*


 





Richie đi biển


*

Yiyun Li


Alexandrie


*
Dịch giả Hội hè miên man, A Moveable Feast, của Hemingway
Hình trích tờ Match du Monde, [không phải Paris Match]. Câu tiếng Tây, đại khái,
cũng tính nói về cái thứ văn chương 'vô hại' ở trong nước hiện nay.
Tờ báo Tây gọi PTH, thương gia, và cô bạn đồng nghiệp e lệ, đám Sài Gòn, là "les enfants gâtés".
Đám Hà Nội: "Les enragés désabusés"
Những bức hình dưới đây, là cùng trong số báo.

**

**
*
Phan Thị Vàng Anh
"Miên man", theo Gấu, không đúng ý của từ 'moveable', di động.
 'If you are lucky enough to have lived in Paris as a young man, then wherever you go for the rest of your life, it stays with you, for Paris is a moveable feast.'
ERNEST HEMINGWAY to a friend, 1950.
Nếu bạn đủ may mắn để mà sống ở Paris khi là một anh chàng trai trẻ, thì nó sẽ ở với bạn, cho dù bạn lang thang chân trời góc bể nào, trong suốt cuộc đời còn lại của mình, bởi vì Paris là một ngày hội di động.
Hemingway, thư gửi bạn, 1950.
*
Có lần, ngồi lèm bèm với Lê Huy Oanh, nhân dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, anh đưa ra nhận xét, Hemingway viết văn giống như ông ta cầm một nắm chữ và dùng nội lực bắn chúng lên trang giấy, và chúng dính cứng vào đúng cái chỗ mà ông muốn chúng dính cứng, không thể nào 'di động' đi chỗ khác!
Đúng! Tuyệt!
Gấu, khi dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, đã phải sử dụng cả hai ấn bản, một nguyên tác tiếng Anh, và bản dịch tiếng Tây, ấy là vì bản tiếng Tây, tuy không sai, nhưng quên mẹ nó mất một điều, chữ của Hemingway, khi dịch, là cũng phải để đúng cái chỗ của chúng.
Bản tiếng Pháp, ông dịch giả, đọc, và hiểu một câu văn của Hemingway, và sau đó, chuyển thành 'vài' câu tiếng Tây, trong khi đúng ra là phải bệ câu tiếng Anh qua câu tiếng Tây, không được phá vỡ cái thế 'bát quái' của nó!
Hình như ở Việt Nam có một ông làm cái nghề di chuyển nhà, theo kiểu trên?
*
Gấu đọc Faulkner bằng tiếng Tây, dịch giả Maurice Edgar Coindreau, được Tây khen nhắng lên, chuyên gia chuyên trị Faulkner! Ông này còn là chuyên gia số một chuyên trị Hemingway!
Chỉ đến khi Gấu được ông Nhàn, chủ nhà xuất bản Vàng Son, một chi nhánh của nhà xuất bản Sống Mới, order dịch cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, thì Gấu mới té ngửa ra, rằng thì là, me xừ này dịch Hemingway bằng cách đọc một câu, một đoạn văn, rồi tìm cách chuyển qua tiếng Tây, trong khi cái tối quan trọng của văn Hemingway, là: Từng câu văn. Từng câu văn. Từng câu văn. Cánh buồm nâu. Cánh buồm nâu. Cánh buồm… nâu].
Gấu nhắc lại, từng câu văn một.
Theo nghĩa đó, khi chuyển qua tiếng Tây thì cũng bắt buộc, bệ từng câu qua, chứ không phải, hiểu, rồi tán phó mát thành hai hoặc ba câu!
Đây là điều Jean-Paul Sartre cũng nhận ra, khi đọc Kẻ Xa Lạ của Camus, và nhớ tới Hemingway, phán, mỗi câu là một hòn đảo, trơ cu lơ, độc lập. Mỗi câu là một cú, bật ra từ hư vô. Mỗi câu là một khởi đầu, viết. (1)
Chính vì thế mà Sartre chơi một cái tít thật hách: Giải thích Kẻ Xa Lạ! [Explication de L'Étranger]; đâu có khác chi đàn anh Trung Quốc, dậy cho Việt Nam một bài học.
Bản dịch qua tiếng Anh bỏ đi từ “Explication”, là quá nhảm!
(1): Quelle est cette technique? On m'avait dit: "C'est du Kafka écrit par Hemingway". J'avoue que je n'ai pas retrouvé Kafka
Còn kỹ thuật viết đó thì sao? Người ta bảo tôi, đây là Kafka, được viết bởi Hemingway. Thú thực, tôi không kiếm ra Kafka.
Có thể chính vì, như trên, Camus đã đáp lại Sartre, bằng những câu sau đây, trong thư trả lời một tay người Đức muốn dựng Kẻ Xa Lạ thành kịch: ... Nói ngắn gọn, tôi muốn làm sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và chủ nghĩa biểu hiện (expressionnisme). "Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng không kỳ quái (fantastique). Với tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné: nhập xác phàm), không lơ mơ mà bám cứng lấy cõi người ta, tới tận da, tận xương, tận tủy. Và tới tận cùng của hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là một kiểu cọ mới của vô đạo đức (immoraliste). Vậy là lầm to. Cái đập vào mặt chúng ta ở đây, không phải là đạo đức, mà là thế giới của vụ án, nó trưởng giả, nó quốc xã, nó cộng sản, nói tóm gọn, đây chính là vết lở lói đương thời.
Bữa nay mẹ tôi mất
Nhật Ký Tin Văn

