing my medal to a visitor.
She was still proud of her son
And kept her head up
While going to the fields.
She looked older than last year
And her grey hair troubled my eyes.
I did not see our little sister.
She must be a big girl now.
Has she got a boy friend?
Why are you crying?
Say something to me
Do you think I cannot hear you?
In the early years
You came and stood before my tomb
Swearing to follow me as a model.
In recent years
You poured tears every time.
Damn you, why don't you open
your mouth?
Something must have happened.
What? Why don't you tell me!
THE PARIS REVIEW
Issue 101, 1986
TTT có
phán câu mà G nhớ đại khái, khi nhà
văn rao truyền sự thực, và chẳng may, nhân loại nghi ngờ,
anh ta có 1 cách để chứng minh đó là sự thực,
đó là cái mạng của anh ta.
Và chúng ta tự
hỏi, liệu có thứ nhà văn anh hùng, như thế?
Mít có đấy. Những
đồng chí Nguyễn Thi, quả là đã tin vào chân
lý giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng
đất nước thành văn minh, giầu có, giầu lòng nhân
đạo, có đủ thứ hạnh phúc…
Nhưng cuộc chiến khủng khiếp
quá, nó nuốt sạch thứ người “tử tế” này, chỉ còn
thứ khốn kiếp như tên VC thi sĩ.
Nhưng đồng chí Nguyễn
Thi của VC Bắc Kít, chưa ghê bằng đồng chí Victor Serge,
của .. VC Nga, cha đẻ của Trường hợp đồng chí Tulayev.
Nguyễn Thi tử trận Mậu Thân, không hề biết đến sự thực
về cuộc chiến sau ngày 30 Tháng Tư. Serge mới ghê,
ông còn đi xa hơn cả TTT, khi phán:
Chính vào lúc
bạn tính đem tính mạng ra để bảo đảm sự thực, thì
là lúc, bạn khám phá ra sự thực, và nó
thật là khủng khiếp:
Ông phán:
Nói cho cùng, quả là có cái đó,
cái như là sự thực.
After all, there is such a thing as truth.
Và ông phán
tiếp:
Điều khủng khiếp khi bạn tìm kiếm sự thực, là, khi
bạn kiếm thấy nó.
Bài tưởng niệm Serge,
Không thể lụi tàn: Trường hợp Victor Serge, của Susan
Sontag thật tuyệt.
TV
sẽ giới thiệu, để tặng những đồng chí VC nằm vùng hay VC
Bắc Kít!
Tribute
TTT
Guillaume Apollinaire died on November 9, 1918-he was only
thirty-eight years old. His organism, weakened by the heavy injuries
he'd sustained at the front, couldn't withstand the Spanish flu. He
lay dying just as the First World War concluded, and witnesses recalled
how crowds filled the ravine of boulevard Saint-Germain-where the poet occupied
a top-floor apartment-and chanted, "A bas Guillaume"-Down with Guillaume-meaning
Wilhelm, the German kaiser.
I've long loved-along with "Zone" and a
few other poems - one work of Apollinaire's particularly, "La Jolie
Rousse," "The Pretty Redhead." It's one of his last works, a kind of
testament.I'll quote it here in Roger Shattuck's translation:
Behold me before all a man of good sense
Knowing life and of death what a living man can
know
Having experienced the griefs and the joys of love
Having been able to assert his ideas on occasion
Knowing several languages
Having travelled a good bit
Having seen the war in the Artillery and Infantry
Wounded in the head trepanned under chloroform
Having lost his best friends in that frightful struggle
I know of the old and of the new as much as one man
alone can know of them
And without being uneasy today about this war
Between us and for us my friends
I pronounce judgement on this long quarrel of tradition
and innovation
Of Order and Adventure
You whose mouths are made in the image of God's
Mouths which are order itself
Be indulgent when you compare us
To those who have been the perfection of order
We who seek everywhere for adventure
We are not your enemies
We wish to offer you vast and strange domains
Where flowering mystery offers itself to whoever
wishes to pick it
There are new fires there and colors never yet seen
A thousand imponderable phantasms
To which reality must be given
We would explore goodness a vast country where
everything is silent
There is also time which one can banish or call back
Pity us who fight always in the front lines
Of the limitless and of the future
Pity our errors pity our sins
Behold the return of summer season of violence
And my youth died like the spring
O Sun it is the time for flaming Judgement
And I wait
To follow for ever the sweet noble form
It assumes in order that I may love it alone
It comes and it attracts me as a magnet does the needle
It looks for all the world just
like
My redhead darling my beloved
Her hair is really gold you'd say
A flash of lightning which endures
Or flames which dance a proud pavane
In roses as they slowly fade
But laugh laugh long at me
Men from anywhere above all men of this place
For there are so many things I dare not tell you
So many things you will not let me say
Have pity on me
This striking poem is difficult to interpret; we have an avantgarde
poet begging for forgiveness, for mercy, when the standard avant-garde
tone is arrogant. Apollinaire was torn between tradition and modernity;
he adored older poetry and knew it well, yet he advocated novelty, the
renewal of artistic expression, he recalls the once-famous battle of the
Ancients and the Moderns. But here, in this poem, he stands at the world's
center, at a cross-roads. It's a late poem, as I said, the poet had been
seriously wounded at the front (the line about trepanning refers to this),
he doesn't have much life left. What does it mean to stand in the world's
center, between archaism and modernity? Perhaps it means that someone who's
known true suffering no longer treats t he slogans of ambitious young
artists with deadly earnestness. Someone who stands between life and death
no longer places faith in programs and manifestos .
AZ: SLIGHT EXAGGERATION
Bài viết này, gửi theo TTT, quá OK.
GCC & PNC @ Cẩn’s, Cư Xá
Thanh Đa, Sài Gòn, cc 2001
ANECDOTE OF RAIN
I was strolling under the tents
of trees
and raindrops occasionally reached me
as though asking:
Is your desire to suffer,
to sob?
Soft air, wet leaves;
-the scent was spring, the scent sorrow.
Giai thoại mưa
Anh lang thang dưới tàng
cây
và những hạt mưa thỉnh thoảng
lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá ướt;
-Mùi xuân, mùi buồn
SN_GCC_2017
thăm cô chú nhiều sức khoẻ.
kính
những dẫn nhậ p không số
làm toán cộng. với những gì đã mất.
42 năm. và 11 năm. một quê hương. một người cha. không
có cái mất mát nào dễ quên cả. cử đợi
đến ngày đó. tháng đó. dấy lại những cái…
thật khó mà diễn bằng lời. như vết thương lại tấy mủ. đau.
nhưng cái đau đã quen. buồn. một cái buồn đã
cũ. bất lực trong cái chọn lựa. chỉ để nói. đó là
hai cái mất thật giống nhau. giống ở cách effect. ừ. mà
lại lan man vớ vẩn đi đường nào. ông nhỉ. trở lại để viết
hỏi ông. nhưng lại không muốn hỏi. tôi muốn viết một cái
gì khác. cái khác đó. tôi chưa
nghĩ ra ngay lúc này.
- trong văn chương tôi chưa có dịp đọc (hay không
có?) ai viết bài tự phê bình mình.
sao ông không viết phê bình về “phê bình”
của ông và cái “viết” của ông?
- ngồi trong một xó. rồi rải cái chữ. tung bay tứ
hướng. những cái dây dưa thật của ông. từ một thời
xa lắm. nay đã không thật. hay đã không còn
có thể thật. cái quán. con đường. trạm bưu điện.
những người con gái một thời. đã không còn.
trại cấm sekiew songkhla. chỉ còn trong tưởng nhớ. panatnikhom
camp nay chỉ là đồi trọc. bơ bơ cát bụi. không còn
một tí ti dấu vết của một tị nạn. mà ông lại phây
phây theo nhưng cái không thật. rồi giải lại bài
toán của ông một thời. đâu là cái nguồn
cơn? đâu là động lực đưa đẩy? tôi không nghĩ chỉ
là đơn thuần cái đọc. ông giải thich sao?
- ông ở đâu vào cái giờ phát
lệnh đầu hàng năm 75? ông còn nhớ tâm tình
của ông lúc ấy?
theo tôi đó là dấu chấm của cái
phân nửa trước của ông. mà cái phân nửa
đó hình như quan trọng lắm với ông. vì nó
được cưu mang suốt trong cái phân nửa sau qua cái viết
của ông.
khúc trước bão
ch. à
mùa này. đã bắt đầu. lạnh
mùa gì. mà lá. rơi
nhiều lúc gió. thổi. điên
chợt thèm. ly cà phê. nóng
mình. quen chưa? ch. và. tôi
dăm email qua. lại
những. xã giao. lệ thường
thế thôi
cái nào? chung của bọn. mình
những. bài thơ của. ông bố
cùng những. cái bóng. ngất ngưởng
người ngoài. không hiểu. được
còn. một cái khác. sau sự ràng. buộc
bằng. cách nào? để mọi việc. bình thường
khi màu đỏ. đã hết và. chữ nghĩa đã.
hết
ch. à
khi nào. rảnh
ngồi xuống. một ly. rượu
(hay cà phê. cũng xong)
vài. câu chuyện
(hay im lặng. cũng vậy)
ch. và. tôi
cái nhớ đi. về trong câm. nín
có nghe? tiếng cào. lá xạc xào
khi. chiều chạng vạng. không ch?
tiếng. còi tàu rúc. sao mênh mông
quá. đỗi
để phải. đứng lại. dẫu không biết. phải làm gì
ừ. khi nào. nhớ
tôi. đốt lò sưởi
như bếp lửa. và chỉ ngồi. một mình
huơ. huơ tay im. lặng tìm hơi. ấm
nhớ. người đi trong. tuyết
cái áo lạnh. quá khổ cùng. cái
tẩu trên. môi
ch. à
thì vẽ khi. nhớ
thì viết khi. cô đơn quá. đỗi
rồi. làm gì nữa? cho tôi. biết
đêm dài. quá
rồi. cơn bão. tới ngày mai
dù có. lật tung tất. cả
cũng sẽ. qua
để lại. những cái nhớ gắt. gỏng
ch. à…
TKS
TT/NQT
.... nay chỉ là đồi trọc. bơ bơ cát
bụi.
