*


 






*

Tribute to Phạm Chi Lan
VHNT tái xuất hiện
Tin Văn VHNT số 555:
NQT vs Đoàn cầm Thi
nhân bài viết về Nguyễn Huy Thiệp


Note: Do dời đổi chỗ ở, có thể, Tin Văn sẽ ngưng update ít lâu.
Nay thông báo. NQT

Sách mới về điệp viên bậc thầy

Hai cuốn về PXA, The Spy Who Loved Us, và cuốn The Perfect Spy, mỗi cuốn có một ‘ẩn dụ’ của riêng nó, chỉ ở nội cái tên, chưa nói đến nội dung tác phẩm.
The Spy Who Loved Us phỏng theo một cái tít của một trong những phim James Bond, và đây là câu chuyện về anh chàng 007 làm thịt một điệp viên KGB, và em KGB, người tình của tay bị giết, thề sẽ giết 007 để trả thù, sau cùng lại mê 007.
Us ở đây, vừa là Mẽo, vừa là đô la Mẽo, bởi vì PXA đã từng viết thư xin tiền cựu đồng nghiệp, tức đám ký giả Mẽo ngày xưa, để lo cho con trai đi du học Mẽo.
Còn cuốn kia, The Perfect Spy, sử dụng đúng cái tít của một cuốn tiểu thuyết của Le Carré, và cuốn này cũng có vấn đề, anh chàng điệp viên tuyệt hảo, bậc thầy này rất thù ông bố, người đã đẩy anh vào cái nghề khốn nạn, ông bố ở đây cũng là một bố kép, chỉ nước Anh, và chỉ ông bố ruột của Le Carré, một tay lường đảo bậc thầy.
Riêng cuốn The Spy Who Loved Us, khi còn là một bài báo, đăng trên The New Yorker, vì Gấu thường xuyên đọc tờ này, nên thấy nó trước tiên, và lôi về đăng trên Tin Văn, tính vừa dịch, vừa kèm vài chi tiết, kỷ niệm về PXA mà Gấu biết qua cái tên Cao Bồi, nhưng vì là tin sốt rẻo, báo chí đua nhau dịch, thế là Gấu chán, bỏ ngang.
Tuy nhiên, khi bài đăng trên The New Yorker, số báo liền sau đó, có phản ứng từ bạn cũ của PXA, và độc giả tờ báo. Gấu có scan sau đây.
Bạn cũ và độc giả trách đám ký giả Mẽo đã góp tiền gửi cho PXA, nhưng Gấu nghĩ khác!

Đó là cách tạ tội bảnh nhất, một điệp viên bậc thầy mới nghĩ ra được!
Đừng nghĩ đến chuyện tiền bạc ở đây, dù mấy chục ngàn đô.

PXA lừa bè bạn, tháng tháng lãnh tiền Time, tối tối lén coi tài liệu mật chuyển cho VC, báo trước những chiến dịch di chuyển lính Mẽo, để VC làm thịt họ.
Vậy mà khi công thành danh toại, PXA lại nhục nhã viết thư xin tiền bạn cũ, bởi vì ông nghĩ, chỉ còn mỗi cách đó, hạ nhục mình để tạ lỗi ngày nào.
Đám bạn hiểu ra, nên mới gom tiền cho PXA.

Gấu nghĩ ra điều trên là do đọc Le Carré.
Trong Gọi Người Đã Chết, bà vợ của Smiley bỏ chồng theo trai, và khi trai bỏ, viết thư năn nỉ chồng cho mình trở về lại.
Smiley lắc đầu chịu thua.
PXA chính là cái bà vợ bỏ chồng theo trai, [làm cho Mẽo, lãnh lương Mẽo, lừa Mẽo, đưa tin cho VC làm thịt Mẽo], và cái đám bạn cũ của PXA, là Smiley, gật đầu tha thứ cho PXA.

Nhưng Smiley không thể nào chấp nhận được bà vợ, vì lý do sau đây:

*

Anh George yêu quí của Em,
Em muốn cầu xin Anh một điều mà không một người đàn ông phong nhã nào có thể chấp nhận.
Em muốn trở lại với Anh.
Em hiện đang ở khách sạn Baur-au-Lac ở Zurich tới cuối tháng.
Em trông tin Anh
Ann

Smiley cầm cái phong bì lên và nhìn phía sau phong bì: "Bà Juan Alvida".
Không, không, chẳng có một người đàn ông phong nhã nào chấp nhận nổi lời mời mọc này.
Call For The Dead

