*




*


L'ethnologue Claude Lévi-Strauss est mort
Nhà nhân chủng học Claude Lévi-Strauss đã mất

**


Claude-Lévi Strauss phân chia lịch sử ra những thời kỳ nóng, thời kỳ lạnh. Vào những thời kỳ lạnh, có khi kéo dài nhiều thế kỷ, nó chẳng đẻ ra được một ý thức, một tư tưởng, một ý thức hệ, một triết lý lớn lao nào.
“Thời của chúng tôi” nóng. Nóng lắm. Bên trời Tây, đó là lúc cơ cấu luận đang ở đỉnh cao, với rất nhiều triết gia, nhiều tác phẩm: Viết của Lacan, Chữ và Vật, của Michel Foucault, Phê Bình và Chân Lý của Roland Barthes, Lý thuyết Văn chương, của Todorov… cùng xuất hiện vào năm 1966. Năm sau 1967, là những cuốn tiếp theo của bộ Huyền Thoại Học của Claude-Lévi Strauss: Từ mật ong tới tàn thuốc, Nguồn gốc của những trò lẩm cẩm muỗng nĩa, dao kéo.. ở  bàn ăn [L’origine des manières de table],1968, Con người trần trụi, L’Homme nu, 1971.
Nhưng Ấu châu có ở trong đó ? Chính họ tự hỏi. Và tuổi trẻ của Tây trả lời, bằng biến cố Tháng Năm 1968: Hãy mạnh dạn đòi hỏi những điều không thể được, không thể đòi hỏi. Càng làm tình bao nhiêu, càng cách mạng bấy nhiêu.
Octavio Paz, Nobel văn chương, có lần đưa ra một nhận xét thật độc đáo, về biến cố Tháng Năm 1968: Văn minh Tây Phương độc đáo ở chỗ, đã biến dục tình thành một vũ khí chính trị.
Nhưng 1968 cũng là năm pháo đài bay B.52 vào trận tại cuộc chiến Việt Nam. Cùng với 276 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ.
1965: Cuộc Đổ Bộ Normandie Á Châu, tại bãi biển Đà Nẵng.
1968: Cú Mậu Thân. Mồ Chôn Tập Thể Huế.

The century of Claude Lévi-Strauss
Thế kỷ Claude Lévi-Strauss

Levi-Strauss sees in the invention of melody 'a key to the supreme mystery' of man - a clue, could we but follow it, to the singular structure and genius of the species.
Lévi-Strauss nhìn thấy, ở trong phát minh ra giai điệu, như là một "chìa khóa để tới với sự bí ẩn tối thượng" của con người.
G. Steiner: A Death of Kings

George Steiner, trong bài viết "Orpheus với những huyền thoại của mình: Claude Lévi-Strauss", vinh danh một trong những trụ cột của trường phái cơ cấu, đã cho rằng, một trang viết của Lévi-Strauss là không thể bắt chước được; hai câu mở đầu thiên bút ký "Nhiệt Đới Buồn" đã đi vào huyền thoại học của ngôn ngữ Pháp.
Hai câu mở đầu đó như sau: "Je hais les voyages et les explorateurs. Et voici que je m’apprête à raconter mes expéditions." (Tôi ghét du lịch, luôn cả mấy tay thám hiểm. Vậy mà sắp sửa bầy đặt kể ra ở đây những chuyến đi của mình).
Đỗ Long vân: Vô Kỵ giữa chúng ta
*

A qui doit-on cette pensée immense ? Un philosophe ? Un ethnologue, un anthropologue, un savant, un logicien, un détective ? Ou encore un bricoleur, un écrivain, un poète, un moraliste, un esthète, voire un sage ? Seule réponse possible : toutes ces figures ensemble se nomment Claude Lévi-Strauss. Leurs places varient évidemment selon les livres et les périodes. Mais il existe toujours une correspondance, constante et unique, entre ces registres, usuellement distincts et le plus souvent incompatibles. Car cette oeuvre ne se contente pas de déjouer souverainement les classements habituels. Elle invente et organise son espace propre en les traversant et en les combinant sans cesse.
Le Monde

