*


 






*
*
Happy Birthday to U, K. said.
*
Xuống Cá Bé, ra Cá Lớn!

William Golding tried to rape teenager, private papers show
William Golding,
Nobel văn chương, tính làm thịt một em nhí,
ông viết trong hồi ký.


*
Note. To CTC: Đã nhận tập thơ, qua NKL.

Hemingway's last words
*

The wild young years of the Lost Generation in Paris
"Hemingway at his best ... savagely written, full of love and bitterness."
The New York Times
Những năm tháng trẻ trung hoang dại của Thế hệ Bỏ đi ở Paris.
"Hemingway ở vào lúc bảnh nhất của chàng... [Paris là một ngày hội] được viết một cách tàn bạo, đầy tình yêu và cay đắng". Gấu dịch.
“Hemingway ở đỉnh cao nhất… lối viết hoang dại tràn ngập tình yêu và sự cay đắng […]. Nhã Nam dịch.
*
Những từ như savagely, love, bitterness... là để nói về tình bạn thắm thiết của Hemingway với các đấng bạn quí của ông.

Ui chao, lại thèm viết về những ngày ở Sài Gòn, và cuộc hành trình "đi tìm một cái mũ đã mất" của cả một trào lưu tiểu thuyết mới ở Việt Nam!
*
Scott Fitzgerald
His talent was as natural as the pattern that was made by the dust on a butterfly's wings. At one time he understood it no more than the butterfly did and he did not know when it was brushed or marred. Later he became conscious of his damaged wings and of their construction and he learned to think and could not fly any more because the love of flight was gone and he could only remember when it had been effortless.
Tài năng của bạn quí của ta thì cũng vô tư hồn nhiên, và tự nhiên, như những nét hoa văn được làm bằng bụi ở trên cánh bướm. Có một thời, chàng hiểu điều này, cũng vô tư hồn nhiên, và tự nhiên, như bướm hiểu, và chàng đếch thèm phân biệt, khi nào thì tài năng của chàng là vàng, khi nào thì là cứt. Sau đó, khi chàng bắt đầu băn khoăn đến những cánh bướm bị đời gọi không biết bao nhiêu lần của mình, và muốn tìm hiểu cấu trúc của bướm, và chàng học suy tư, và thế là chàng đếch làm sao bay bổng lên được nữa, ấy là vì tình yêu mong được bay bổng mãi lên trên cao thì đã bỏ chàng, và chàng chỉ có thể nhớ lại, khi nào bướm hết còn là bướm.
[Note: Cái này là Gấu dịch phóng, dịch ẩu, cho dzui. Muốn có bản dịch chính xác, xin liên lạc Nhã Nam.
Ui chao, quảng cáo free cho bạn văn-nhà thương gia đấy nhá! NQT]
Hemingway viết về Fitzgerald mà không... đểu ư?
Đâu thua gì Gấu viết về các đấng bạn quí của Gấu?
*
Ui chao, lại nói chuyện bạn quí, những cái xác trôi lều bều trên con sông thời gian, lịch sử những ngày ở Sài Gòn.
Gấu có cả một lô kỷ niệm, nhớ đến đâu đau đến đó, về những đấng bạn quí. Sau lần đi gặp Con K nhân sinh nhật vừa qua, nó biểu Gấu, tao chẳng có gì mà cho mày hết, chỉ có vài lời nhắn nhủ như thế này này:
Quãng đời còn lại của mày bây giờ là 'bonus' rồi. Suy Nghĩ Lớn, về Cái Đại Ác Bắc Kít, thì cũng viết ra rồi. Hoang Vu Lớn thì cũng tàn lụi theo BHD từ giã mày mà đi trước mày rồi, bi giờ ta cho phép mi tha hồ mà viết, muốn viết cái đéo gì thì viết!
Hà, hà!


Coetzee đọc Garcia Marquez: Nhớ Bướm Buồn


Bướm buồn của Gấu!