spy_1
spy_2spy_3

Thomas A, Bass's profile of Pham Xuan An, the Time journalist who also spied for North Vietnam, includes an interview with Frank McCulloch, An's boss at Time's Saigon bureau (“The Spy Who Loved Us”, May 23rd). Bass writes, "McCulloch remembers An with tremendous fondness and respect and he says it was a 'great pleasure,’ in 1990, to organize a subscription fund, which raised thirty-two thousand dollars, to send An’s eldest son. . . to journalism school at the University of North Carolina. The list of subscribers to the fund reads like a Who's Who of Vietnam War reporters.” It’s easy to imagine the reaction this provokes among those of us who served in Vietnam and lost comrades there, friends whose families often faced serious financial difficulties after their deaths. Anyone who wonders why active-duty military personnel and veterans distrust the mainstream media need only read those two sentences.
David Clayton Carrad
Augusta,Ga
Điệp viên Sài Gòn
Bài của Bass về con người chỉ hé một tí bộ mặt [profile], là Phạm Xuân Ẩn, ký giả báo Time, và còn là gián điệp cho Bắc Việt Nam, trong kèm cuộc phỏng vấn sếp của Ẩn khi đó, tại văn phòng Time tại Sài Gòn. Ông này "nhớ lại Ẩn với rất ư  tự hào và kính trọng, và ông nói, thật là một 'niềm hạnh phúc lớn lao', vào năm 1990, tổ chức một cái quỹ xin tiền bạn bè, được 32 ngàn đô, để gửi con trai lớn của Ẩn đi học trường báo chí tại Đại học Mẽo. Danh sách những Mạnh Thường Quân này, đọc cứ như là những 'Who's Who of Vietnam War reporters' [Những phóng viên vẻ vang đã từng tham dự cuộc chiến Việt
Nam]."
Thật dễ dàng đoán được phản ứng những dòng như trên gây ra, giữa những người trong số chúng ta, những người đã phục vụ tại Việt Nam, và đã mất bạn bè tại đó, những bạn bè mà gia đình thường xuyên gặp khó khăn nặng nề về tiền bạc sau những cái chết của họ. Bất cứ ai còn hoài nghi, tại sao nhân viên hiện đang tại ngũ và giới cựu quân nhân không tin cậy báo chí, chỉ cần đọc hai dòng chữ trên.
David Clayton Carrad
Augusta,Ga
Còn đây, là thư của một đồng nghiệp thời chiến của Ẩn, cũng làm cho Time:
I was a correspondent for Time in Vietnam, and I knew Pham Xuan An for nearly ten years. While spying for the North Vietnamese, An transformed Time's correspondents into an inadvertent worldwide network of spies for  Hanoi. Time had high-level sources who often provided classified information on the condition that it would be kept secret and used only as back-ground. The content of these confidential briefings was circulated internally in the weekly "Time memo,” which was considered so sensitive that copies were numbered and returned after a reading by the editors. The memo contained much useless gossip, but also solid-gold insider reports from the White House, the State Department and the Pentagon. The memo was also circulated to Time bureaus around the world, which were supposed to take equal precautions; An, as a Time reporter, had access to it. I often saw him taking notes from the Saigon bureau chief's confidential reports. These would have included briefings by Generals William Westmoreland and Creighton Abrams and Ambassadors Henry Cabot Lodge and Ellsworth Bunker which often covered operations and strategy scheduled for weeks in the future. Then An would suddenly disappear without a word, presumably to brief his comrades in the tunnels of Cu Chi. I have always questioned the American journalists who insist on romanticizing An. It is one thing to have been against the Vietnam War—many of us were—but quite another to express unconditional admiration for a man who spent a large part of his life pretending to be a journalist while helping to kill Americans.
Zalin Grant
Paris, France
I often saw him taking notes from the Saigon bureau chief's confidential reports:Tôi vẫn thường thấy anh ta chôm tài liệu mật...
Thế mà bi giờ mới khui báo, thế thì có bỏ mẹ không chứ! NQT
*

Nhân nhắc tới PXA.
Cái tít Điệp Viên Tuyệt Hảo, Perfect Spy, của một cuốn sách mới ra lò, ở Mẽo, về PXA, thực sự ra, là từ A Perfect Spy của John Le Carré.
Độc giả nào đã đọc qua cuốn trên, thì chắc là hiểu ra cái ý nghĩa xỏ lá của nó. Tay điệp viên tuyệt hảo của Le Carré, suốt đời thù ông bố của mình, [là Anh Quốc, chúng ta có thể hiểu ngầm], vì ông này đã đẩy con vô cái nghề khốn nạn đó [ngoài đời, ông bố Le Carré còn là một tên lừa đảo, có lần mượn cả tên con để lường gạt người quen. Trên tờ Người Nữu Ước, Le Carré có viết về chuyện này, nếu Gấu nhớ không lầm].
Gấu sợ rằng, tay tác giả cuốn sách mới ra lò về PXA, cũng muốn nói thay cho nhân vật của mình, cái ý nghĩ thầm kín đó chăng?
Chắc chắn, ông này phải đọc Le Carré, và phải biết đến cái tít Một Điệp Viên Tuyệt Hảo.
*
Trang đầu cuốn A Perfect Spy của Le Carré, là đề từ:
Một người đàn ông có hai người đàn bà thì mất linh hồn.
Nhưng một người đàn ông có hai cái nhà thì mất mẹ cái đầu của anh ta.
A man who has two women loses his soul.
But a man who has two houses loses hid head.
Proverb
*
He has been a perfect spy, but at the cost of his soul.
Anh ta là điệp viên tuyệt hảo, nhưng phải trả giá bằng linh hồn của  mình.
Wikipedia


Ẩn hả, nhớ chứ
Phạm Xuân Ẩn ra đi
Nên nhớ PXA cũng là một thứ Bắc Kỳ di cư như Gấu, từ mấy đời, và biết đâu, ông cũng đau nỗi đau Yankee mũi tẹt thèm thuồng thiên đàng Miền Nam, như Gấu?
Nên nhớ, [lại nên nhớ], những giấy phút sắp lìa đời của bạn hiền Cao Bồì, của Gấu.
*
Bà [PXA] quay sang nói với tôi - vẫn đứng đây từ nãy giờ bất động: Ông ấy khổ suốt cả một giai đoạn dài căng thẳng. Bây giờ đã đau thể xác thế này mà tâm hồn cũng không được thanh thản.
Tin Văn và Gấu thành thực mong được chia sẻ nỗi đau buồn cùng gia đình, và cầu chúc linh hồn bạn Cao Bồi sớm siêu thoát. NQT