Bỏ qua.
Tôi sẽ cố gắng nói tới những quyển sách mà tôi biết là rất dễ bị độc giả bỏ qua. Ở Việt Nam dần dần tôi nhận ra hết sức rõ ràng, sách vớ vẩn thì nhiều người đọc và bàn luận xôn xao, sách thực sự có giá trị thì ma nó đọc. Cái đó là một fact, và xét cho cùng cũng dễ hiểu ở cái kiểu xã hội như thế này.
+ Những bài dã sử Việt của Tạ Chí Đại Trường. Đã tới quyển thứ ba của TCĐT in ở Việt Nam rồi mà gần như không được ai nhắc đến, giới sử học cũng như ngoài giới sử học. Tệ hại thật. Tôi đang nghĩ sẽ làm một cái gì đó: để một sử gia chân chính hiếm hoi như thế này rơi tõm vào sự thờ ơ thì dù mình chẳng liên quan cũng thấy xấu hổ ngượng đỏ cả mặt và một số thứ khác.
+ Biển và chim bói cá, tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn. Nó không chìm lấp hẳn nhưng có vẻ như người ta rất ngại nhắc đến tên BNT. Sau Chuyện kể năm 2000 mà vẫn viết thêm được một tiểu thuyết như thế này, thực sự không hề dễ dàng.
+ Đặc biệt là tập truyện ngắn Chuyện xưa, kết đi, được chưa? của Bảo Ninh (NXB Văn học, 2009).
Blog Nhị Linh.
Cái sự bỏ qua này, mỗi trường hợp mỗi khác, và đều có lý do của nó. Và bỏ qua như thế, là may cho cả ba.
1.  TCDT: Đám ‘sử gia’ trong nước không chịu nổi ông, cả về thanh danh, về đường lối, cách tiếp cận lịch sử, và trên tất cả, vờ cho mày là phúc cho mày đấy, bởi vì nếu nhắc, làm sao bỏ qua quá khứ sĩ quan Ngụy của ông?
2.   Bùi Ngọc Tấn. Nếu viết, là phải nhắc tới CKN2000. Hơn nữa, thằng cha tù này lại khui đống cứt thời tem phiếu chẳng ai thèm nhắc tới nữa!
3.  Bảo Ninh. Khép lại cuộc chiến thần thánh? No, pas encore!
Về Bảo Ninh, khép lại, ở đây, còn là một quyết định khép lại Nỗi Buồn Chiến Tranh, để hy vọng viết tiếp.
Về Biển và Chim. Tin Văn tính lèm bèm vài đường, nhưng đọc Quít làm Cam chịu, thế là tịt ngòi!