*

Mác Két ở Việt Nam


Nabokov: Bạo Miệng


Dino Buzzati: Sa mạc Tác Ta


Kỷ niệm, kỷ niệm

Drogo biết thời gian sẽ không ngừng, và thời gian ở nơi Đồn Xa gồm những khoảnh khắc hiện tại tiếp nhau, và anh, ở mỗi khoảnh khắc là mỗi con người khác nhau. Trong một khoảnh khắc, anh ao ước, giá mà mình đừng tới đây, trong một khoảnh khắc khác,  anh chấp nhận phần số của mình, tuy nhiên, trong khoảnh khắc thứ ba, anh hi vọng mình sẽ là một chiến sĩ ngoài trận tiền, một anh hùng Núp, thí dụ, trong khoảnh khắc thứ tư, anh ngộ ra là chẳng có khoảnh khắc hiện tại nào sẽ tiếp tục là “bây giờ, lúc này”. Anh diễn tả cái mánh của bà mẹ anh, để cố “giữ cho bằng được thời gian của thời thơ ấu của anh”, bằng cách đóng chặt cửa phòng của đứa con, và, nói thêm, “Bà lầm khi tin rằng, bà có thể giữ cho nguyên vẹn, không suy suyển, một trạng thái nào đó của hạnh phúc, để cho nó đừng biến mất vĩnh viễn, rằng bà có thể níu kéo được chuyến bay của thời gian, rằng, khi đứa con trở về, và lại mở ra những cánh cửa lớn, cửa sổ căn phòng, thì mọi chuyện y chang như trước đó”
Cảm quan đầu tiên của tôi, [Manguel] về thời gian qua đi, là khi tôi 6 hoặc 7 tuổi, trở về nhà sau khi đi nghỉ hè, và nhận ra mọi chuyện chẳng y chang như khi đi.
*
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
người yêu Gấu
*
Trên tờ Điểm Sách London, số 6 Tháng Tám, 2009, dưới cái tít Who to Be, Colm Tolbin đọc “Thư Beckett, 1929-40”, có nhắc tới bài thơ trên, thoạt đầu Beckett làm bằng tiếng Tây, và “tình tôi” ở đây là tình bạn giữa Beckett và Thomas McGreevy, một người bạn thân nhất của ông, một nhà phê bình nghệ thuật và một thi sĩ, hơn ông 13 tuổi. Bài thơ Lưu vong của McGreevy có câu:
I knew if you had died that I should grieve
Yet I found my heart wishing you were dead.
Tôi biết nếu bạn chết tôi sẽ đau khổ
Vậy mà thâm tâm tôi lại mong điều đó.
Bài thơ không đề của Beckett, là từ hai câu thơ trên, của bạn ông.
Bài thơ trên, lần đầu Gấu đọc, là ở trong Thơ ở đâu xa của TTT.
Nhưng, thú vị nhất, hay đúng hơn, thê lương nhất, lại là cái tít của bài viết của Tolbin. Về những năm tháng thê thảm của Beckett, thời kỳ 1930-1936, Tolbin viết: Vấn đề của ông trong những năm này xem ra thật dễ, nhưng lại khó giải quyết: it was how to live, what to do, and who to be, sống thế nào, làm cái gì, là thằng gì. Ông [Beckett] thì khôn khéo [clever], có học [well-educated], ông nói rành tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Đức của ông thì thật tốt. Nhưng cuốn sách đầu, truyện ngắn, của ông không bán được, và ông không làm sao kiếm được nhà xb cho tiểu thuyết của ông. Ông không biết làm cách nào kiếm sống.
Rất nhiều giai thoại thật tuyệt vời về chuyện Beckett mê tranh của Jack Yeats. Tình bạn giữa ông và McGreevy là cũng từ chuyện mê tranh Yeats.
Cô Hồng Con của Gấu
Trong bài viết về Don Quixote, của Manguel, mà Gấu tính sẽ lèm bèm về nó, trong những ngày tới, tác giả [Manguel] có trích dẫn một câu của Gide, nói về cú Gandhi bị ám sát:
“Như thể Thượng Đế bị đánh bại” [“It is as if God had been defeated”].
Manguel cho biết, không bao giờ ông dám coi phim bạo lực, nhưng chỉ đọc những miêu tả có tính giả tưởng về bạo lực, và theo ông Don Quixote là một trong những cuốn sách hung bạo nhất mà ông biết.
Nhưng những miêu tả bạo lực khủng khiếp như thế nào, khiến Manguel trích dẫn câu của Gide?
[Xin chờ Gấu một tị!]
*
"Như thể Ông Trời bị đánh bại." Gấu đã từng có cảm giác như thế, lần về lại làng cũ, và nghe bà chị kể về cái chết của Cô Hồng Con, người yêu đầu đời của Gấu.
Cô đáng tuổi chị Gấu. Đúng ra, trong trí tưởng tượng của Gấu, cô là mẹ của Gấu, thì mới đúng.