Ở trên, trong phần ghi chú, người giới thiệu đã cho rằng, Đỗ Long Vân đã sử dụng cơ cấu luận như một phương pháp "tiện tay, đương thời" để đọc Kim Dung.
Gérard Genette, trong bài "Cơ cấu luận và phê bình văn học", in trong Hình Tượng I (Figures I, nhà xb Seuil, tủ sách Essais, 1966), đã nhắc tới một chương trong cuốn Tư Tưởng Hoang Sơ (La Pensée Sauvage) theo đó, Lévi-Strauss đã coi tư tưởng huyền thoại như là "một kiểu loay hoay về tinh thần" (une sorte de bricolage intellectuel). Chúng ta có thể mượn quan niệm trên đây của Lévi-Strauss, để giải thích tại sao Đỗ Long Vân lại dựa vào cơ cấu luận, khi viết "Vô Kỵ giữa chúng ta". Từ đó, chúng ta có thể đi đến kết luận: Vô Kỵ là ai? (Qui est Ky?, mượn lại câu hỏi của de Gaulle, khi hoà đàm về Việt Nam đang diễn ra tại Paris; Ky ở đây là Nguyễn Cao Kỳ). Biết đâu, nhân đó, chúng ta có thể xác định vai trò của một người viết, như Đỗ Long Vân, ở giữa chúng ta.
Thế nào là một tay loay hoay, hí hoáy (le bricoleur)?
Khác với viên kỹ sư, đồ nào vào việc đó, nồi nào vung đó, nguyên tắc của "hí hoáy gia" là: xoay sở từ những phương tiện, vật dụng sẵn có. Những phương tiện, vật dụng, được sử dụng theo kiểu "cốt sao cho được việc" như thế, ở trong một hệ thống lý luận như thế, chúng không còn "y chang" như thuở ban đầu của chúng nữa.
Cơ cấu luận đã có những thành tựu lớn lao qua một số tác giả như Lévi-Strauss, Roland Barthes, Gérard Genette… và nhất là Michel Foucault, cho dù ông đây đẩy từ chối nhãn hiệu cơ cấu (làm sao nhét vào đầu óc của những kẻ thiển cận…tôi không hề sử dụng bất cứ thứ gì của cơ cấu luận). Trong số những tư tưởng cận đại và hiện đại như hiện sinh, cơ cấu, giải cơ cấu, hậu hiện đại… đóng góp của cơ cấu luận là đáng kể nhất, theo chủ quan của người viết.
Vô Kỵ giữa chúng ta

Claude Lévi-Strauss cũng là một trong những vị thầy tư tưởng của Gấu này, khi tập tành đọc và tập tành viết. Cuốn tuyệt nhất của ông, theo Gấu, là Nhiệt đới buồn hiu. Có thể qui cả học thuyết của ông vào cái kiềng ba chân, hay tam giác bếp núc.
Thoạt kỳ thuỷ, con người trần trụi, ăn sống như loài vật, hít mật ong và hỗn như... Gấu. Khi phát minh ra lửa, bèn ăn nướng, ăn thui, dùng lửa để đuổi nước ra khỏi sống. Cộng thêm nước thì biến thành thiu, thối, ủng, nhão, bốc mùi Hà Lội Lụt.

Sống - Chín - Thúi. Đến Thúi là chấm dứt một chu kỳ văn minh, cũng như từ mật ong đến tàn thuốc.
Gấu cũng đã từng sử dụng hình ảnh cái "tam giác trân quí" này để viết về Hà Nội.