PXA không ưa Greene, Gấu sợ rằng, do kỵ dzơ, jeu, [mày với tao cùng nghề, mày một mang, tao hai ba mang], nhưng còn do đố kỵ nữa, mày còn viết văn, như vậy là mày muốn chơi gác tao !
Không những viết văn, mà còn suýt ẵm Nobel văn chương nữa, PXA làm sao mà không tức cho được !
Trường hợp Greene hụt Nobel hơi giốngTolstoy.
Vào năm 1901, khi Viện Hàn Lâm Thụy Điển phát giải Nobel văn học đầu tiên cho nhà thơ Tây già Rene Sully-Prudhomme, thay vì tiểu thuyết gia Nga Leo Tolstoy, lý do, theo một nhận định của uỷ ban Nobel sau khi phát giải, ông Nga này rao giảng một thứ chủ nghĩa vô chính phủ, mang tính lý thuyết và một Ky Tô giáo thần bí. Sau khi phát giải cho nhà thơ Tây già, 42 nhà văn Thụy Điển cho ra một cái thư ngỏ, tố cáo giải thưởng và an ủi ông nhà văn Nga xấu số ! Và như một cái "dớp", sau này, cứ phát giải là có phản đối.
Greene bị ông Hàn Arthur Lundkvist thù đến nỗi, không thèm giữ đúng luật omerta, và la làng, ông ta thề sống dai hơn Greene, chỉ để loại nhà văn này ra khỏi giải. Còn tay Per Wasberg thì cố hết sức tranh đấu cho Greene, trước và sau khi trở thành ông Hàn, nhưng sau cùng ông hiểu, chỉ uổng công. 

*
Nhưng chỉ đến khi đọc "người của chúng ta ở Paris" so sánh PXA với Greene, [Graham Greene bắt đầu câu chuyện «A Quiet American »  trong khung cảnh Sài Gòn tháng 3.1950. Nhà văn Anh không ngờ rẳng cuộc đời điệp viên của Phạm Xuân Ẩn (mà Pomonti đặt tên là « Người Việt trầm lặng ») cũng bắt đầu từ địa điểm và thời điểm ấy], liên tưởng đến bài viết của Zadie Smith, Rợp Bóng Greene, trên Guardian, và cuốn Người Mỹ Trầm Lặng, giống như một con phượng hoàng tái sinh từ tro than của nó, Gấu mới hiểu ra được là PXA thực sự đã cảm nhận ông thua Greene, thua tình yêu mà Greene dành cho Miền Nam, thua lòng nhân hậu của Greene, khi ông này đã nhìn ra được từng cái nón rơi xuống, và chẳng có ai chạy về phía những kẻ bị thua thiệt, bị làm nhục. PXA chưa hề nói ra được một lời nào, là chàng ân hận.
Nhưng cả đám đó, có ai làm được điều này?




V/v Romain Gary:

Ông này phịa ra cả một lô những cái tôi dởm, trong đó, có một cái tôi “khủng” nhất: Ông tưởng tượng ông là Chúa Giê Su, và ngày ông ra đời, là Ngày Chúa Giáng Sinh lần thứ nhì!
Ông là người đầu tiên viết tiểu thuyết sinh thái, trước khi có cái từ này, với cuốn Cội Rễ Nhà Trời.
Bây giờ, giới văn học khám phá ra một ông Gary mới toanh: Một nhà văn viết dưới bóng Lò Thiêu

Cội rễ nhà trời

"Đây là một con người mà trong nỗi cô đơn của mình, đã đi xa hơn những kẻ khác".
Romain Gary