The Thinker as Poet
Heidegger
Tư tưởng gia như Nhà thơ
Được scan và sắp xếp, chấm, phết, xuống dòng
như trong bản in.
Note: Đúng là thơ của triết gia!
In thinking all things
become solitary and slow.
[Trong suy tư mọi vật
trở thành cô đơn và lừ đừ.]
Pain gives of its healing power
where we least expect it.
[Đau thương đem đến sức mạnh chữa trị của nó
Vào đúng lúc chúng ta ít mong chờ nhất]

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường
Đơn Dương ngây ngô quận.
Entry dành tặng riêng cho 1 người.

Ui chao Gấu Cái quá mê bài viết này.
Hỏi ai đấy.
Bạn Gấu đấy.
Note: Post lại, theo yêu cầu của một độc giả Tin Văn.

Simenon trả lời The Paris Review

Cái "tiểu chú" mà Nguyễn Quốc Trụ nhắc nằm trong phần "Tài liệu tham khảo về Võ Phiến" trong cuốn Võ Phiến được Văn Nghệ xuất bản vào năm 1996 của tôi. Trong phần đó, có đoạn tôi điểm qua tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến phát hành tại Sài Gòn vào tháng 8 năm 1974. Sau khi liệt kê các bài viết chính trong số Văn ấy, tôi viết thêm: "Ngoài ra, còn mục 'Ðọc Võ Phiến', gồm những trích đoạn từ bài viết của các nhà văn: Phan Lạc Phúc, Mai Thảo, Ðỗ Tấn, cô Phương Thảo, Huỳnh Phan Anh, Viên Linh, Nguyễn Quốc Trụ, và Nguyễn Ðình Toàn về một tác phẩm nào đó của Võ Phiến. Tất cả các bài viết này đều đã được đăng báo, đâu đó." (tr. 205) 
Ðã đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng…

Có mấy Nguyễn Quốc Trụ?
*
Trưa lang thang đại lộ Hàm Nghi - Cầu Calmette
Văn Tế 

Cái vụ tại làm sao Gấu không nhớ đã từng viết về ông tiên chỉ Võ Phiến, hoàn toàn là lỗi của ông bạn quí của Gấu, khi đó, là tổng thư ký tờ Văn, đã lôi một bài viết từ trong ‘thùng rác lịch sử’, đăng trên Văn, và chẳng thèm hỏi ý kiến của Gấu, ấy là vì ông biết, kiếm nó cũng không thể nào thấy, và giả như biết nó ở đâu, thì cũng đành chịu không dám mò ra khu Chợ Cũ, đại lộ Hàm Nghi, hay chân cầu Calmette.
Bài viết về Võ Phiến, là từ phụ trang văn học cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, và lúc đó, Gấu phụ trách, có thể, do cần bài trám vô một khoảng còn trống, nên đã viết về truyện ngắn Võ Phiến.
Gấu tin là bài viết phải có một cái gì đó nên ông bạn quí mới lôi ra lau lau chùi chùi cho bớt bụi thời gian rồi đăng trên Văn. Bởi vì, trong những gì của Võ Phiến, nào tùy bút, nào thơ, nào tin văn học dưới tên Tràng Thiên.... Gấu chỉ đọc được có truyện ngắn của ông, và, chúng thật là tuyệt vời, nhất là, nếu bạn đọc nó vào cái thuở mới lớn, thân thể của bạn lúc nào cũng rậm rật, chỉ muốn, chỉ thèm “làm bậy”, đúng như trường hợp ông nhà văn Nobel Golding vừa mới cho biết, vào lúc 18 tuổi, ông đã tính hiếp dâm một cô bé 15 tuổi.
Nhân tiện, nhắc chuyện lần tờ Văn Học của Nguyễn Mộng Giác ra số đặc biệt về Võ Phiến, và anh order Gấu viết một bài, khi sắp sửa từ giã Cali về lại Canada, trong chuyến viếng thăm Tiểu Sài Gòn của hai vợ chồng Gấu, vào năm 1998, tá túc nhà anh, khi cuốn sách Lần Cuối Sài Gòn vừa ra lò.
Sau này, Gấu có nhận được vài cái mail của vài độc giả, hầu hết đều có viết văn, có nổi tiếng, và đều quá thích bài viết, thí dụ như một mẩu sau đây (1)
Trong số đó, còn một cái mail, cho biết, bài của Gấu "trùm" cả số báo, đúng ra là phải để ngay ở  những trang đầu, thật trang trọng, chứ tại sao lại để ở mục Tạp Ghi.
Sai, theo Gấu. Để ở mục Tạp Ghi là đúng, và đây là sự tôn trọng của NMG đối với tất cả những bạn văn cộng tác với Văn Học. Hơn hẳn Sến Cô Nương, khi chê bài của NVL, cộng tác viên, không đủ tiêu chuẩn.