Ôi chao, cảm khái chi đâu, nơi đóng dấu địa
ngục ngày nào.
Tks
Bụi
Họ nói, họ thấy hai ông
tiên, râu tóc bạc trắng, mỗi ông cầm một cuốn sổ,
ngồi đối diện trên hai mỏm đá. Bên dưới là những
hồn ma, kẻ khóc lóc, kẻ năn nỉ... "Sự thật" nổ bùng
ra, như thuốc súng. Mọi người đổ xô ra mân mê, khẩn
cầu hai mỏm đá vô tri. Có thể vì quá bực
mình, hoặc ái ngại, hoặc muốn cho cuộc phán xét
tử sinh được công tâm, hai vị tiên đã cho xây
những bức tường cao, che kín mọi bí ẩn.
Bây giờ nếu bạn không tin,
xin mời tới Sikiew. Những bức tường giờ này vẫn còn, và
được dùng vào việc giam tù, đóng dấu ấn Địa
Ngục.
Trong những điều được nói về
Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có
điều này: Nó thực sự là một địa ngục.
The Good vs The Christian
Cái Tốt vs Cái
Ky Tô!
Christianity has been stigmatised
"as a redoubt of ignorance", as has the word "liberal…as if
generosity were culpable".
Tinh thần Ky Tô bị bêu rếu như “đồn
nhỏ, ga xép của sự ngu dốt", như thể "rộng luợng là
phạm tội"!
Tây phương hay nói
“Giá trị Kitô”; các giá trị này,
Liberté, Égalité, Fraternité, Tự
do, Bình
đẳng, Huynh đệ có nguồn gốc từ Lời dạy của Jésus, dù
lời dạy này đã có từ muôn ngàn năm trước
nhưng điểm mốc vẫn là từ năm zéro.
Liberté: Có nhiều dụ ngôn
đề cao tinh thần làm chủ: Làm chủ mới có
tự do.
Égalité: Mọi người đều được mời
cả những thành phần indésirables, intouchables.
Fraternité: Yêu người như mình
vậy.
Nguồn gốc này bây
giờ trở thành “Ở đời muôn sự của chung” nên
mới không còn căn tính của mình: the word 'Christian' now is seen less as identifying
an ethic and more as identifying a demographic!
Mong bác khỏe luôn
nghe.
Tks
Merry Christmas and Happy New Year to Both of
U.
NQT
Tinh thần Ky Tô Mẽo, công
chúng, và chính trị của khổ hạnh, cả ba
đều cảm thấy họ "như được nhắc tới", [all three got tough ride],
trong đêm Thứ Năm [28.11.2013], khi Marilynne Robinson, nữ
tiểu thuyết gia vừa đoạt giải Pulitzer, nói chuyện với cử
tọa tại London.
Là tín hữu Ky
Tô, bà cho biết, được dậy dỗ về sự rộng lượng và tinh
thần lạc quan, bởi phong trào nhân quyền, nhưng, bà than
thở, hàng chục năm nay, tinh thần Ky Tô bị bêu rếu, “như
là đồn xép, ga nhỏ của sự ngu dốt”, như thể, “hào phóng,
rộng lượng là phạm tội”. Bà tố thêm, "cái
từ 'Ky Tô' bây giờ, thì ít được coi như
đạo hạnh, và nhiều, như là 1 từ thuộc phạm trù
nhân khẩu học”.
Hệ quả, là cú
song đấu, giữa cái tốt, cái đẹp “versus” tinh thần Ky Tô.
Và, “bộ lạc” Ky Tô, những thành viên của họ “có
thể ác liệt tha thứ cho chính họ, và, rất độc ác,
khi tố cáo bất cứ người nào khác.”
Đúng là 1 hoàn
cảnh chẳng thú vị, không hề hấp dẫn: Có
những điều tệ hại hơn nhiều, so với “đã chắc gì
như thế”, và, trong số đó, cái “bất chắc”
này cũng là 1 giả dụ.
Truyền thông, công
chúng, the media, Mẽo, cảm thấy nhột hơn nhiều, khi bà
“lịch sự” nói, họ đếch thích thứ người biết điều,
"the media do not find reasonable people interesting". Sau đó,
với 1 tay của BCC, [Mark Lawson], bà buộc tội một số chương
trình TV, đài phát thanh Mẽo, đã làm
ung thối nặng nề cuộc chát chiếc quốc gia, profoundly corrupting
the national conversation. Nó bị giựt dây, và
có mùi phản dân chủ, ở ngay gốc của nó, bởi
là vì nó muốn đưa vô cuộc sống công
cộng những nhận xét giả tạo”, "It's manipulative and at its root
it's anti-democratic, because it wants to intrude artificial considerations
into public life."
Khủng nhất, là khi
bà đưa ra nhận xét, khi được 1 khán thính
giả hỏi, bà nghĩ gì về thứ chính trị của sự
khắc khổ: "Tôi nghe người ta nói, 'Bạn nhịn đói
hôm nay, để ngày mai ăn khỏi trả tiền'! Tôi đếch
tin, tất nhiên! Tôi cũng đã sống đủ, biết đủ, để
mà nói rằng thì là, chúng ta đang
đếch làm cái gì cả, ngoại trừ phá huỷ tương
lai, khi cướp đoạt, bỏ đói… những con người dễ bị tổn thương.
Thật quá tởm, đối với tôi”
The Watchman's Lament
The following is the opening of Ted Hughes's
translation of Aeschylus' Agamemnon, which he completed before
his death on October 29 [1998]
Watchman:
You Gods in Heaven-
You have watched me here on this tower
.All night, every night for twelve months
Thirteen moons-
Tethered on the roof of this palace
Like a dog.
It is time to release me.
I've stared long enough into this darkness
For what never emerges.
I'm tired of the constellations-
That glittering parade of lofty rulers
Night after night a little bit earlier
Withholding the thing I wait for-
Slow as torture.
And the moon, coming and going-
Wearisome, like watching the sea
From a.death-bed. Like watching the title
In its prison yard, with its two turns
In out in out.
I'm sick of the heavens, sick of the darkness.
The one light I wait for never comes.
Maybe it never will come-
A beacon-flare that leaps from peak to peak
Bringing the news from Troy-
"Victory! After ten years, Victory!"
The one word that Clytemnestra prays for.
Queen Clytemnestra-who wears
A man's heart in a woman's breast,
A man's dreadful will in the scabbard of her
body
Like a polished blade. A hidden blade .
. Clytemnestra reigns over fear.
I get up sodden with dew.
I walk about, to shift my aches.
I lie down-the aches harden worse,
No dreams. No sleep. Only fear-
Fear like a solid lump of indigestion
Here, high in my belly-a seething.
Singing's good for fear
But when I try to sing-weeping comes.
I weep. There's no keeping it down.
Everything's changed in this palace.
The old days,
The rightful King, order, safety, splendor
A splendor that lifted the heart-
All gone.
You Gods
Release me.
Let that flame come leaping out of the East
To release me.
Note: Bạn đọc Tin Văn đã đọc Tên
Căn [Canh] Me, The Watcher, của Borges.
Giới thiệu thêm bài này,
tình cờ vớ được trong 1 số báo cũ, từ hồi mới qua
xứ lạnh, NYRB Dec 3, 1998.
/notes_1/burden_childhood.html
Note: Bài này
đang hot
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ,
Graham Greene viết:
"Có vài nhà văn, khác
nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống ai, nhưng
đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi
được: gánh nặng tuổi thơ. Đứa con nít bị tống vô
một xưởng máy đen thui, trong trường hợp Dickens, còn
với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa
canh cặn nhà bà cô Aunt Rosa, bên một con
đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều chẳng
bao giờ quên được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó của
họ, đều như dính mắc tới những tháng, những năm bất hạnh
đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn
nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng
ta đã có tí ti kinh nghiệm, để mà
tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào
những năm tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích
cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa toàn những
cay đắng ngày nào, (1) thì có lẽ những
lời phán của Greene xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và
cái, đã tìm cách nương tựa vào
nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống
sót hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát
hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê
hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng,
trốn thoát cả một lô những ông bạn quí
hoá."
Harper's April 2013
Vô đề
Tất cả những gì tớ muốn
Là nhậu với bà xã
của tớ
Một ly rượu đỏ không bao
giờ cạn
Cả hai trên sàn nhà
Những tên cà chớn
sẽ nghĩ thế nào?
Khi nhìn hai đứa tớ?
Đời của hai đứa mi mới thê
thảm làm sao
Chán chường và lầm lạc
Khi bà xã tớ phải
đi ra phố
Và tớ ở nhà
Tớ chỉ muốn khóc
Trăng kia, trên tàng
cây
Sao ánh trăng chua xót
đến như thế
Chẳng có cuốn sách
nào
Hôn tớ được như bà xã
tớ hôn tớ.
Bài này mà
tặng "Ngày Của Vợ", giống như “Ngày Của Mẹ",
nhỉ?
*
Trong bài thơ Vô
Đề,
Theo K cái câu có
chữ "squares" có nghĩa là :
"Kệ cha mấy tên cà chớn
chê cười tụi mình . Đời tụi nó trông
mà chán chết ."
Hà hà
Tks a lot.
Take care, both of U
NQT
https://www.threepennyreview.com/tocs/149_sp17.html
Cherry Pie
If it’s true that the
devil has his finger
In every pie, he must be waiting
For the night to fall, the darkness to
Thicken in the yard, so we won’t see him
Lick the finger he dipped in your pie,
The one you took out of the oven, my love,
And left to cool by the open window.
