*


 






Richie đi biển
*
*

*


Yiyun Li


* *

Alexandrie

Je ne suis pas dans cette ville qui a nom Alexandrie, je suis dans l'Atlantide de Durrell, dans son rêve continué. «Justine et sa ville, écrit-il, se ressemblent en cela qu'elles ont toutes deux une forte saveur sans avoir un caractère réel. » J'étais venu ici pour Cavafy, j'en repars avec la saveur douce-amère de Justine. Ni déception ni retrouvailles, mais je sais mieux soudain ce que je dois à l'auteur du Quatuor: cette saveur parrticulière, celle des Atlantides et de leurs spectres récursifs, c'est la sueur aigre du roman.
Tình cờ
Lawrence Durrell xuất hiện cùng lúc trên hai tờ, một, báo Tây, Le Magazine Littéraire, số tháng Sáu, 2009, mục “Parce que c’est lui, parce que c’est moi”, và một, báo Anh, TLS, August 7, 2009.
Bài trên TLS là một "ký", do chính Durrell viết, cùng với một tay cùng đi, về chuyến đi Yugoslavia của Tito, vào tháng Nov 1949.
*
Note: Cái câu phán, "Bởi vì xừ luỷ, bởi vì mỏa, Parce que c'est lui, parce que c'est moi", bữa trước Gấu hiểu sai, tưởng lui ở đây là sư phụ, moi, đệ tử. Một độc giả Tin Văn gửi mail [Gấu, qua mail, vậy mà nhìn ra nụ cười hóm hỉnh mang tính hiệu đính của vị độc giả], ông Gấu ơi, ông hiểu sai rồi...
Bữa nay, trên đường xuống phố, mang theo cuốn The City of Words của Alberto Manguel, trong có đoạn, ông giải thích giai thoại liên quan đến câu này, và câu này liên quan tới cái gọi là căn cước cá nhân: in order to know who one is, we need two.
Để hiểu tớ là ai, thì cần thêm một người nữa!
Câu nói trên, là của Montaigne.
*
In the sixteenth century, Michel de Montaigne attempted to understand the reasons that move us to be together, whether we be frighteningly different or attractively similar. In the Municipal Library of Bordeaux is a copy of Montaigne's Essays annotated in his hand, with corrections for the printer, which Montaigne kept by his bedside to revise it at his leisure. In the first book, in Essay 28, he had written about his relationship with Etienne de la Boétie, a dear friend who had died in 1563 at the age of thirty-three, and whose loss Montaigne had felt so deeply. "In the friendship of which I'm speaking," Montaigne says, "souls are mingled and confounded in so universal a blending that they efface the seam which joins them together so that it cannot be found." According to Montaigne, in this kind of relationship the separation between "1" and "the other" is not denied: each preserves intact his individuality and uniqueness; only that the "seam" that unites them, and which is consequently what divides one being from the other, "cannot be found" in the eyes of the observer: it remains undetected and therefore unlabelled, free from the possibility of prejudice. This distinct invisibility, this evident but indefinable "separateness" that links two individuals in affectionate concern for one another, is what a fluid, multifaceted society may strive for, not only between two but between all of its members. Before jumping to the conclusion that such relationships are impossible on so large a scale, let us ask: in what does it consist, exactly, this as-if seamless relationship? Montaigne confesses that he finds it impossible to give an answer: "If you press me to say why I loved him, I feel that it cannot be expressed." This is how the paragraph ends in the text of all editions of the Essays, up to 1588.
But then, in 1592, shortly before his death, Montaigne found a sort of an answer and scribbled it on the right-hand margin of the printed book. After "it cannot be expressed," he wrote in his elegant script, "except by replying, because it was him." That is to say, because of those qualities that identified his friend and yet remained ineffable, because of what lent him existence not because of their perceived difference but because of his intrinsic qualities. And then, a few days or months later, as if the full notion had suddenly been revealed to him, Montaigne added five more words in a hurried hand and in a different ink, so that today we can read the whole sentence as one single thought, luminous in its wisdom: "If you press me to say why I loved him, I feel that it cannot be expressed, except by replying, because it was him and because it was me."
Alberto Manguel, The Tablets of Gilgamesh, trong The Ciry of Words