(1) Thư độc giả [nhân đọc bài viết về Võ Phiến, trên báo Văn Học,1998].
......
Trước khi đọc NQT, vẫn có những bài phê bình sắc sảo tài hoa. Nhưng vẫn theo thể thức chết: Đặt vấn đề và giải quyết vấn đề (một cách áp đặt). Phê bình (thật) đòi hỏi cung cấp một cách giải quyết vấn đề, nghĩa là phải có thông tin. Theo V: hình như giờ chỉ có một NQT thực sự nắm được thời sự văn nghệ thế giới. N thì đặc biệt yếu kém khoản đó do ngoại ngữ kém. (Không biết tiếng Anh). Do vậy cảm giác như chú Trụ rất trẻ. Như chỉ hơn VN mấy tuổi.
Một tác phẩm hay là một tác phẩm gợi được một cảm giác 'đẹp' cho người đọc. Người ta có thể quên tất cả câu chuyện, nhưng nhớ một cảm giác. Và cái đó sẽ đưa người ta tìm về với tác phẩm trong những tâm trạng nhất định, không phải một lần.
Thế một tác phẩm lớn? Không phải là một tác phẩm mà trong nó lịch sử được mô phỏng theo một tỷ lệ nào đó, dù đậm đặc. Nó phải soi sáng được tinh thần lịch sử, không phải của một giai đoạn, không dừng ở những biến cố, mà là, phải là những chuyển dịch sẽ sàng nhất của hồn người (phi thời gian và không gian, đôi khi)
Lấy lịch sử soi vào một tác phẩm là một thao tác cần thiết. Nhưng lấy một tác phẩm soi vào lịch sử mới quan trọng. Nhưng như thế là đòi hỏi rất nhiều ở người viết tác phẩm và người viết về tác phẩm.
Một lần nào đó chú đã nói rằng văn phải được chở bằng thơ. N cũng nghĩ thế. Những tác phẩm lý sự sắc sảo và quá bám vào hiện thực đang diễn ra thường hấp dẫn người đọc kinh khủng vào lúc đó, nhưng khi hiện thực đã là 'khác' và khi sự tò mò của người đọc về những ám chỉ, hoặc cao qúy hơn: nhu cầu phát huy trí thông minh cùng tác giả của họ được thỏa mãn thì tác phẩm sẽ bị để lên giá.
Cấu trúc bài viết vừa rồi của chú dù chia phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu N tưởng bị lẫn đoạn. Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có những suy diễn rất thích.
N rất thú vị vì chú thích truyện ngắn của Võ Phiến. Nhìn thì thấy ngay tùy tạp của họ Võ không giống ai. Nhưng 'khác', trong một dòng chảy chung, thì đúng là truyện ngắn. Hồi đầu đọc N nể quá.
Chú chỉ ra tính chất văn chương miền Nam và miền Bắc hay quá.
V bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm tri kỷ, phải dạy người ta một diều gì đó nhưng không dạy đời.
Hàng tháng N đều đọc chú cho thằng cu nghe. Cả tưởng niệm O. Paz làm V buồn cười. Hôm qua đọc được một nửa thì cháu ông trẻ ngủ. Như vẫn thường khi nghe đọc thơ.
Kính.
10.10.98
Còn cái mail này, Gấu mạn phép vờ người gửi, lần Gấu gửi bài cho một "diễn đàn nào đó"!