Quít làm, Cam chịu [Lịch sử]

Kertesz và giải Améry

Nhà văn, nhà viết tiểu luận người Áo Robert Menasse, chủ tịch giải thưởng, nhận xét, bài tiểu luận thắng giải của nhà văn Imre Kertész được viết ra dựa trên nền tảng nhận thức của Thời kỳ Khai sáng, và rút ra những bài học từ sự thật dã man của chủ nghĩa phát xít. eVăn
Bản tiếng Việt, chắc là từ bản tiếng Anh, sau đây, và nếu như thế, có một từ bị thiến, là từ Cộng sản, và toàn câu văn bị cắt mẹ nó mất cái phẩn quan trọng nhất của nó!
:
"The oeuvre of Kertész as an essay-writer works on the basis of Enlightenment thinking, which has learnt the lessons of the barbarism of Fascism and Communism, and works for a Europe that will either become an enlightened and free Europe or it will not exist at all", was how the jury, with Austrian writer and essayist Robert Menasse as president, justified their decision.
Gấu tạm dịch là:
“Tiểu luận của K, tiến triển từ một cái nền là những suy tư, chiêm nghiệm về thời kỳ Soi Sáng, học những bài học về sự man rợ của chủ nghĩa Nazi và chủ nghĩa Cộng sản, nhằm hướng tới một Âu Châu, được soi sáng và tự do, hoặc một Âu Châu chẳng hề có".
Đó là vòng hoa trao tặng Kertesz của ban giám khảo, qua lời nhận định của vị chánh chủ khảo, là nhà văn kiêm nhà tiểu luận người Áo Robert Menasse


Coetzee đọc Garcia Marquez: Nhớ Bướm Buồn


Bướm buồn của Gấu!


Mác Két ở Việt Nam


Nabokov: Bạo Miệng


Dino Buzzati: Sa mạc Tác Ta


Trường hợp Lê Công Định


Kỷ niệm, kỷ niệm
Đọc?
Đọc là để đi gặp một điều sẽ hiện hữu.
Lire, c’est d’aller à la rencontre d’une chose qui va exister.
Câu này, của Calvino Italo, Manguel lập lại, trong Chuyện Đọc, A history of reading.
[To K. Bây giờ mới kiếm ra câu trả lời. NQT]


Ông già bạn tôi có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười nói, câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu làm được. Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay đó. Nhưng những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa tôi càng sống càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
NNT
Chỉ một câu văn trên, là phải vận đến cả một đoạn, trong một bài viết về Cioran, kẻ mơ tưởng một thế giới mà ở đó, người ta có thể chết chỉ vì một cái dấu phẩy, nhìn ở văn phong như là một cách để hoà giải hồ nghi và cao cả, sau đây, (1) để "thuyết minh".
(1) Cioran
Le style, remède au désespoir?
[Văn phong, thuốc chữa tuyệt vọng?]
par Patrice Bollon [Ký giả, tiểu luận gia]
Trích đoạn bài viết đăng trong Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về chủ nghĩa hư vô, Oct-Nov 2006.

Mourir pour une virgule. A la vérité pourtant, il y a bien chez Cioran une voie de surmonter cette contradiction entre la nécessité du scepticisme et celle, parallèle, de la foi; mais peut-être cette « solution" n'est-elle que nostalgique: en revenir à une espèce de monde cynique, et surrtout qui aurait fait du cynisme sa grandeur, comme le XVIIIe siècle français, a pu en donner l'image. Bref, c'est à une sorte de décadence somptueuse qu'en appelle Cioran, et c'est très exactement ce qu'il exprime dans le chapitre central d'Ecartèlement, « L'Amateur de mémoires ,: l'homme qui, dans les Syllogismes de l'amertume, « rêve d'un monde où l'on mourrait pour une virgule ", voit dans le style une façon de concilier le doute avec la grandeur. « Restent cependant les apparences, écrivait-il déjà en 1949 dans le Précis de décomposition: pourquoi ne pas les hausser au niveau d'un style? C'est là définir toute époque intelligente. " La futilité serait ici la vraie profondeur. Le nihilisme se convertit en fin de compte en un rêve d'esthétisme. Du romantisme adolescent de la négation à une sorte de politique détachée et désabusée de l'Artifice, en passant par la lucidité et le cynisme: tel est l'itinéraire que nous convie à emprunter Cioran, et lui confère son extraordinaire actualité. Quand le « désert» croît, comme le disait Nietzsche, peut-être peut-on en arrêter l'expansion par les fêtes ininterrompues d'une Futilité vraie, érigée en mode de vie de philosophie. Ce nihilisme raisonné, doux, subtil, intelligent, porte de fait le beau nom de « Libertinage »•
*
Cái đám ngu đần, bằng cấp bằng kiếc, cái đám viết ào ào, hết tác phẩm này tới tác phẩm khác bằng giọng huênh hoang khoác lác, chúng có bao giờ viết nổi, chỉ một câu văn?
Như câu trên.
Hay như câu này:
Que serais-je, si je pouvais être. Que dirais-je, si j’avais une voix, qui parle ainsi, se disant moi?
Tôi là gì nếu tôi có thể là gì. Tôi nói gì nếu tôi có một tiếng nói. Ai nói thế, nhận là tôi?
Beckett: Textes pour rien.
*