[Vào thế kỷ thứ 16, Michel de Montaigne cố tìm hiểu lý do tại sao chúng ta ôm lấy nhau, cho dù khác nhau một cách đáng sợ, và giống nhau một cách thật là quyến rũ.
Trong Thư viện Bordeaux còn một ấn bản cuốn Essays của ông, do chính tay ông ghi chú, với những ‘hiệu đính’ để đem đi in, bản này ông đi ngủ để kế bên giường, rảnh là lôi ra hiệu đính. Trong cuốn thứ nhất, trong Essay 28, ông viết về tình bạn của ông với một ông bạn thân, chết vào năm 1563, khi mới 33 tuổi và cái chết của ông này làm ông rất đau đớn. “Trong tình bạn mà tôi đang nói tới, tâm hồn trộn vào nhau, lẫn vào nhau, dữ dằn quyến rũ đến nỗi chúng xóa đi những đường ranh, những vết sẹo khi kết nối, khiến chẳng thể nào nhận ra chúng nữa. Theo ông, như vậy không có nghĩa là, cái tôi của tôi với cái em của em bị chối từ, mỗi cá nhân vẫn giữ nguyên vẹn tính cá nhân, tính độc nhất, chỉ những vết vẹo khi dính vào nhau là không còn nhận ra dưới mắt người quan sát, và do đó, không làm sao dán nhãn cho chúng...
“Nếu bạn cố bắt tôi trả lời tại sao tôi yêu… CM, thì tôi không thể nào trả lời”, Montaigne phán!
Nhưng trước khi đi, thì Montaigne kiếm ra câu trả lời, và ông viết thêm năm từ 'thần chú', hoàn tất câu văn thần kỳ này:
"Nếu bạn ép tôi trả lời, tại sao tôi yêu em CM, tôi cảm thật khó diễn tả, và đành trả lời, như thế này, bởi là CM là CM, và bởi vì Gấu là Gấu, and because it was me"].
*
“Bởi vì em bởi vì tôi…”
Theo Gấu, phải Melville, mới là nhà văn phán câu phán bất hủ về tình bạn, giữa ông và Hawthorne, người mà ông đề tặng Cá Voi Trắng, Moby Dick, khi cuốn sách đuợc xb vào năm 1850.
Lịch sử sau cùng đã giảng hoà hai ông, và đem lại sự công bằng, ấy là bởi vì, cuộc đời của cả hai khác nhau thậm tệ, một thành công, một thất bại, một dè dặt, khép kín, một mở hết, xổ tung… và cuối cùng Melville kêu lên, trong bài thơ gửi bạn, Clarel:
Hãy cho ta cái tôi của ta ở trong mi!
[To U: “CM: Donne-moi ton moi!”]
*
Gấu nhà văn có lẽ là 'một trong những kẻ độc nhất' được hưởng lợi, nhờ Mẽo đổ quân vào Miền Nam!
Đúng ra, nhờ Phòng Thông Tin Hoa Kỳ mà được đọc Bóng Đen Giữa Ban Ngày, đúng vào lúc cần đọc, và đến khi bỏ chạy quê hương, lại mang nó đi cùng! [Vậy mà cũng không kịp, bởi vì nhà văn VTH đã kịp chôm cái tên rồi: Chiến lợi phẩm!].
Và nhờ nhà xb Ziên Hồng mà được gần như hầu hết những tác phẩm kinh điển, cổ điển của văn chương Mẽo, bản tiếng Việt, trong có Cá Voi Trắng của Melville.
Thú vị hơn nữa, Gấu cùng đọc với bà cụ của TTT, vào những ngày đói khổ, còn đang đi học, ăn nhờ Bà Ngh.
Bà thì không sao, nhưng cô con gái con của bà chị, Dì Nh, thì thật là khủng khiếp [Gấu có viết về bà dì này trong Lần Cuối Sài Gòn. Và luôn cả về ông cậu, Cậu H. và những cú đập đầu vô tường của ông, mỗi lần bị  Bà Nh. này đay nghiến, hành hạ].
*
Gấu vẫn còn nhớ lần đọc truyện, cùng với bà cụ TTT, hình như của Hawthorne, về một vị khách lạ lỡ độ đường, xin trú tại một căn nhà ven sườn núi, và trong đêm, người khách lạ, một chàng trai, ngồi chuyện gẫu về cuộc đời với ông chủ nhà, trong khi cô con gái vừa hầu trà vừa hóng chuyện, vừa tưởng tượng ra cuộc đời sau này, [biết đâu đấy], có ông khách lạ ở trong cuộc đời của cô.
Đêm đó, bão tuyết. Cả nhà chạy ra hầm trú ẩn, ăn vào lòng núi. Bão tuyết, núi lở, cuốn đi một khoảng núi, trong có hầm trú ẩn, vậy mà căn nhà lửng lơ treo vô sườn núi vẫn còn nguyên vẹn!
Câu chuyện này ám ảnh Gấu hoài.
Nhưng quái quỉ thay, chính cái truyện ngắn trên, lại ẩn tàng nghệ thuật của Melville, thứ nghệ thuật mà giới phê bình gọi là nghệ thuật đắm đuối, chìm xuồng, đắm đò..., l’art du naufrage, và cái câu, cái thú "thú" nhất của Melville, như ông thú nhận:
"Tôi mê tất cả những người lao xuống nước"
[J'aime tous les hommes qui plongent].
Gấu không mê cái thú này. Dòng họ Gấu bị nước nguyền rủa! Ông cụ Gấu, khi đặt tên cho mấy đứa con trai, là đã tiên tri ra cái điều dữ này:
-Quốc, coi chừng Nước [Nhà Nước VC]!

