TIN VĂN TRÊN
ART2ALL
Album
Breakfast @ school with Richie
13.10.2010
Vương Duy
A Farewell
Off our horses, I offer you wine,
ask where you're going. You say
your work has come to nothing,
you'll settle at South Mountain.
Once you set out, questions end
and white cloud keeps on and on.
Note: Bài thơ trên, có trong Thơ Đường của Trần
Trọng San, và Tin Văn cũng đã giới thiệu
Mourning Yin Yao
How long can a life last? And once
it's gone it's formless all over again.
I think of how you waited for death:
ten thousand ways a heart wounds.
Your gentle mother's still not buried,
your daughter's hardly turned ten,
but outside the city, cold silence wind-
scoured expanses, I listen to lament
on and on. Clouds drift boundless skies,
birds wing through without a sound,
and travelers travel deserted silence
through a midday sun's frozen clarity.
I remember you back then, still alive,
asking to study unborn life with me,
but my guidance came too late. Sad
how you never found understanding.
And those old friends here with gifts-
they never reached you either. So many
ways we failed you. All bitter lament, I
return to my brush-and-bramble gate.
Note: Trong tập thơ trên, có hai bài "Khóc
Yin Yao"
Off-Hand Poem
I'm ancient, lazy about making poems.
There's no company here but old age.
I no doubt painted in some former life,
roamed the delusion of words in another,
and habits linger. Unable to get free,
I somehow became known in the world,
but my most fundamental name remains
this mind still here beyond all knowing.
Note: Bài thơ khép lại tập thơ
Wang Wei chắc
là Vương Duy. Czeslaw Milosz rất mê ông
này. Trong cuốn sách giới thiệu thơ của
ông, Cuốn sách của muôn điều thần sầu,
A Book of Luminous Things, có mấy
bài của Wang Wei
Sitting alone on an autumn night
I sit alone sad at my whitening hair
Waiting for ten o'clock in my empty house
In the rain the hill fruits fall
Under my lamp grasshoppers sound
White hairs will never be transformed
That elixir is beyond creation
To eliminate decrepitude
Study the absolute.
Ngồi một mình với đêm
thu
Tôi ngồi buồn một mình với mớ
tóc bạc trắng của mình
Đợi đồng hồ điểm 10 giờ
Trong căn nhà trống trơn
Trong mưa, trái đồi rớt
Dưới ánh đèn, châu chấu
rầm rì
Tóc trắng ư, chịu thua
Làm gì có nước gội trở
thành đen nhánh như ngày nào
Để “làm thịt” cái già
cằn thiểu não
Để chiêm ngưỡng cái tuyệt đối
Bài thơ trên, trong cuốn thơ mới bệ về, cũng có.
Cái tuyệt đối, the absolute, hóa ra là, đời chưa sinh
ra, the unborn life:
Autumn Night, Sitting Alone
Lamenting this hair of mine, I sit alone
in empty rooms, the second watch close.
Mountain fruit falls out there in the rain,
and here in lamplight, field crickets sing.
No one's ever changed white hair back:
might as well try conjuring yellow gold.
If you want to elude the old-age disease,
there's only one way: study unborn life.
Good-bye
Dismount and we'll take a drink together
Where are you off to?
You say you've failed - retiring
To the foot of the Southern Mountains?
Well, go - and no more questions
For the white clouds there'll never be an end.
This poem, one of Wang Wei's most famous, is generally
regarded by commentators as a kind of soliloquy, but there can
be no certainty on this point.
Note: Bài thơ trên, có trong
Thơ Đường của Trần Trọng San:
Tống Biệt
Hạ mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở thi
Quân ngôn bất đắc ý,
Quy ngọa Nam sơn thuỷ
Đản khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì
Nam sơn: núi Chung Nam, ở phía tây-nam
thành Trường An
Trên Tin Văn, có loạt bài của
Phạm Hải Anh, về Thơ Đường, tháng nào cũng Top Ten.
Vị nữ lưu này, GCC phát giác
ra, khi chưa xuất hiện trên chốn giang hồ, còn ngồi
1 mình, trên một mái nhà đỉnh cao của Hà
Nội, và viết, thanh thoát vô cùng.
Chính là cái tinh tuý
của thơ Đường đã
thấm vào tác giả.
Vị này phán, về Vương Duy:
Lý Bạch tả cảnh ông đi chơi hồ Bình
Thiên vào đêm trăng sáng, ánh trăng
phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng khiến cả vùng hồ như
tấm lụa trải rộng mênh mông. Có điều ông không
tả hồ, cũng không tả trăng, chỉ phác một liên
tưởng về tấm lụa cho thấy trăng nước hoà làm một, lại
toát lên cái "thần" yên ả, thanh bình
của cả một vùng trời nước. "Bình Thiên" là
tên hồ, cũng có nghĩa "cõi trời yên bình".
Câu thơ vừa nói được địa điểm thật của khung cảnh, song
đồng thời lại nhấn thêm một tầng đồng nhất nữa : đất này
là cõi trời (địa- tức-thiên). Trên cái
nền trăng - nước, đất - trời tương hội đó, con người cũng lâng
lâng giữa hai cảm giác tiên - tục. "Cưỡi vầng trăng
sáng" - tưởng Lý Bạch đã thành tiên,
song từ "nại hà" ("sao có thể") cho thấy ông chỉ
là người thường mơ được thành tiên. Lên cõi
trời không được, ông trở về "ngắm hoa trên thuyền
rượu" - nhưng giữa trần gian, tao nhã với trăng - nước - rượu -
hoa, ông lại xuất hiện như một vị tiên thoát tục. Đọc
bài thơ, thấy ông tả tất cả, mà dường như cũng không
tả gì. Không thể hình dung dáng hồ, cỏ cây
hoa lá, biết là có người, nhưng cũng không
rõ con người ấy cụ thể ra sao. Cái được miêu tả ở
đây không phải là bản thân cảnh hay người mà
chính là thần thái của nó. Toàn bài
thơ toát lên ý tưởng về sự giao hòa thanh
thản, thần tiên giữa trời - nước, cảnh - người.
Cùng sử dụng bút pháp chấm phá,
nhưng cách miêu tả trong TTLB cũng không giống
như ở tứ tuyệt của Vương Duy. Vương Duy không chỉ là nhà
thơ mà còn là một họa sĩ kiệt xuất phái Nam
tông, chuyên vẽ tranh thủy mặc. Dễ thấy ông vận dụng
những thủ pháp miêu tả của hội họa vào trong thơ
khiến thơ ông cũng như một bức tranh ("Thi trung hữu họa"). Tứ tuyệt
tả cảnh của Vương Duy do vậy mà rất đặc sắc,kỹ thuật phối cảnh,
tả hình quả đạt tới mức điêu luyện. Vương Duy thích
sử dụng sự tương phản giữa những mảng màu tối - sáng, đậm
- nhạt, nóng-lạnh, giữa hư và thực, giữa động và tĩnh...,
lấy cái này làm nổi bật cái kia. Cảnh trong
thơ ông có nhiều phát hiện tinh tế và rất có
chiều sâu. Như bài "Lộc trại" :
Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.
tạm dịch:
Núi vắng, người chẳng thấy,
Chỉ nghe vọng âm thanh,
Hồi quang vào rừng thẳm,
Phản chiếu lớp rêu xanh.
Ông tả tiếng vọng để làm nổi cái
tĩnh của rừng núi theo nguyên tắc "Không cốc
truyền âm" (động vắng càng vang). Ông gợi thanh
âm của người vẳng lại để nhấn mạnh ý người đã
đi, cho thấy núi càng vắng. Ông tả ánh
phản chiếu của nắng xuyên qua rừng sâu, soi lên lớp
rêu xanh, lấy chút sáng le lói để thấy cả
cái thâm u dày đặc của rừng. Bút pháp,
"vẽ mây nẩy trăng" trong hội họa được ông khai thác
tối đa, do đó đọc thơ ông cần vận dụng trí tưởng
tượng, xét đoán để nối kết những mảng đối lập, hình
dung ra trước mắt một "bức tranh bằng lời" toàn vẹn, giàu
ý vị. Còn TT tả cảnh của Lý Bạch ngược lại, thiên
về cảm nhận trực giác. Ông không tả cảnh trước mắt
mà tả cảnh trong lòng. Khác với Vương Duy, ông
không ngắm cảnh như một họa sĩ hoặc một triết nhân vui thú
điền viên để di dưỡng tính tình. Ông có
khả năng kỳ diệu "nhập thân" vào đối tượng miêu tả.
Tứ tuyệt tả cảnh của ông do đó mà có ý
vị của Trang Chu mộng điệp, không biết là cảnh có Lý
Bạch hay chính Lý Bạch đã hóa thân
vào cảnh nữa! Lĩnh hội cái tinh thần của cảnh mà tả,
Lý Bạch đã lược bỏ mọi chi tiết rườm rà, chú
tâm khắc họa ấn tượng hơn là hình khối. Như trong bài
"Vọng Lư sơn bộc bố", ông tả thác nước núi Lư sơn
như dòng sông bị treo ngược lên, như dải Ngân
hà bị rơi tuột từ chín tầng trời. Người đọc có thể
cảm nhận dòng chảy dào dạt, mãnh liệt của một thác
nước từ độ cao tót vời tuôn nước xuống - rất cao, rất mạnh
và rất đẹp. Nhưng sự tưởng tượng chỉ dừng ở một ấn tượng chung như
thế, không đi xa hơn để dựng thành một bức tranh toàn
cảnh tỉ mỉ. Có hề gì, vì Lý Bạch đâu phải
thợ vẽ, và ông tả thác nước núi Lư sơn một phần,
song cái chính là ông biểu hiện dòng thác
cảm xúc trong lòng ông khi ngắm Lư sơn. Do đó
mà cảnh trong thơ ông đầy màu sắc chủ quan, ông
dùng rất nhiều ví von, so sánh, ẩn dụ bởi nó
nói lên rõ nhất cảm nhận của ông về cảnh. Khác
với lối miêu tả điềm đạm, trầm tĩnh của Vương Duy, TTLB tả cảnh luôn
lồng vào đó những cảm xúc, mơ ước. Ông nhận
xét, liên tưởng, cho sông, núi, mây, trời...
những buồn vui của con người. Nhân hoá là một thủ
pháp ưa thích của ông. Gió trong thơ ông
cũng biết xót tình li biệt ("Lao Lao đình"), chim
núi biết xấu hổ ("Thu Phố ca" bài 3), núi cũng biết
nhìn người ("Độc tọa Kính Đình sơn"), trăng đau buồn
trẫm mình ngoài Đông Hải ("Khốc Triều Khanh Hoành")...
. Có lẽ vì vậy mà thơ tả cảnh của ông như có
hồn, tình và cảnh thống nhất tuyệt vời.
Bài Lộc Trại này, theo như Gấu được
biết, có hàng chục chục bản tiếng Anh, ấy là
vì không bài nào đạt tới cái thần
thái của bản gốc.
Kinh thế đấy!
Cái tay dịch Vương Duy
tác giả cuốn thơ trên, trong lời giới thiệu, phán,
cũng thật là tuyệt cú mèo. Trước thiên
hạ chỉ biết có Lý Bạch và Đỗ Phủ, nhưng Vương Duy,
càng ngày càng được biết nhiều hơn hai ông mãnh
trên:
Introduction
Wang Wei (699-761) is one
of the great poets. His distinction would no doubt be more widely recognized,
outside China and Japan, had he not flourished during a period universally
regarded as one in which Chinese poetry reached a zenith, dominated
by the reputations of Li Po (701-62) and Tu Fu (712-70). Their passions
were overt: Li Po's might be called a kind of romanticism, Tu Fu's,
in modern parlance, 'involvement'. Their poetry may speak more directly
to western people today than that of the inwardly passionate, contemplative
Wang Wei. But this situation is perhaps even now changing.