Cuốn "Cửu Long cạn dòng biển Đông dậy sóng", của Ngô Thế Vinh, được một số nhà điểm sách coi là một báo động sinh thái cho một vùng đất. "Cội rễ nhà trời" (Les Racines du ciel), của nhà văn Pháp Romain Gary, có lẽ là cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói tới hiểm họa này. Người viết xin chuyển ngữ bài viết của chính tác giả, nhân lần tái bản năm 1980 cuốn sách của ông: cuộc hành trình vô vọng của một con người giữa rừng rậm Phi châu, chiến đấu nhằm bảo vệ loài voi thoát họa diệt chủng.
"Từ khi xuất hiện cuốn sách này cách đây 20 năm, người ta rất muốn viết về nó, như là cuốn tiểu thuyết ‘sinh thái’ đầu tiên (le premier roman ‘écologique’), lần đầu tiên đưa ra lời cầu cứu, rằng trái đất sinh học của chúng ta đang bị đe dọa. Bản thân tôi, thật ra, vào lúc đó, cũng không thể ngờ được, sự tình lại đến nỗi quá bi đát như là bây giờ, và sự hủy diệt cứ thế tăng lên mãi.
Vào năm 1956, tôi ngồi cùng bàn với một ký giả nổi tiếng, Pierre Lazareff. Một người nào đó thốt lên từ ‘sinh thái’. Trong số trên hai chục người hiện diện, chỉ có bốn người hiểu ý nghĩa của nó…
Vào năm 1980, người ta cân nhắc con đường vạch ra. Trên khắp mặt đất, những cơ quan, hội đoàn, những lực lượng được thành lập, và đứng đầu là giới trẻ đầy quyết tâm chiến đấu. Rõ ràng là họ không biết đến cái tên Morel, kẻ tiên phong trong cuộc chiến đấu và là nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Chuyện đó đâu có gì là quan trọng. Trái tim đâu cần đến một tên khác, để gọi. Và nhân loại đã đề nghị những con người tuyệt hảo nhất của nó, nhằm bảo vệ một cái đẹp nào đó của cuộc đời. Một cái đẹp nào đó của thiên nhiên…
Tôi chọn lựa cho cuốn tiểu thuyết của tôi một nơi chốn mà vào năm 1956 người ta vẫn còn gọi là "Phi châu nhiệt đới của Pháp", bởi vì tôi đã sống ở đó, và có lẽ bởi vì tôi không thể quên, đây là xứ sở đầu tiên trước đây đã đáp ứng lời kêu gọi nổi tiếng: hãy chống lại sự buông xuôi bỏ mặc, và niềm thất vọng chán chường. Và sự từ chối của nhân vật của tôi, từ chối làm một con người bất lực, chịu thua luật đời sừng sỏ, chính sự từ chối này đã ở với tôi trong những giờ phút lạ thường khác nữa…
Thời gian chẳng thay đổi nhiều, kể từ khi cuốn sách này được xuất bản: người ta vẫn tiếp tục sử dụng một cách thật là dễ dàng thoải mái, những dân tộc, nhân danh quyền con người, quyền dân tộc, xúi họ sử dụng chính họ. Ýù thức về ‘sinh thái’ (la prise conscience ‘écologique’), chính nó, đã đụng phải cái mà tôi gọi là sự phi nhân của nhân loại (l’inhumanité de l’humain). Vào lúc tôi đang viết những dòng này, 1200 con voi đã bị tàn sát ở Zimbabwe… Đúng là một nghịch lý cơ bản [sự phi nhân của nhân loại] mà không một tư tưởng, tông giáo nào có thể giải đáp được.
Nếu nói về sắc thái tổng quát, phổ cập, của công cuộc bảo vệ thiên nhiên, lẽ dĩ nhiên nó không mang tính đặc biệt, như chỉ xẩy ra ở Phi Châu không thôi: đã từ lâu con người rú lên như bị lột da. Như thể, quyền con người, chính chúng, cũng trở nên những sống sót làm bực mình, gây khó chịu, của một thời đại sinh thái nào đó, đã qua rồi: thời được gọi là nhân bản. Những con voi ở trong tiểu thuyết của tôi tuyệt nhiên không phải là những ẩn dụ: chúng có thật, bằng xương bằng thịt, y hệt như quyền con người…
Một lần nữa, tôi xin được cám ơn những con người mà tình bạn của họ đã giúp đỡ tôi rất nhiều, khi viết cuốn tiểu thuyết này, trong những điều kiện khó khăn: Claude Hettier de Boislambert, giáo sư J. E. de Hoorn, René Agid, và Jean de Lipkowski, Leigh Goodman, Roger Saint-Aubyn và Henri Hoppenot, là những người mà cuốn sách này được đề tặng."
Romain Gary
*
"Đó là một cuộc sinh mới. Tôi tự làm mới chính tôi. Tôi được mọi chuyện, thêm một lần nữa."
Romain Gary viết, trong di cảo, Cuộc sống và cái chết của Émile Ajar . Ông tự huỷ mình, ngày 2 tháng Chạp, năm 1980. Chỉ vài tháng sau khi ông mất, Cuộc Sống và cái Chết xuất hiện, gây một cú sốc tại thủ đô nước Pháp; trong đó, tác giả thú nhận, ông là tác giả của bốn cuốn tiểu thuyết được nhiều người biết dưới bút hiệu Émile Ajar. Cuốn tiểu thuyết "Ajar" thứ nhất, Đại Ma Đầu, Gros Câlin, là một best-seller 1974. Cuốn thứ nhì Cuộc Đời Trước Ta, La vie devant soi, trúng Goncourt 1975, nhưng Romain Gary đã được giải này rồi, vào năm 1956, với cuốn Cội Rễ Nhà Trời, Les Racines du Ciel. Theo điều lệ, mỗi nhà văn chỉ được một lần, cho nên ông phải từ chối.

Nhị

Go on, run away, but you'd be far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior esse domi.)

Trong Tựa đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản chất của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật; nhà văn chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con người chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình thức bề ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội dung lại cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể là những ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế này: thật khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn hơn.

Khi trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ ông, là cái ấm, của quê hương. Của Nhị.


Berlin Wall


Viết blog vs Viết văn



  Vượt quá tội ác và hình phạt



DQ

Kỷ niệm, kỷ niệm

*


N. O. - C'est cicatrisé aujourd'hui?
V. Schlôndorff. - Le Mur a la vie dure dans les têtes. On peut dire que pour 70% de la population la réunification a réussi. Mais un sondage récent fait apparaître que 47% des gens pensent qu'avant c'était mieux. C'est un chiffre alarmant. Au temps du socialisme, ils se considéraient comme les meilleurs élèves de l'Union soviétique, ils étaient les champions du socialisme en termes d'élite portive, de productivité. Ils cherchent encore aujourd'hui leur honneur perdu. C'est toujours la même histoire.
Propos recueillis par FRANÇOIS ARMANET et PASCAL MÉRIGEAU
Obs 22-28 OCTOBRE 2009

Nhà đạo diễn phim Cái Trống [chuyển thể truyện Cái Trống của Gunter Grass] nói về Bức Tường.