**
*
*

"Je serai ta femme". LH 16.8.1967
Bức hình chụp liền sau khi tháo platre, do ăn mìn VC tại nhà hàng Mỹ Cảnh
... sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Thời gian
Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.
Gấu nhà văn
&
Sài Gòn nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ
*
Sài Gòn nghĩa là gì?
"Đời của mi, ngay ở đây, tại nơi chốn vất đi này,
mi đã làm hỏng nó…"
"Hãy nói lời giã từ thành phố mà mi đã đánh mất"
(Lawrence Durrell)
-Sài Gòn nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ.
*
Khi viết xong tập đầu của một bộ bốn cuốn, về thành phố Alexandrie (Quatuor d’Alexandrie: Justine, Balthazar, Mountolive, Clea, lần lượt xuất bản từ 1957 tới 1960), Lawrence Durrell (1912-1990) đã viết thư cho bạn mình là nhà văn người Mỹ, Henry Miller; bằng một câu nói nổi tiếng, ông định nghĩa tác phẩm của mình: "Đây là một thứ thơ xuôi gửi cho một trong những thủ đô lớn lao của con tim: Thủ đô của hồi tưởng."
Tất cả là giả tưởng. Chỉ có thành phố là có thực. Trong Lời Tựa cho cuốn Jusrine, Henry Miller viết: Đây là một thành phố mà chỉ một người Anh lưu vong tự nguyện, sinh ra tại (dẫy núi) Himalaya, tìm thấy sự trưởng thành của mình tại Hy Lạp, chỉ người đó mới có thể làm cho nó tái sinh. Thành phố không chỉ đóng vai dàn dựng (décor): nó là một thực thể, một sinh vật sống động, mang hơi hám ma quỉ, được tạo nên bằng máu thịt, đất đá, tội ác, mơ mộng, và bằng cả huyền thoại." "Những nhân vật làm nên cuốn tiểu thuyết cũng có một thực tại khác thường: tôi có thể đoan trước rằng họ sẽ gây sốc và hớp hồn một độc giả Âu châu. Trong họ, có tất cả bụi bặm và những cơn điên loạn của xứ sở Cận Đông."
Henry Miller coi câu chuyện kể trải ra, không phải như diễn tiến của một cuốn tiểu thuyết bình thường: nó như soi nhiều tấm gương cùng một lúc; nó uốn éo trong một chất thiêng: ánh sáng. Một thứ ánh sáng siêu nhiên, tắm đẫm hồi tưởng.
Trong Lời Tựa, toàn tập, ấn bản tiếng Anh, tác giả viết: Đây là một nhóm bốn cuốn tiểu thuyết, được đọc như là một tác phẩm đơn (a single work) dưới tiêu đề chung là Tứ Khúc Alexandria. Cũng có thể cho nó một tiểu đề là: một từ của sự liên tục (a word of continuum, liên tục không gian-thời gian theo Einstein). Theo G. Steiner, Durrell đã chuyển viễn tượng (thuyết) Tương Đối, vào ngôn ngữ và cách tự sự. Ông nhìn thành phố Alexandria theo bốn chiều.