Anh NQT kinh,
Toi da doc lai, ky hon, ban dich anh gui. Rat thich. Thich noi dung bai viet va cung thich cach dich rat bay buom cua anh. Doc ban dich, co cam tuong nhu doc van sang tac.
Ban dich ay chac chan se gop phan lam cho [...] phong phu hon. Va cung sau sac hon.
Khi nao dich xong cac title sach tu tieng Tay Ban Nha xong, xin anh gui cho som de toi bat dau lay-out.
Xin cam on anh va kinh chuc anh va gia dinh an manh.

*
Bạn văn thế giới ngày nay dễ dàng đến với nhau nhờ…
Ðào Trung Ðạo 18/08/2009
Có thể vì Gấu phán ‘ẩu’, những bài đọc sách của Đào tiên sinh, sở dĩ quá ẹ, ấy là vì, ông tin rằng, đếch có ai thèm đọc, cho nên họ Đào bèn đi một đường phản biện, như trong bài mới đăng trên blog NXH và bạn hữu, chăng?
Đọc bài viết, thấy ớn quá. Ông bàn toàn chuyện đao to búa lớn, nhưng, theo Gấu, cũng chỉ để tự bịp chính ông mà thôi.
Ấy là vì, ông chẳng có lấy một tí văn bản nào để chứng minh cho suốt một đời đam mê viết, đam mê triết, đam mê làm thầy thiên hạ.
Trường hợp của ông làm Gấu nhớ đến ông bạn NTV. Một quái nhân trong giới giang hồ. Cái gì cũng biết, mà có biết thật. Có đọc thật. Nhưng không bao giờ viết gì cả. Mới đây, ông trả lời báo trong nước, rất nhã nhặn, suốt đời tôi mê đọc, nhưng không dám viết, vì thà như vậy, còn hơn viết bậy.
Sự thực không phải vậy.
NTV là một con người tham vọng viết trùm thiên hạ. Khi anh còn ở hải ngoại, Gấu này nhiều lần đụng trận với anh, và khi say, anh nói thật, tao là kẻ suy nghĩ lớn. Nếu viết ra, đúng không sao, sai một cái là bỏ mẹ thiên hạ!
Đây cũng là tư tưởng của Heidegger. Ông có câu thơ, viết đúng tình hình trên. Để Gấu kiếm tập Thơ của ông, trong đống sách bề bộn, (1) rồi chúng ta bàn tiếp về những quái nhân trong giới giang hồ, bụng thì đầy chữ, mà cứ viết ra là thiên hạ muốn thoi cho một cái!
(1)