—Charles Simic
http://www.newyorker.com/magazine/2011/12/12/one-man-circus
Poems December 12, 2011
Issue
One-Man Circus
By Charles Simic
Juggler of hats and live hand grenades.
Tumbler, contortionist, impersonator,
Living statue, wire walker, escape artist,
Amateur ventriloquist and mind reader,
Doing all that without
being detected
While leisurely strolling down the street,
Buying a newspaper on some corner,
Bending down to pat a blind man’s dog,
Or sitting across from
your wife at dinner,
While she prattles about the weather,
Concentrating instead on a trapeze in your head,
The tigers pacing angrily in their cage.
Note: Bài này,
nhớ là đã có bản tiếng Mít.
Kiếm hoài chưa thấy!
Thấy rồi:
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/19.html
Note: Gánh Xiệc 1 Người
này sao giống GCC quá!
Hà, hà!
Gánh Xiệc 1 Người
Kẻ tung nón, lựu đạn
thực
Gã nhào lộn, tay thể dục mềm dẻo,
Tên nhạo nhại, chuyên đóng
vai Bác Hồ.
Tượng sống, Người đi trên dây
Nghệ sĩ chui vô hòm rồi thoát
ra, khoá còn trinh.
Gã lảm nhảm bằng bụng.
Tên đọc ý nghĩ trong đầu khán
thính giả.
Làm tất cả những chuyện
đó mà chẳng bị phát hiện
Trong lúc dạo phố
Mua tờ báo tại một góc đường.
Chôm cho trang TV.
Cúi bắt tay con chó của 1 người
mù
Cùng Gấu Cái dùng
bữa tối
Mỗi đứa 1 đầu bàn chiếu tướng lẫn nhau
Trong lúc Bả lèm bèm về
thời tiết
Cái đầu
Gấu lo cú bay trên chiếc đu
Những con hổ giận dữ nhào tới nhào
lui trong chuồng.
Note: Số
báo trên, còn bài thơ này,
cũng thật là tuyệt
THE NEW SONG
For sometime I thought
there was time
and that there would always be time
for what I had a mind to do
and what I could imagine
going back to and finding it
as I had found it the first time
but by this time I do not know
what I thought when I thought back then
there is no time yet
it grows less
there is the sound of rain at night
arriving unknown in the leaves
once without before or after
then I hear the thrush waking
at daybreak singing the new song
-W. S. Merwin
Note: Bài thơ
cực lạ, ở cái từ "time", được lập đi lập lại, làm nhớ Brodsky
- bao thơ tôi, ít nhiều chi là về thời gian, và
về thời gian làm gì con người, và Borges.
Khổ thơ chót quá tuyệt. TV sẽ đi 1
đường chuyển ngữ, liền
Và bài
về ông Trùm Elia Kazan:
http://www.newyorker.com/magazine/2010/12/13/method-man-john-lahr
Vĩnh biệt Hoàng
Cầm
For someone a
fresh breeze blows.
For someone the sunset luxuriates
"Requiem" (Anna Akhmatova)
Sông Ðuống trôi đi
Một giòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ
Hoàng Cầm
You will write about us on a slant
[Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng, về
chúng tôi]
Joseph Brodsky
Osip Mandelstam
Valentine's
Day
Valentine
Day 2011
Là hạt gạo thất thểu
Hồn u mê theo bầy gió u
mê
Lưu vong mà nhỏ lệ
Đời như tan vỡ
Là câu thơ bị chôn
sống dưới tầng đá, cỏ
Đá tảng đố kỵ
Cỏ độc vô sĩ
Lá nỗi đợi phục sinh trên
nắm xương khô
Đá sẽ nát rục dưới vết
chân chạy lửa mù
Cỏ cháy bùng
Tro than sá kể .
2003
Note: Bài thơ này, có
mấy từ khó hiểu. Có thể lỗi chính tả.
Là nỗi đợi phục sinh trên
nắm xương khô?
Cỏ độc vô sỉ?
Chào bác, TN đã
vào TV và đã thấy bài thơ có mấy
chỗ bác cho là lỗi cần sửa. Câu "Là nỗi đợi
phục sinh trên nắm xương khô." Câu này đúng.
Nó liền ý với mấy câu trên: thơ bị chôn
sống (dưới tầng đá,cỏ) thì cũng như tác giả bị
chôn sống,đợi có biến cố để phục sinh thì thi thể
tác giả đã thành nắm xương khô rồi. Biến cố
được mong đợi chỉ có thể là lửa.
Lửa mới có thể nung được đá tảng và đốt
được cỏ độc vô sỉ. Chỉ có chữ sĩ (vô sĩ) là
sai. Dấu hỏi (vô sỉ) mới đúng. Cám ơn bác đã
nhắc nhở. TN tui cũng rất cảm kích và vô cùng
cảm ơn những lời khen tặng bác dành cho hai bài Cầm
tay hôn biết địa chỉ, và bài Mười dấu chân qua.
Lời khen của bác đầy chân tình và rực rỡ như
bình minh. Có điều khó cho Tn là muốn gom
các câu đó lai để làm thành một bài
cám ơn nghiêm chỉnh ngắn gọn, dán lên trang
chủ, mà chưa biết cách rút câu ra. Bác
viết xen kẽ, đối chiếu với các
tác giả bự khác trên thế giới làm tui tự
thấy ngộp thở đó bác. Xin bác tha cho cái
tội chưa viết được bài cám ơn như ý muốn và
cái tội chậm trễ nầy.
Tks
Tôi lộn từ "Lá".
Đúng phải là, "Là"
Bài thơ này là 1 "echo" của "Lửa", của
Khoa Hữu, theo GCC
Tks again
Sách
& Báo
Mới
Cuốn này, nếu không có ngày 30 Tháng
Tư, là đã có bản tiếng Việt của NQT.
Cuốn
Thượng Đế Đã
Chết Khủng Khiếp Thật.
Nó
nói về Mẽo giải phóng Ý, và nó
tiên tri ra hai cuộc giải phóng khác, tại Việt
Nam.
Gấu lập lại, hai cuộc giải phóng.
1.
Quân đội Mẽo tới Miền Nam,
nhằm giải phóng miền đất này, thoát cuộc xâm
lăng của VC Miền Bắc.
2.
VC Miền Bắc giải phóng Miền Nam.
Và xoá sổ nó.
Trong cuốn sách
mới ra lò, Une rencontre,
Kundera vinh danh, và trả nợ, những nhà văn đã
từng ảnh hưởng lên ông. Trong có Malaparte và
cuốn La Peau mà Gấu đã
từng dịch, bản tiếng Việt có tên là Thượng Đế đã chết trong thành phố,
và cái tít này, tiếu lâm vô cùng,
như tiên tri ra được cái gọi là sự băng hoại về đạo đức
nơi xứ Mít của chúng ta. (1)
Thượng Đế Đã Ngỏm chắc là
ăn khách quá, ông Nhàn ra lệnh Gấu dịch tiếp
cuốn Kaputt
(1944).
Gấu nhớ, trong có câu chuyện tiếu lâm thú
vô cùng, và, quái, nó cũng tiên
tri cú băng hoại hiện thời ở xứ Mít.
Một anh Cớm VC bắt 1 em, chắc hậu duệ lũ Ngụy, mấy chục năm
sau Phỏng Giái, vưỡn còn đi treo cờ “ba que sỏ lá”.
Thấy còn con nít quá, và, lại xinh
quá, anh ta bèn giở trò, và chỉ mắt của
anh ta:
Trong hai con mắt này, một thật, một giả. Mi nói
đúng con nào giả, ta tha không bắt đi tù.
Em phán, dễ ợt, và
chỉ đúng con mắt giả, với cục thuỷ tinh.
Anh Cớm VC ngạc nhiên quá đỗi, hỏi, làm
sao mà mi biết?
Dễ ợt! Con mắt đó người hơn so với con mắt thật của
mi!
Yankee mũi lõ hăm
đẩy Yankee mũi tẹt về thời kỳ đồ đá.
Chúng quả đã làm được điều này.
Cái Ác Nazi vs Cái
Ác Bắc Kít: Cơn khát trả thù
vừa vĩnh cửu vừa luôn luôn cực kỳ nham hiểm!
Số ML mới này có bài
đọc, đọc lại Kawabata mới thần sầu. Tin Văn sẽ đi bài
này, thay vì về Heidegger.
Thiếu nữ và mùi của ẻn
Xứ Tuyết
Đề tài (Le thème]:
Xứ Tuyết
kể, qua nhiều giai đoạn rời, épisodes
discontinues, một câu chuyện tình bất khả, impossible,
giữa 1 tay trí thức Tokyo và 1 nàng geisha
tỉnh lẻ, provinciale
Cấu trúc khởi nguyên [từ này
chôm trong nước, La structure originale] của cuốn tiểu
thuyết, là từ một truyện ngắn mà tác giả
đặc biệt quá mê, được viết năm 1935, Kawabata bèn
đi 1 chuỗi truyện ngắn, độc lập, riêng biệt, 12 năm sau,
gom lại, biến thành cuốn tiểu thuyết đầu tay.
“Trên núi đã trở nên
âm u vào lúc hoàng hôn, bên
trên cây cầu, tuyết đầu tiên đã đặt
để cái trắng toát của nó: Sur la montagne
déjà sombre dans le crépuscule, au-dessus du
pont, la première neige posait sa blacheur"
Rằng, cái chuyện, Kawabata, sinh
cùng năm với Borges, Nabokov, hay Hemingway, không
làm chúng ta ngạc nhiên.
Cécile Sakai
« II est facile d'entrer dans
le monde des Bouddha, il est difficile d'entrer dans le monde
des démons ... Tout artiste aspirant au vrai, au bien
et au beau comme objet ultime de sa quête, est fatalement
hanté par le désir de forcer cet accès difficile
du monde des démons, et cette pensée, apparente ou
secrète, hésite entre la peur et la prière.