Người Quan sát Mới: Thành sẹo chưa?
Bức Tường sống dai lắm ở trong đầu dân Đức. Có thể nói 70 % dân chúng sau khi thống nhất, khấm khá. Nhưng con số mới đây cho biết,
47 % dân chúng cho rằng, trước đây bảnh hơn. Đúng là một con số đáng quan ngại. Vào thời XHCN, dân Đức coi mình là những học trò bảnh nhất của Liên Xô. Kẻ thù nào cũng đánh thắng, vô địch XHCN về thể thao, về sản xuất. Bây giờ họ vẫn đang tìm kiếm những hào quang đã tắt ngấm.
Thì vẫn chuyện Vũ Như Cẩn, y chang Mít.
*

*

 Prisonnier de guerre, le philosophe lit Proust, Léon Bloy, et redécouvre sa judéité sous la surveillance des nazis.
Ces Carnets inédits sont un événement.

 Levinas captif
Ouvres complètes, tome I. Carnets de captivité et autres inédits, par Emmanuel Levinas, sous la direction de Jean-Luc Marion, Grasset-lmec, 504 p., 25 euros.
"Jamais nous n'avons été plus libres que sous l'occupation allemande”.
Levinas, triết gia Tây. Tù Nazi. Đọc Proust, Léon Bloy, và lại tìm ra căn cước Do Thái của mình, dưới họng súng của Nazi
Nhật Ký Tù, chưa từng in ra, quả là một hiện tượng. Ông phán:
"Chưa bao giờ chúng tôi tự do bằng cái hồi bị Nazi chiếm đóng".

Ui chao, thấy người sang bắt quàng làm họ, quả như thế, ấy là bởi vì, đúng là tình trạng của Gấu, những ngày ở tù VC, nhất là thời gian ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè.
*

L'Europe, une passion turque

L'écrivain turc publie «D'autres couleurs», un recueil d'essais, et parle des rapports intenses et conflictuels entre son pays et l'Europe par Orhan Pamuk prix Nobel de littérature 2006

Âu Châu, một Đam mê Thổ
Nhà văn Nobel Pamuk viết về mối tình Âu Châu của ông, nhân dịp ra mắt Những Mầu Sắc Khác, bản tiếng Tây
*

Nhà văn là một cái phong vũ biểu của thời của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ phán như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra trò, nhưng lần thứ ba, sắp sửa về, ngửi ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì không thơm, thế là bèn đi một cái mail, và được phúc đáp, thời tiết bi giờ không được đẹp như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác cái mặt mo về mà khổ cái thân già, còn khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!

Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm] bằng gỗ nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng bé còn thủ theo, toàn là những kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những kỷ niệm đó, và trên đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được chúng…

Bà giữ đủ cả, chẳng thiếu một, nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ hơn, cũng những kỷ niệm về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết Miền Nam làm cho dịu hết cả đi, và đều như những vết sẹo thân thương của một miền đất ở nơi Gấu.

Ui chao, chỉ nội kể về hai chuyến trở về, cũng đủ vài trăm trang, dư dả một cuốn tiểu thuyết, "có đầu, có đuôi", làm mọi người hài lòng, nhất là "Bác Gái"!
Mais les circonstances m'ont aidé. Pour corriger une indifférence naturelle, je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil. La misère m'empêcha de croire que tout est bien sous le soleil et dans l' histoire; le soleil m'apprit que l'histoire n'est pas tout. Changer la vie, oui, mais non le monde dont je faisais ma divinité. C'est ainsi, sans doute, que j'abordai cette carrière inconfortable où je suis, m'engageant avec innocence sur un fil d'équilibre où j'avance péniblement, sans être sûr d'atteindre le but. Autrement dit, je devins un artiste, s'il est vrai qu'il n'est pas d'art sans refus ni sans consentement.
Albert Camus: L’Envers et l’Endroit. Préface.

Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng dưng tự nhiên, tôi để mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin rằng mọi chuyện đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và trong lịch sử, mặt trời làm cho tôi hiểu rằng lịch sử không phải là tất cả.
Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm mặt trời!


Dọn

*
Ngư ông và Biển cả!
Gấu đi biển, kiếm con K của Gấu.

Nhưng trên hết, ở trong Gấu, luôn luôn là một hy vọng, chẳng bao giờ tàn lụi, rằng, “mọi vết thương thì đều có phần tương đương của nó, ở đâu đó, và nhờ thế mà đều có thể được bồi hoàn, kể cả bồi hoàn này là qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào đã gây ra vết thương”.

 Được, được! [Thuổng Mai Thảo]


*
C'est votre illusion
Sunday, October 25, 2009 6:51 AM
Ông Trụ ơi,
Càng ngày ông càng tự huyễn hoặc đến mức đáng ngại. Ông tự khen ông, rồi ông phàn nàn về bốn phương tám hướng. Một mình ông ngồi trong cái web của ông, ông biến thành cái rốn của ông.

Huyễn hoặc lớn nhất của Gấu, là, khi đám Yankee mũi tẹt xuất hiện trên văn học hải ngoại, Gấu đã nghĩ rằng, đây là lúc móc nối lại với cái Đất Bắc mà Gấu đã từng bỏ chạy.