He who thinks greatly must err greatly (1) 
(1): The Thinker as Poet (trong Poetry, Language, Thought, bản tiếng Anh của Albert Hofstadter, nhà xb Harper & Row).
Tiếng Tây, erreur [lẫm lỗi], cùng âm với errer [lang thang].
Câu thơ của Heidegger, nghe cứ như: Kẻ nào suy tư nhiều lang thang nhiều.
Như vậy, ở nhà là khỏi suy tư, khỏi lang thang!
Nguồn
Chỉ đến khi nghe Gấu kể về ba búa Trình Giảo Kim, mà nhà thơ TTT thay mặt Hỗn Thế Ma Vương [nick của TGK trong Thuyết Đường]
truyền lại cho Gấu, thì NTV mới ngớ người, ngửa cổ than, giá mà hồi trẻ, tao gặp một ông như ông TTT, thì cũng có vài tác phẩm lận lưng rồi!
Một trong ba búa TGK mà TTT truyền lại cho Gấu, là, sai kệ mẹ sai, cứ viết tưới, cứ dịch tưới. Từ từ nó sẽ đúng thôi. Học tới đâu viết tới đó, dịch tới đâu, viết tới đó, cứ thế là tiến.
Lần đó, thấy Gấu ngẩn người, ông bèn kể chuyện Nguyễn Đình Thi viết Triết học nhập môn, đọc tới đâu viết tới đó.
Kinh nghiệm này, ai học ngoại ngữ, phần đối thoại, là biết liền. Bụng thì đầy chữ ngoại, gặp người ngoại, là đực ra, không dám mở miệng, vì chỉ sợ sai!
Sartre cũng có một câu thật bảnh, về chuyện này, Gấu nhớ đại khái, muốn cho một câu chuyện trở thành một cuộc phiêu lưu, thì cứ ngồi vào bàn, và viết nó ra.
Me-xừ họ Đào này, viết câu nào, bài nào, cũng trật trìa, ấy là vì có bao giờ viết đâu.
Nhưng phán thì kinh hồn bạt viá:
Có lẽ câu hỏi chung cuộc đặt ra cho người viết văn là câu hỏi muôn thưở: Tại sao viết?
Ông có viết bao giờ đâu mà chung cuộc, mà "Tại sao viết"?
Đây là do bị huyễn, tự bịp mình.
Một thằng viết lách, nó bỏ lại những câu hỏi như vậy, ngay sau bài viết đầu tiên.
Ui chao, rồi trận đồ văn chương, trận đồ tư tưởng, nghe ghê bỏ mẹ! NQT
*
Ðã đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng…
Câu văn phách lối, [xổ toẹt mọi bài viết về VP của hầu như toàn thể những nhà văn Miền Nam cùng thời với ông] ứng vào đúng tác phẩm viết về chính ngài tiên chỉ Võ Phiến của nhà đại phê bình!
Đó là sự thực.
Cả một cuốn sách viết về VP chẳng đưa ra một “chủ kiến” nào ngoài câu phán vô bằng chứng, không làm sao kiểm chứng, vì đâu có gì để mà kiểm chứng:
Nếu cần phải tìm cho Võ Phiến một nhãn hiệu, chúng ta có thể gọi ông là nhà văn của thế kỷ, thế kỷ XX.
Thảo nào, sang thế kỷ 21, VP tuy còn sống, nhưng đành không dám viết gì hết, bởi vì nếu viết, lời phán hết linh!
Đừng có nghĩ là Gấu này cay cú gì nhà phê bình, nhưng hầu như toàn thể những gì nhà phê bình viết ra, cho đến ngày giờ này, đều là… chẳng là gì!
Phán rất nổ, nhưng vô bằng chứng. Ngay trong bài viết về “phân trong ‘văn’ NHT”, ngài lôi ra đủ thứ phân, nhưng khi phải đặt vấn đề, tại sao NHT mê phân đến như thế, ngài đẩy qua độc giả:
Tại sao một nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp lại bị ám ảnh nhiều về chuyện đi cầu, đi tiêu và phân người như vậy? Tại sao Trương Chi cứ chửi “cứt” mãi? Trương Chi trong truyện cổ tích đâu có như vậy? Tiếng “cứt” vang lên sang sảng từ đầu truyện đến cuối truyện có làm tăng thêm chút giá trị thẩm mỹ hay nhân văn nào trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp?
Cuối cùng, đọc xong các câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp với những “phân”", “cứt” nhiều như vậy, chúng ta có thể thấy thô và tục không? Tại sao? Chúng có góp phần tạo nên nét gì riêng trong phong cách Nguyễn Huy Thiệp hay không?
Xin nhường các câu trả lời lại cho quý bạn đọc.
Nguồn Blog NHQ, VOA.
Đúng là khôn tổ cha!
*
V/v cứt trong văn NHT. Gấu này đã từng giải thích, tại làm sao NHT để cho Gia Long ra Bắc nhét kít vô miệng sĩ phu Bắc Hà.
Nhân “cứt” còn đang nóng hổi, xin trình bầy thêm, về Con Quỉ Bắc Hà NHT, nhân đọc một bài viết trên Le Magazine Littéraire, [số đặc biệt về “sự độc ác”], về nhân vật Kurtz trong Trái tim của Bóng đen, của Conrad.
*
V bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi cọ.
Tuyệt!
Khen như thế thì Gấu này sướng mê tơi.
Mong độc giả Tin Văn đọc mục "Dọn Kít" trong tinh thần của câu trên, của một độc giả Tin Văn.
*
To both of U, and family: Tks. Take care.
NQT [and Thảo Trần].

*
Tờ Le Magazine Littéraire có tới hai số về Zweig. Bài viết Võ Phiến, nhà văn Bình Định của Gấu, dựa trên số báo cũ hơn, không nhớ số.
*