»
Thật dễ vô thế giới của Phật, thật
khó, của Quỉ… Mọi nghệ sĩ thèm vươn tới cực
điểm của cái thực, cái tốt, cái đẹp thì
đều bị ám ảnh bởi cú vượt vũ môn, vô
được thế giới của Quỉ, và đó là khoảnh khắc,
hiển nhiên hay bí ẩn, ngập ngừng giữa sợ hãi,
và khẩn cầu.
Như là ngủ với một Đức Phật
ẩn giấu, « comme si l'on couchait avec un Bouddha
caché ». Liệu đó là điều mà
“vĩ nhân” GGM tìm kiếm, khi viết "Bướm Buồn"?
Dans quel monde entrait le vieil Eguchi
lorsqu'il franchissait le seuil des « Belles Endormies » ? Ce
roman, publié en 1961, décrit la quête de vieillards en
mal de plaisirs. Dans une mystérieuse demeure, ils viennent passer
une nuit auprès d'une adolescente endormie. Mais la
fille ne s'abandonne pas au sommeil naturel. Sous l'effet d'un
puissant narcotique, elle dort d'une traite tout au long de la
nuit. Elle ignorera même avec qui elle a passé cette
nuit. Ces vieillards ou « clients de tout repos » franchissent
les chambres secrètes des dormeuses comme le temple de quelques
prêtresses. Et là, auprès de ces poupées
vivantes, peut-être retrouvent-ils l'illusion d'une jeunesse,
d'une vitalité perdue, d'une dernière aventure sans
doute, « comme si l'on couchait avec un Bouddha caché
». Sans honte et sans gêne, sans culpabilité aucune,
ces vieillards incapables désormais de se comporter en hommes,
trouvent la leur dernière chance, un cadeau de vie. Pour Eguchi,
ces nuits passées dans la chambre des voluptés lui permettront
de se ressouvenir des femmes de sa vie, et de se plonger dans de longues
méditations. Pour atteindre, qui sait, au seuil de la mort, à
la douceur de l'enfance et au pardon de ses fautes.
N. C.
PTH, hình như trong 1
truyện ngắn, có tả cảnh trên, xẩy ra cho đám
thanh niên Miền Bắc chưa từng biết bướm là gì,
những đứa con nít nhỏ máu ngón tay xẻ dọc
Trường Sơn kíu nước: Bữa tối, trước ngày xuất quân,
họ được vô Đền Thiêng, và được vị nữ tu, ban lộc
Thánh.
Với đám nhỏ, bướm
lành, hay rách, lần đầu, thì cũng xêm
xêm như nhau mà thôi.
In Memoriam Paul Celan
Lay these words into the dead
man's grave
next to the almonds and black
cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops,
eyes,
and Thou, O bitterness that
pillows his head.
Lay these words on the dead
man's eyelids
like eyebrights, like medieval
trumpet flowers
that will flourish, this time,
in the shade.
Let the beheaded tulips glisten
with rain.
Lay these words on his drowned
eyelids
like coins or stars, ancillary
eyes.
Canopy the swollen sky with
sunspots
while thunder addresses the
ground.
Syllable by syllable, clawed
and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and
absolute.
Lay these words on the dead
man's lips
like burning tongs, a tongue
of flame.
A scouring eagle wheels and
shrieks.
Let God pray to us for this
man.
Note: Bài phỏng vấn này, Tin
Văn đã giới thiệu rồi.
Vấn đề, ở đây, không phải với
người phỏng vấn, Derrida, mà người được phỏng vấn.
Và cùng với ông, là
thứ tiếng Đức mà ông phải sử dụng, cũng là
tiếng của kẻ giết người.
PAUL CELAN AND LANGUAGE
JACQUES DERRIDA
Q: Would you say that one must
have been, like Celan maybe, capable of living the death of
language in order to try to render that experience "live"?
A: It seems to me that he had
to live that death at each moment. In several ways. He must
have lived it everywhere where he felt that the German language
had been killed in a certain way, for example by subjects of the
German language who made a specific use of it: the language is manhandled,
killed, put to death because it is made to say in this or that
way. The experience of Nazism is a crime against the German language.
What was said in German under Nazism is a death. There is another
death, namely the canalization, the trivialization of language, of
the German language for example, anywhere, anytime. And then there is
another death, which is the one that cannot happen to language because
of what it is, that is to say: repetition, slide into lethargy, mechanization,
etcetera. The poetic act thus constitutes a kind of resurrection: the
poet is someone who is permanently involved with a language that is dying
and which he resurrects, not by giving it back some triumphant aspect
but by making it return sometimes, like a specter or a ghost: the poet wakes
up language and in order to really make the "live" experience of this waking
up, of this return to life of language, one has to be very close to the
corpse of the language. One has to be as close as possible to its remains.
I wouldn't want to give in to pathos too much here, but I suppose that
Celan had constantly to deal with a language that was in danger of becoming
a dead language. The poet is someone who notices that language, that his
language, the language he inherits in the sense I mentioned earlier,
risks becoming a dead language again and that therefore he has the responsibility,
a very grave responsibility, to wake it up, to resuscitate it (not
in the sense of Christian glory but in the sense of the resurrection
of language), neither as an immortal body nor as a glorious body but
as a mortal body, fragile and at times indecipherable, as is each poem
by Celan. Each poem is a resurrection, but one that engages us with a
vulnerable body that may yet again slip into oblivion. I believe that
in a certain way all of Celan's poems "remain indecipherable, keep some
indecipherability, and this decipherability can either call interminably
for a sort of interpretation, a resurrection, new breaths of interpretation
or fade away, perish again. Nothing insures a poem against its death,
because its archive can always be burned in crematory ovens or in house
fires, or because, without being burned, it is simply forgotten, or not
interpreted or permitted to slip into lethargy. Forgetting is always
a possibility.
From an interview with Evelyne
Grossman, Europe
861-62 (January -February 2001): 90-91.
Ông muốn nói, một
người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng
sống cái chết của ngôn ngữ để làm cho kinh
nghiệm này thành “sống”?
Theo tôi, ông ta
phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh
khắc. Theo một vài đường hướng. Ông ta phải sống
nó ở mọi nơi, một khi mà ông ta cảm thấy, rằng,
cái ngôn ngữ Đức đã bị làm thịt, theo
một cách nào đó, bởi lũ Nazi Đức. Lũ này
đã sử dụng tiếng Đức một cách đặc biệt để hưởng
lợi, trục lợi, từ đó [nước Mít là một, sông
có thể cạn núi có thể mòn, song chân
lý này không bao giờ thay đổi, thí dụ]:
Tiếng nói, ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng,
làm thịt, khi bắt phải nói thế này, thế nọ,
nói khác là đi tù cải tạo mút
mùa lệ thủy. Kinh nghiệm Nazi/VC là một tội ác
đối với ngôn ngữ Mít/Đức. Điều được nói dưới chế
độ VC/Nazi là một cái chết. Còn một cái
chết khác, là đào rạch, tầm thường hóa ngôn
ngữ, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Và rồi
còn 1 cái chết khác nữa, một cái chết đúng
ra không thể xẩy ra cho ngôn ngữ, bởi vì nó
là ngôn ngữ, đó là, sự lập đi lập lại, chìm
vào hôn mê, máy móc hoá, etcetera.
Hành động thơ ca do đó tạo ra một hình thức tái
sinh, nhà thơ là một người thường trực mắc míu với
một ngôn ngữ đang chết, và anh cố làm nó tái
sinh, không phải bằng cách đem cho nó một
khiá cạnh, sắc thái huy hoàng, chiến thắng
nào đó, nhưng mà là, làm cho
nó, đôi khi, trở lại như một bóng ma [Ta về như
bóng ma hờn tủi. TTY]: nhà thơ đánh thức ngôn
ngữ, và như thế, anh ta thực sự làm “sống’ cái
kinh nghiệm đánh thức đó, cái sự trở về lại với
đời sống của ngôn ngữ, người phải luôn luôn thật cận
kề với cái cái xác thân ngôn ngữ. Người
phải gần gụi tới mức tối đa mà người đó có thể,
với cái còn lại, tro cốt, tro than của ngôn ngữ.
Tôi không muốn làm cái trò thở than,
vãi linh hồn ở đây, nhưng tôi giả dụ, đề xuất rằng
thì là Celan đã phải hằng hằng, liên luỷ
ăn thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang trong cơn nguy nàn trở
thành 1 ngôn ngữ chết. Nhà thơ là một kẻ nào
đó, và kẻ này nhận ra rằng ngôn ngữ, ngôn
ngữ của anh ta, ngôn ngữ mà anh ta thừa hưởng như tôi
mới vừa nói, có nguy cơ lại trở thành 1 ngôn
ngữ chết, và do đó, anh ta có trách nhiệm,
một trách nhiệm nặng nề, là đánh thức nó
dậy, làm cho nó tái sinh [tái sinh ở đây
không có nghĩa tràn đầy hào quang, ân
sủng theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo nghĩa,
sự tái sinh của ngôn ngữ), không phải như là
một cái bất tử, cũng không phải như là 1 cái
xác đầy vinh quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng
Ba Đình, thí dụ đểu!], nhưng là 1 cái xác
phàm có sống có chết, mảnh mai, mỏng manh, và
đôi khi, không thể giải mã, như mỗi bài thơ
của Celan. Mỗi bài thơ là 1 tái sinh, một sự tái
sinh khiến chúng ta có thể dấn thân vào 1 cơ
thể tầm thường, yếu ớt, rất dễ bị tổn thương, và có thể,
rất dễ lại chìm vào cõi mê, vào giấc
hôn thụy. Tôi tin rằng, theo một đuờng hướng nào
đó, tất cả những bài thơ của Celan không thể giải
mã được, chúng giữ 1 cái sự không thể giải
mã nào đó. Và cái sự không
thể giải mã này kêu gọi một thứ "lại dẫn giải", một
tái sinh, những hơi thở mới của diễn giải, hay... diễm
xưa dần, và lại điêu tàn, huỷ diệt. Chẳng có
gì bảo đảm [insure: bảo hiểm] một bài thơ chống lại cái
chết của nó....