Trước đây, Lý
Bạch có thể coi là nhà thơ vãi lệ, Đổ Phủ,
dấn thân, lũ mũi lõ dễ nhận ra, nhưng tình hình
khác đi nhiều rồi...
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 8, 2018
: A PARTIAL HISTORY OF MY STUPIDITY
Một phần của chuyện ngu si của Gấu
Nguyên tác: A Partial History of My
Stupidity
Edward Hirsch: The Living Fire
Ngu như…. Gấu
Ra khỏi cây cầu
Chật cứng như nêm
Gấu quẹo phải, thay vì trái
Thế là mất mẹ buổi sáng!
Hầu như đêm nào Gấu cũng bỏ nhà đi lang thang
Quên cha lũ cây
Nhiều cây Gấu không biết tên
Hay lũ chim
Vô tư bay đầy trời
Gấu không thể nào... diệt dục,
Cũng không thể chấp nhận chúng
Thế là Gấu bèn lang thang
Như con hổ
Muốn nhảy 1 phát
Nhưng lại sợ cái hoang dã vây quanh
Những thanh chấn song
Hình như vô hình với kẻ khác
Gấu đeo mẹ cái chuồng sắt
Ở ngay tim Gấu!
Gấu âu lo, trăn trở quá nhiều, những gì kẻ
khác nghĩ
Và đi 1 hay nhiều đường còm,
Đúng ra, phải vờ
Hay im như thóc
Khi đúng như, phải hót như sáo
Xin lỗi mấy Thầy Triết
Thầy Đạo, Thầy Quân...
Gấu đọc Lũ Vị Kỷ
Chẳng thể nào hiểu được họ
Gấu cảm thấy
Gấu sống 1 đời lầm
Nói theo nghĩa tâm linh
Trong khi một nửa đường đời
Loanh quanh thế giới
Triệu triệu con người
Bị làm thịt
Trong có rất nhiều, bởi Vẹm, “đồng bào” của Gấu!
Và thế là Gấu cứ tiếp tục tản bộ
Đầu óc để đâu đâu
Quên phải ghé thăm
Những người đau khổ
Xa thật xa
Hay, gần thật gần
Xin lỗi, niềm tin, Gấu đếch có, dù mảy may
Đau nhất, Gấu đau
Gấu đếch tin vào Chúa:
Ai cho phép
Mi,
Lẩn tránh GCC?
------------------
A Partial History Of My Stupidity
BY EDWARD HIRSCH
Traffic was heavy coming off the bridge,
and I took the road to the right, the wrong one,
and got stuck in the car for hours.
Most nights I rushed out into the evening
without paying attention to the trees,
whose names I didn't know,
or the birds, which flew heedlessly on.
I couldn't relinquish my desires
or accept them, and so I strolled along
like a tiger that wanted to spring
but was still afraid of the wildness within.
The iron bars seemed invisible to others,
but I carried a cage around inside me.
I cared too much what other people thought
and made remarks I shouldn't have made.
I was silent when I should have spoken.
Forgive me, philosophers,
I read the Stoics but never understood them.
I felt that I was living the wrong life,
spiritually speaking,
while halfway around the world
thousands of people were being slaughtered,
some of them by my countrymen.
So I walked on—distracted, lost in thought—
and forgot to attend to those who suffered
far away, nearby.
Forgive me, faith, for never having any.
I did not believe in God,
who eluded me.
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 14, 2018
:
NỖI BUỒN HOA PHƯỢNG
Nỗi
Buồn Hoa Phượng
Nhà thơ TTT có lần ngồi
Quán Chùa, nhân lèm bèm về nhạc sến,
đúng hơn, nhạc có lời, ông phán, GCC nhớ đại
khái, ở trong chúng, có cái gọi là
nhịp của thời gian.
Bạn nghe 1 bản nhạc sến, là nhớ lại 1 cái thời nào
đó liên quan đến nó.
Bản Tình Nhớ với Gấu là thời gian đi trình
diện nhập ngũ tại Quang Trung, viết rồi.
"Ngày mai đi nhận xác chồng", là thời gian
ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà, [đang loay hoay viết].
"La plus belle pour aller danser", là thời gian thằng em
nghêu ngao, chờ đi xa.
Với Nỗi Buồn Hoa Phượng, của vị nhạc sĩ vừa mới ra đi, với GCC,
cái thời của nó, là thời gian học Đệ Tứ, trường
Thành Công, ở khu Hoà Hưng, của thầy Chu Tử, tức
Chu Văn Bình, bạn của ông anh rể của GCC, là nhà
văn Nguyễn Hoạt, và còn là nhà báo
với cái nick Hiếu Chân.
Chu Tử là hiệu trưởng, và là giáo sư
dạy Pháp Văn, lớp của GCC.
Trường có thể chỉ là cái vỏ để ông làm
chính trị. Vốn thành lập trường có thể là
của Cao Đài.
Ông bị Diệm bắt, và sau 1 thời gian giam giữ lâu
quá, không có cớ để bắt, thành ra cũng không
có cớ để tha, chúng ghép ông vào 1 băng
ăn trộm xe hơi, để chụp hình đăng báo, cùng đồng
bọn, và sau đó, thả.
GCC có nhìn thấy tấm hình đó, trên
1 nhật báo ở Sài Gòn.
Thả, ông làm báo tiếp, tờ Sóng Thần,
viết văn, và nổi tiếng với tác phẩm Yêu.
Lần đầu tiên GCC biết đến cái gọi là “lưu bút
ngày xanh” là ở trường Thành Công.
Hết năm học, một em, còn nhớ, người Nam, đưa cho GCC 1 cuốn
sổ nho nhỏ, GGC nhớ là, đẹp lắm, và nói, anh viết
vài dòng lưu bút cho em!
Ui chao, thế là Gấu bèn viết. Không còn
nhớ viết cái gì, nhưng chắc là cũng vãi
linh hồn lắm!
Trong thời gian học trường Thành Công, GCC gặp lại
cô gái ở Hà Nội, con 1 người bạn của bà cô,
Cô Dung, của Gấu. Nhà cũng ở khu đường gần hồ Hallais, cô
Gấu hay tới xoa mà chược, và Gấu tới, để lấy tiền đi mua
bánh mì baguette, ở lò bánh mì Michaux,
ở đường Trường Thi, gần Bờ Hồ.
Nhờ vậy, mà được nhìn thấy cô gái.
Gặp lại ở Thành Công.
Cô học ở 1 lớp ở bên dưới. Gấu học 1 lớp ở trên
lầu. Gấu mò ra đúng chỗ cô ngồi, và 1 bữa,
để cái thư của Gấu ở nơi ngăn bàn học.
Cũng chẳng nhớ 1 tí gì, về nội dung bức thư tình.
Cô gái đem thư trình ông giám
hiệu.
Thời gian đó, Chu Tử đã bị bắt. GCC học trường Thành
Công, tuy là trường tư, nhưng không phải đóng
học phí, hay chỉ phải đóng 1 nửa, lâu quá chẳng
nhớ, nhờ cái thư của ông anh rể đưa cho Thầy Chu Tử.
Tay giám hiệu trừng trị GCC bằng cách quyết định,
mi từ nay phải đóng học phí.
Học không lo, lo tán gái!
GCC trở lại, không phải trường Thành Công, mà
là trường Thánh Mẫu, đối diện với trường Thành
Công, mãi sau đó, khi đã đậu Tú Tài
I, vô Chu Văn An, quen bạn C, em nhà thơ TTT, và
nhờ vậy, quen biết Bà T, bạn của bà cụ C.
Nhà văn Mít về mặt đạo hạnh, quá tệ, nhất
là lũ viết dưới ánh sáng của Đảng. Cho đến giờ
phút này, thì lịch sử Mít thời vừa qua, hiện
ra thật rõ nét. Phải có 1 tên nào
đó, có tí ti can đảm để lập lại câu của DTH,
chúng ta đã bị lừa. Phải có 1 tên, nhỏ 1 giọt
nước mắt cá sấu cho lũ Ngụy. Nước mắt cá sấu thôi,
cũng được rồi.
Cái sự kiện, TTT không cho xb Ung Thư có thể
là do, trong đó, có những dòng thật là
tuyệt vời về những người bạn cũ của ông, ở lại Hà Nội, những
nhân vật như thi sĩ Đồng chẳng hạn.
Bởi là vì có lần GCC hỏi ông, thời gian
đi tù ở đất Bắc, có người nào đi thăm ông,
ông bật cười, sặc ly cà phê buổi sáng, nói,
sức mấy mà có chuyện đó!
Cái
sự ồn ào về chuyện cho Tẫu thuê đất, theo GCC, nhảm. Vẹm chưa
từng cho phép dân Mít có ý kiến về bất
cứ 1 chuyện gì. Chúng, chính chúng, không
hề biết, về bất cứ 1 điều gì liên quan đến dân chủ, và
chân lý này trải dài suốt 4 ngàn năm
lịch sử của xứ Bắc Kít, chứ không phải chỉ từ 1945.
Trong 1 bài viết của Somerset Maugham, về Huế, có post
trên Tin Văn, kiếm không ra, ông nhận xét tụi
Tẩy không phân biệt đối xử giữa chúng và lũ Mít
Miền Nam, và ông tin rằng, đó là cái
tính chất Tẩy nhất của Tẩy. Ông viết, nhớ đại khái,
chúng mang nước Pháp của chúng, qua xứ Nam Kỳ.
Và nếu như thế, thì rõ ràng là với
Tẩy, có hai xứ khác hẳn nhau, Bắc Kít và Nam
Kít. Tẩy không hề đối xử với Bắc Kít như trên.
Cái cách đối xử của Tẩy, với Bắc Kít, y chang, cách
Bắc Kít sau này, khi lấy được Nam Kít, đối xử với lũ
Ngụy: Chúng để cho lũ liếm đít chúng, tức đám
tà lọt, trở cờ… đối xử với Ngụy, thay vì cán bộ, quản
giáo. Ai đã từng đi tù VC thì đều hiểu rõ
điều trên. Tù Ngụy không được tới gần cán bộ, phải
đứng cách xa vài thước, phải bỏ nón xuống, phải…, phải…
Hồi Pháp thuộc, dân Bắc ít người được gặp Tẩy, mà
chỉ gặp bọn cường hào ác bá, y chang sau này,
Ngụy sợ bọn ăng ten, bọn bám đít cán bộ, quản giáo.
Hồi nhỏ, sống với ngoại trong ngôi nhà
thấp tè cũ kỹ bên sông. Buổi tối có rất nhiều ghe
hàng bông neo đậu lại ngoài bến. Nhờ đám lá
dừa nước dày mịt mùng mà ông ngoại tôi
trồng mà khách thương hồ có chỗ tránh gió
giông. Hình ảnh mà mình nhớ nhất, cảm động nhất,
đem lại cho mình nhiều mơ mộng nhất là những ngọn đèn
chong họ treo đầu ghe le lói mỗi đêm. Bà ngoại mình
cũng đáp lại bằng một ngọn đèn chong ở chái nhà,
cũng giống như vậy. Mỏng manh. Leo lét. Mà bền dai. Như thông
điệp của sự sống : nơi ấy có người.
Nguyễn Ngọc Tư: Đèn ảo tắt
bóng tối là rất thật
Ui chao, đọc một cái,
là bèn nhớ liền đến những ngọn đèn, hoặc đuốc, ở ven
bờ sông, lạch.. như là tín
hiệu, để chiếc ghe đón khách ghé vô, chở về thị
xã, những ngày sau giải phóng, Gấu Cái đưa cả
đám nhỏ về vườn, lập cái chòi trên miếng đất dòng
họ bên ngoại chia cho, bên cạnh nhà ông Cậu Tư
Long, xã Hưng Long, Cai Lậy. Gấu thì vẫn ở Sài Gòn,
vẫn làm Bưu Điện, thời gian chưa bị tống ra bên ngoài,
đang là chủ nhà, bèn biến thành thằng viết mướn,
ở ven nhà, tức là ở vỉa hè Bưu Điện.
