*
Nhật Ký









*
Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới
2008
Richie Hiếu & Jennifer Thảo


Nguồn

Bác Hồ phán, Miền Nam ở trong trái tim tôi, vậy mà nỡ lòng nào thiến một mẩu trái tim Bác dâng cho Tầu Phù!

To the End of Hell: One Woman's Struggle to Survive Cambodia's Khmer Rouge. By Denise Affonco. Reportage Press; 165 pages; £15.99
Tới tận cùng địa ngục: Cuộc chiến đấu của một người đàn bà để sống sót Khờ Me Đỏ.

Đã ba thập kỷ kể từ khi cuộc điều tra bắt đầu, và đầu tháng này, tòa án do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, xử tội phạm chiến tranh tại Cambodia mới có quyết định đầu tiên, không cho đóng tiền tại ngoại, nghi can số 1, Duch, trùm trung tâm tra tấn ghê rợn Tuol Sleng, dưới thời Khờ Me Đỏ, từ Tháng Tư 1975 tới 1979.
Duch, 67, ít tuổi nhất, so với các bậc đàn anh, Khieu Samphan, chủ tịch nước, 73, chết vì bịnh tim năm ngoái, Ieng Sary, bộ trưởng ngoại giao, 82, tay anh em rể, Saloth Sar, nổi danh với cái tên Pol Pot, chết năm 1998, như là một con người tự do.
Được xuất bản bởi "The Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia", đây là một cuốn hồi ký của Denise Affonso. Những gì xẩy ra, và được tác giả kể lại trong đó, là một bằng chứng cho thấy, một trong những tội ác ghê rợn nhất của thế kỷ cần được tính tới, và đưa ra ánh sáng.
Nửa Pháp, nửa Việt Nam, một sản phẩm xịn của chủ nghĩa thực dân thuộc địa, tác giả cuốn hồi ký có thể đúng thứ người chịu đựng những đau khổ, do cơn điên khùng của Pol Pot gây nên. Bà đã không chụp lấy cơ hội, khi là nhân viên của tòa đại sứ Pháp, để mà bỏ chạy. Ông chồng của bà, một tay Cộng Sản, đã chào mừng ông chủ mới bằng những chai bia Trung Quốc.
Ông bị xử tử liền sau đó, nhưng phải hơn ba năm sau, bà vợ mới biết. Vào thời gian đó, bà cũng đã mất cô con gái, và tất cả những người thân trong gia đình.
Bà sống sót, và kể lại những gì đã xẩy ra. Chế độ Khờ Me Đỏ nổi tiếng vì những tội ác ghê rợn và sự ngu xuẩn, phi lý của nó. Nhưng trong tất cả, là cái ác xấu xa ghê tởm này: Tạo ra nạn đói, tại một vùng đất mầu mỡ. Bà tin rằng, họ muốn "nhìn thấy tất cả chúng tôi chết, người nọ tiếp người kia, do kiệt sức, đói, và bịnh tật".
Câu hỏi không thể nào trả lời, lẽ tự nhiên, là: "Tại sao?"
Từ chủ nghĩa Stalin tới Taliban, sự điên khùng quái thai của chủ nghĩa toàn trị là con đẻ quặt quẹo của những chủ nghĩa lý tưởng ngây ngô, và Khờ Me Đỏ có gốc rễ của nó trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Mao tại Trung Hoa.
*
Có một sự đối xứng, khi cuốn sách xuất hiện vào lúc này. “Tới Tận Cùng Địa Ngục”, khởi đầu bằng đời sống, và nó như một chứng tích dành cho tòa án, mở ra với khiếm diện của Pol Pot, và Ieng Sary, vào năm 1979, sau sự xâm lăng của Việt Nam lật đổ chế độ Khờ Me Đỏ.
Nguồn gốc của những phiên tòa, chỉ có một nửa, nếu chỉ nói đến cơn ác mộng mà chế độ này gây ra, thí dụ như qua cuốn hồi ký, mà còn phải kể ra cuộc xâm lăng giải phóng của Việt Nam: rằng, trong số những kẻ đang cầm đầu đất nước này, có những tên Khờ Me Đỏ đã được “tái tạo” [reformed], như thủ tướng Hun Sen [the demagogic prime minister Hun Sen, chữ của Người Kinh Tế].
*
Câu hỏi trên, không thể trả lời, "Tại sao?", cũng phải đặt ra cho toàn thể xứ Mít sau 30 Tháng Tư 1975: Tại sao, đúng vào lúc bước ngoặt lịch sử như thế, thảnh thơi xây căn nhà bằng năm bằng mười, lại xẩy ra hiện tượng con bọ?
*
Còn sự đồng thuận nào hơn sự đồng thuận: Nếu cần đốt sạch dẫy Trường Sơn, cũng phải đốt.
Nhưng sau đó, cái gì xẩy ra?