Note: Bài viết của Derrida,
tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít
gần như lơ là, tức là về ngôn ngữ Mít,
sau Lò Cải Tạo.
Khi dịch "Phép Lạ Hổng",
của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này,
và chôm 1 câu trong bài, làm
đề từ cho bài điểm cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc
Tấn:
For let us keep one fact clearly
in mind: the German language was not innocent of the horrors
of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn
ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những
điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép
Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Mẹ có đau khổ không,
Mẹ ơi,
như Mẹ đã từng đau khổ...
Tại sao thi sĩ, trong một thời đại
khốn khổ như thế này?
(Pourquoi des poètes en temps de
détresse? Holderlin)
Theodor Adorno, triết gia Đức gốc
Do thái, cho rằng sau cuộc chiến, chẳng những không thể, mà
còn chẳng nên viết. Rằng, làm thơ ca trữ
tình sau kinh nghiệm Auschwitz
là một hành động dã man. Một hành
động thậm vô tình, ngu si đần độn, mà một
thi sĩ thực sự chỉ còn một cách là tháo
lui, chào thua. Hãy hiện hữu trong vắng bóng,
trong im hơi lặng tiếng.
Celan cho thấy là Adorno đã
lầm. Ông, có lẽ, là thi sĩ duy nhất làm
được điều đó.
Đã có nhiều thơ ca viết về
Lò Thiêu Người, đọc lên nghe cũng cảm động,
nhưng chúng không thể trở thành điều khủng
khiếp: Lò Thiêu Người. Chúng không thể
thực hiện được điều này bằng giọng độc nhất của thi ca. Celan,
chỉ mình ông, đã làm thế giới đó
trở thành của riêng ông, như một nhà thơ.
Ông sinh ra với tên Paul Antschel,
đôi khi viết là Ancel, trong một cộng đồng Do
thái định cư tại Bukovina, phía bắc Romania.
Celan, một trò chơi đảo tự, là bút hiệu
được ông sử dụng từ năm 1947, và trở thành
tên thật. Điều này cũng đặc biệt đối với một thi sĩ
từng gọi một trong những thi tập của mình là "Bông
Hồng của Không Ai", Die Niemandrose, một từ tiếng Đức, đẹp, không
thể dịch được, ôm hình ảnh ma quái của một thi
sĩ biết anh ta không hiện hữu, ngoại trừ trong những từ mà
anh ta tạo nên.
Bao tình cảm đối với bậc sinh thành,
Celan dồn hết cho bà mẹ. Bà đã từng thủ
thỉ với cậu con những vần thơ và cổ văn Đức. Ông viết
về bà thật cảm động:
Và mẹ có đau khổ không,
mẹ ơi,
như mẹ đã từng đau khổ, ôi
chao, một lần ở quê nhà,
Sự dịu dàng, tiếng nói Đức,
điệu ru đau buồn đó.
Celan không làm sao quên
nổi cái chết của bà mẹ. Vào năm 1942,
một năm sau khi Đức xâm lăng, cha mẹ ông bị đưa đi
trại tập trung ở Ukraine, nơi người cha chết vì bệnh bang
đỏ, bà mẹ bị giết, hình như bị bắn vào sau
cổ bởi tụi Đức, sau khi bà ngã bịnh và không
thể làm việc. Trong một trại cưỡng bức lao động khác tại
Romania, người con sống sót, tìm được cách qua Vienna
từ Bucharest, hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt, và sau đó,
tới Paris vào năm 1948, nhưng thực ra hồn ông vẫn quanh quất
ở Ukraine, nơi bà mẹ ngã xuống. Ông đã viết
về cái chết của mẹ, trong những vần thơ đầu, bằng những từ giản
dị không thể chịu được:
Cây Bạch Dương
Bạch Dương lá
trắng trong đêm
Tóc mẹ tôi chẳng bao giờ bạc...
Vòng sao, cây cuộn vòng
vàng
Trái tim mẹ tôi bị cắt bằng
dây chì.
Cửa sồi kia, ai ép mi kẽo kẹt
Mẹ dịu hiền của tôi chẳng thể trở
về.
Đối với Celan, ngôn ngữ độc
nhất có thể diễn tả nỗi mất mát lớn lao đó là
tiếng Đức, tiếng được nói bởi những người đã gây nên
điều đó. Tuy có thể nói được tiếng Romanian, tiếng
Yiddish, bà thực tình cảm nhận tiếng Đức mới
là tiếng mẹ đẻ của bà, như người con sau này
đã từng khẳng định: "Chỉ trong tiếng mẹ đẻ, một người mới
nói lên sự thực của riêng người đó. Trong
tiếng nước người, thi sĩ nói dối." Ông đã nói
lên sự thực của riêng ông, bằng tiếng mẹ đẻ và
cũng là tiếng của đám người đã giết bà.
Thực sự, vào thời gian chấm dứt cuộc
chiến, Celan chưa từng suy nghĩ, ông sẽ là một
thi sĩ. Và nếu như vậy, ông sẽ sử dụng ngôn
ngữ nào. Ông "ở nhà", trong tiếng Romanian,
và bị quyến rũ bởi những tính chất riêng của
nó, cảm thấy thích hợp với dòng thơ siêu
thực mà nhiều thi sĩ Romanian thời đó thường làm.
Ông hầu như cũng "ở nhà", với tiếng Pháp, và
tiếng Nga - ông đã từng viếng thăm Paris trước chiến tranh
và có ý định trở nên một sinh viên
y khoa - và ngay cả trong thời gian chiến tranh ông đã
dịch những thi sĩ được ông yêu thích như Esenin,
và Mandelstam. Suốt cuộc đời, ông dịch đủ loại thi sĩ
- Marvell, Housman, Emily Dickinson... và rất nhiều thi sĩ
khác nữa - nhưng sự thực của riêng ông chỉ có
thể thốt lên bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng của bọn đao phủ.
Như Mandelstam mà ông ngưỡng
mộ, theo đó, thi ca giản dị chỉ là "văn hóa
thế giới", Celan cho cảm tưởng, ông có thể đem
vào thi ca mọi điều Âu châu và Mỹ
châu có thể dâng hiến, trong khi cùng
lúc, vẫn là chính mình, một cách
trọn vẹn, một cách đau thương, tức tưởi. Nghịch lý
này cũng thật hiển nhiên, ở Kafka - Celan đã
dịch một số truyện của Kafka qua tiếng Romanian, vào lúc
cuối cuộc chiến. Kafka đã làm những độc giả nước ngoài
say mê ông ngạc nhiên, khi tỏ ra là một người
tin tưởng mạnh mẽ, và ái quốc, đối với Đế Quốc Hapsburg
cổ xưa. Cũng vậy, Celan coi Vienna, một trong những thành phố
bài-Do thái nhất Âu châu, như Thánh
địa thiên nhiên của bất kỳ một dân tộc Trung-Âu
có văn hóa: Những dân tộc ngoại vi Đế quốc Áo-Hung
đã nhìn Vienna như ngôi nhà tinh thần của
họ.
Ở đó, Vienna, vào năm 1947, Celan
đã tạo dựng con đường của ông một cách gian khổ,
khó khăn. Ông tự trình diện, cùng những
bài thơ của mình trứớc một tạp chí. Một người
quen biết hồi đó, sau này viết, về mặt văn chương, không
biết ông ở đâu chui ra, một nhận định "cha chú"
làm bực mình những đồng hương của Celan, ở Bucharest. Một
nhà xuất bản Thuỵ sĩ còn hùa theo, khi ca ngợi
một cách ngây thơ, Celan đã "vượt mọi khó
khăn" làm chủ được tiếng Đức để có thể làm thơ
bằng tiếng đó. Làm sao một anh chàng Do thái-Romanian
trẻ tuổi từ một vùng đất nhà quê hủ lậu lại có
thể làm được điều này? Nhà xuất bản nói
trên đã xuất bản một số thơ của Celan vào năm 1948,
bài Cây Bạch Dương được xuất bản ba lần trong cùng
năm. Như chúng ta đã biết, bà mẹ đã từng
thủ thỉ đọc cho cậu con nghe Goethe và Schiller, đã nuôi
dưỡng cậu ngay từ khi còn nhỏ trong thế giới của Holderlin và
Rilke, mặc dù bà đã đôi khi nghi ngờ tài
thi phú cùng là tương lai của cậu. Và tuy
hai mẹ con thân thiết như vậy, bà chẳng bao giờ để mắt tới
những vần thơ Đức của ông, thi sĩ đã có lần chua
xót ghi nhận.
Lý do chính của danh vọng
tức thời - một điều sau này Celan ân hận và
gần như loại ra khỏi cuộc đời của ông - đó là
từ một bài thơ "lạ thường" mà ông làm
liền sau khi chiến tranh chấm dứt, "Todesfugue", "Tẩu Khúc
của Thần Chết". Thực ra bài thơ lần đầu xuất hiện trên
báo Romanian, do một người bạn của Celan dịch, mặc dù
bản thân ông có thể làm điều này.
Tên của bài thơ khi được dịch là "Tangoul Mortii",
"Điệu Tango của Thần Chết". Không phải Celan là người
đầu tiên đặt tên bài thơ của ông là
"Tango của Thần Chết", một tên sĩ quan SS cũng mơ mộng, và
đã từng ra lệnh cho một dàn nhạc Do thái ở
một trong những trại tập trung soạn và chơi bản nhạc có
tên như vậy. Cũng vẫn điệu Tango đã từng được chơi tại
Paris
khi Celan ở đó vào đầu năm 1939. Ban nhạc sau đó
đã phục vụ Hitler và Goebbels, cả hai đều thích
điệu Tango, thay vì Jazz của New York, bị
coi là thoái hóa.