Nơi ấy có người đang chờ đò.
*
Bên ấy có
người ngày mai ra trận,
Bên ấy có
người ngày mai đi xa!
Merde!
Merde!
Gấu biết
tới Miền Nam Sâu Thẳm, The Deep South, là nhờ… giải phóng.
Những đau thương, và thú đau thương về Quê Ngoại, giả
như không có giải phóng, là chẳng hề được hưởng,
thành thử lúc nào cũng biết ơn giải phóng!
Chán thế!
Bên ấy có người ngày mai đi tù!
Đi Kinh Tế Mới!
Archaeology
The archaeologist's spade
delves into dwellings
vacancied long ago,
unearthing evidence
of life-ways no one
would dream of leading now,
concerning which he has not much
to say that he can prove:
the lucky man!
Knowledge may have its purposes,
but guessing is always
more fun than knowing.
We do know that Man,
from fear or affection,
has always graved His dead.
What disastered a city,
volcanic effusion,
fluvial outrage,
or a human horde,
agog for slaves and glory,
is visually patent,
and we're pretty sure that,
as soon as palaces were built,
their rulers,
though gluttoned on sex
and blanded by flattery,
must often have yawned.
But do grain-pits signify
a year of famine?
Where a coin-series
peters out, should we infer
some major catastrophe?
Maybe. Maybe.
From murals and statues
we get a glimpse of what
the Old Ones bowed down to,
but cannot conceit
in what situations they blushed
or shrugged their shoulders.
Poets have learned us their myths,
but just how did They take them?
That's a stumper.
When Norsemen heard thunder,
did they seriously believe
Thor was hammering?
No, I'd say: I'd swear
that men have always lounged in myths
as Tall Stories,
that their real earnest
has been to grant excuses
for ritual actions.
Only in rites
can we renounce our oddities
and be truly entired.
Not that all rites
should be equally fonded:
some are abominable.
There's nothing the Crucified
would like less
than butchery to appease Him.
CODA
From Archaeology
one moral, at least, may be drawn,
to wit, that all
our school text-books lie.
What they call History
is nothing to vaunt of,
being made, as it is,
by the criminal in us:
goodness is timeless.
August 1973
Note: Cũng mới bệ về từ tiệm sách cũ mới mò
ra được, ở gần gần mỏ phim cũ.
Cái tay chủ cũ của cuốn thơ, mới cực bảnh: Hắn
ta đọc bài giới thiệu, gạch đít những câu cực thần
sầu về cõi thơ Auden.
Thí dụ, bài thơ Khảo Cổ trên, hắn ta - hẳn
là hắn, Gấu thực tình không nghĩ phụ nữ mê
thơ Auden, hà, hà, gạch đít câu này:
Ở cuối bài thơ, ông ta – Auden - lèm bèm về
quá khứ xa xưa – cái thời còn Sài Gòn,
với GCC, như để sửa soạn rút dù vào 1 tương lai chưa
biết, và rồi kết luận bằng 1 khẳng định:
Lịch sử được làm ra bởi 1 tên giết người ở trong chúng
ta/Cái tốt thì vô thời:
At the end, in "Archaeology," his last completed poem, he delved
into an unknowably remote past, yet -as he prepared for his own exit
from the world of time into an unknowable future-he concluded with an
affirmation.
History, he wrote, is made "by the criminal in us: / goodness is
timeless."
http://www.tanvien.net/tgtp/tgtp18_brodsky.html
Brodsky, bị nhà nước lưu đày nội xứ tại
1 nông trường cải tạo nơi Biển Bắc, được 1 nữ độc giả chắc hẳn, gửi
cho 1 tập thơ của Auden, vào 1 lúc nghỉ lao động, bèn
lôi ra đọc, và ngộ ra cõi thơ của ông - của Brodsky
- thế mới thần sầu:
Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù
đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó.
Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một
nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người
suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông
cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình
máu mủ. Ông không nói giỡn. Buổi chiều ông
có thời giờ ngồi làm những bài thơ "xấu xa", và
tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa hình thức trưởng giả"
từ những thần tượng của ông. Hai đoạn thơ sau đây của Auden đã
làm ông "ngộ" ra:
Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet.
Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,
Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Auden
Quả là cả 1 cõi thơ của Brodsky, thoát
thai từ hai đoạn thơ trên, như chính ông thú
nhận:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về
cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì
con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About
what time does to Man."
Joseph Brodsky.
"So they went walking in their
peacoats - two old men, unlucky Russians".
Volkov, trong khi trò chuyện với nhà thơ
Brodsky, đã nhắc tới một tiểu luận về Stravinsky, của Auden, qua
đó, nhà thơ Anh này cho rằng, chính cái
gọi là sự tiến hóa [evolution], phân biệt nghệ sĩ lớn
với thứ nhỏ con. Nhìn hai bài thơ của ông nhỏ con, không
làm sao biết bài nào làm trước.
Theo nghĩa đó, một khi đạt được một tí thành tựu
nào đó, nhà thơ bé bèn ngưng lại, không
chịu lớn thêm nữa. Anh ta hết chuyện nói [He has no more history].
Trong khi, nghệ sĩ lớn, chẳng bao giờ bằng
lòng với thành tựu, cứ muốn lớn thêm tí nữa, tí
nữa.
Và Auden phán: Chỉ nhìn vào những tác
phẩm sau cùng của một đại nghệ sĩ, chúng ta mới có
thể đánh giá những tác phẩm đầu tay của người đó.
Theo Gấu, phải lấy câu trên, làm chuẩn, khi đọc Thơ
Ở Đâu Xa.
Bởi vì có hơn một người cho rằng Thơ Ở Đâu Xa thua
nhiều, so với Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy. "Liên
Đêm... " mới là đỉnh cao của thơ tự do, của Thanh Tâm
Tuyền.
*
Và Brodsky, bèn la lớn, Trời hỡi Trời! Lẽ dĩ nhiên!
Đúng ngay boong! [It's absolutely true!]. Bạn biết không, người
Nhật quan niệm như thế đấy. Họ có một cái nhìn thật
là khoẻ mạnh, đối với những nghệ phẩm, theo tiến trình sáng
tạo, creative evolution. Khi một ông nghệ sĩ chín muồi, đạt
được tiếng tăm, trong một văn phong nào đó, là ông
ta bèn đổi văn phong khác, và cùng với nó,
là cái tên của ông ta. Hokusai, theo tôi
biết, có cỡ chừng không dưới ba chục thời kỳ.
Nhìn theo cách đó, có thể
nói, có tới hai đỉnh cao của thơ Thanh Tâm Tuyền. Một,
với thơ tự do, Đêm Liên. Và một, với thơ tù, Thơ
Ở Đâu Xa.
Về sự tuyệt vời của Thơ Ở Đâu Xa, của "đề tài"
thơ tù.
Brodsky cho rằng, thơ tù của Nga, nhức nhối
nhất, the most stunning, là từ ngòi viết của Zabolosky. "Somewhere
in the field, down Magadan way... ". Có một dòng, mà
nó làm cho bạn, dù có tưởng tượng tới cỡ nào
thì cũng không thể làm bật ra được, khi muốn mầy mò
vào cõi thơ tù [in connection with this topic].
Đó là một câu rất ư là giản
dị sau đây:
"So they went walking in their peacoats
- two old men, unlucky Russians".
Ôi chao, đọc câu trên, rồi nhớ lại
những dòng thơ tù của một nhà thơ, gốc Bắc Kỳ, bị đầy
trở về quê cũ, vào một buổi chiều cuối năm, cùng bạn
tù, vác bó cuốc nặng, đi qua một thôn nghèo,
tránh sao cũng không khỏi lũ trẻ lem luốc, co ro đứng coi tù
qua thôn, cảm khái cho chúng, cho cái thôn
nghèo của chúng, cho một buổi chiều cuối năm xa gia đình,
xa vợ con, ở mãi tít Miền Nam, nhưng cái lạnh lẽo
không đèn lửa của nhà ai kia làm át nỗi
nhớ nhà, làm ảm đạm lòng ta.
Chiều cuối năm qua xóm nghèo
Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm!
Đây có lẽ là dòng thơ tuyệt
vời nhất của thơ tù, của mãi mãi, về sau này.
Mưa trên lối về, Thu đã tàn
(1)
tan. thu
lời thu. nào tàn.
tạ
vàng. nhầu. úa. cuộc tình
lá. chia tay tháng. cũ
ấp. ủ. mùa chim. di
trời thấp. ngóng ai. đi
chân người. khua xao. xác
ký. ức nào. xác xơ
nhìn. thời gian. thoi thóp
tì. vết người. trong mơ
ta. thân vàng. đổ. lá
Ðài Sử
(1)
Câu trên, tự dưng
bật ra, thật tuyệt.
Nhưng, làm gì có chuyện tự dưng!
GCC lục lọi trí nhớ, và sau cùng, vô
Google..
Hoá ra là từ 1 câu:
Hoa Mai nở trên nấm mồ,
Xuân càng già
Ðánh
Thơ, trong Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân
Nguồn
Như vậy là có
hai câu.
Còn thiếu hai, xin mời độc giả TV.
Sau đây là 1 bài
tứ tuyệt, do GCC đề nghị:
Mưa trên lối về, Thu đã
tàn
Hoa Mai nở trên nấm mồ, Xuân càng già
Trời mùa Ðông Paris suốt đời thèm chia
ly
Tóc Em chưa úa nắng Hè
Vậy là đủ 4 câu,
4 mùa.
Câu chót, còn có bản tiếng Tây,
như câu số 2, có bản tiếng Tầu:
Nàng khiêu vũ chỉ 1 mùa Hè.
Elle n'a dansé qu'un seul Été
Ðúng là thơ
Kon Kóc của Thầy Kuốc!
Note: Mới bê về từ tiệm sách
cũ. Thơ Vương Duy.
Đi ngay 1 bài
Adrift on the
Lake
Autumn sky illuminates itself all empty
distances away toward far human realms,
cranes off horizons of sand tracing that
clarity into mountains beyond clouds.
Crystalline waters grow quiet at nightfall.
Moonlight infusing idleness everywhere,
I trust myself to this isolate paddle, this
observance on and on, no return in sight.
Lênh đênh trên
hồ
Bầu trời mùa thu
tự chiếu sáng tất cả những khoảng cách trống rỗng
Bằng cách đùa chúng về 1 vùng xa thật
xa, xa khỏi cõi người...
Xua lũ sếu ra khỏi những đường chân trời trùng trùng
cát cát, trùng trùng dâu bể
Vạch cái sự sáng sủa của mùa thu vào
những ngọn núi, quá những đám mây
Nước trong vắt trở nên im ắng khi đêm xuống
Ánh trăng tẩm cái nỗi nhàn rỗi của nó
vào tận nơi nơi
Gấu tin tưởng chính mình vào con giầm đơn
độc
Vào cái sự quan sát và cứ thế cứ thế,
đi hết đi hết
Chẳng có gì trở lại
Lọt vô tầm nhìn.
Bài sau đây,
có trên Tin Văn, Gấu "mượn hoa tiến Phật", tưởng niệm Đinh
Cường
Mourning Yin Yao
Returning you to Stone-Tower
Mountain, we bid farewell
among ash-green pine and cypress, then return home.
Of your bones now buried
white cloud, this much remains
forever: streams cascading empty toward human realms.
Lament for Yin Yao
We followed
you back for your burial
on Mount Shihlo
And then through
the greens of oaks and pines
we rode away home
Your bones are
there under the white clouds
until the end of
time
And there is only
the stream that flows
down to the world
of men.