Lúc Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một ông lão nghe chuyện hỏi tôi NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe chú Sơn Nam có bản photo. Mà lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả chút. Hai người lớn nói chuyện văn chương, tôi mải mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng khúc cuối chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì đó chứ không Thù, Hận,… nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ hiếp dâm nào?” Tôi xin phép hai ông chú ra về trước.
Nhớ Sơn Nam
Anh già [Sơn Nam], anh trẻ [tác giả bài viết] đều cay đắng Cô Tư!
Bài này, viết nhân giỗ đầu Sơn Nam, được ông Việt Xì Tốp Đi Thôi cho 'hai sao', chứng tỏ trình độ thưởng ngoạn và luôn cả "cái tâm" của người viết lẫn người đọc.
Trong một bài tưởng niệm, không ai đem chuyện cũ ra để mà sát muối vào kẻ đã chết!
Nên nhớ Sơn Nam đã từng mắng mỏ Cô Tư là Hỗn, và đề nghị "Đảng" [?] giáo hóa Cô, bắt Cô viết tự kiểm!
Tôi xin phép hai ông chú về trước.
Sao không ở lại nghe tiếp, kể tiếp?

Hỗn

Có một dạo, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư gây xôn xao dư luận. Nhà văn nhận xét thế nào về quyển sách này và về tác giả?
-Cô Tư viết hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng bất tận” không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Sơn Nam
Nguồn
*
Ông già bạn tôi có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười nói, câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu làm được. Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay đó. Nhưng những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa tôi càng sống càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
*
Chúng ta tự hỏi, trong câu văn trên, cái dấu phẩy mà Cioran mơ tưởng, ở đâu?
Gấu nghĩ, ở sau từ “xưa”:
Ông già bạn tôi có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười nói, câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu làm được. Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay đó. Nhưng những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa, tôi càng sống càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
T
xưa này, còn ‘ăn’ với từ xa sau đó.
Bảnh còn hơn cả  đoạn văn mở ra Giã Từ Vũ Khí của Hemingway!
Cũng có chuyện đếm chữ ở trong cả hai.

In the late summer of that year we lived in a house in a village that looked across the river and the plain to the mountains. In the bed of the river there were pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was clear and swiftly moving and blue in the channels. Troops went by the house and down the road and the dust they raised powdered the leaves of the trees. The trunks of the trees too were dusty and the leaves fell early that year and we saw the troops marching along the road and the dust rising and leaves, stirred by the breeze, falling and the soldiers marching and afterward the road bare and white except for the leaves.
So goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell to Arms," which I was moved to reread by the recent announcement that what was said to be Hemingway's last novel would be published posthumously next year. That paragraph, which was published in 1929, bears examination: four deceptively simple sentences, one hundred and twenty-six words, the arrangement of which remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I first read them, at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them closely enough and practiced hard enough I might one day arrange one hundred and twenty-six such words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa hè năm đó, chúng tôi sống trong một căn nhà trong một cái làng nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá mòn, khô và trắng trong ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng, xanh ở trong những dòng rẽ. Những toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi dấy lên phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn thấy những toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây, theo làn gió thổi rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó con lộ trần trụi, vắng hoe, và trắng toát, ngoại trừ những chiếc lá cây.
Đó là đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã từ vũ khí, mà tôi, thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của Hemingway sẽ được xb, sau khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn câu đơn, 126 từ, sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại tôi vẫn cảm thấy như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu nhìn thật gần, gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với chúng, thì có một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!


Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

MUSIC
for D.D.S.
A flame burns within her, miraculously,
While you look, her edges crystallize.
She alone will draw near and speak to me
When others are afraid to meet my eyes.
She was with me even in my grave
When the last of my friends turned away,
And she sang like the first storm heaven gave,
Or as if flowers were having their say.
1958
Dimitri D. Shostakovitch: 1906-1975, great Russian composer.
[Anna Akhmatova: Poems, selected and translated by Lyn Coffin; introduction by Joseph Brodsky]
*
poésie
par Jean-Yves Masson
LA RUSSIE INCARNÉE
Anna Akhmatova, l'une des grandes voix du xxe siècle
*
La Musique
à D. D. Ch.
Il y a en elle un miracle qui brûle.
Sous nos yeux, elle forme un cristal.
C'est elle-même qui me parle
Quand les autres ont peur de s'approcher.
Quand le dernier ami a détourné les yeux
Elle est restée avec moi dans ma tombe.
Elle a chanté comme le premier orage
Ou comme si les fleurs se mettaient toutes à parler.
Anna Akhmatova (1889-1966)
*
Âm nhạc
Tặng
Shostakovitch
Có ở trong nàng một phép lạ rực cháy
Dưới mắt chúng ta nàng tạo thành một khối pha lê
Chính là nàng đang nói với tôi
Trong khi những kẻ khác không dám tới gần.
Khi người bạn cuối cùng quay mặt
Nàng ở với tôi trong nấm mồ.
Nàng hát như cơn dông bão đầu tiên
Như thể tất cả những bông hoa cùng một lúc cùng cất tiếng.

Ce qu'Anna Akhmatova dit de la musique, dans ce poème de 1958 dédié à Chostakovitch, tous ses lecteurs peuvent le dire de sa poésie: non seulement ceux qui lurent clandestinement ses poèmes au temps où, célèbre dans toute la Russie, elle était réduite au silence par la censure stalinienne, mais tous les autres, ses lecteurs d'aujourd'hui et de demain.
Điều mà Anna Akhmatova nói về âm nhạc, trong bài thơ tặng nhà soạn nhạc Chostakovich, tất cả những độc giả có thể coi như là điều bà nói về thơ của bà, không chỉ những độc giả đọc thơ bà lén lút, vào cái thời mà, nổi tiếng khắp nước Nga, bà bị bắt buộc phải câm lặng, do chế độ kiểm duyệt của Stalin, nhưng tất cả những độc giả khác nữa, bây giờ, hay sau này.
Depuis que Paul Valet, en 1966, traduisit (chez Minuit) le Requiem qui la révéla en France,la renommée d'Akhmaatova n'a cessé de s'étendre à travers le monde. Au fil des ans, Sylvie Técoutoff ou Christian Mouze s'attachèrent à la traduction de recueils entiers, tandis que Jeanne et Fernand Rude (chez Masspero en 1982) ou Jacques Burko (éd. Orphée/La Différence, 1997) proposaient des anthologies. Venant après eux, le choix de poèmes que publie aujourd'hui Jean-Louis Backès dans la collection Poésie/Gallimard est le plus complet qu'on ait eu à ce jour; il donne à lire environ la moitié de l'œuvre de celle qui est peut-être le plus grand poète russe du xxe siècle.
Même si l'on hésite à bon droit à la placer au-dessus de Blok, de Mandelstam, de Tsvetaïeva ou de Pasternak, qui furent ses amis, Anna Akhmatova possède au suprême degré cette qualité qu'on nomme la grandeur; elle éclate à toutes les pages des Enntretiens avec AnnaAkhmatova publiés par Lydia Tchoukovskaia (éd. Albin Michel, 1980), témoignage irremplaçable qu'il serait urgent de rééditer. La grandeur, en poésie, consiste peuttêtre simplement à traiter le réel avec une intransigeance absolue. De ses vers, Anna Akhmatova affirmait qu'ils avaient bien pu être parfois « amerrtume et mensonge/Mais consolation, jamais ».
Après dix-sept mois passés à faire la queue devant les prisons de Leningrad en 1938 pour rendre visite à son fils, pendant que « l'innocente Russie se tordait de douleur/sous les bottes sanglantes», celle qui avait été dans sa jeunesse « la joyeuse pécheresse» de Tsarskoïe Selo et le plus virtuose des poètes de l'école acméiste devint la Russie en personne. Pas moins. Parce que l'époque l'exigeait d'elle. Parce que la Russie réelle, comme la ville légendaire de Kitège, s'était faite invisible, accessible seulement aux cœurs purs. Nul mieux que Jean-LouisBackès, traducteur de Pouchkine et de tant d'autres poètes, ne pouvait offrir de cette œuvre une vision aussi sobre et juste, restituant dans sa plénitude l'extrême tension de ces vers.
À quand des Poèmes complets d'Akhmatova ?
*
Requiem, Poème sans héros et autres poèmes
Anna Akhmatova (1889-1966) Présentation, choix et traduction de Jean-Louis Backès
Ed. Gallimard, « Poésie », 9,30 €.
[Le magazine Littéraire, Avril 2007]