Faulkner: Nhà văn tuyệt đối
Thầy nào trò đó!

Tiểu thuyết của Faulkner tác động lên Tahar Ben Jellon, vừa như một thử thách vừa như là một cú chích, đặc biệt là Âm Thanh và Cuồng Nộ, một câu chuyện gây bực bội, ngay khi người ta biết, nó được kể bởi một tên đần độn, một gã Benjy nhìn thế giới với bỡ ngỡ, và ngây ngô; một cuốn tiếu thuyết với một khí hậu nặng nề, khó thở, thật khó tiếp cận, bởi vì ngang ngược, cấm cản, ngay cả ở trong cái cách diễn tả điều không thể diễn tả. Ben Jellon phán: "Đây là một cuốn tiểu thuyết đòi hỏi rất nhiều công sức và cố gắng của tác giả, ông ta không bao giờ hài lòng với thành quả của mình; nó phải được đọc và chiêm nghiệm bởi bất cứ một nhà văn. Văn chương không phải là một sản phẩm tái tạo từ cái thực nhưng mà là một phát kiến, phát minh, từ cái thực vô hình. Văn chương của Faulkner, mà cái phần đóng góp của nó thì cũng ngang của Joyce, sản sinh ra một thực tại mãnh liệt, mà ở trong đó, nhân loại thì hằng hằng, và khổ đau thì sâu thẳm. Vậy thì, đúng rồi, tôi nợ ông ta rất nhiều”.
*
Gấu đọc Faulkner bằng tiếng Tây, dịch giả Maurice Edgar Coindreau, được Tây khen nhắng lên, chuyên gia chuyên trị Faulkner! Ông này còn là chuyên gia số một chuyên trị Hemingway!
Chỉ đến khi Gấu được ông Nhàn, chủ nhà xuất bản Vàng Son, một chi nhánh của nhà xuất bản Sống Mới, order dịch cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, thì Gấu mới té ngửa ra, rằng thì là, me xừ này dịch Hemingway bằng cách đọc một câu, một đoạn văn, rồi tìm cách chuyển qua tiếng Tây, trong khi cái tối quan trọng của văn Hemingway, là: Từng câu văn. Từng câu văn. Từng câu văn. Cánh buồm nâu. Cánh buồm nâu. Cánh buồm… nâu].
Gấu nhắc lại, từng câu văn một.
Theo nghĩa đó, khi chuyển qua tiếng Tây thì cũng bắt buộc, bệ từng câu qua, chứ không hiểu, rồi tán phó mát thành hai hoặc ba câu!
Đây là điều Jean-Paul Sartre cũng nhận ra, khi đọc Kẻ Xa Lạ của Camus, và nhớ tới Hemingway, phán, mỗi câu là một hòn đảo, trơ cu lơ, độc lập. Mỗi câu là một cú, bật ra từ hư vô. Mỗi câu là một khởi đầu, viết. (1)
Chính vì thế mà Sartre chơi một cái tít thật hách: Giải thích Kẻ Xa Lạ! [Explication de L'Étranger]; đâu có khác chi đàn anh Trung Quốc, dậy cho Việt Nam một bài học.
Bản dịch qua tiếng Anh bỏ đi từ “Explication”, là quá nhảm!

(1): Quelle est cette technique? On m'avait dit: "C'est du Kafka écrit par Hemingway". J'avoue que je n'ai pas retrouvé Kafka.
Còn kỹ thuật viết đó thì sao? Người ta bảo tôi, đây là Kafka, được viết bởi Hemingway. Thú thực, tôi không kiếm ra Kafka.