Chúng tớ
đưa đám bạn DC rồi trở về nhà
Xanh xanh những
mấy ngàn dâu, ngàn thông, ngàn
sồi…
Xương của bạn DC
bi giờ ở bên dưới những đám mây trắng
kia
Cho đến tận cùng,
của tận cùng, của thời gian
Chỉ có dòng
suối là từ phía mây bạc
Chảy về trần gian
của lũ chúng tớ
Note: Bài này, cũng chôm, để tặng Seagull
You
Will Hear Thunder by Anna Akhmatova
You will hear thunder and
remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
Mi sẽ nghe tiếng sấm và
sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông
bão.
Viền trời sẽ có màu
đỏ thật đậm
Và trái tim của mi,
như nó đã từng, vào lúc đó,
sẽ cháy bừng bừng
Ngày đó, ở Mát
Cơ Va, tất cả sẽ trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn
bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn
hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng
của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt
quãng đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của
ta.
For Wet Mu
We're both travelers dark-eyed with love
and both possessed of white-cloud mind.
Why set out for East Mountain, when here
spring grasses grow deeper day by day?
Hai ta đều là lữ khách mắt tối u vì tình
Cả hai đều bị mây trắng đợp mẹ mất cái đầu
Hà cớ làm sao mà mò xuống vùng
Núi Đông
Trong khi ở đây, cỏ xuân mỗi ngày một dầy thêm
lên?
VIẾT MỖI NGÀY / MAY 05, 2018 : LET'S TALK
ABOUT TRAVEL / VƯƠNG DUY
It's May, let's talk abt Travel
Vương Duy
701-761
Và đây là 1 bài thơ thật duyên
dáng đáng mến, về vẻ đẹp tuyệt vời của một thành
phố, mà chúng ta tới, bằng thuỷ lộ, lần đầu tiên.
Tôi – Czeslaw Milosz - cũng đã từng trải qua 1 kỷ
niệm tương tự, khi, hai chục tuổi, ba đứa chúng tôi cập
bến thành phố Constance ở miền Nam nước Đức, bằng ca nô,
A.D. 1931.
Tôi cũng nên viết thêm, giả như Vương Duy không
phải là 1 tay thuỷ thủ tới chỉ, a very willing sailor, thì,
ít nhất, ông ta là 1 người ưa tò mò.
Ông bị đi du lịch, do bổn phận của mình, l nhân viên
nhà nước, nhưng, cõi quan hoài của ông,
cốt lõi của nó, là của 1 Phật Tử, và trong
thơ của ông cõi Phật đó, luôn luôn được
biểu tượng, bằng 1 xứ Đoài mây trắng lắm, như GCC, người
đang dịch thơ của ông
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things
Buổi sáng, dong thuyền tới Xinyang
Khi thuyền, xải buồm tới hồ Xingze Lake
Tôi sững sờ vì vẻ đẹp hiển hách của thành
phố
Những đường quanh co, khúc khuỷu của con kênh,
do những cửa nẻo vườn tược, chật hẹp, bó bíu.
Lửa và khói bếp, như đám đông, bao
trùm mặt nước.
Trong họ, tôi nhìn ra những tập tục xa lạ
Và thổ ngữ ở đây thì tối tăm
Mùa Thu, lúc này, muộn
Những cánh đồng, thả cửa, mặc sức.
Buổi sáng, sáng.
Tiếng động đánh thức những lòng giếng khơi
Thuyền chài lượn lờ trên mặt nước
Gà, chó.
Làng, bên này, bên kia sông.
Tôi rời xa cái xứ sở Mây Đoài Trắng
Lắm của tôi
Và cánh buồm cô đơn của tôi
Ở cái tuổi trên tám bó này
Sẽ... tội nghiệp ra sao?
Đám thanh thiếu niên ồn ào, náo
động là lũ chúng tôi đó dần dần rã
ra cùng với mùa hè kết thúc, và
rồi những cơn bão lodos chợt tới với thành phố, quất
túi bụi lên những bến cảng vào mỗi tháng
Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy
chậm chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông
Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi, chẳng biết làm
gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng
mà tôi thường ngồi vẽ, vào những giờ phút
trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên
thật xứng đáng với nàng:
xưởng họa của tôi. Tất cả những bạn bè của tôi cũng
thỉnh thoảng ghé, cũng bầy đặt thử tài hội họa, này,
đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy vẽ, trong khi
nhìn với cặp mắt đầy nghi ngờ những cuốn sách của tôi,
và chuyện này thì cũng chẳng có gì là
lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu hết đám chúng
tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo,
nam hay nữ, Bông Hồng Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua
ngày, và đỡ buồn.
Tình Đầu
http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/tinhdau.html
26.6.2010
Đọc "Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ Việt Nam, nhớ những
ngày xưa kinh khủng.
HÂ.
Tks. NQT
Mới mò ra 1 tiệm sách, phim cũ. Vớ được
cuốn này, quá tuyệt. Giở ra đọc loáng thoáng,
trên subway, trên đường trở về nhà mới, vớ
đúng 1 bài thần sầu – hình như đã
đọc rồi, của xừ lủy, và đã từng chôm, để viết
về Nếu Đi Hết Biển, của Trần Văn Thuỷ, ngủ với kẻ thù: Bạn
qua Cali, ổ Ngụy, được lũ trở cờ tiếp rước, không đi đến đâu
đâu. Phải được em Ngụy nào đó rước bạn vô
nhà, thì cuộc giao lưu hòa giải giữa hai miền
mới hoàn tất.
Gấu đã từng trải qua kinh nghiệm này
rồi, hà, hà!
Bài tuyệt lắm, viết về sư phụ của Gấu: Graham
Greene. Post bản tiếng Anh, rồi dịch sau!
Sleeping with the Enemy
One of the most revealing moments in Norman Sherry's
massive, ongoing biography of Graham Greene (with the second volume
just published, he has now devoted 1,352 pages to Greene's first fifty-one
years) comes at the very beginning, when Greene charges Sherry with
compiling a list of his, the novelist's, enemies. Every man has enemies,
Sherry replies. By the time the night is over, Greene has composed,
with the help of his brother Hugh, his own extensive list of his lifetime's
opponents and handed it to his biographer.
That might be said to be the paradoxical trademark of
Graham Greene: that he rarely gave himself the benefit of his unending
doubt, and that he invariably gave the men he was supposed to hate
his best lines. He saw the folly, and the frailty, of everyone around
him. Thus adulterers come to feel compassion for the husbands they're
cuckolding; victims see the human side of their criminal tormentors;
Fowler in The Quiet American comes to mourn the death of his rival
in love and opponent in politics (Schadenfreude in reverse, you could
say). Even when he was writing wartime propaganda for the British government,
Greene described an Englishman shooting a German lieutenant-and then
finding in the dead man's pocket a picture of his baby.
That issue is one of the hardest dilemmas in every serious
life, and one that faces us daily in the office, the bedroom, even
the income tax form we sign: what to do with the person who opposes
us? We know, more or less, how to deal with our friends, but what to
do with those who tempt us to awaken the devil in ourselves (a far more
pernicious temptation than any external devil affords)? Many religions
counsel us to forgive those who trespass against us and to extend charity
even to the Jeffrey Dahmers of the world; Buddhists actually argue
that our enemies are our best friends because they challenge us to
transcend ourselves. Yet still the debate between mercy and justice
is as unending as the one between duty and love.
If all Greene's novels are essays on fallenness (and
self-accusations), they are also, by the same token, arguments against
the whole notion of enmity, or reminders, at least, that our enemies
are no less vulnerable, and right in their own minds, than ourselves.
With his famous taste for
[còn tiếp]
Theo GCC, cuốn Người
Mỹ Trầm Lặng được
phát sinh, là từ cái tên Phượng,
đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện
là từ đó mà ra. Và nó còn
tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít
cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký
giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng
thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái
xứ sở khốn kiếp Mít này đi!
Một tên Yankee mũi lõ tới
một nơi ở hải ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân
chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa
cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì
cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách
hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta
ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý
nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên
anh ta đừng để ý đến cái gì hết. Và giữa
họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe
hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ
cả hai
"Người Mẽo trầm lặng"
của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc
đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng
bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp.
Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình,
là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và
Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng,
những con người bình thường bị lôi cuốn vào
đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính
tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
Nhưng đó không
phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người
Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn
có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh
kinh cá nhân. Rõ ràng là, nếu
bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi
đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác
tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác. Và
nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere,
bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
Điều cuốn sách
thọi tôi, sâu thẳm hơn, riêng tư hơn nhiều.
Cuốn tiểu thuyết đòi hỏi mọi người trong chúng ta,
muốn cái gì từ 1 nơi chốn hải ngoại, và toan tính
gì với nó. Nó chỉ ra, cái ngây
thơ và cái lý tưởng có thể làm
thịt rất nhiều mạng người, như cái đối nghịch với nó,
cái đểu cáng đáng sợ. Và nó nhắc
nhở tôi rằng, thế giới thì rộng lớn nhiều so với những
ý nghĩ tư tưởng của chúng ta về nó, và
như thế nào, người thiếu phụ ở trong cuốn sách, cái
cô Phượng, sẽ luôn luôn ở bên ngoài một
vòng ôm của 1 tên mũi lõ. Nó còn
ôm trọn những mảnh miểng hiểu biết - cái nền của tôi
- Á, Anh, Mẽo – vào trong cùng thai đố.
Bạn phải đọc Người Mẽo
trầm lặng, tôi biểu bạn bè của tôi, bởi là
vì nó giải thích quá khứ của chúng
ta, ở Đông Nam Á, chiếu sáng cái sự
hiện diện của chúng ta ở nhiều nơi chốn, và có
lẽ, báo trước tương lai của chúng ta nếu chúng
ta không để ý.
Nhìn như thế,
thì Diệm bị giết, phần nhiều là do thiện ý
của Mẽo, hơn là do Cái Ác Bắc Kít:
Nó chỉ ra, cái ngây thơ và
cái lý tưởng có thể làm thịt rất nhiều
mạng người, như cái đối nghịch với nó, cái
đểu cáng đáng sợ.
Pico Iyer Commemorates
the Centennial of Graham Greene's Birth Oct. 6, 2004
Pico Iyer tưởng niệm GG, nhân kỷ niệm 100 năm ngày
sinh của sư phụ
Cuốn NMTL, viễn ảnh, vision, đầu tiên, là từ
cái từ “lực lượng thứ ba”, mà GG nghe lóm được,
từ 1 viên cố vấn Mẽo, như trên Tin Văn đã từng “báo
cáo”, nhưng cái viễn ảnh thứ nhì, tiếp theo là
Phượng, tên cô gái, và cũng là 1 huyền
thoại về 1 loài chim, chỉ tái sinh, từ tro than.
Bạn đọc Tin Văn hẳn còn nhớ cuốn Bếp Lửa, lần đầu xb,
đếch ai đọc, ông Nguyễn Đình Vượng bèn đổ ra hè
đường Sài Gòn, và nó tái sinh, từ
lớp tro than, bụi đường Sài Gòn, 1 lần, rồi tái
sinh 1 lần nữa, từ cuộc phần thư 30 Tháng Tư, 1975.
Khủng khiếp thật.
Nhưng MCNK mà không khủng sao. Nếu Người Mỹ Trầm
Lặng, và cái tam giác tình của nó,
với 1 cô Phượng của nó, mở ra cuộc chiến Mít, mở
ra cuộc xuất cảng bướm Mít đi cùng khắp thế giới - nên
nhớ Thiên Sứ của Sến, nói cho cùng, thì
cũng chỉ là 1 bướm Mít xuất cảng qua xứ Đức, lấy
chồng theo chồng -thì MNCK khép lại, bằng cái chết
của Kiệt, chạy thoát rồi, còn vội trở về, để kịp chết.
Và thay vì 1 cô Phượng, thì là 1 cô
Hiền, của 1 cõi đảo xa, 1 lost domain….