Cho dù Tango (văn minh Mỹ châu
La tinh) hay Fugue (văn hóa âm nhạc Đức), bài
thơ khác thường của Celan không như bất kỳ một
"cái gì khác" - một nghệ phẩm thực sự, nguyên
sơ nào cũng bắt buộc phải như vậy - không giống ngay
cả những điều ghê tởm mà nó đã diễn tả,
hoặc nó từ đó mà ra. Không phải bài
thơ đã "chuyên chở" những điều ghê tởm "bầy ra
đấy", nhưng nó tạo nên một viễn ảnh tuyệt đối, của riêng
nó, về chúng: Bắt buộc phải như vậy, thi ca vĩ đại "đẻ
ra" thế giới của riêng nó.
Chúng ta có quyền nghi ngờ,
có một nghịch lý ở đây. Có một
điều đáng nghi ngờ về sự "thành công mang
tính đại chúng" của bài thơ "Tẩu Khúc
của Thần Chết" ở Đức, sau khi chiến tranh chấm dứt, đặc biệt trong
giới trẻ, trở thành trò thờ phụng, sùng bái.
Auden đã từng nói: "Không một thi sĩ nào
có thể ngăn cấm chuyện thơ của người đó được sử dụng
như là trò phù thuỷ." "Tẩu Khúc của Thần
Chết" đã đem đến cho người Đức một niềm khuây khỏa "lớn
lao, kỳ diệu", ngang xứng với khôi hài đen, một nghệ thuật
lớn vốn thịnh hành cùng thời: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ
có thể tha thứ cho người Do thái về Auschwitz." Nhưng bài thơ, chính
bài thơ, trong sự thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn
dửng dưng trước tất cả những phản ứng "ngoắt ngoéo", và
luôn cả những đáp ứng của trái tim con người.
Tác giả của nó không
được may mắn như vậy.
Trong những lần nói chuyện sau đó
ở Đức, về thơ ca của ông, Celan đã kết hợp mọi
trò lịch sự, nhũn nhặn qua một lời nhắc nhở "sắc bén"
rằng, tính "hài âm", thuận tai, của thi ca
truyền thống Đức, trong những năm chiến tranh đã có
thể, "nhiều hay ít không bị bực bội, gây rối,
để rong ruổi cùng với những điều ghê tởm nhất." Tính
hài âm trong thơ của riêng ông không
như vậy. Nó "đã là" sự bực bội, điều gây
rối. Và tuy nhiên, bằng một sự khôi hài khủng
khiếp, cao độ, có cũng có thể để cho sự bực bội nằm an
nghỉ ở trong trái tim, trong tâm hồn người Đức, những người
có thể "suy cảm" tội lỗi của họ một cách tuyệt vời, chẳng
đau đớn một chút nào, thông qua môi trường
đại chúng của bài thơ.
Chẳng có gì là ngạc
nhiên, nếu sau đó Celan từ chối, không cho
phép sử dụng bài thơ trong những bài đọc,
hay được in lại trong trong tuyển tập thi ca phổ thông. Cũng
chẳng có gì là ngạc nhiên, khi ông
cảm thấy khốn khổ khốn nạn, mỗi lần thăm viếng nước Đức, và
được đón rước rộn ràng, được ca tụng và trao bằng
khen, giải thưởng. Ông tự cảm thấy ông là một người
Do thái đã được "thuần hóa", một người mà
thơ ca nổi tiếng làm cho người Đức cảm thấy thoải mái
hơn: tệ hại hơn thế nữa, thơ ca của ông đã được "hạ cấp hóa",
trở thành một loại nhạc pop. Thế hệ trẻ có thể nghe, vừa
mua vui, vừa chọc quê, vừa dễ dàng kết án đám
đàn anh của họ.
Chẳng có gì, trong số
những điều vừa kể, ảnh hưởng tới hiệu năng, sức mạnh lạc hồn
lạc phách, không có chi để bàn cãi
nữa - của "Tẩu Khúc của Thần Chết". Bài thơ đã
được John Felstiner, tác giả cuốn "Paul Celan: Thi sĩ,
Kẻ Sống Sót, Một người Do thái" (Yale University
Press, 344 trang, 1996), dịch qua Anh ngữ một cách tuyệt
vời, và nói về từng chi tiết của bài thơ, từ
khúc mở đầu, lừng danh:
Black milk of daybreak we drink it
at evening
we drink it at midday and morning we drink
it at night
we drink and we drink
we shovel a grave in the air there you won't
lie too cramped
A man lives in the house he plays with his
vipers he writes
he writes when it grows dark to Deutschland
your golden hair Margareta
he writes it and steps out of doors and
the stars are all sparkling
he whistles his hounds to come close
he whistles his Jew into rows has them shovel
a grave in the ground
he command us play up for the dance
Black milk of daybreak we drink you at night
we drink you at morning and midday we drink
you at evening
we drink and we drink
A man lives in the house he plays with vipers
he writes
he writes when it grows dark to Deutschland
your golden hair Margareta
Your ashen hair Shulamith we shovel a grave
in the air there you won't lie too
cramped...
(Tạm dịch:
Sữa đen hừng đông chúng ta
uống buổi chiều
chúng ta uống trưa, sáng,
chúng ta uống đêm
chúng ta uống và chúng
ta uống
chúng ta đào huyệt trên
không như vậy bạn sẽ không bị nhồi nhét
Một người đàn ông sống trong
căn nhà anh ta chơi với rắn anh ta viết
anh ta viết
anh ta viết khi bóng tối tới Đức,
tóc vàng của bạn Margareta
anh ta viết nó và ra ngoài
cửa
và muôn sao lấp lánh
anh ta huýt chó săn tới gần
anh ta huýt đám Do thái
đứng thành hàng đào huyệt dưới đất
anh ra lệnh chúng ta hãy cố
mà vui chơi nhẩy nhót
Sữa đen hừng đông chúng ta
uống bạn lúc đêm
chúng ta uống bạn lúc sáng,
trưa, chúng ta uống bạn lúc chiều
chúng ta uống và chúng
ta uống
Một người đàn ông sống trong
căn nhà anh ta chơi với rắn anh ta viết
Anh ta viết khi bóng tối tới Deutschland
tóc vàng của bạn Margareta
Tóc tro của bạn Shulamith chúng
ta đào huyệt trên không bạn sẽ không
bị nhồi
nhét...)
-
cho đến khúc cuối, như điện
giật. Khúc này đã xuất hiện trong bài
thơ ở những nốt khác nhau, khi được lập lại. Tác
giả cuốn sách đã không chuyển ngữ (trong
những đoạn lập lại, ông đã cho thấy nghĩa của nó,
Death is a Master from Germany
/ Your golden hair Margareta / Your ashen Shulamith), cho nên, những
từ tiếng Đức xuất hiện giống như sự trở về của những hồn ma trong
bản dịch của ông:
...der Tod ist ein Meister aus Deustchland
dein goldenes Haar Margarete
dein aschenes Haar Shulamith
Một số bài thơ của Celan nổi
tiếng là cực kỳ khó hiểu, nhưng chúng
và ngôn ngữ của chúng có cùng
phẩm chất tuyệt đối: luôn luôn là chính
nó và không là gì khác.
Bởi vậy độc giả cũng đừng quá đòi hỏi "hiểu" chúng
một cách trọn vẹn.
Về vấn đề ngôn ngữ, Celan quan
tâm tới Heidegger, triết gia hiện sinh, ông vua
bí mật của tư tưởng, như Hannah Arendt đã gọi
ông. Một bài thơ kỳ lạ và cảm động của Celan
có tên "Todtnauberg", nơi Heidegger sống ẩn dật,
ở đó nhà thơ đã gặp gỡ triết gia, một người
cho đến khi chết vẫn im lặng về số phận của những người Do thái,
cũng như về quá khứ chính trị của ông. Có
người nói Heidegger luôn tự coi mình là
kẻ vắng mặt, và chẳng bao giờ tiếp Celan, nhưng liên
hệ giữa hai người, gặp gỡ hay thư từ, cho thấy thái độ thân
mật và có ích cho Celan.
Trong những năm tháng muộn
màng cuối đời, Celan rất cô đơn, và suy sụp. Khi được
trao tặng giải thưởng Bremen Prize cho thơ của ông vào năm
1958, ông tỏ ra thực tình biết ơn, nhưng bài cảm tạ
của ông cho thính giả thấy Denken và Danken- suy nghĩ
và cám ơn, vốn từ cùng một nguồn- hai
tiếng này nhắc nhở chúng ta tới "những kẻ khác"
cũng nói cùng "ngôn ngữ của chúng
ta", một mỉa mai cay đắng của một người Do thái thời kỳ
hậu-chiến tại Đức.
Mặc dù nhiều bạn, sự cô
đơn đã ăn ruỗng mọi ngõ ngách tâm
hồn, cuộc đời ông, như "một người của không ai".
Ông luôn đau nỗi đau mà nhà văn, triết
gia Do thái Emmanuel Levinas đã từng gọi là
"cơn mất ngủ trên chiếc giường đời". Trong một đêm
tối trời, vào năm 1970 ông đi xuống một cây cầu
trên sông Seine. Chẳng
ai thấy ông trầm mình. Thi hài ông mãi
sau mới tìm thấy ở cuối sông. Trên bàn
viết của ông tại một căn phòng Tả Ngạn, Paris, là
tiểu sử Holderlin, có một câu Celan gạch dưới: "Đôi
khi thiên tài này trở nên âm u, và
chìm vào cái giếng chua cay là trái
tim của mình."