Simenon trả lời The Paris Review

LIFE AND LETTERS
THE AGE OF GENIUS
The legend of Bruno Schulz.
BY DAVID GROSSMAN
An afternoon in spring, Easter Sunday, 1933. Behind the reception desk of a small hotel in Warsaw stands Magdalena Gross. Gross is a sculptor, and her modest family hotel serves as a meeting place for writers and intellectuals. In the hotel lobby sits a Jewish girl of about twelve, a native of Lodz. Her parents have sent her to Warsaw for a school holiday. A small man, thin and pale, enters the hotel, carrying a suitcase. He is a bit stooped, and to the girl-her name is Jakarda Goldblum-he seems frightened. Gross asks him who he is. "Schulz," he says, adding, "I am a teacher, I wrote a book and I-"
She interrupts him. 'Where did you come from?"
"From Drohobycz."
"And how did you get here?"
"By train, by way of Gdanski Bridge."
The woman teases him. "Tanz? You are a dancer?"
'What? No, not at all." He flinches, worries the hem of his jacket. She laughs merrily, spouting wisecracks, winking past him at the girl.
"And what exactly are you doing here?" she asks finally, and he whispers, "I am a high-school teacher. I wrote a book. Some stories. I have come to Warsaw for one night, to give it to Madame Nalkowska." Magdalena Gross snickers, looks him up and down. Zofia Nalkowska is a renowned Polish author and playwright. She is also affiliated with the prestigious publishing house Roj. With a little smile, Gross asks, "And how will your book get to Madame Nalkowska?"
The man stammers, averts his eyes, yet he speaks insistently: Someone has told him that Madame Gross knows Madame Nalkowska. If she would be so kind-
And when he says this Magdalena Gross stops teasing him. Perhaps-the girl guesses-this is because he looks so scared. Or perhaps it's his almost desperate stubbornness. Gross goes to the telephone. She speaks with Zofia Nalkowska and tells her about the man. "If I have to read the manuscript of every oddball who comes to Warsaw with a book," Nalkowska says, "I'll have no time for my own writing."
Magdalena Gross asks that she take one quick look at the book. She whispers into the phone, "Do me a favor. Just look at the first page. If you don't like it, tell him and erase the doubt from his heart."
Zofia Nalkowska agrees reluctantly.
Magdalena Gross hangs up the phone. "Take a taxi. In half an hour, Madame Nalkowska will see you, for ten minutes."
Schulz hurries out. An hour later, he returns. Without the manuscript. 'What did she say?" Magdalena Gross asks.
He says, "Madame Nalkowska asked me to read the first page to her out loud. She listened. Suddenly she stopped me. She asked that I leave her alone with the pages, and that I return here, to the hotel. She said she would be in touch soon."
Magdalena Gross brings him tea, but he can't drink it. They wait in silence. The air in the room grows serious and stifling. The man paces the lobby nervously, back and forth. The girl folllows him with her eyes. Years later, after she has grown up, she will leave Poland, go to live in Argentina, and take the name Alicia. She will become a painter there and marry a sculptor, Silvio Gianngrande. She will tell this story to a newspaper reporter during a visit to Jerusalem, nearly sixty years after the fact.
The three wait. Every ring of the telephone startles them. Finally, as evening draws near, Zofia Nalkowska calls. She has read only thirty pages, there are things that she is certain she has not understood, but it seems to be a discovery-perhaps the most important discovery in Polish literature in recent years. She herself wishes to have the honor of taking this manuscript to the publisher. The girl looks at the man: he seems about to faint. A chair is brought to him. He sits down and holds his face in his hands....
The New Yorker, June 8 & 15, 2009
*
Ui chao, đọc một phát, là Gấu nhớ ngay ra, cái buổi tối, ở nhà bạn C. Chỉ có mình bà cụ ở nhà, Gấu vừa ló mặt, là cụ hỏi, Trụ, mày viết truyện hả, và, trong lúc Gấu còn ngớ ra, chưa hiểu chuyện gì, thì cụ bồi thêm một câu, Thằng T. nó bảo tao, mày viết truyện, được lắm, có thể đi xa còn hơn cả DNM!
Trên một số báo The New Yorker, dưới đây, Garcia Marquez kể về cái truyện ngắn đầu tay của ông được một tay trùm phê bình để ý, khen um lên, ngay khi nó vừa ló mặt, và ông sướng điên lên.
Đúng là cái cảnh của Gấu!
Cái truyện ngắn trên, là truyện Những Con Dã Tràng!
*