Cái mà Pico Iyer gọi là tiên tri,
với Gấu, là viễn ảnh, của 1 tác phẩm.
Của bất cứ 1 bài viết.
Sở dĩ lũ Mít viết chẳng tên nào ra hồn,
vì không có thầy, mà còn vì
đếch làm sao có được 1 viễn ảnh cho 1 bài viết,
dù bình thường, thật bình thường…
Lần đó, theo Joseph
đi gặp Đỗ Long Vân, khi đó là anh lính
truyền tin tại Đài Phát Tín Phú Lâm,
xin bài viết Truyện Kiều ABC. Hình như Gấu đứng ngay
đó, đọc loáng thoáng, vớ được câu này:
Cái mới nếu có chẳng qua là ở trong
một cách đọc…
Và Gấu biết, bài viết kể như xong: Ta sẽ đọc
Bếp Lửa ở mức không độ của nó,
vứt mẹ tất cả vào xọt rác, nào ý thức lạc
loài, nào thân phận nhược tiểu, nào Malraux...
Trong một lần đi cùng
Nguyễn Tiến Văn lên Montreal, nhậu với một tay chuyên
về điện ảnh, tay này cho biết, có một người bạn không
hề bỏ một bài Tạp Ghi nào của Gấu [khi đó viết
cho NMG, trên tờ Văn Học], nhưng Gấu đoán, ông bạn
này là chính ông ta.
Trong lúc nhậu, chủ nhà hỏi Gấu, anh viết một
bài viết như thế nào. Và Gấu trả lời, tất cả những
bài viết của Gấu đều là cóp nhặt, đều là
kết hợp của đủ thứ hầm bà làng, cho đến khi Gấu có
được một cái "vision" choàng lên tất cả.
Với bài Biển, "vision" của nó, là chi
tiết về cát.
Với bài Bếp Lửa, cái vision của Gấu
chiếu về cuốn của Barthes: Độ không của cách viết.
Bài viết Bếp Lửa kết thúc bằng câu:
Người ta có thể đọc hoài một cuốn sách,
nhưng không chỉ có một cách đọc cuốn sách
đó.
Nếu người viết có một "viễn ảnh" về bài viết,
khi viết, thì người đọc, cũng có một viễn ảnh, về bài
viết, khi đọc.
Đọc một bài thơ, bài văn, như thế nào?
Hãy đọc nó, như là một viễn ảnh, của
riêng bạn, về nó.
Và như thế, viễn ảnh còn là chìa
khoá, password của riêng bạn, để mở ra bài viết
Có lẽ, chẳng ai có thể dậy bạn, đọc một
bản văn.
Có thể, có những gợi ý, nhưng đọc nó
như thế nào, là tùy ở bạn.
Ghi chú trong ngày
Literary Criticism
It must end in the inexplicable
GABRIEL JOSIPOVIC
June O. Leavitt
THE MYSTICAL LIFE
OF FRANZ KAFKA
Theosophy, Cabala, and the modem spiritual revival 212pp. Oxford
University Press. £40 (US $65).
Stanley Corngold and Ruth V. Gross, editors
KAFKA FOR THE
TWENTY-FIRST CENTURY.
286pp. Camden House. $75.
Stanley Corngold and Benno Wagner
FRANZ KAFKA The
ghosts in the machine
273pp. Northwestern University Press. $34.95.
David Suchoff
KAFKA'S JEWISH
LANGUAGES
The hidden openness of tradition 267pp. University of Pennsylvania
Press. $65.
Shachar M. Pinsker
LITERARY PASSPORTS
The making of modernist Hebrew fiction in Europe
487pp. Stanford University Press. $60.
On September 23 it will be 100
years exactly since Franz Kafka wrote his breakthrough story, "The Judgement".
We are probably no nearer to understanding that or any other of his
works today than his first readers were, nor should we expect to be.
These books help to show us why.
Kết cục thì nó phải như thế đó:
Đếch làm sao giải thích được!
Trên TLS, số 7 Sept 2012,
GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka -
vị thầy gối đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái
ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như
là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện
ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”. Và có
thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng
chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của
ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là
nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được
Kafka!
Ở đây, cũng phải đi 1 đường
ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp Lửa
của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là
Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết cho cô
em bà con, buộc vào quê hương thì phải là
ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét
của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái vật, con bọ
VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó
chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở
trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích,
sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà
cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!
2. Cuốn Sinh Nhật
của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên
đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn
đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm
1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với
tác phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như đoạn
sau đây cho thấy:
Truyện ngắn mà Brod gọi
là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks,
của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc
của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải thích cái
không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi
lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại
chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable,
because it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn, nhân
loại không làm sao đọc được Kafka, vì có
1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái
nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt
mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!
(1)
Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không
còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân
hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc
nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi
quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời
nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát
thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết
cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên
anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc
Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có
người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại
là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh
vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh
lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh
còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình
suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình
suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì
ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh
hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ
còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có
dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc,
ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải
là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để
cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng
ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956
Đọc cái thư thấy sến ơi
là sến.
Nhưng
phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội
dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc Kít, Hà Lội,
chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong
Bếp Lửa.
Richie @ Quebec with Friends,
29.5.2018
What the Last Evening Will Be Like
You're sitting at a small bay window
in an empty café by the sea.
It's nightfall, and the owner is locking up,
though you're still hunched over the radiator,
which is slowly losing warmth.
Now you're walking down to the shore
to watch the last blues fading on the waves.
You've lived in small houses, tight spaces—
the walls around you kept closing in—
but the sea and the sky were also yours.
No one else is around to drink with you
from the watery fog, shadowy depths.
You're alone with the whirling cosmos.
Goodbye, love, far away, in a warm place.
Night is endless here, silence infinite.
Hirsch has written this Poem in a very simple
and elegant way. It has a deep meaning if one try to understand.
In the starting of the poem we will find that how a person’s
life is. They are with everyone but still they are alone. The poet
has described the same thing over here that even though it’s a last
evening what a person expects and feels. “The poet describes what
peace of mind we want even though it’s a last evening of our life”.
This poem can be felt by everyone who will read it deeply.
The poem is about that we expect in our life.
He is sitting on the window in an empty cafe near by the sea
and the owner wants to close it as its nightfall. Now he is walking
down to the shore where he can watch the last blues fading on the
waves. He has lived on the small house but when he is seeing the sea
and the sky it’s totally ours. He is not feeling the loneliness although
no one is there with him even to have a drink. He is happy to spend
his last evening of his life in such a nice place. He knows that even
no one is there with him but the sea and the sky were always going to
be there with him. Seeing the sea he is totally calm and even he has no
regret in his life being alone in the last evening. Hirsch has amazingly
written this poem giving a lovely message to everyone. I came up with different
feelings the more times I read it. The last line of the poem which will
touch your heart is... "Goodbye, love, far away, in a warm place.
Night is endless here, silence infinite. ”
Note: Bài thơ này, đã
có bản tiếng Mít trên Tin Văn, kiếm không
ra, thủng thẳng tính.
Forebodings
These ravens gathering on the beach
in the battered blue light of dusk
are a sudden unkindness
The path heading up to the house
strays off into a vague straggle
like a thought that has gone too far
That sliver peering through the clouds
looks like a bell that can no longer ring
in an abandoned church steeple
I don't mind the mindless fog
but my room at the top of the stairs
tilts like a broken boat at sea
All night I feel the homesick waves
and hear ravens scavenging in my sleep
Edward Hirsch: The Living Fire
Điềm
Bầy quạ túm tụm nơi bãi biển
Trong cái ánh sáng màu
xanh vụn nát của buổi hoàng hôn
Chúng mới bất thần tàn nhẫn làm
sao!
Lối đi dẫn lên nhà
Lạc vào chốn lạ lẫm mơ hồ
Như 1 ý nghĩ bỏ đi quá xa
Cái mảnh, miểng nhú ra, qua đám
mây
Thì giống như 1 cái chuông
hết còn chuông
Ở gác chuông 1 nhà thờ
bỏ hoang
Tớ đếch thèm để ý đến đám
sương mù “vô tri”
Nhưng căn phòng của tớ thì lại
ở trên đỉnh của cầu thang
Nó tròng trành như 1 lóng
thuyền bể vỡ, ở nơi biển cả
Suốt đêm tớ cảm thấy những con sóng
nhớ nhà [đến phát điên lên như tớ]
Và nghe lũ quạ lục lọi trong giấc ngủ
của mình
BORGES AT EIGH'IY
ENDYMION ON LATMOS
I was sleeping on the summit
and my body
Was beautiful, now worn out
by years.
High in the Hellenic night,
the centaur
Slowed his fourfold race
To spy into my dream. I liked
To sleep in order to dream
and for the other
Lustrous dream eluding memory
That purifies us from the burden
Of being what we are on earth.
Diana, goddess who is also
the moon,
Saw me sleeping on the mountain
And slowly came down into my
arms
Gold and love in the flaming
night.
I held her mortal eyelids,
I wanted to see her lovely
face
Which my lips of dust profaned.
I tasted the moon's perfume
And her unending voice called
my name.
O pure faces seeking each other,
O rivers of love and of night,
O human kiss and the bow's
tension.
How long has my wandering lasted?
There are things unmeasured
by grapes
Or flower or slender snow.
People run from me, are threatened
By the man loved by the moon.
Years have gone by. One worry
Horrifies my vigil. I wonder
If that uproar of gold in the
mountain
Was true or merely a dream.
Why fool myself that a memory
Of yesterday and a dream are
the same?
My loneliness drifts along
the ordinary
Roads of the earth, but in
the ancient night
Of the Numens, T always seek
The indifferent moon, daughter
of Zeus.
[Trans.
Willis Barnstone]
"Endymion on Latmos” is a mythological
poem. And perhaps the one personal poem I have ever
written. Because Endymion, like all myths, is not a figment
or mere reason. Endyrnion stands for all men. So you say
when a man has been loved, then he has been loved by divinity,
he has been loved by a goddess, he has been loved by the moon.
So I think I have the right to compose this poem, since like
all men I have been, at least once or twice, or thrice in my
life, Endymion. I have been loved by a goddess. Afterwards I felt
unworthy of it, at the same time, grateful. For why should good
things last? As Keats had it, "A thing of beauty is a joy forever."
The fact of having loved or having been loved, that may be represented
by the story of Endymion and the moon, and I have done my best to
make this poem alive and not to make you feel that it is based on Lempriere's
Classical Dictionary, but upon my personal fate and the personal
fate of all men, all over the world, all over time.
"Endymion on Latmos” là
1 bài thơ hoang đường, và có lẽ
bài thơ cá nhân độc nhất mà tôi
đã từng viết ra. Bởi là vì, Endymion,
như tất cả những người đàn ông, thì không
phải là 1 điều tưởng tượng, hay lý lẽ cái
con mẹ gì. Endymion đứng thế cho tất cả những người
đàn ông. Và như thế, khi bạn phán, khi
1 người đàn ông “được iêu", thì hắn
ta được yêu bởi 1 thánh nữ - như nhà thơ "Lu
Tử Dê" thường phán – hay bình thường, dung tục
hơn, hàng ngày hơn, "được yêu bởi 1 mặt trăng".
Và như thế, tôi
nghĩ tôi có quyền làm bài
thơ này, kể từ khi, như tất cả những người đàn
ông, tôi đã được, ít lắm một, hoặc
hai, hay ba lần, là Endymion.
Tôi đã từng được
1 thánh nữ yêu – thì BHD, rồi cô
bạn, rồi Cô T, mi làm phiền ta quá,
kiếp trước mi đúng là con đỉa… - Sau đó
tôi cảm thấy mình không xứng đáng,
hà, hà, và cùng lúc cảm
thấy biết ơn.
Nếu không thế, làm
sao có trang Tin Văn?
Như Keats phán: Một
cái điều nhan sắc thì là một niềm
vui vĩnh kỉu, hoài hoài….