"Paul Celan est mort", "Paul Celan
đã chết", một tuần báo hàng đầu của nước
Pháp loan tin nóng hổi trên trang nhất.
Nhưng bài viết kể thêm, ông thuộc loại nhà
thơ "vô danh" tại Pháp, xứ sở mà ông đã
từng chọn lựa, mặc dù bao lần được Israel
mời gọi. Nhưng bài thơ cuối cùng của ông, viết
trước khi chết không lâu, mang tên "Gửi về Sabbath."
Jennifer Tran
(Theo bài viết của John Bayley,
The New York Review of Books, Nov 14, 1996)
Thú vị nhất, là Kertesz
đã từng chôm mà không hề biết, bài
thơ này:
http://www.tanvien.net/interview/Kertesz_by_ML_Dec_2013.html
Alexandre Gefen:
Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay,
lỡ chuyến tàu, tôi nghĩ, nguồn của nó,
đúng là “Tẩu Khúc
của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi
ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe au-dessus des
nuages”], chẳng hề biết là tôi trích dẫn
thơ Celan. (2)
Sau này, biết, tôi lập tức đi
1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en exergue]….
Ông cảm thấy ra sao, lần đầu đọc bài
thơ?
Tôi đọc nó,
lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1 dịch
giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức
qua, trao tay cho tôi bài thơ, tại nhà xb của
những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được in,
nhưng 1 băng audio cassette.
Ghi âm bài thơ của Celan?
Đúng thế. Thực
ra là tôi hoàn toàn không
hiểu. Tôi biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học,
một thứ tiếng Đức khác, ông biết đấy.
Lần đó, đúng là âm
nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật
là đẹp…
Về vụ này, xin hỏi ông thêm,
về cái tương quan, le rapport, của ông với tiếng
Đức?
Một tương quan tốt đẹp,
un bon rapport. Đó là ngoại ngữ độc nhất mà
tôi biết.
Nhưng có tí chết ở trong đó,
đúng không [như tiếng Bắc Kít, hà,
hà!]?
[Mais n’est-ce-pas un peu la langue de la
mort?]
Note:
Hồi mới lớn, nhớ xứ Bắc Kít,
có thể, Gấu mê nghe Thái Thanh ca, nhất
là “tôi yêu tiếng nước tôi”, sau sợ
quá, không dám nghe Bắc Kít hát
nữa.
Nghe the thé! Thái Thanh mà
ca “Bà Mẹ Gio Linh”, khủng lắm!
Gấu nghi, cái lần trở về lại Đất Bắc,
đi thăm bướm Bắc, bị 1 em chửi, mi là 1 tên Nam
Kít, bày đặt học tiếng Bắc Kít, tởm lắm, có
liên can tới vụ này, hà hà!
Em đó, chắc cũng quá tởm tiếng
Bắc!
Nên nhớ, tiếng Nam, cũng
là tiếng Bắc, nhưng được đọc làm sao cho bớt
the thé, bớt chát chúa đi.
Đây là do thổ ngơi, ảnh hưởng
vô tiếng nói, giọng nói.
Ray rứt trời
mưa bỗng nghe mặn môi!
Giăng mắc
trời mưa, phố xưa buồn tên
Phải buồn tên mới
được!
Mấy em Nam Kỳ, nửa khuya mà rên
bài này, là chỉ có từ chết đến
bị thương!
Ngọn đèn đêm
đứng yên cúi đầu
Nghe, thì nó
ra như thế này:
Ngọn đèn đêm đứng yên
cuối đầu. (1)
Cái vụ Kertesz đi 1 đường tiểu chú, làm
nhớ trường hợp người tù lương tâm Mít chôm
cái tít của Koestler. Đúng ra là đấng này
phải lên tiếng.
Cũng thế, là những lần Bi Bì Xèo dịch sai,
được GCC chỉ cho thấy, thí dụ quần đảo Gulag, dịch là bán
đảo Gulag. Cứ lén sửa, rồi vờ.
Những chuyện nhỏ mọn như vậy, nó làm nhục cả 1
miền đất, không đơn giản.
Viết
mỗi ngày
Acceptance Speech
Diễn Văn Nobel
Members of the Swedish Academy, Your Majesties,
ladies and gentlemen, I was born and grew up on the other shore
of the Baltic, practically on its opposite gray, rustling page.
Sometimes on clear days, especially in autumn, standing on a beach
somewhere in Kellomaki, a friend would point his finger northwest
across the sheet of water and say: See that blue strip of land? It's
Sweden.
He would be joking,
of course: because the angle was wrong, because according
to the law of optics, a human eye can travel only for something
like twenty miles in open space.
The space, however, wasn't open.
Nonetheless, it pleases
me to think, ladies and gentlemen, that we used to inhale
the same air, eat the same fish, get soaked by the same-at
times-radioactive rain, swim in the same sea, get bored by the
same kind of conifers. Depending on the wind, the clouds I saw
in my window were already seen by you, or vice versa. It pleases me
to think that we have had something in common before we ended up in
this room.
And as far as this room
is concerned, I think it was empty just a couple of hours
ago, and it will be empty again a couple of hours hence. Our presence
in it, mine especially, is quite incidental from its walls' point
of view. On the whole, from space's point of view, anyone's presence
is incidental in it, unless one possesses a permanent-and usually
inan- imate-characteristic oflandscape: a moraine, say, a hilltop,
a river bend. And it is the appearance of something or some- body
unpredictable within a space well used to its contents that creates
the sense of occasion.
So being grateful to you for your decision
to award me the Nobel Prize for literature, I am essentially
grateful for your imparting to my work an aspect of permanence,
like that of a glacier's debris, let's say, in the vast landscape
of literature.
I am fully aware of
the danger hidden in this simile: of coldness, uselessness,
eventual or fast erosion. Yet if that debris contains a single
vein of animated ore-as I, in my vanity, believe it does-then this
simile is perhaps prudent.
And as long as I am
on the subject of prudence, I should like to add that through
recorded history the audience for poetry seldom amounted to more
than 1 percent of the entire population. That's why poets of antiquity
or of the Renaissance gravitated to courts, the seats of power; that's
why nowadays they flock to universities, the seats of knowledge. Your
academy seems to be a cross between the two; and if in the future-in
that time free of ourselves-that 1 percent ratio is sustained, it will
be, not to a small degree, due to your efforts. In case this strikes
you as a dim vision of the future, I hope that the thought of the population
explosion may lift your spirits somewhat. Even a quarter of that 1
percent would make a lot of readers, even today.
So my gratitude to you,
ladies and gentlemen, is not entirely egotistical. I am grateful
to you for those whom your decisions make and will make read poetry,
today and to- morrow. I am not so sure that man will prevail, as
the great man and my fellow American once said, standing, I believe,
in this very room; but I am quite positive that a man who reads
poetry is harder to prevail upon than one who doesn't.
Of course, it's one
hell of a way to get from St. Petersburg to Stockholm; but
then, for a man of my occupation, the notion of a straight line
being the shortest distance between two points lost its attraction
a long time ago. So it pleases me to find out that geography in its
own turn is also capable of poetic justice.
Thank you.
Joseph Brodsky
Tâm
sự của nước độc
khai quật đồ cổ :p
Note: GCC chưa được đọc cuốn này, nhưng lại
cứ nhớ lộn, là Tàn Đèn Dầu Lạc
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/07/nguyen-tuan-doc-sach.html
Cũng rất bất ngờ khi tôi biết được rằng trước
khi viết Nỗi buồn chiến tranh thì
Bảo Ninh đã đọc Vassily Grossman. Xưa nay người ta gắn chặt
Bảo Ninh với việc đọc Remarque, nhưng không phải điều ấy là
quan trọng nhất: phải Grossman, chứ không phải Remarque,
mới có thể là người gợi ý những điều đặc biệt
trong cuốn tiểu thuyết ấy.
Thú thực, lạ.
NQT
Bởi là vì làm sao đọc Vassily
Grossman, ở VN?
Qua tiếng Nga? Và cuốn nào?
Bác đọc quyển này chưa – 832 trang,
bây giờ bán ở format de poche rồi. Bác cốp
theo kiểu này viết đi, lồng trong chế độ là cảnh đời
của người dân. Bác có trí nhớ phi thường,
bác không viết thì ai mà viết được.
Tks
NQT
"Mort de l'esclave
et réssurection de l'homme libre".
Dans ce roman-fresque,
composé dans les années 1950, à la façon
de Guerre et
paix, Vassili Grossman (1905-1964) fait revivre l'URSS en
guerre à travers le destin d'une famille, dont les membres
nous amènent tour à tour dans Stalingrad assiégée,
dans les laboratoires de recherche scientifique, dans la vie ordinaire
du peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas de l'Armée
rouge. Au-delà de ces destins souvent tragiques, il s'interroge
sur la terrifiante convergence des systèmes nazi et communiste
alors même qu'ils s'affrontent sans merci. Radicalement iconoclaste
en son temps - le manuscrit fut confisqué par le KGB, tandis
qu'une copie parvenait clandestinement en Occident -, ce livre pose
sur l'histoire du XXe siècle une question que philosophes et historiens
n'ont cessé d'explorer depuis lors. Il le fait sous la forme d'une
grande œuvre littéraire, imprégnée de vie et d'humanité,
qui transcende le documentaire et la polémique pour atteindre
à une vision puissante, métaphysique, de la lutte éternelle
du bien contre le mal.
Destin de Grossman
Vie
et destin est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème siècle.
On n'en lisait pourtant qu'une version incomplète depuis
que les manuscrits avaient été arrachés au
KGB et à la censure. Celle que Bouquins propose désormais
est la première intégrale. Elle a été
révisée à partir de l'édition russe
qui fait désormais autorité, celle de 2005, et traduite
comme la précédente par Alexis Berelowitch et
Anne Coldefy-Faucard. Raison de plus pour se le procurer.