PERSONAL HISTORY
THE CHALLENGE
A young writer proves himself
BY GABRIEL GARCIA MARQUEZ
I never imagined that, nine months after I had completed secondary school, my first story would be published in Fin de Semana, the weekend literary supplement of EI Espectador, in Bogota, and the most interesting and demanding literary publication of the time. Forty-two days later, my second story was published. The most surprising thing for me, however, was an introductory note by the editor of the supplement, Eduardo Zalamea Borda (whose pen name was Ulises), the most lucid Colombian critic at the time, and the one who was most alert to the appearance of new trends.
The way in which all this happened was so unexpected that it is not easy to recount. In February of 1947, I matriculated in the faculty of law at the Universidad Nacional of Bogota, as my parents and I had agreed. I lived at the very center of the city, in a pension on Calle Florian which was occupied for the most part by students who were, like me, from the Atlantic Coast. On free afternoons, instead of working to support myself, I read either in my room or in the cafes that permitted it. The books I read I obtained by chance and luck, and they depended more on chance than on any luck of mine, because the friends who could afford to buy them lent them to me for such limited periods that I stayed awake for nights on end in order to return them on time. But, unlike the books I had read at school, in Zipaquira, which belonged in a mausoleum of consecrated authors, these were like bread warm from the oven, printed in Buenos Aires in new translations after the long publishing hiatus caused by the Second World War. In this way, I discovered, to my good fortune, the already very much discovered Jorge Luis Borges, D. H. Lawrence and Aldous Huxley, Graham Greene and G. K. Chesterton, William Irish an Katherine Mansfield, and many others.
For the most part, these new works were displayed in the unreachable windows of bookstores, but some copies circulated in the student cafes, which were active centers of cultural dissemination for university students from the provinces. Many of those students reserved their tables year after year and received mail and even money orders at the cafes. Favors from the proprietors or their trusted employees were instrumental in saving a good number of university careers, and quite a few professionals in the country may owe more to their cafe connections than they do to their almost invisible tutors.
My favorite cafe was E1 Molino, the one frequented by older poets, which was only two hundred metres or so from my pension, on the corner of Avenida Jimenez de Quesada and Carrera Septima. Students were not allowed to reserve seats at E1 Molino, but we could be sure of learning more from the literary conversations we eavesdropped on as we huddled at nearby tables and learning it better than in textbooks. It was an enormous cafe, elegant in the Spanish style, and its walls had been decorated by the painter Santiago Martinez Delgado with episodes from Don Quixote's battle against the windmills. Though I did not have a reserved place, I always arranged for the waiters to put me as close as possible to the master Leon de Greiff - bearded, gruff, charming - who would begin his tertulia, his literary talk, at dusk with some of the most famous writers of the day, and end it with his chess students at midnight, awash in cheap liquor. Very few of the great names in the country's arts and letters did not sit at that table at least once, and we played dead at ours in order not to miss a single word.
*
"I suppose you realize the trouble you got yourself into," a friend said. "Now you're in the showcase of recognized writers, and there's a lot you have to do to deserve it."
The New Yorker, Oct 6, 2003
*
Cái đoạn mở ra hồi ức của Garcia Marquez, về cái thuở ban đầu viết lách của ông, cái quán cà phê của ông, làm Gấu nhớ Quán Chùa vô cùng!
"Tôi nghĩ là bạn nhận ra cái nỗi khốn đốn mà bạn để mình vướng vào", một người bạn nói.
"Bây giờ bạn là Gấu nhà văn, và có rất nhiều điều bạn phải làm, để xứng đáng với nó".