[To... San Diego, with Love]
SOME JOY FOR MORNING
Now the connection with
spring has dissolved.
Now that
hysteria is blooming.
Says every
day I want to fly my kite.
Says what's
a grammar when you is no longer you.
My world
is hydrogen burning in space and in the fullness of
etc.
I have read
the news and learned nothing.
I try to
understand the whooshing overhead.
But for a
little light now.
I didn't
realize the tree was weeping.
How was I
to know I am not alone.
Wild light.
-Peter Gizzi
NYRB
May 24
Vui buổi sáng
Bây giờ mối nối với
mùa xuân đã rã ra
Bây giờ cơn kích
động đang nở rộ
Bèn phán,
Ngày nào tớ
cũng muốn thả một cánh diều
Văn phạm là gì
khi mi không còn là mi
Thế giới của tớ là
khinh khí cháy bừng trên bầu trời
Và đầy tràn
một cái vv… và vv..
Tớ đọc tin và chẳng
học được 1 điều gì
Tớ cố hiểu tiếng rú
ở trên đầu
Nhưng với 1 tí ánh
sáng vào lúc này
Tớ không nhận ra là
cây đang nức nở
Làm sao tớ biết tớ
đang cô đơn.
Ánh sáng hoang
dại.
Farewell, My Life;
I Love You
1
Your letter has touched me with its simple
meaningless phrases,
its strokes as clear as stars in this
summer sky,
as pointless and serene, my love, my fate.
Beneath the absolute beauty of your surfaces
there is nothing, nothing, Natalia. That
is why
I love you. To love you is to learn to
skate.
The deepest thing abou t you is your pearls,
those creatures of the sea who rest between
the marble, soft, exquisite, lifeless
mountains
-my hermitages, after the soulful girls
whose kisses were quicker than lizards
in green
gardens of fig-trees and eternal fountains.
I love the emptiness of your smile, your
slow
wit, your foolish chatter. A child, I
play
in your suburban street, before carriages
and crowds have smutched it, after the
first snow;
you dazzle me, and that is how you'll
stay
after many childbearings and miscarriages.
I shall come to you without fail, in autumn,
soon.
Do you understand? I shall come at the
year's fall.
My name is the only word I need to hear-
without turning to me your face, the vapid
moon.
It is miracle enough that you speak at
all
or comb at all your magnificent black
hair.
I hunger for you to touch me absently;
your tolerant indifference does not hurt
any more. I will hover above you
hoping for a sign of life in your perfectly
still face, but happy to feel your beating
heart.
Farewell, my life; I love you.
2
Dizzily the pines fly past;
sorrowful, the confused soul
is half determined to turn back
along the already buried track,
but fearfully out of control
she is borne on by the sleigh's
joyful momentum and the hollow
ache in her throat she cannot swallow.
It's silent. Round the only rays,
maddened, helpless in the circle
of its unrest, the blizzard swarms;
her eyes are hot as candleflames;
the sky is heavy with the weight
of whiteness deepening the night;
she thinks the way ahead is home,
the girl is in delirium;
now she is losing consciousness;
but the sleigh sings on cracking ice,
knowing the water to be crossed,
knowing her longing to be lost
in love tonight and sacrificed.
p. 122 Farewell, My Life; I Love You.
The title occurs, as a valediction, in a letter from Pushkin
to his wife, Natalia.
D.M.T
The Child of Civilization
For some odd reason, the expression
"death of a poet" always sounds somewhat more concrete than "life
of a poet." Perhaps this is because both "life" and "poet," as words,
are almost synonymous in their positive vagueness. Whereas "death"-even
as a word-is about as definite as a poet's own production, i.e., a poem,
the main feature which is its last line. Whatever a work of art consists
of, it runs to the finale which makes for its form and denies resurrection.
After the last line of a poem nothing follows except literary criticism.
So when we read a poet, we participate in his or his works' death.
In the case of Mandelstam, we participate in both.
A work of art is always meant to outlast
its maker. Paraphrasing the philosopher, one could say that writing
poetry is an exercise in dying. But apart from pure linguistic necessity,
what makes one write is not so much a concern for one’s perishable
flesh as the urge to spare certain things of one’s world-of one's personal
civilization-one's own non-semantic continuum. Art is not a better,
but an alternative existence; it is not an attempt to escape reality
but the opposite, an attempt to animate it. It is a spirit seeking flesh,
but finding words. In the case of Mandelstam, the words happened to be
those of the Russian language.
Joseph Brodsky: Less than one. Selected essays
[còn tiếp]
Note: Bài này, tuyệt
lắm. Gấu tậu lại cuốn essays của Brodsky, vì thực sự mà
nói, vào lúc này, mới đọc được nó,
nhất là những bài về thơ. Một cách nào
đó, Brodsky giải thích, tại làm sao Tây Phương
– Âu Châu, Mẽo, thí dụ - không đọc được Mandelstam.
Có 1 cái gì đó, cực lạnh lẽo trong thơ của
ông, và "cực lạnh lẽo" này, là 1 cách
để gọi cái gọi là “vô nhân tính”, hoặc
quá nữa, như GCC, thường gọi và tất nhiên, bị chửi,
Cái Ác Á Châu, trong có Cái Ác
Bắc Kít
Bài về Dante cũng cực tuyệt: "Trong cái bóng
của Dante".
Bài “Để hài lòng 1 cái bóng”,
vinh danh Auden mà không hách sao. Brodsky, thay
vì viết bằng tiếng Anh, nào những dịch thơ, những tiếng
tiểu luận... để được như Conrad, hay Nabokov, hay Beckett... thì
chỉ để được thân cận với ông anh của mình – thì
sư phụ thì cũng ông anh vậy – là Auden.
Ông đang được nhà nước cho đi cải tạo ở nông
trường Phạm Văn Cội, Củ Chi, có 1 vị độc giả gửi cho cuốn
thơ của Auden, và khi nghỉ mệt, bên đống phân trâu,
phân bò, bèn lôi ra đọc, và ngộ ra
cõi thơ của chính ông, đâu có khác
gì…. Gấu, chính là ở tù Vẹm, ở Củ
Chi, ở Nhà Bè mà hiểu ra cái hồn của văn
chương Miền Nam, là ở trong mấy bản nhạc sến của nó!
Nhưng phải về già, đọc Milosz, khi, trong bài
diễn văn Nobel, vinh danh Simone Weil, thì mới thấu đáo
nguồn vui, không chỉ nguồn vui mà là luôn
cả cõi già, ở nơi xứ người: “Khoảng cách là
linh hồn của cái đẹp”.
*
Czeslaw Milosz
The Nobel Prize in Literature 1980 was awarded to
Czeslaw Milosz "who with uncompromising clear-sightedness voices man's exposed
condition in a world of severe conflicts".
Giải Nobel văn chương 1980 được trao cho Czeslaw Milosz
“người mà, bằng cái nhìn rạch ròi,
cương quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận
người bày ra đấy, trong một thế giới với những mâu thuẫn
gay go, khốc liệt”.
Diễn văn Nobel
Một trong những người được Nobel mà tôi
đọc khi còn là 1 đứa con nít đã ảnh
hưởng đậm lên tôi, tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó
là Selma Lagerlöf. Cuốn sách thần kỳ của bà,
Cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng mà tôi thật
mê, đã đặt anh cu Nils vào một vai kép.
Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất
như từ bên trên, và cùng lúc, trong
mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có
thể là 1 ẩn dụ về thiên hướng của nhà thơ. Tôi
tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong một ode La Tinh, của nhà
thơ thế kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được cả Âu Châu biết
dưới bút hiệu Casimire. Ông dạy thơ ở đại học của tôi.
Trong 1 bài ode, ông miêu tả cuộc du lịch của mình
- ở trên lưng Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn thơ của ông.
Như Nils Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông,
hồ, rừng, nghĩa là 1 cái bản đồ, vừa xa nhưng lại vừa cụ
thể.
Như thế, thì đây là hai bí
kíp của nhà thơ: đói nhìn và đói,
ham muốn miêu tả cái nhìn thấy. Tuy nhiên,
kẻ nào coi thơ ca là “nhìn và miêu
tả”, thì phải coi chừng, vì thể nào cũng có
lần cãi lộn với... Thầy Kuốc, người vỗ ngực xưng tên là
“Hiện Ðại”, “Cái Mới”, và thể nào cũng mụ
người, trở thành cù lần vì muôn vàn
lý thuyết về 1 ngôn ngữ thi ca đặc dị.
Simone Weil mà tôi mang nợ rất nhiều những
bài viết của bà, nói: “Khoảng cách
là linh hồn của cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi
khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả. Tôi
là Ðứa bé của Âu châu, như cái
tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa nhận,
nhưng đó là 1 thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi
còn là tác giả của một cuốn sách tự thuật
mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một
Âu châu khác. Không nghi ngờ chi, có
tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng
tôi, cư dân của một Âu châu thứ nhì, bị
số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của
Thế Kỷ 20”. Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca,
tổng quát. Tôi phải nói về thơ ca và cuộc đụng
độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với một số hoàn cảnh
kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw Milosz
Chính là nhờ đọc đoạn trên đây,
mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là
quãng đời đẹp nhất, và “khoảng cách là
linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là
của những bản nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó
để mang theo vô tù.
Cái câu phán hãnh diện của
Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong những bản
nhạc sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!
Trại Tù VC: Hoàn cảnh kỳ cục, quái
dị về thời gian và nơi chốn,
ở nơi đó,
nhạc sến được cất lên:
sao không hát cho những người vừa nằm xuống
chiều qua?
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào
cho thơ.
Milosz
Comments
Có 1 dạng hoàn
hảo cho thơ, vào những thời điểm chết người của nó.
Ý này, là của Brodsky, khi ông
cho rằng thơ là 1 dạng ngôn ngữ được tiết kiệm hóa
tới mức tối đa, khi nó bị đẩy tới mức tối hậu của nó,
như khi ông viết về thơ của Anna Akhmatova, mà Gấu đã
áp dụng vào lũ Ngụy đi tù VC, hành lý
mang theo chỉ có mấy bản nhạc sến:
At certain periods of history it is only poetry that is capable
of dealing with reality by condensing it into something graspable,
something that otherwise couldn't be retained by the mind.
Hay, như sau đây:
Ghi chú:
* Nguyên văn đoạn trích dẫn Brodsky:
.....
VIII
The poem has the quality of an uneasy dream, in which you
gain something extremely valuable, only to lose it the very next moment.
Within the limitation of one's sleeping time, and perhaps precisely
because of that, such dreams are excruciatingly convincing in their details;
a poem is also limited, by definition. Both imply compression, except
that a poem, being a conscious act, is not a paraphrase or a metaphor
for reality but a reality itself.
For all the recent popularity of the subconscious, our dependence
on the conscious is still greater. If responsibilities begin in dreams,
as Delmore Schwartz once put it, poems are where they ultimately articulated
and fulfilled. For while it's silly to suggest a hierarchy among various
realities, it can be argued that all reality aspires to the condition
of a poem: if only for reasons of economy.
This economy is art's ultimate "raison d'être", and
all its history is the history of its means of compression and condensation.
In poetry, it is language, itself a highly condensed version of reality.
In short, a poem generates rather than reflects. So if a poem addresses
a mythological subject, this amounts to a reality scrutinizing its own
history, or, if you will, to an effect putting a magnifying glass to its
cause and getting blinded by it.
"Orpheus. Eurydice. Hermes" is exactly that, as much as it
is the author's self-portrait with that glass in hand, and one learns
from this poem a lot more about him than any life of him will offer.
What he is looking at is what made him, but he who does the looking is
far more palpable, for you can look at something only from outside. That's
the difference between a dream and a poem for you. Say, the reality was
language's, the economy was his.
[Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc
khoải, trong đó bạn có được một cái chi cực kỳ
quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng
lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi,
cho nên những giấc mơ như thế có tính thuyết phục
đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn
như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài
thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải
sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng
nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của
tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng ta vào ý thức
vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như
thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo
ra, những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những
bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng
có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có
thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của
một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu"
tối hậu của nghệ thuật, và toàn thể lịch sử nghệ thuật
là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc
tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân
nó, là một bản sao của thực tại được cô đọng cao
độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là
phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền
thoại, điều này có nghĩa là một thực tại quan sát
chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này
có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh
nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là
như thế, bởi nó chính là chân dung tự hoạ
của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên
tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều
về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông
có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính
là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn
thì rõ
ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn
một cái gì từ bên ngoài. Đó là
sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối
với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ,
tiết kiệm là của nhà thơ.]
NQT
Nhân đọc Milosz: Nói về
cái giống có dzú, Speaking of a mammal,
bằng 1 cú “tâm linh”, - THMN, thì cũng vưỡn
nó - Gấu bèn ngộ ra, tại sao “đảo xa”, hay nói
rõ hơn, tại sao TTT coi mình như 1 anh chàng
Lỗ Bình Sơn, khi viết cho “em” của ông?
Hà, hà!
Mười năm trước, tin tức về vụ Hiroshima kiếm
thấy tôi, ở Cracow, và nếu nó không
làm tôi quan tâm đúng mức, ấy là
vì lúc đó tôi đang điên đầu vì
1 chuyện khác. Tôi đang làm việc với 1 scenario
về 1 cuốn phim. Nhân vật chính của cuốn phim này,
là 1 thành phố, trước chiến tranh cư dân hơn
triệu mạng, nhưng do sử dụng bom thường, và thuốc nổ, bị biến
thành 1 sa mạc với những đường phố lụi tàn, kẽm gai,
hầm hố giăng bẫy… và đó là thành phố
Vác sô vi, Warsaw
Ý nghĩ về cuốn phim tới với tôi
từ 1 câu chuyện về 1 người, sau khi mất những liên
hệ với văn minh, phải một mình đối diện với thế giới - Lỗ
Bình Sơn của Daniel Defoe.
Một khi Nazi tống xuất tất cả những con người
sống sót cú nổi dậy 1944, chỉ một số những người
riêng lẻ, isolated men, sống cuộc sống của những con thú
bị săn đuổi, lẩn trốn trong những điêu tàn, đổ nát
ở Warsaw. Với mọi người trong số người này, for every one
of those men, lịch sử trước đó, ngưng hiện hữu - bất giác
bèn nhớ đến Nguyễn Mộng Giác, và bài
viết đồng hồ Mít ngưng chạy vào đúng ngày
30 Tháng Tư 1975.
Mỗi người trong số họ phải giải được 1 vấn
đề khó khăn mới mẻ, là tìm nước uống
và những mẩu vụn bánh mì trong những hầm hố,
phòng ốc… bỏ hoang, sợ bất cứ 1 đốm lửa phản bội sự hiện
hữu của mình, và run lẩy bẩy khi nghe tiếng động,
tiếng người.
Toan tính của tôi, là trình
ra 1 Lỗ Bình Sơn của thời của chúng ta
Bất hạnh của me xừ LBS trước là thấy
mình tại một hoang đảo chưa hề được văn minh chiếu
cố. Anh chàng LBS của tôi, ngược lại, đứng trước
1 “hoang đảo” được văn minh chiếu cố tận tình, vì
những mục đích tự sát, làm thịt chính
nó, suicidal aims!
Note: Đừng nghĩ là Gấu bị THMN, khi
nhìn đâu cũng thấy VC. Cái cú 30
Tháng Tư 1975, là cú Mít làm
thịt Mít, đúng như tình cảnh trên đây.
Lũ Bắc Kít chưa tên nào
nhận ra sự thực này cả. Chúng giết Miền Nam là
chúng giết chính chúng!
Bài viết này OK, lắm nhẩn nha
làm thịt hết cả bài
VIẾT MỖI NGÀY / APRIL
20, 2018 : NÉN NHANG
MUỘN CHO NGUYỄN KHẢI
“Mọi phê
bình phải được đi trước bằng một phê bình
tôn giáo”, “Toute critique doit être précédée
d’une critique de la religion”. Marx phán [trong Crit.
de la Phil. Du Droit de Hegel, Henri Lefebvre trích dẫn trong
Duy vật biện chứng. Le Matérialisme dialectique, tr. 53].
Câu trên
có thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Khải.
Ðọc NK là phải đọc trong cái
tinh thần đó, đúng như ý của ông,
trong 1 bài viết có tính tự kiểm, (1) không
có Ðảng là tôi đã trở thành
1 vị linh mục, khi ông nhớ lại một lần tà tà
đi mua thuốc lá tại một cái quầy chắc là gần
Nhà Chung Hà Nội, và vị chủ quán đã
lầm ông với 1 vị linh mục.
Hai cú đánh khủng khiếp trong
đời NK, là đánh vào mật khu Ky Tô
ở đất Bắc là Phát Diệm, và những tác
phẩm viết về nó, khi ông được Ðảng tin cậy vì
đã chọn Ðảng, thay vì Nhà Thờ, những ngày
sau 1954, sau khi một nửa đất nước thuộc VC.
Cú thứ nhì là sau 30 Tháng
Tư, đánh vào mật khu Cao Ðài, Tây
Ninh.
Nên nhớ, lại nên nhớ, gốc gác
của NK, là con quan, thuộc dòng thứ, và
suốt đời ông bị mặc cảm bị bố bỏ rơi, nên đành
chọn Ðảng. Ðó là cái thế 3 ngôi
trong đời ông: Bố Bắc Kít, Ðảng VC, và Chúa
Ky Tô [theo trật tự đại khái!]
(1)
Tôi cô độc bẩm sinh. Nếu không
có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ.
Một lần tôi đến tìm ông cha tìm
hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong
lúc chờ, tôi ra mua thuốc lá. Người bán
thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con
biếu cha bao diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
[NK trả lời phỏng vấn, NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
thực hiện, Tuổi Trẻ online]
Bây giờ chúng ta có thể
hình dung ra được, đi tìm cái tôi đã
mất của NK, là đi tìm một "cái tôi
thần học", qua hình dáng nhập thế của 1 vì linh
mục. Hai cú đánh vô tôn giáo của
NK, là hai cú thất bại, có thể cuối đời ông
ngộ ra điều này. Ông bị ông Bố Bắc Kít bỏ
vô Nam, Chúa bỏ vô Nam, và đành
chọn Ðảng. Nhưng Ðảng cũng chỉ coi ông là 1 thứ
con rơi, con hoang, không thuộc giai cấp bần cố nông
[đọc những gì ông cà khịa với đám nhà
văn được Ðảng tin cậy, thuộc loại nồng cốt, chúng viết
như kít, có đứa nào bằng tôi đâu!].
Ðó là bi kịch của nhà văn NK.
Ông chưa từng viết về con người, mà
là về “một thứ con người” nào đó, “một
thứ nhân danh con người” nào đó.
NK làm Gấu nhớ tới Graham Greene, nhất
là, câu phán nổi tiếng của ông, nhớ
đại khái: Suốt đời tôi đi tìm một đấng Thượng
Ðế để cho Con Quỉ ở trong tôi uýnh lộn với ông
ta!
Ðây cũng là bi kịch của NK,
nhưng ở tầm mức thấp hơn, một phần có thể là
do mặc cảm bị bỏ rơi của NK mà ra. Greene thanh thản hơn,
theo nghĩa, bi kịch của ông là của chung con người.
Văn của NK độc. Và rất giống văn VP.
Ðiều này do NMG nhận ra, không phải Gấu. Ông
còn cho biết, hai đấng rất quí tài, và
độc, của nhau. Ðiều này thì NMG, trong 1 lần
đi tour văn học ở trong nước, có tuyên bố.
Nhân vật của NK hình như không
có 1 tay nào lâm vào đường tự tìm
cái chết như của Greene.
Cũng không phải tự nhiên mà
NK viết về PXA, qua nhân vật Quân, trong Thời gian
của người.
Tuy nhiên cái chết ngắc ngoải,
không làm sao đi được của PXA ở ngoài đời,
NK không làm sao tiên tri ra được!
Gấu đã từng có vinh dự được “nhìn
thấy” nhà văn Nguyễn Khải, thời gian lui tới nhà
xb Văn Học, bộ phận phía Nam, khi nhà này
tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc bản dịch của
NQT trước 1975.
Tạ Duy Anh, người dám “bước qua lời
nguyền” viết về Nguyễn Khải:
Nguyễn Khải, một người được theo nghiệp đèn
sách từ bé, không thể không biết
thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất,
về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm… buộc ông phải
nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông
những người được coi là trí thức cùng thời
ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền
Bắc, vì trí thức miền Nam có một số phận riêng),
ông đã tìm thấy lý do vô cùng
chính đáng để vờ quên bản thân mình,
đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đó không hề xấu
và không hề ít tính chất thiêng
liêng, nếu người tin theo nó thật lòng. Nó
chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những
kẻ đó phần lớn lại rơi vào thành phần trí
thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của trí thức
Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí
thức), từ cổ chí kim, chính là luôn phải
vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không
phải vậy, nhưng lại cứ phải làm ra rằng mình hiểu nó
như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung
tận tụy, vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ
ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ thán phục, vờ yêu… và
những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào,
bất cứ chỗ nào, làm bao nhiêu cũng không sao
ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ không hề vờ,
ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại,
giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ biết là tàn
đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công
thì nhiều như ruồi, ngay trong giới trí thức); phải luôn
tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu,
quên đi được thì càng phúc. Còn sống
là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa
đời, nếu còn lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn
thì viết nó ra để thanh minh và sám hối.
TDA
Ðọc như thế là chưa nhìn
ra thế 3 ngôi [Bố Bắc Kít, Ðảng VC, Chúa
Ky Tô], ở Nguyễn Khải, và, “có một liên
hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người
đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có
của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng
lõa quyết định”, như Steiner viết, trong UNDER EASTERN EYES:
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ
và nhục nhã gần như không làm sao
hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì
đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi
dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về
một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán
quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển
dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”,
với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng
liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có
nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ
nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky
Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có
thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên
sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên
Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng
thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt
đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông
thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối
cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng,
hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau,
vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga,
với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và
điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ
tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó,
và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà
nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết
định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa
bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó
gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự
ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào
thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó,
cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó,
lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ
quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài
niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng
quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê
rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa,
ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng
tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm
Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết!
Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót
tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa
là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ
sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ
với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng
tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì
chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái
độ sẵn sàng, dễ dãi.
Những đại văn hào Nga là như
thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư
bực mình của họ trước cái lương tâm ù
lì của Tây Phương, thì rất ư là rền
rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không
chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái
độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ
có thể có được, từ phía bên trong, theo
kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên
tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt,
khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát
truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng,
trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối,
cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông
cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối
giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra
tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá
tổng quát, để mà xác định tính chất
của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn,
so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp
chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại
nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không
phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng
mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u
minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được
sự sống sót.
Với đám cầm bút Bắc Kít,
vấn nạn nghiêm trọng hơn nhiều.
Hơn cả “Dưới cái nhìn Ðông
Phương” của Steiner!
Ðằng sau tất cả những cay đắng nhục nhã
như thế, là giấc mộng thống nhất đất nước.
Giấc mơ đẹp nhất của giống Mít.
Bình luận
Ngô Nhật Đăng: Đi "thực tế" để viết tiểu
thuyết Xung đột đánh Công giáo thật ác,
nhưng ông Khải ghi trong nhật ký : "Nếu không
có tôn giáo con người sẽ sống không
khác gì súc vật". Ông Khải là một
khối mâu thuẫn cực kỳ, luôn có 2 con người cãi
nhau, đánh nhau trong thân xác ông ấy.