Cái web của Gấu xuất hiện đã trên 10 năm, nếu kể cả thời gian ăn nhờ ở đậu trên VHNT do PCL chủ trương. Chuyện thị phi xẩy ra khi Gấu chưa có trang web riêng. Mặc dù Gấu có thể trả lời trên VHNT, vì PCL cho Gấu hẳn một account, tự mình post bài. Nhưng Gấu tự nhủ, nếu lúc này mà vướng vào chuyện... thị phi, là hư hết.
Chỉ đến khi vượt quá cái tuổi năm tuổi, 73, và trong khi đi câu cá, tại...  Vũng Tầu, Gấu có gặp con K, và nó biểu Gấu, bây giờ mày muốn viết cái gì thì viết, thì Gấu mới dám đụng tới nhà đại phê bình!
Nói rõ hơn, mọi chuyện kể như xong với Gấu, thời gian còn lại, là của Ông Trời ban riêng cho Gấu.
Sau giấc mơ, thấy xác mình trôi lều bều trên sông Mekong, thì Gấu ngộ ra là, phải thanh toán tất cả, bằng cách, viết tất cả, không bỏ qua một chuyện thị phi nào hết, nhưng phải viết không một chút thù hằn, giận dữ, thì mới OK!

"Bạn già" đọc những gì Gấu viết về nhà đại phê bình, đâu có gì là nặng nề, cũng chỉ là một cách "dậy dỗ" đàn em, của người đi trước mà thôi!
Xoa đầu đấy, tuy hơi mạnh tay một chút!
Thuốc đắng rã tật!
Vậy thôi!
Nhà đại phê bình đâu có vừa!
Ông ta đã từng xoa đầu không biết bao nhiêu là nhà văn, nhà thơ?
Mạnh tay hơn Gấu nhiều!
Không lẽ viết như...  năn nỉ, kẻ muốn lôi cả đời tư của Gấu ra để mà sỉ vả, chỉ vì cái lỗi, là dám đụng tới một cái "note" của ông ta, về Võ Phiến?
NQT

Thành thực mà nói, nhờ gặp con K, và được nó huỷ bỏ cái tên của Gấu ở trong lịch sử văn học Mít, nói theo ông thầy Faulkner  (1), hay nói theo Nguyễn Du, "đoạn trường đã rút tên ra", bây giờ mày muốn viết cái gì thì viết, những gì mày viết, kể từ lúc này, sẽ "ở bên ngoài lịch sử", "ngoài thời", time-out, (2) [láo lếu thật!] nên Gấu mới có thì giờ để mắt tới những gì nhà đại phê bình viết, và sự nghiệp "xoa đầu kẻ khác" của ông, thì mới hỡi ơi, sao mà ông này liều lĩnh vô cùng, viết "đại, đại" nhảm, về đủ thứ vấn đề.
Chán thế!
Thế là tha hồ mà dọn!

(2) Thuật ngữ của dân Cớm, bảnh hơn nhiều: Off-record: Tắt mẹ cái máy ghi âm đi cho tao nhờ!
V/v Time-out:
Cuốn La Tregua xuất bản tại Mỹ có cái tên "lạc quan" Lại Tỉnh Thức (The Reawakening), trong khi nhan đề tiếng Ý đề nghị hoặc từ Truce (Hưu chiến), hay Respite (Giải lao), cuốn sách chấm dứt rõ ràng như vậy, bởi vì những ngày tháng lang thang vùng Đông Đức của Levi là một "ngoài-thời" (a kind of "time out"), giữa Auschwitz-như-kinh nghiệm và Auschwitz-như-hồi nhớ. Cuốn sách khép lại với tiếng kẻng báo thức, đúng ra là tiếng hô buổi sáng của trưởng trại Auschwitz: Thức dậy! (Wstawach!).

Đây có phải một người

(1)

Thi sĩ Joseph Brodsky, đứa con của St. Petersburg, khi được hỏi, ông cảm thấy thế nào, khi biết tin thành phố trở lại với cái tên lịch sử của nó; ông trả lời: tôi hạnh phúc quá chừng, quá đỗi! Tôi nói điều này với tất cả hân hoan, và không cần một chút dè dặt, mặc dù hoàn cảnh trớ trêu, có một thành phố St. Petersburg ở trong một Leningrad Region... Nhưng đừng nghĩ tới chúng ta, mà hãy nghĩ tới những cư dân hiện thời, tới những người sẽ sinh ra tại đó. Họ sống trong một thành phố mang tên thánh, như vậy chẳng hơn là với một cái tên của quỉ. (Better they live in a city that bears the name of a saint than a devil.)
Khi được tin nhà thơ Nguyên Sa mất, tôi bỗng nhớ đến câu thơ trên:
Sài-gòn phóng solex như bay.

Nhớ đến J. Brodsky, và câu thơ của ông:
Neither country nor churchyard will I choose
I’ll come to Vasilevsky Island to die.
Xứ sở làm chi, phần mộ làm gì,
Ta sẽ tới đảo kia để chết.
*
Nhớ đến thành phố mất tên.
Và tôi tự nhủ, câu thơ, và tác giả của nó, đã nhập vào thiên tài của nơi chốn. Đã vĩnh viễn thuộc về Sài-gòn rồi.