Kiếm thấy rồi. Số Tháng Hai 1997, một trong những số báo đầu tiên của Gấu, ở hải ngoại, thời gian viết cho Văn Học của NMG.
Cái tít nhà văn Bình Định, dành cho VP, là từ cái tít Zweig, nhà văn Âu Châu.
Gấu nhìn ra quan hệ thầy trò giữa hai ông nhà văn. Zweig, là từ địa linh nhân kiệt, ông thần đất Âu Châu, mà ra. Còn VP, từ Bình Định, và tất cả những địa linh nhân kiệt của nó, và cùng với họ, là những giấc mơ "hoang đường": Viết lại căn cước, lịch sử, và con người Mít qua những chiến công của Nguyễn Huệ: Vượt sông Bến Hải, ra Bắc, làm cỏ Mãn Thanh, dọn sạch Kít Bắc!
*
Trong những lần đụng trận với NTV, Gấu có kể, về cái cú mặc khải Cái Ác Bắc Kít, vào một buổi tối, [hình như vậy, một buổi tối], ở một thư viện Toronto, cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng...  thì anh lắc đầu, cái mày thấy đó, là ở trong mày. Steiner chỉ như chất xúc tác, làm bật nó ra. Chứng cớ là, tao đã từng đọc cuốn đó, ở Sài Gòn, vào những năm 1960, mà đâu có ‘mặc khải’ như mày!
Tất cả những "mặt dầy" đi xin làm bồi, viết không công cho Chợ Cá, cho diễn đàn xứ khỉ ho cò gáy Kông Gô Ru… là đều do gợi ý của NTV, những ngày sau đó. Anh biểu Gấu, mày phải viết cho tất cả các “mặt trận”, để “hoành dương”, ‘thông tri” về Cái Ác Bắc Kít đến cho đám Mít hải ngoại, và trong nước. Một khi nhìn rõ kẻ thù, thì mới mong có ánh sáng ở cuối đường hầm!
*
Truyện ngắn “Lạc thú ẩm thực” dưới đây của Hoàng Ngọc-Tuấn, theo tôi, là một truyện ngắn đặc sắc. Về phương diện kỹ thuật, nó có một số đặc điểm nổi bật:
1.   Cách trình bày: Giống cách viết trong các cuốn sách dạy nấu ăn và không giống bất cứ một truyện ngắn nào bằng tiếng Việt từ trước đến nay.
2.   Ngôn ngữ: Từ đầu đến cuối không có chủ ngữ. Cũng không có các hình dung từ mô tả cảm xúc. Giọng văn hoàn toàn lạnh.
3.   Tính truyện: Không có nhân vật chính; không có đời sống nội tâm, không có diễn tiến hay kịch tính, vốn là những yếu tố làm nên “truyện” theo nghĩa thông thường.
4.   Cấu trúc: “Người” cũng được sắp ngang hàng với “gà” và “vịt”, cũng được mô tả từ hai góc độ: “Vật liệu” và “Cách dùng”.
5.   Hiệu quả nghệ thuật:
a.   Với các đặc điểm 1,2 và 3 nêu trên, có thể xem truyện ngắn “Lạc thú ẩm thực” là một thứ truyện phản-truyện. Hơn nữa, nếu tôi không nhầm, đó là truyện phản-truyện tiêu biểu nhất trong tiếng Việt cho tới nay.
b.   Với đặc điểm về cấu trúc nêu ở điểm 4, chúng ta có thể nhận diện được chủ đề của truyện ngắn này: “người” biến thành một trong những món ăn. Cũng như thịt gà và thịt vịt. Cũng mang lại “lạc thú”, một thứ “lạc thú ẩm thực” cho ai đó. “Ai đó” là ai? Không biết. Trong văn bản, từ đầu đến cuối, hoàn toàn không có chủ ngữ. Kẻ bị giết cũng không có tên tuổi gì cả. Chỉ là “con người”. “Con người” có thể là một cá nhân nhưng cũng có thể là nhân loại hay nhân tính nói chung. Câu chuyện, do đó, không phải chỉ là quá trình thi hành một bản án tử hình đâu đó. Nó mở ra một tầm nhìn rộng lớn hơn nhiều, về những hiện tượng “ăn thịt người” trong lịch sử - theo cách nói của lời Lỗ Tấn -, chẳng hạn.
Bạn đọc thử truyện ngắn “Lạc thú ẩm thực” dưới đây và xem nó có thực hay như tôi nghĩ không nhé.
Xin đọc thực chậm và so sánh với các truyện ngắn bằng tiếng Việt khác mà bạn đã đọc từ trước đến nay.
Và cũng so sánh với cả những kinh nghiệm sống mà bạn đã có. Blog NHQ. VOA
*
Đây là trò copy & paste, cắt, dán, dàn, dựng, từ những thông tin khác nhau. Không phải là một sáng tác, bởi thế chẳng cần tác giả. Người và vật ngang nhau, như là những thông tin. Đoạn đầu chôm từ một cuốn sách nấu ăn, những đoạn sau, từ những mẩu tin trên báo chí. Chẳng có tí nào sáng tác tối tác ở đây.
Coi đây là một phản truyện, thì đành phải nhắc lại lời Sarraute chửi Sartre, thằng chả đếch hiểu cái chó gì về truyện của tôi!
Cái truyện phản truyện này, như cho thấy, là đã được nhà biên khảo “trước tác” từ những năm 2008. Có ai thèm đọc đâu, bây giờ, nhân có blog VOA nhiều độc giả, bèn lôi ra, thổi lấy thổi để, lôi cả Lỗ Tấn ra nhờ thổi, nhờ thêm sạp cá thổi tiếp.
Chao ôi, sao mà khốn nạn đến như vậy.
Cái trò bầy đàn chỉ làm độc giả thêm tởm. NQT
*
Trong bài viết Ngợi ca nỗi quan hoài, Éloge du pessimisme, trên số báo Le Magazine Littéraire, Avril 2005, Olivier Postel-Vinay đọc hai cuốn của Steiner, Dix raisons (possibles) à la tristesse de pensée [Mười lý do (có thể) đưa đến nỗi buồn tư duy], Một ý nghĩa nào đó về Âu Châu, Une certaine idée de l'Europe, có nhắc đến một câu của Steiner, nói với tờ Le magazine Littéraire, vào năm 2004
: Văn hóa của chúng ta sao mà buồn quá. Nó tầm phào, [superficielle: phiến diện], nó giả đò, [faux-semblant]. Steiner buồn bã than. Ông truy nguyên nỗi buồn tầm phào, giả đò của đương thời có nguồn gốc từ nỗi buồn ngàn xưa, thổi về từ một vùng đất u tối, và là nền tảng của tri thức nhân loại. và ông đặt câu hỏi: Ở đâu ra cái nỗi buồn nền tảng của tư tưởng nhân loại, d'où vient la tristesse foncière de la pensée humaine?
Trong cuốn Một ý nghĩ nào đó về Âu Châu, Steiner cho rằng, cái gọi là Suy Nghĩ Lớn, thật ra là sản phẩm của Âu Châu! [La "grande pensée" est une invention de l'Europe]. Nó là di sản kép của Athens và Jérusalem. Ánh sáng đâu có đến từ đâu đâu, mà là từ hai cái nguồn kép đó. Bởi vậy cơn hăm dọa về một cái chết của Âu Châu, cưu mang trong nó một nỗi buồn nguyên thủy.
Zweig được vinh danh là nhà văn Âu Châu, và cái chết của ông gây chấn động giang hồ, là còn theo cái ý nghĩa ghê rợn, khủng khiếp như thế đó!