Em sống gần ông khá nhiều. Bố em đã có
lần nói : "Viết về văn, về đời của NK cũng là điều đáng
nên làm". Vương Trí Nhàn thì nói
: "XS hiểu NK đến chân tơ, kẽ tóc", nhưng không
hiểu sao về sau bố em bỏ ý định viết về ông Khải ngoài
1 bài có vài chục trang.
PR: Do you think the destruction
of the world is coming soon?
MK: That depends on what you mean by the word "soon."
PR: Tomorrow or the day after.
MK: The feeling that the world is rushing to ruin is an ancient
one.
PR: So then we have nothing to worry about.
MK: On the contrary. If a fear has been present in the human
mind for ages, there must be something to it.
Roth: Ông có nghĩ thế giới ngỏm củ tỏi sẽ tới rất
liền tù tì?
Kundera: Cái đó còn tùy thuộc ở cái
từ “liền tù tì”
Ngày mai hoặc ngày kế tiếp ngày mai
Cái cảm nghĩ “thế giới vội vã điêu tàn”
thì cũ xì
Thế thì lo làm khỉ gì
Ngược lại. Nếu cái sự sợ hãi đó có
trong đầu con người từ bao đời rồi, thì chắc chắn nó
phải có 1 điều gì đó liên quan tới nó!
Ui chao, đúng như thế. Điêu tàn ư, đâu
chỉ điêu tàn, là thế đó!
Nietzsche chẳng đã từng phán, ta đi đến tận cùng
con đường, còn cả lũ Mít, chúng đi chưa được nửa
con đường, là đã dừng lại!
Comments
Tks. Toi co nhieu nguoi khong thich, Chui hoai,
dau khen ai, ma mong nguoi thich
Ui chao, lại nhớ đến Cụ C. Cụ
nói, mày với thằng Tâm y hệt nhau, cứ thấy người
giầu là tởm rồi!
TTT cũng chẳng được nhiều người yêu thích. Mấy đấng
bạn quí, ngay đấng Hoàng Tử Của Lòng Ta, cái
gì gì "Sweet Prince" là Mai Thảo, mà còn
phịa ra giai thoại bất hủ, lần đầu gặp, lầm TTT là tên thợ
sắp chữ ở tòa soạn báo Dân Chủ của Vũ Ngọc Các.
Hoàng Tử còn nhớ được cả 1 chi tiết thần sầu, thằng
khốn chìa tay hỏi xin chàng 1 điếu thuốc lá!
Tuyệt!
Không có chi tiết đó, sợ người đời sau này,
nghi chàng phịa!
Nhưng cuộc đời của ông anh và thằng em khác
hẳn nhau. Ông anh thẳng đi 1 đường, sống cuộc đời thanh bạch,
trong sáng… cái gì gì “tiết tháo”,
như ông Chánh Tổng An Nam ở Paris khen tặng, thằng em lặn
lội đủ kiếp giang hồ gió tanh mưa máu, chưa hết, còn
“kinh qua”, nào địa ngục đen, địa ngục đỏ, bạn quí thì
thằng nào thằng đó, đều thủ sẵn 1 bài ai điếu “tên
ghiền”, hà, hà!
Nhưng, Gấu hạnh phúc hơn ông anh nhiều, rất nhiều.
Thân hữu, như O, như K sợ rành Gấu hơn cả Gấu.
Chân tu của vị nào cũng tới chỉ cả. Nhìn ra
ngay nỗi bất hạnh của thằng Cu Gấu. Thí dụ, K chúc SN
năm nào năm nào, đừng để ý đến thằng chó
nào hết, “lõ”, không mà “tẹt” cũng không,
chỉ làm thơ thôi!
Vị thân hũu O, “chúc”, mà chẳng “khiếp sao:
Mi “lãng mạn” quá!
Ta cầu sống để nhìn thấy “phép lạ”!
Thánh nữ của Gấu, mà không “đông, vui”
hơn của TTT ư?
Ông chỉ có 1, mà còn bị khổ lên
khổ xuống.
Bị ngay thánh nữ của mình tung hê thư riêng
lên net, không đau sao?
Chưa hết. Còn bị 1 đấng bạn quí bê về blog,
hê tướng lên, tưởng sao, cũng bồ nhí, bồ nhiếc!
Lạ, là làm sao mà vị thân hữu SCN này
lại phán, "dầu rằng có người không thích
anh"?
Tại làm sao mà lại “dầu rằng”?
Không lẽ lại muốn, những tên “không thích
Gấu”, như... như... cũng “thít” Gấu ư?
Chán bạn quá!
... thời gian như co lại khi đọc anh.
Ui chao, phán như thế mới cực quí, cực hiếm!
Tks. Many tks
NQT
Thánh nữ đông vui
Quả thế.
Lần gặp lại bạn C, nghe bạn kể, ông T khổ vì vụ “đảo
xa”… Gấu nghe thương ông anh quá xá quà xa,
hà, hà!
Gấu Cái thì ngược lại, kệ mẹ Gấu, tuy cũng đau, hẳn
thế, nhất là cái vụ Gấu tha Tào, gặp em nào
cũng chẳng dám đụng vô, chỉ đến khi về già, mới hiểu
ra, và tha thứ cho thằng chồng khốn kiếp.
Mới mò ra 1 tiệm sách, phim cũ. Vớ được
cuốn này, quá tuyệt. Giở ra đọc loáng thoáng,
trên subway, trên đường trở về nhà mới, vớ đúng
1 bài thần sầu – hình như đã đọc rồi, của xừ lủy,
và đã từng chôm, để viết về Nếu Đi Hết Biển, của Trần
Văn Thuỷ, ngủ với kẻ thù: Bạn qua Cali, ổ Ngụy, được lũ trở cờ
tiếp rước, không đi đến đâu đâu. Phải được em Ngụy nào
đó rước bạn vô nhà, thì cuộc giao lưu hòa
giải giữa hai miền mới hoàn tất.
Gấu đã từng trải qua kinh nghiệm này rồi, hà,
hà!
Bài tuyệt lắm, viết về sư phụ của Gấu: Graham Greene. Post
bản tiếng Anh, rồi dịch sau!
Sleeping with the Enemy
One of the most revealing moments in Norman Sherry's
massive, ongoing biography of Graham Greene (with the second volume just
published, he has now devoted 1,352 pages to Greene's first fifty-one years)
comes at the very beginning, when Greene charges Sherry with compiling a
list of his, the novelist's, enemies. Every man has enemies, Sherry replies.
By the time the night is over, Greene has composed, with the help of his brother
Hugh, his own extensive list of his lifetime's opponents and handed it to
his biographer.
That might be said to be the paradoxical trademark of Graham Greene:
that he rarely gave himself the benefit of his unending doubt, and that
he invariably gave the men he was supposed to hate his best lines. He saw
the folly, and the frailty, of everyone around him. Thus adulterers come
to feel compassion for the husbands they're cuckolding; victims see the
human side of their criminal tormentors; Fowler in The Quiet American comes
to mourn the death of his rival in love and opponent in politics (Schadenfreude
in reverse, you could say). Even when he was writing wartime propaganda for
the British government, Greene described an Englishman shooting a German lieutenant-and
then finding in the dead man's pocket a picture of his baby.
That issue is one of the hardest dilemmas in every serious life, and
one that faces us daily in the office, the bedroom, even the income tax
form we sign: what to do with the person who opposes us? We know, more or
less, how to deal with our friends, but what to do with those who tempt us
to awaken the devil in ourselves (a far more pernicious temptation than
any external devil affords)? Many religions counsel us to forgive those
who trespass against us and to extend charity even to the Jeffrey Dahmers
of the world; Buddhists actually argue that our enemies are our best friends
because they challenge us to transcend ourselves. Yet still the debate between
mercy and justice is as unending as the one between duty and love.
If all Greene's novels are essays on fallenness (and self-accusations),
they are also, by the same token, arguments against the whole notion of
enmity, or reminders, at least, that our enemies are no less vulnerable,
and right in their own minds, than ourselves. With his famous taste for
[còn tiếp]
Thanh Tâm
Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn
Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn
là thợ sắp chữ.
Khi viết những
dòng trên, MT đinh ninh VC đã làm thịt TTT!
Y chang những dòng VP viết về nhóm Sáng Tạo trong
VHTQ
Còn đây
là ai điếu của TTT, cho bạn mình:
Mai Thảo gửi tới chúng
tôi Đêm Giã Từ Hànội.
Tôi nhận được một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người gửi,
trong đựng xấp bản thảo đánh máy. Bút hiệu Mai Thảo
hoàn toàn xa lạ với tôi.
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi,
tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng nhìn xuống vực
thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Câu trích đề của
truyện đột ngột khác thường. Nó không trích
ra từ một tác phẩm khác đã có. Nó như
tự trên trời rớt xuống, hay nói như Mai Thảo là câu
“bắt được của trời”. Cái chiều sâu của nó làm
chóng mặt.
Tưởng nên nhắc nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi
biết, cho đến lúc bấy giờ chưa thấy được dùng trong văn chương
Việt Nam. Phải đợi vài năm sau, khi Phạm Công Thiện xuất hiện
với ảnh hưởng của Nietzsche, văn từ “hố thẳm” mới tràn lan và
trở thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện thì rõ câu trích đề là
một câu ở trong truyện. Phượng là tên nhân vật.
*
Đây là một truyện
không cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói
bắt lắng nghe – theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành
phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín
bưng triền miên của chúng - , ở sự dồn đẩy khôn ngưôi
của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận
tiết mê mải tới chốn nhòa tắt mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã Từ Hànội là
truyện hay tùy bút đều được. Cứ theo ký ức cùng
cảm thức của riêng tôi, trong và sau khi đọc, thì
đó là một bài thơ. Thơ là thứ tiếng nói
tàng ẩn trong quên lãng bất chợt vẳng dội, đòi
được nghe lại (nghĩa là đọc lại, lập lại). Người ta nghĩ đến một
truyện ngắn, một bài tùy bút, một quyển tiểu thuyết
đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng thời nghe và gặp lại một câu
thơ, một bài thơ.
Đêm Giã Từ Hà
Nội là một bài thơ thỉnh thoảng vẫn vẳng dội trong tôi
mà tôi không thể nhớ toàn vẹn - tỷ như lúc
này đang viết đây tôi không cách nào
tìm đọc bài thơ ấy trừ cách tưởng tượng dựa vào
ý ức và cảm thức còn sót đọng, trừ câu
trích đề.
*
Nhớ trong buổi họp kiểm bài
vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã không
thể ngăn nổi mình yêu cầu các anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe
tôi đọc Đêm Giã Từ Hànội đăng trọn trong một
kỳ báo, không cần lời giới thiệu. Và tôi đọc
say sưa, hùng hồn liên hồi. Và các anh chịu
khó ngồi nghe trên căn gác lửng tối chật của tòa
báo. Anh Tế kết thúc buổi họp nói đùa "Anh
làm chúng tôi mất cái thú tự mình
khám phá".
Năm di cư thứ hai mươi [1974],
khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh của đất Bắc
ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu
trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu
văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng
"ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo:
"Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không
bằng nửa vần thơ của Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ ra, ghé
lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga
Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo
sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày
cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn
xuống vực thẳm... dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là
một câu thơ. [Câu văn là một câu gắn liền trong
mạch văn, tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều
cũng bất toàn. Câu thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ,
tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc].
*
Đăng bài Anh, tôi viết lời nhắn mời anh đến chơi tòa
soạn. Mai Thảo đến.
Chúng tôi thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ ấy.
Good Night, Sweet Prince!
Hamlet – Shakespeare.
Chúc Người An Giấc, Công Tử của Lòng Ta.
Thanh Tâm Tuyền
2-98
[Lần đầu đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân
1998]
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|