Ở đây, chúng ta hãy vượt lên mọi oan khiên nhất thời, hoặc cuộc đối đầu quốc- cộng, và để ý đến một điều: cái tên gọi Sài-gòn, theo như người viết hiểu, không phải là một từ tiếng Việt, mà là gốc Miên, hoặc Chàm. Tổ tiên của chúng ta, những người mở nước, đã biết kính trọng điều gọi là thiên tài của nơi chốn, genius loci, và đã không đặt tên lại cho một vùng đất đã cưu mang họ, bằng một cái tên mang sẵn từ nhà, từ một vùng đất họ đã bắt buộc rời bỏ. Những Los Angeles, Mississauga, Canada... những địa danh ở Bắc Mỹ là một an ủi cho những người Âu châu, so với tất cả những tội ác đối với thổ dân da đỏ.
Tôi thích câu thơ trên, vì Sài-gòn (lẽ dĩ nhiên). Và, vì còn là một Sài-gòn của riêng tôi. Sài-gòn của tôi chẳng bao giờ phóng solex như bay, nhưng mỗi lần nhớ đến, câu thơ của Nguyên Sa lại mới nguyên trong tôi, như một vài kỷ niệm còn sót lại, về cô bạn.
Về Nguyên Sa, còn một câu thơ nữa, mà tôi vẫn rì rầm hát theo, cùng với nó, và mỗi lần như vậy, lại tự nhủ, nếu có dịp gặp ông, tôi sẽ hỏi, đâu là nguyên bản của nó. Câu thơ được phổ nhạc:
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu.
Câu thơ nguyên bản, như sau này tôi được biết:
Trời chợt mưa, chợt nắng, bởi vì đâu.
Nhưng tôi cứ rì rầm như vầy:
Trời chợt mưa, chợt nắng, chợt vì đâu.
Và tôi cứ cố tình thích chữ “chợt” sau cùng.
Bởi vì, cứ khơi khơi, trời chợt mưa, chợt nắng, cô bạn chợt phóng solex vào đời mình:
Chợt vì đâu, solex mãi trong tôi...
Hoặc:
Chợt vì đâu xô lệch mãi đời tôi...
*
Oan khiên nhất thời: so với chiều dài lịch sử, cuộc chiến quả thật chỉ là oan khiên nhất thời. Giữa thời gian và những ký hiệu là những con chữ, hay như ở đây, một câu thơ, lại là một vấn đề lớn lao khác nữa:
Khi thành phố mà tôi vinh danh, đã lụi tàn, mai một,
khi những con người bài thơ tôi ca ngợi, đã chìm vào quên lãng,
những con chữ sẽ vẫn còn hoài (Pindar)...

Câu thơ cứ còn mãi, dù Sài-gòn không còn phóng solex như bay....
*
Sài-gòn không còn phóng solex như bay, thi sĩ càng biết rõ điều này hơn chúng ta.
Hãy đọc thơ ông, thay cho một lời tưởng niệm:
Em gói câu thơ trong áo bay,
Ba phần gió thổi, một phần mây,
Ngày sau hai đứa mình xa cách,
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay.
*
Thi sĩ biết rất rõ, sẽ có một ngày, người mà câu thơ ca tụng, sẽ cách xa, nhưng không hề chi, câu thơ sẽ vẫn còn mãi:
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay.
*
Không phải chỉ em, mà luôn cả anh - nhà thơ, sẽ cách xa:

Nghệ sĩ phải làm cho hậu thế tin rằng, anh ta đã không sống, Flaubert nói. (L’artiste doit faire croire à la postérité qu’il n’a pas vécu). Maupassant ngăn cấm chuyện chân dung ông có trong tuyển tập những nhà văn nổi tiếng: Đời riêng của một người, và bộ mặt của ông ta không phải là để chường ra cho thiên hạ thấy.
"Tôi ghét chuyện dí mũi vào đời riêng của mấy ông nhà văn lớn, và chẳng có một cuốn tiểu sử nào giọi chiếu được một mẩu đời tư của tôi," Nabokov nói. Italo Calvino giải thích thêm: ngu gì mà nói cho bất cứ một ai, dù chỉ một lời, về đời tư của mình! Faulkner mong muốn, chỉ là một người bị huỷ bỏ (annulé), được lịch sử gạch đi (supprimé par l'histoire), chẳng để lại bất cứ một vết tích, ngoại trừ những cuốn sách đã được in. (Milan Kundera khi nhắc lại, đã gạch dưới hai chữ sách, in). Theo một ẩn dụ nổi tiếng, nhà văn phá huỷ căn nhà riêng của ông, để, với những viên gạch lấy từ đó ra, xây dựng một căn nhà khác: cuốn tiểu thuyết của ông ta. Khi mà Kafka được người đời chú ý đến, nhiều hơn là (nhân vật) Joseph K., tiến trình hậu - cái chết (mort posthume), của nhà văn bắt đầu.
*
Solomon Volkov, tác giả cuốn Chuyện trò với J. Brodsky, có kể lại: một lần ông hỏi nhà thơ, về một lời chỉ trích ông, của một ký giả lưu vong. Ông này đã buộc tội nhà thơ leo lên đỉnh vinh quang, bằng cách đạp lên ngôn ngữ Nga (over the steps of the Russian language). J. Brodsky mặt đỏ bừng, tính xổ nho, nhưng đột nhiên ông bật cười la lên: Thú quá, Trời ơi! Làm gì có chuyện nào đẹp hơn, phải không? (Lord! What could be better, right?).
Trong quá khứ, đã có lần, người viết gọi ông, nhà thơ Nguyên Sa, là một nhà văn dễ dãi, và sung sướng. Bây giờ chỉ xin đổi lại: Nguyên Sa là một con người dễ dãi, và hạnh phúc.
Xin vĩnh biệt nhà thơ.
NQT

Note: 1998, Nguyên Sa mới mất, và Gấu lần đầu ghé Tiểu Sài Gòn, đúng thất tuần của ông, và một văn hữu, chẳng hề biết chuyện đụng độ giữa NS và Gấu, đã 'nhân danh gia đình' ngỏ lời mời Gấu tới thắp một nén nhang cho nhà thơ, và NMG giật mình, nói, đâu có được!
Bài viết trên là nén nhang đó.
NQT
*

Sao bac ghet talawas...?