*

Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss. Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.
Bắt chước Vũ Hoàng Chương, C. Lévi-Strauss, tôi cũng tưởng tượng ra một thế chân vạc của Hà-nội. Ở đây, không có nguyên bản, cứ coi như vậy. Chỉ có dịch bản. Một Hà-nội, của những người di cư, 1954. Một, của những người ra đi từ miền Bắc. Và một của những người tù cải tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội, như của Nguyễn Chí Kham, trong lần ghé ngang, trên chuyến tầu trở về với gia đình.
"Treo đầu dê, bán thịt chó". Quả thế thật. Khi viết Những ngày ở Sài-gòn, là lúc tôi quá nhớ Hà-nội. Mới lớn, vừa mới kịp yêu mến cái cột đèn, cái Hồ Gươm, cái Tháp Rùa, đùng một cái, phải bỏ hết. Vào Nam, cố biến nó thành hiện thực, qua hình ảnh một cô bé Hà-nội. Mối tình tan vỡ, chỉ vì người nghe kể, là một cô bé miền Nam: "Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có sương mù...".
*
Ghi chú của người dịch.
Kể từ khi cuốn sách được xb vào năm 1955, nó trở thành nổi tiếng trên thế giới dưới cái tít Tây, thành thử - và cũng theo lời yêu cầu của M. Lévi-Strauss – chúng tôi giữ nguyên tên của nó. Những “Sad Tropics”, “The Sadness of the Tropics”, “Tragic Tropics”… đều không chuyển được ý nghĩa, và hàm ngụ của “Nhiệt đới buồn thỉu buồn thiu”: “Tristes Tropiques”, vừa đọc lên là đã thấy tếu tếu và thơ thơ, ironical and poetic, bởi sự lập đi lập lại của âm đầu, bởi nhịp điệu căng thẳng (- U U – U), bởi  giả dụ về một “Hỡi ơi, Nhiệt đới buồn”, “Alas for the Tropiques”.

Vietnamese refugee wins Australian prime minister's award for fiction
Nam Le adds A$100,000 prize to last year's Dylan Thomas award for story collection The Boat
'I feel like a petty thief on murderers' row' ... Nam Le





Black woman wins Prix Goncourt for the first time
Three Powerful Women, by French-Senegalese author Marie NDiaye,
takes France's top literary honour

Một bà da đen đoạt Goncourt với cuốn Ba Bà Dũng Mãnh

"It's a novel which speaks of the moral decay, the baseness of humanity, of suffering humanity, but which suggests, in the depths of misery, the possibility of redemption," said Le Monde of the novel, hailing NDiaye's "exceptional virtuosity".
Đây là một cuốn tiểu thuyết viết về băng hoại đạo đức, về sự thấp hèn tệ hại của nhân loại, về nỗi đau đớn của nó, nhưng, đề xuất, ở dưới đáy của khốn cùng vẫn vọng lên sự cứu rỗi.

NDiaye is the first woman to win the Goncourt since 1998 and the first black woman ever to take the prize. But she told AFP last week that she had "never thought of it in those terms: 'black woman' and 'Goncourt'". "I find it impossible to see things that way," she said. "I don't represent anything or anyone. I have met many French people raised in Africa who are more African than I am."

Tác giả là một người nữ đầu tiên kể từ 1998, và là một đàn bà da đen gốc Senegalese [Tây da đen gạch mặt, như Bắc Kít ngày nào gọi], đầu tiên từ thuở nào nào, được Goncourt.
Bà nói với hãng tin AFP: “Tôi chưa hề nghĩ về chuyện đó, bằng những thuật ngữ như thế: ‘da đen’, ‘Goncourt’.” “Tôi thấy thật bất khả khi nhìn sự vật theo kiểu đó”. “Tôi chẳng đại diện bất cứ ai, bất cứ điều gì. Tôi gặp nhiều người Pháp được nuôi nấng dậy dỗ tại Phi Châu cờn Phi Châu hơn cả tôi”.
*

NDiaye, Novelist, Wins France’s Top Literary Prize
By THE ASSOCIATED PRESS

PARIS (AP) -- French-born writer Marie NDiaye won France's top literary prize Monday for ''Three Strong Women,'' her moving tale of the struggles of woman in Europe and Africa.

NDiaye has written a dozen books, from novels to short story collections and plays, and in 2001 she won the Femina award. She was born in 1967 in Pithiviers, south of Paris, to a French mother and a Senegalese father.

Her latest novel, ''Trois femmes puissantes,'' is the story of characters Norah, Fanta and Khadi's fight to ''preserve their dignity in the face of humiliations that life has inflicted,'' according to her publisher Gallimard.

Norah is a French lawyer with roots in West Africa; Fanta is a Senegalese woman living in France, while Khadi is a young Senegalese woman who tries to immigrate illegally to Europe.

''They are in very difficult situations,'' NDiaye said in an interview with Mediapart newspaper. ''(But) they have a hard inner core that is absolutely unbreakable.''

The New York Times


Viết như không viết

Làm vậy để cho ông Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành đáng thương y hệt như một sĩ quan VNCH bị giam cầm hành hạ trong trại cải tạo sau 1975.