Ce volume sobrement intitulé Oeuvres (1152
pages, 30 euros) contient également une dizaine de nouvelles,
le roman Tout passe, texte testamentaire
qui dresse notamment le portrait d'une série de Judas, et divers
documents dont une lettre à Kroutchtchev. Mais
Vie et destin, roman dédié à sa
mère par un narrateur qui s'adresse constamment à elle,
demeurera l'oeuvre qui éclipse toutes les autres. La bataille
de Stalingrad est un morceau d'anthologie, et, au-delà de sa
signfication idéologique, la manière dont l'auteur passe
subrepticement dans la ville de l'évocation du camp nazi au goulag
soviétique est un modèle d'écriture. Toute une
oeuvre parue à titre posthume.
Dans son éclairante préface,
Tzvetan Todorov résume en quelques
lignes "l'énigme" de Vassili Grossman (1905-1964)
:
" Comment se fait-il
qu'il soit le seul écrivain soviétique connu à
avoir subi une conversion radicale, passant de la soumission à
la révolte, de l'aveuglement à la lucidité
? Le seul à avoir été, d'abord, un serviteur
orthodoxe et apeuré du régime, et à avoir osé,
dans un deuxième temps, affronter le problème de l'Etat
totalitaire dans toutes son ampleur ?"
On songe bien sûr
à Pasternak et Soljenitsyne. Mais le préfacier,
anticipant la réaction du lecteur, récuse aussitôt
les comparaisons au motif que le premier était alors un écrivain
de premier plan et que la mise à nu du phénomène
totalitaire n'était pas au coeur de son Docteur
Jivago ; ce qui n'est évidemment pas le cas du second
avec Une Journée d'Ivan Denissovitch, à ceci
près rappelle Todorov, qu'étant
un inconnu dans le milieu littéraire, il n'avait rien à
perdre. La métamorphose de Grossman
est donc un cas d'école unique en son genre :"mort de l'esclave et réssurection
de l'homme libre".
Bảnh hơn Pasternak, bảnh
hơn cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa, thổi
Đời & Số Mệnh
của Grossman: Cái chết của tên nô lệ và sự
tái sinh của con người tự do.
Tờ Obs, số đặc biệt về những tuyệt tác của
văn học, kể ra hai cuốn cùng dòng, là Gulag của Solz, 1 cuốn sách lật
đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin
của Grossman: Trái bom chống toàn
trị.
TV sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Ovivier Rolin,
trên tờ Obs.
Note: Trái bom chống toàn trị, làm
sao có ở xứ Mít?
Hà, hà!
Borges đọc “Hóa Thân”
(1938)
Kafka ra đời tại 1 khu Do Thái
ở thành phố Prague vào năm 1883. Ông thì
bịnh và đau khổ, buồn bực (chagrin). Ông bố không
ngừng khinh bỉ, miệt thị, (mépriser) trong bí mật,
en secret, và hành hạ, (tyrannisa) ông con,
cho tới năm 1922. Cái sự cha con không hợp nhau này,
như chính ông con nói, “đầm đìa” (découlait)
trong tất cả tác phẩm của ông. Từ tuổi trẻ của ông,
chúng ta biết được hai điều: ông đau khổ vì 1 thứ
tình yêu trái ngược, contrarié, và
ông có cái thú về du ký (le gout
des récits de voyages). Học xong Đại Học, có thời gian
ông làm trong ngành bảo hiểm, và chỉ được
giải phóng, thoát ra khỏi ngành này, ôi
chao, thảm thay, nhờ căn bịnh ho lao. Nửa đời sau ông thường
thăm thú, cư ngụ tại những nhà dưỡng bịnh, des sanatoriums,
ở Tyrol, Carpates, Erzgebirge.
Vào năm 1913, ông cho in tác
phẩm đầu tay, Contemplation, Chiêm ngưỡng, và
vào năm 1915, là cuốn nổi tiếng của ông Hoá
Thân, La Métamorphose, và 1919, là
14 contes fanstastiques [truyện kỳ quái], hay 14 ác
mộng ngắn gọn (cauchemars laconiques), làm thành
(composer) Y Sĩ Đồng Quê, Un médecin de campagne.
Sức nặng của cuộc chiến đè nặng lên
những tác phẩm này: cái sức nặng mà
tính chất của nó là tàn khốc bắt
buộc con người phải giả đò hạnh phúc, hoặc can đảm
cùng mình… Bị bao vây, và thất trận,
những đế quốc Trung Âu bèn đầu hàng nhưng sự
phong tỏa chẳng vì thế mà bớt đi, và Kafka
là 1 trong những nạn nhân. Vào năm 1922, ông
trú ngụ ở Berlin cùng với một thiếu phụ thuộc bộ tộc
Hassidim, hay Pieux, Dora Dymant. Mùa hè 1922 bịnh
tật của ông trở nên tệ hại vì sự cùng túng,
thiếu hụt trong thời gian chiến tranh và hậu chiến tranh,
ông mất tại 1 nhà dưỡng bịnh thuộc khu vực Vienne.
Max Brod bạn của ông, làm ngược
ý muốn của Kafka, và cho xb những bản thảo của
ông. Phải nói là chúng ta chịu ơn ông
ta, về cái sự thông minh không vâng theo
di chúc của người chết, và nhân loại bèn
có được những tác phẩm đặc dị, 1 không 2, của
thế kỷ của chúng ta!
Hai ý nghĩ – đúng hơn, hai ám
ảnh, chi phối, régir, tác phẩm của Kafka. Sự
tuỳ thuộc, la dépendance, là 1 trong 2. Sự vô
cùng, l’infini, là cái thứ nhì.
Hầu hết những giả tưởng của Kafka, có những đẳng cấp, thứ bậc,
hiérarchies, và những thứ bậc này thì
vô cùng.
Volkov: Do you mean the line,
"Thank God I was left on this earth without a
homeland?” Those words proved prophetic. How did they
pop out of you then, in 1962?
Brodsky. Well,
there was this idea of solitude ... of detachment.
After all, in that Leningrad topography, there is really a
very powerful split. There's a tremendous difference between
the center and the outskirts. And suddenly I realized
that the outskirts were the beginning of the world, not the
end. 'They were the end of the familiar world but the beginning
of the unfamiliar world, which is much bigger, much vaster. In
principle the idea was that, in leaving for the outskirts, you're
distancing yourself from everything you know and setting out
for the real world.
Volkov: Bạn tính nói
cái dòng thơ “Cám ơn Trời
tôi bị bỏ lại trên thế gian này
đếch có quê hương?”
Đúng là
dòng thơ tiên tri. Quái làm
sao, nó lại bật ra vào năm 1962?
Brodsky: Chắc là
do cô đơn, tách rời. Nói cho
cùng, cái địa thế của Leningrad gây
chia lìa, (đi hay ở là chọn lựa chết người.
TTT). Có 1 sự khác biệt khủng giữa trung
tâm và ngoại vi. Và bất thình
lình tôi nhận ra, ngoại vi là khởi đầu
của thế giới, không phải tận cùng. Chúng
là tận cùng của thế giới quen thuộc, nhưng là
bắt đầu của thế giới không quen thuộc, lớn hơn, rộng
hơn. Khi rời bỏ trung tâm tới ngoại vi, là bạn
tự tách mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và
bước vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện
trò với Brodsky
Lẽ dĩ nhiên đường từ St Petersburg
tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong
bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương,
đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không
Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và
tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà
Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn Quốc Trụ
Để tưởng nhớ mùi hương
31
Tháng Chạp 1953, Sàigòn.
Một trong những cái thú của một nơi chốn xa xôi
lạ hoắc, đó là, cái thú "bạn của bạn", theo
nghĩa, một cái nét đẹp của nó, đã từng
quyến rũ một người bạn của bạn, đột nhiên, nó cũng tóm
lấy bạn!
Tôi đã gặp đúng một tình trạng như
vậy, một buổi chiều, một người bạn như trên, tới gặp tôi,
sau một vài hơi whisky, đèo tôi đi trên chiếc
xe gắn máy của anh ta, một bác sĩ hải quân, dạo chơi
Sàigòn. Chúng tôi tới thăm mấy tiệm hút.
Tiệm đầu tiên ghé, thuộc loại rẻ tiền, ở trên
một tầng lầu, bên dưới là một trường học, nơi đám
học trò đang lo thi kỳ thi "tiểu học và trung học đệ
nhất cấp". Ông chủ tiệm cũng dân trong nghề, một bệnh tưởng,
a malade imaginaire, người khô quắt, như bị vắt sạch nước, hậu quả
của sáu chục bi một ngày. Một bé gái ngủ gật,
và một cậu trai. Thuốc phiện không nên để cho người
còn trẻ vướng vào, như ngưòi Tầu tin tưởng, mà
chỉ để dành riêng cho những ngưòi đứng tuổi, hoặc
già cả. Một bi ở đây tốn mười đồng. Sau đó, chúng
tôi tới một tiệm sang hơn, Chez Pola. Ở đây, bạn có
phòng dành riêng, và có thể mang theo
bạn. Một cái dù Tầu thật lớn che trên một cái
giường tròn lớn. Một quầy đầy những sách ở ngay kế bên
giường. Lạ làm sao, và cũng tuyệt vời làm sao, tôi
thấy hai cuốn của tôi, trên quầy sách: Le Ministère
de la peur và Rocher de Brighton. Tôi bèn lôi
xuống, viết mấy lời đề tặng.
Một bi ở đây tốn ba chục đồng.
Kinh nghiệm hít tô phe của tôi bắt đầu vào
Tháng Mười năm 1951, khi tôi ở Hải Phòng trên
đường ra Vịnh Hạ Long...
Graham Greene. Tam Thập Lục Kế, Tẩu Vi Thượng sách:
Ways of Escape
Tính viết về “phe” lần đầu của GCC. Post khúc
trên làm mồi
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|