Cuốn Justine xuất bản năm 1957. Đây là một thời điểm rất có ý nghĩa với những độc giả người Việt, nhất là người Việt di cư, và đã từng sống ở Sài Gòn vào thời kỳ đó. Justine đã là một trong những đề tài được đem ra thảo luận của nhóm Sáng Tạo, trong nỗ lực đả phá cái cũ (đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn), và cổ xuý cho một cái mới. Cá nhân tôi tin rằng, mấy ông trong Sáng Tạo "mê" Alexandria của Durrell, là bởi vì vừa mới mất Hà Nội! Phạm Công Thiện cũng rất mê Durrell, nhưng qua một bài viết của ông mà người viết đọc từ thuở nảo thuở nào, ông chỉ mê Justine, cô điếm thượng lưu của thành phố này thôi.
Nhưng đâu phải một mình ông!
Những trích đoạn, là về thành phố Alexandria, nhưng khi đọc chúng, Jennifer tôi tưởng tượng, đây là nói về Sài Gòn:
Chính thành phố phải chịu xét đoán; nhưng chúng ta, những đứa con (của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est la ville qui doit être jugée; mais c’est nous, ses enfants, qui devons payer le prix.)
Sài Gòn là một máy ép tình yêu; thoát ra khỏi, là những kẻ bịnh hoạn, những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất cả những kẻ dục tính bị tổn thương nặng nề.
(Alexandrie était le grand pressoir de l’amour; ceux qui en réchappaient étaient les malades, les solitaires, les prophètes, tous ceux enfin qui ont été profondément blessés dans leur sexe).
Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Lũ đàn ông chúng mình, đều được tạo ra bằng bùn và quỉ ma của Sài Gòn
(Tout homme est fait de boue et de daimon, et la femme ne peut pas nourrir ces deux côtés de sa nature à la fois: Mọi người đàn ông đều được tạo nên bằng bùn và quỉ ma, và một người đàn bà do bản chất, không thể nuôi nấng cả hai khía cạnh này cùng một lúc).
Chú thích:
Theo tiếng Hy Lạp cổ, daimôn có nghĩa là "thiên tài che chở" (le génie protecteur), từ này sau có nghĩa là quỉ ma (démon), và còn được chỉ những nhân vật "trung gian" giữa thần và người. (Chú thích bản tiếng Pháp, dịch từ tiếng Anh, của Roger Giroux, nhà xb Buchet-Chastel, 1959, lần tái bản tháng Năm, 2000)

Hemingway's last words
Joan Didion on the books he never wanted us to read
The New Yorker, Nov 9, 1998
Lời nào Papa không nói?

Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc. Stein sử dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị thương tổn đến không còn hoạt động được nữa.
Ấy là Hai Lúa phịa ra, sự thực bà nói:
-Các người là như vậy. Cả đám các người. Một đám trẻ, tham dự cuộc chiến, và là một thế hệ vứt đi.
-Thật thế sao? Tôi [Hemingway] nói.
-Thật chứ sao, bà nhấn mạnh. Mấy ông có kính trọng cái chi đâu, mấy ông uống như hũ chìm.
-Tay thợ trẻ có uống không?
-Đâu có.
-Bà có thấy tôi xỉn lần nào không?
-Ông thì không, nhưng bạn ông cả đống.
-Tôi cũng xỉn dài dài, nhưng không hề bao giờ tới đây khi đã uống đã đời.
-Thì chắc chắn như vậy. Tôi đâu có nói thế.
-Cái tay chủ gara chắc là xỉn từ lúc vừa mở mắt, chậm lắm thì cũng cỡ 11 giờ sáng. Nếu không, làm sao phán một câu hay như thế.
*
Truớc 1975, do sự hiện diện của người Mẽo ở Miền Nam, cho nên, giới trí thức đếch thèm học tiếng Mẽo, kẹt lắm, như Gấu chẳng hạn, bị làm bồi Mẽo, cho nên đành phải biết võ vẽ dăm ba tiếng Dét Dét, Nô Nô, đủ để hoàn tất nhiệm vụ của một gã Radiophoto Operator, chuyên gửi hình ảnh vô tuyến cho cơ quan thống tấn xã UPI.
Những ngày đầu, đa số nhân viên chóp bu của họ, đều rành tiếng Tây, thành ra, khi Gấu bập bẹ vài tiếng Mẽo bồi, là họ xua tay, thôi nói tiếng Tây đi, tiện cả cho tao lẫn mày, cả chủ lẫn tớ đều hài lòng!
Gấu đọc Faulkner, Hemingway là đều qua bản tiếng Tây, của chuyên gia chuyên dịch hai ông này, là Maurice Edgar Coindreau. Khi ra được hải ngoại, tự nhủ thầm, ai mà thèm đọc tiếng Mít nữa, bèn quyết định bye bye văn chương, đi thi lấy cái licence bán bảo hiểm, những lúc không có khách, thì lôi Faulkner bản tiếng Anh ra đọc, coi có khác bản tiếng Tây ngày nào.
Riêng Hemingway thì đã có kinh nghiệm khi dịch Mặt Trời Vẫn Mọc.