Có thể chính vì, như trên, Camus đã đáp lại Sartre, bằng những câu sau đây, trong thư trả lời một tay người Đức muốn dựng Kẻ Xa Lạ thành kịch:

... Nói ngắn gọn, tôi muốn làm sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và chủ nghĩa biểu hiện (expressionnisme). "Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng không kỳ quái (fantastique). Với tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné: nhập xác phàm), không lơ mơ mà bám cứng lấy cõi người ta, tới tận da, tận xương, tận tủy. Và tới tận cùng của hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là một kiểu cọ mới của vô đạo đức (immoraliste). Vậy là lầm to. Cái đập vào mặt chúng ta ở đây, không phải là đạo đức, mà là thế giới của vụ án, nó trưởng giả, nó quốc xã, nó cộng sản, nói tóm gọn, đây chính là vết lở lói đương thời.
Bữa nay mẹ tôi mất


Bệnh Nhân Anh
của Michael Ondaatje
Tahar Ben Jellon giới thiệu

Sinh tại Sri Lanka, Michael Ondaatje học tại Anh, hiện định cư tại Toronto, Canada, nơi ông dậy môn văn chương. Tác phẩm của ông nhằm hòa giải những văn phong và những văn hóa, như chúng vẫn thường đối nghịch. Nhà thơ, tiểu thuyết gia, người kể chuyện phương Đông này cũng còn là một nhà văn luôn thử nghiệm những hình thức mới. Thấu thị, và hiện thực, ông sở hữu cùng lúc, khiếu chi ly về cõi riêng thầm và cảm quan sử thi (le gout de l'intimité et le sens épique). Bởi vì ông quan tâm, chỉ bước đi của cuộc đời, và những giả tưởng của ông giống như những căn nhà miền nhiệt đới, với những kiến trúc di động, mặc tình cho gió, không khí, và nước, qua lại.

(Bệnh nhân Anh đã đoạt giải The Booker năm 1992, được Anthony Minghella đưa lên màn ảnh, và là phim hay nhất trong năm 1996. Lần đầu dịch ra Pháp ngữ với nhan đề Người cháy, L'homme Flambé, nhà xb Olivier, 1993. Bài giới thiệu dưới đây, bằng Pháp ngữ, là từ tủ sách Points, nhà xb Seuil, 1995. (1)

(1) Một độc giả, chắc là ở trong nước, đề nghị dịch là "Người hơi bị được đốt cháy", "được" thì như cây đuốc Lê Văn Tám, "bị" thì như em Kim Phúc ngày nào.
Tks. Gấu

Tahar Ben Jelloun, sinh năm 1944, người Ma-rốc, viết văn bằng tiếng Pháp, tác giả nhiều tiểu luận, tuyển tập thơ, truyện kể, kịch, giải thưởng Goncourt 1987 với cuốn tiểu thuyết Đêm Thiêng, La Nuit Sacrée).
*

Nguyên lý Ngàn Lẻ Một Đêm là nguyên lý tạo nên văn chương. Ông hoàng khát máu nói với Schéhérazade: "Kể cho ta một câu chuyện, nếu không ta giết mi." Nỗi hăm dọa của cái chết làm cô gái trẻ đẹp biến thành một người kể chuyện, với một trí tưởng tượng lạ thường. Nguyên lý Con Bệnh Anh có thể là giai đoạn thứ nhì của việc làm văn này, bởi vì bệnh nhân người Anh, toàn thân phỏng cháy, nói với Hana, người đàn bà trẻ đang săn sóc anh: "Đọc cho tôi những cuốn sách, nếu không, tôi chết." Anh ta chỉ vẽ cho cô, ngay cả tới cách đọc: "Kipling là phải đọc từ từ. Rình mò từng dấu phẩy, và cô sẽ khám phá ra những chỗ lặng tự nhiên. Đây là một nhà văn sử dụng ngòi viết, và mực."

Bệnh nhân Anh là một trong những cuốn sách mà người ta không thể không đọc. Với con người kỳ bí, căn cước mù mờ, lửa liếm gần hết mặt, người ta có thể mượn lời Jorge Sumprun,* và nối điêu: Cái đọc, hay là cái sống; văn chương, hay là cái chết. (La lecture ou la vie; la littérature ou la mort). Bởi vì đây là sự sống sót và hồi ức dẫn về hiện tại, một hiện tại độc ác hơn, xấu xa ghê tởm hơn là quá khứ của những bậc tổ tiên, đã chết trong những cuộc chiến Tôn Giáo.