Cho đến bây giờ, bạn vẫn nghĩ là họ... đáng thương ư?
Giá mà HPNT có một tí "trở thành đáng thương" này, thì chẳng cần hóa đồng, đã có hòa đồng từ khuya rồi.
Cho phép tôi chấm dứt phúc đáp thư của bạn, vì sợ TV biến thành Chợ Cá mất! NQT

Bài viết “Viết như không viết” như trong trí tưởng tượng của Gấu lờ mờ nhận ra, là một kết hợp một số bài viết, mà Gấu hiện đang đọc cùng một lúc.
Anita Desai đọc A Tranquil Star: Unpublished Stories, [Ngôi sao trầm lặng: Những chuyện chưa xb], của Primo Levi, dịch từ tiếng Ý.
NYRB, July 19, 2007

Ký của Trần Vũ mà cách viết của anh, ai thì cũng biết, rất ấn tượng, rất cường điệu.
The Great Bolano, Bolano vĩ đại, trên NYRB, July 19, 2007
Và ở cái nền của bài viết, là tác phẩm “Không độ của cách viết” của Roland Barthes.
Ý đồ của tôi, là, liệu đã đến lúc tháo gỡ cho cõi văn Mít mọi mắc mớ chính trị, ý thức hệ, ý đồ, bằng cách “khu trục” mọi rác rưởi, và đẩy nó về thời đại ‘không độ’, như cách đọc Camus, của Barthes?

Huế

Đêm trườn dần vào sông Hương
tiếng hò vỡ dưới gầm Tràng Tiền

Khúc Nam Ai những cung phi goá bụa
chèo thuyền vớt xác mình trên sông

Nhất dạ quân vương đất thần kinh
người đi đi, làm thơ cho Huế tím 

Tự phá vỡ đối xứng
bằng nón nghiêng

quang gánh lệch
mắt nhìn ngang

Huế như nàng tiên câm
khóc thầm không nói. 

Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽ
lại sợ chạm vào nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt Nam.
Phan Huyền Thư
1997
VHNT
*

Bọ Huế

Huế Mậu Thân


Tribute to Phạm Chi Lan


Kỷ niệm, kỷ niệm

Ui chao, lại nói chuyện bạn quí, những cái xác trôi lều bều trên con sông thời gian, lịch sử, những ngày ở Sài Gòn.
Gấu có cả một lô kỷ niệm, nhớ đến đâu đau đến đó, về những đấng bạn quí. Sau lần đi gặp Con K nhân sinh nhật vừa qua, nó biểu Gấu, tao chẳng có gì mà cho mày hết, chỉ có vài lời nhắn nhủ như thế này này:
Quãng đời còn lại của mày bây giờ là 'bonus' rồi. Suy Nghĩ Lớn, về Cái Đại Ác Bắc Kít, thì cũng viết ra rồi. Hoang Vu Lớn thì cũng tàn lụi theo BHD từ giã mày mà đi trước mày rồi, bi giờ ta cho phép mi tha hồ mà viết, muốn viết cái đéo gì thì viết!
Hà, hà!


Dọn

Thoát ra khỏi ngục tù ở quê hương, tuyệt đại đa số người lưu vong, đặc biệt là giới cầm bút, thường rớt ngay vào nhà tù của trí nhớ. Ngoái về quá khứ, các cây bút lưu vong ít khi đóng được vai trò tiên phong.
NHQ
Không hiểu nhà đại phê bình có bao giờ viết văn không, bởi vì cái mà ông gọi là nhà tù của trí nhớ đó, rất ư là cần thiết đối với bất cứ một người cầm viết. Nhờ cái nhà tù của trí nhớ đó, mà cuộc chiến chống lại quyền lực tại quê nhà vẫn tiếp tục, ở đám lưu vong hải ngoại. Ông chắc biết mà, câu của Kundera:
Cuộc chiến của con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của trí nhớ chống lại lãng quên.
Và ông chắc cũng biết câu của Brodsky:
Được tự do rồi mà thất bại, thì đừng có ăn vạ ai!
Vậy thì, nếu không đóng được vai trò tiên phong, thì nhớ là, đừng có ăn vạ ai, và, quá lắm, thì đành len lén về vậy!