Coetzee đọc Garcia Marquez: Nhớ Bướm Buồn
Bướm buồn của Gấu!
Mác Két ở Việt Nam

Nabokov: Bạo Miệng

Dino Buzzati: Sa mạc Tác Ta

Gấu đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có “Sa mạc Tartares” của Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông nói là đọc nó vào thời mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc Nam Kỳ, tại Sài Gòn, khi có BHD.
*
Gấu mua cuốn A Reading Diary Nhật Ký Đọc, cũng lâu rồi. Quăng vào một xó, rồi quên luôn, cho tới khi dọn nhà, nhặt nó lên…
Buzzati cho biết, vào lúc khởi nghiệp, người ta nói, có mùi Kafka ở trong những gì ông viết ra. Nghe vậy, ông cảm thấy, không phải mặc cảm tự ti, mà là bực bội. Và sau cùng, ông mất cái thú đọc Kafka!
Buzzati và Kafka:
Có lẽ không phải chỉ là bất khả, cái chuyện đi tìm công lý.
Nhưng bất khả còn là vì: Chúng ta làm cho nó trở thành bất khả, để chỉ cho có một thằng cha, cố đấm ăn sôi, cứ đâm sầm vào cái chuyện tìm công lý!
"Không con, thì ai bi giờ hả mẹ?"
[Gửi NTT. NQT]
*
Alberto Manguel là cư dân Toronto, vào thời gian Gấu được ra ngoài này. Gấu biết đến ông, là qua NTV, khi anh giới thiệu cuốn Chuyện Đọc, A History of Reading, của ông.
Cuốn này thật tuyệt.
Do là dân Canada, cuốn Nhật Ký Đọc của ông, đa phần nhắc tới những địa danh Canada. Ông đọc lại cuốn Sa mạc Tác Ta, trên chuyến bay rời Newfoundland, và, ông viết về nó:
Giống như những nơi chốn ‘tận cùng thế giới’ - Finisterre, Land's End, Tierra del Fuego - Newfoundland [tên một vùng đất - một tiểu bang - của Canada] tách biệt ra khỏi cõi thời bình thường, thường lệ. St John’s có một điều gì đó của Đồn Xa trong cuốn tiểu thuyết Sa mạc Tác Ta của Dino Buzzati: một nơi chốn có vẻ như không thể nào rời bỏ, và cũng không thể tới được, một nơi chốn đóng cứng vào thời gian chuyện thường ngày ở huyện của riêng nó, và không có cái gì ở bên ngoài có thể đụng vô. Có thể vì vậy mà tôi thấy St John’s thật kỳ kỳ.


INTERVIEWER
How much do you think writers should engage themselves in public issues?
ACHEBE
I don't lay down the law for anybody else. But I think writers are not only writers, they are also citizens. They are generally adults. My position is that serious and good art has always existed to help, to serve, humanity. Not to indict. I don't see how art can be called art if its purpose is to frustrate humanity. To make humanity uncomfortable, yes. But intrinsically to be against humanity, that I don't take. This is why I find racism impossible, because this is against humanity. Some people think, Well, what he's saying is we must praise his people. For God's sake! Go and read my' books. I don't praise my people. I am their greatest critic. Some people think my little pamphlet, The Trouble with Nigeria, went too far. I've got into all kinds of trouble for my writing. Art should be on the side of humanity. I think it was Yevtushenko talking about Rimbaud, the Frenchman who went to Ethiopia and came back with all kinds of diseases. Yevtushenko said of him that a poet cannot become a slave trader. When Rimbaud became a slave trader, he stopped writing poetry. Poetry and slave trading cannot be bedfellows. That's where I stand.
The Paris Review, vol. III
Ông nghĩ sao về cái vụ nhà văn dấn thân?
Tôi không dậy khôn cho bất cứ ai. Nhưng tôi nghĩ nhà văn không chỉ là nhà văn, mà còn là công dân. Họ thường thì đều là người lớn. Quan điểm của tôi là, nghệ thuật nghiêm túc và tốt có đó để giúp đỡ, để phục vụ nhân loại. Không phải để truy tố nó. Tôi không thể hiểu nghệ thuật có thể gọi là nghệ thuật nếu nó làm cho con người thất vọng, bực bội. Đi ngược lại con người là tôi không khoái. Chính vì thế mà tôi cho rằng phân biệt sắc tộc là không thể được vì nó đi ngược lại nhân loại. Một số người nghĩ, thằng cha này muốn chúng ta phải ca ngợi nhân dân của nó. Trời đất! Tôi đâu có ca ngợi dân nước tôi, hãy đọc sách của tôi thì thấy. Tôi là nhà phê phán lớn lao nhất của họ....
Nghệ thuật nên cùng phe với nhân loại. Nhà thơ Nga Yevrushenko có nói về Rimbaud, ông Tây này đi Ethiopia và trở về với đủ thứ bịnh. Yev. nói một thi sĩ không thể trở thành một tên buôn bán nô lệ. Khi Rimbaud trở thành một tên buôn bán nô lệ, ông ta ngưng làm thơ. Thơ và buôn bán nô lệ không thể là bạn giường chiếu của nhau. Tôi nghĩ như vậy