Dọn Kít
'Nếu không viết, chắc đứt gân máu chết'
NV
Nếu thế, đừng viết! NQT
Văn chương của ông này, ngoài chuyện dơ, cái còn lại, thì là vô hại, như tất cả cái còn lại, là cõi văn Mít ở trong nước, như Gấu đã từng lèm bèm. Đâu phải cứ ỉa đái vào mặt nhà nước thì là… văn chương… Nobel đâu!
Sở dĩ ông ta ở trong nước, mà dám viết, [nếu không thì đứt gân máu mà chết], ấy là vì nhà nước VC coi thường NV, văn chương của ông chẳng là cái gì cả, chẳng ai thèm đọc, chứ không phải chống Kộng, kuội kiệu, gì hết!
Khó lắm, là... văn chương. Ngay cả khi bạn chửi nhà nước, thì cũng dành cho nhà nước một cơ hội đọc bạn.
Viết như Kít, thì ai đọc?
Nhưng, cái thiếu nhất, ở trong văn của tay này, là một tấm lòng nhân hậu, như một lần Gấu đã chỉ ra, khi ông ta viết về những cuộc biểu tình đòi đất của dân Miền Nam. Ông ta viết bằng một giọng vô học, về những người biểu tình, và khốn nạn hơn, còn mượn dịp, để quảng cáo cho một cuốn sách sắp xb của ông!
Lần đó, Gấu phán, văn ông này thua những lá thư của độc giả BBC, từ thành phố Sài Gòn, thua cả những lá thư của một nhà thơ của thành phố, cũng gửi cho BBC, như là những ký sự về nó, và trong đó, tất nhiên, có nói tới những cuộc biểu tình.
*
Trong bài viết “Ba trăm năm sau có ai khóc Tố Như”, Gấu đã ‘cẩn trọng’ mấy ông, mấy bà - chỉ chờ được người đời hỏi đến, là bèn, tôi mà không viết thì ngứa không chịu được, tôi mà không viết thì sặc máu mũi ra mà chết… - là, hãy coi chừng, ngứa thì gãi, gãi không hết, thì đi bác sĩ, coi có phải là di chứng của giang mai, hột xoài.. hay không.
Trường hợp ‘nếu không viết thì đứt gân máu mà chết’, của nhà văn NV này, Gấu sợ rằng do hoả nó bốc lên tận đầu rồi, vì Gấu nhớ, hình như là, có lần trả lời phỏng vấn, về quan niệm của ông đối với phái nữ, ông phán rất hách, chỉ khi nào tôi đưa được khẩu súng của tôi vô trong, thì mới có thể đưa ra nhận xét này nọ…
Cái sự chống nhà nước VC, ở những nhà văn như ông này, đúng là rất ‘cần thiết’, theo Gấu, cho VC, thế mới thảm.
Nó chứng minh, chế độ còn tốt gấp bội, so với đám rác rưởi chống nó!