Thà nô lệ anh Yankee mũi lõ, còn hơn anh Yankee mũi tẹt
 Trong Tẩu Vi Thượng Sách. Greene có kể về mối tình của ông đối với Miền Nam Việt Nam, và từ đó, đưa đến chuyện ông viết Người Mỹ Trầm Lặng…
Tin Văn post lại ở đây, như là một dữ kiện, cho thấy, Mẽo thực sự không có ý ‘giầy xéo’ Miền Nam.
Và cái cú đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng.
Cái chuyện MB phải thống nhất đất nước, là đúng theo qui luật lịch sử xứ Mít, nhưng, do dùng phương pháp bá đạo mà hậu quả khủng khiếp 'nhãn tiền’ như ngày nay!
Ui chao, lại nhớ cái đoạn trong Tam Quốc, khi Lưu Bị thỉnh thị quân sư Khổng Minh, làm cách nào lấy được xứ... Nam Kỳ, Khổng Minh bèn phán, có ba cách, vương đạo, trung đạo, và bá đạo [Gấu nhớ đại khái].
Sau khi nghe trình bầy, Lê Duẩn than, vương đạo khó quá, bụng mình đầy cứt, làm sao nói chuyện vương đạo, thôi, bá đạo đi!

Cú Phú Lợi đúng là như thế! Và cái giá của mấy anh tù VC Phú Lợi, giả như có, là cả cuộc chiến khốn kiếp!

Dấn thân hay không dấn thân