Trường hợp Lê Công Định
SURVIVORMAN
Here's a fact: Some people want to live more
Than others do. Some can withstand any horror
While others will easily surrender
To thirst, hunger, and extremes of weather.
In Utah, one man carried another
Man on his back like a conjoined brother
And crossed twenty-five miles of desert
To safety. Can you imagine the hurt?
Do you think you could be that good and strong?
Yes, yes, you think, but you're probably wrong.
-Sherman Alexie
The New Yorker, June 8 &15, 2009
Kẻ sống sót
Đây là sự kiện:
Một số người muốn sống dai hơn những người khác.
Một số người chịu đựng được bất cứ điều ghê rợn.
Trong khi những người khác dễ dàng đầu hàng
Trước đói khát và những thái quá về thời tiết.
Utah có một người, cõng một người
Suốt 25 dặm sa mạc. Tới nơi an toàn.
Bạn tưởng tượng nổi cái đau cái mệt?
Bạn nghĩ bạn có thể bảnh như thế, mạnh như thế?
Được, được, bạn nghĩ, nhưng chắc là bạn lầm



Dọn Kít
'Nếu không viết, chắc đứt gân máu chết'
NV
Nếu thế, đừng viết! NQT
Văn chương của ông này, ngoài chuyện dơ, cái còn lại, thì là vô hại, như tất cả cái còn lại, là cõi văn Mít ở trong nước, như Gấu đã từng lèm bèm. Đâu phải cứ ỉa đái vào mặt nhà nước thì là… văn chương… Nobel đâu!
Sở dĩ ông ta ở trong nước, mà dám viết, [nếu không thì đứt gân máu mà chết], ấy là vì nhà nước VC coi thường NV, văn chương của ông chẳng là cái gì cả, chẳng ai thèm đọc, chứ không phải chống Kộng, kuội kiệu, gì hết!
Khó lắm, là... văn chương. Ngay cả khi bạn chửi nhà nước, thì cũng dành cho nhà nước một cơ hội đọc bạn.
Viết như Kít, thì ai đọc?
Nhưng, cái thiếu nhất, ở trong văn của tay này, là một tấm lòng nhân hậu, như một lần Gấu đã chỉ ra, khi ông ta viết về những cuộc biểu tình đòi đất của dân Miền Nam. Ông ta viết bằng một giọng vô học, về những người biểu tình, và khốn nạn hơn, còn mượn dịp, để quảng cáo cho một cuốn sách sắp xb của ông!
Lần đó, Gấu phán, văn ông này thua những lá thư của độc giả BBC, từ thành phố Sài Gòn, thua cả những lá thư của một nhà thơ của thành phố, cũng gửi cho BBC, như là những ký sự về nó, và trong đó, tất nhiên, có nói tới những cuộc biểu tình.
*
Trong bài viết “Ba trăm năm sau có ai khóc Tố Như”, Gấu đã ‘cẩn trọng’ mấy ông, mấy bà - chỉ chờ được người đời hỏi đến, là bèn, tôi mà không viết thì ngứa không chịu được, tôi mà không viết thì sặc máu mũi ra mà chết… - là, hãy coi chừng, ngứa thì gãi, gãi không hết, thì đi bác sĩ, coi có phải là di chứng của giang mai, hột xoài.. hay không.
Trường hợp ‘nếu không viết thì đứt gân máu mà chết’, của nhà văn NV này, Gấu sợ rằng do hoả nó bốc lên tận đầu rồi, vì Gấu nhớ, hình như là, có lần trả lời phỏng vấn, về quan niệm của ông đối với phái nữ, ông phán rất hách, chỉ khi nào tôi đưa được khẩu súng của tôi vô trong, thì mới có thể đưa ra nhận xét này nọ…
Cái sự chống nhà nước VC, ở những nhà văn như ông này, đúng là rất ‘cần thiết’, theo Gấu, cho VC, thế mới thảm.
Nó chứng minh, chế độ còn tốt gấp bội, so với đám rác rưởi chống nó!