Gấu thực sự quá tởm mấy đấng Yankee mũi tẹt thì đúng hơn. Khi diễn đàn này mới xuất hiện, Gấu là người đầu tiên viết, trong khi những người khác còn nghi ngại, ấy là vì Gấu nghĩ, đây là thời điểm để nối lại mối nối bị đứt với Đất Bắc của Gấu.
Liền sau đó, là thất vọng, nhưng vẫn hy vọng, rồi hoàn toàn tuyệt vọng.
Một khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận về cái chuyện ăn cướp Miền Nam, thì may ra mới có sự thay đổi.

Chính cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không biết đến bao giờ mới thoát ra được.
Có vẻ như sự kiện chúng chẳng thể nói được điều này, còn là do mặc cảm dốt nát. Cả một diễn đàn như thế, trong mấy năm trời như thế, đâu có để lại một cái gì cho ra hồn, ngoài mớ văn học Miền Nam được họ sưu tầm?
Cả một đám làm cho Bi Bi Xèo như thế, mà dịch “Bán Đảo” Ngục Tù? Khi có người chỉ cho thấy sự dốt nát, thì cũng không biết lên tiếng cám ơn? Chúng 'vô học' đến mức như thế thì làm sao khá cho được?
Cái sự băng hoại đạo đức, ở đám chóp bu như đám này, mới đáng sợ, và vô phương cứu chữa.
Kính. NQT
*

Nhà Phê Bình

Monday, October 26, 2009 1:50 PM


Kính chú Trụ,
Cháu lạc vào rừng Tản Viên của chú mà mày mò hoài không ra nguyên nhân ban đầu tại sao chú ghét nhà phê bình.  Cháu có thấy "Sao bác ghét Talawas?".  Tại sao chú ghét nhà phê bình?  Bắt đầu là như thế nào? Chú có ghét mấy tay phản chiến như Đỗ KH. không?
Cám ơn chú cái link VHNT, nhờ đó cháu mới biết tin tờ báo được để lên web trở lại.
Độc giả nhỏ tuổi,
Hàng xóm ông bác Hiếu Chân.

Note: Xin lỗi bạn Đỗ KH nhe!
NQT

Phúc đáp:
Đúng ra là do Gấu ghét cái thằng cha Gấu phê bình ngày nào, trước 1975, gây ân oán giang hồ, ảnh hưởng đến cả gia đình [cái vụ này Gấu sẽ từ từ viết sau].

Nhưng phải đến khi đọc Steiner, thì mới hiểu ra lý do 'tiềm ẩn':

    Khi ngoái lại, nhà phê bình thấy cái bóng viên quan hoạn ở sau lưng. Ai chịu làm phê bình gia, nếu có thể làm nhà văn? Ai chịu gò vào Dostoevsky để có được trực giác tinh tế nhất, nếu có thể hàn một phân bộ tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov; hay tranh luận về tư thái của D. H. Lawrence, nếu có thể tạo ra luồng gió đời cuồn cuộn trong cuốn Cầu Vồng? Tất cả tác phẩm văn học lớn đều bật ra từ "le dur désir de durer" (dục vọng cương cứng được trường tồn), bằng lao khổ tâm trí nhằm chống lại cái chết, bằng hy vọng vượt lên thời gian với sức mạnh sáng tạo. "Brightness falls from the air": năm từ và một ngón thanh âm u tịch (a trick of darkening sound). Vậy mà đã trường tồn cả ba thế kỷ. Ai còn muốn chọn làm phê bình gia, nếu có thể đặt bài ca, soạn nhạc, và từ cái con người sinh tử lão bịnh là chính mình, tạo ra được một giả tưởng bất tử, một nhân vật sống hoài hoài? Hầu hết đều sống sót, như là bụi bặm, trong những cuốn điện thoại niên giám cũ mèm (cám ơn Trời, cũng may còn lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Anh quốc). Dấu vết để lại của họ, qua mớ chữ đó, thì cũng chẳng là bao, nếu nói về chân lý và mùa màng gặt hái từ cuộc sống, so với Falstaff hay Madame de Guermantes. Phải chi mà tưởng tượng ra được những nhân vật như thế nhỉ!
    Phê bình gia sống kiểu tầm gửi. Anh ta viết về. Phải thí cho anh ta một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết hay một vở kịch; phê bình gia sống, nhờ ân huệ thiên tài, của những kẻ khác. Bằng văn phong, phê bình, tự thân, có thể trở thành văn chương. Nhưng chuyện này thường chỉ xẩy ra, khi nhà văn xử sự như nhà phê bình, về tác phẩm của chính mình; hay như một kẻ dọn đường cho thi pháp của kẻ đó: phê bình ở Coleridge là tác phẩm đang tiến diễn; hay tuyên truyền của T. S. Eliot là giây phút sáng tạo. Ngoại trừ Sainte-Beuve, ai dám cho rằng, ta thuộc về văn chương, thuần tuý như một nhà phê bình? Ngôn ngữ sống, không phải nhờ phê bình.
Nhân Văn
Gấu không 'ghét' nhà phê bình đại phê bình, nếu đó là ý bạn hỏi.
Cũng phải có người làm cái việc... xoa đầu thiên hạ chứ?
Ngay Steiner, coi phê bình gia là... hoạn quan, mà còn nhận ra vai trò cần thiết của họ nữa là Gấu!
Kính NQT